Không thể xuyên tạc giá trị độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam

30/09/2018 22:09

Ngày nay, nói đến cụm từ “độc lập, tự do”, không chỉ nhân dân Việt Nam mà hầu hết các dân tộc trên thế giới đều biết đến đó là giá trị tinh thần cao cả của dân tộc Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát. Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” được sản sinh từ các cuộc kháng chiến kiên cường, bất khuất chống thực dân, đế quốc xâm lược của dân tộc ta.

Lịch sử nhân loại cho thấy, đối với các dân tộc (đã có) độc lập thì những giá trị cơ bản của họ là quyền con người trong đó có tự do, bình đẳng, bác ái. Tuy nhiên, đối với các dân tộc bị chủ nghĩa thực dân, đế quốc thống trị thì độc lập dân tộc không chỉ là một giá trị chung của dân tộc mà là tiền đề của quyền con người và quyền công dân.
Đối với dân tộc Việt Nam, có được nền độc lập, tự do như ngày nay, nhân dân Việt Nam đã phải đánh đổi không biết bao nhiêu mồ hôi, xương máu của đồng bào, chiến sĩ cả nước. Thế nhưng, chỉ vì những động cơ xấu độc, vì cách suy nghĩ ích kỷ, vì tham vọng của cá nhân, một số kẻ đã cố tình phủ nhận thành quả độc lập, tự do của cả dân tộc. Cuối cùng, họ kết luận: “Tự do không hề miễn phí”.
Vậy mối quan hệ giữa độc lập với tự do như thế nào? Nhân dân Việt Nam đã giành tự do ra sao? Và khẩu hiệu “Tự do không hề miễn phí” nhằm mục đích gì?
Nhìn lại lịch sử nhân loại, cho thấy, ở Hoa Kỳ và nhiều nước châu Âu, đa số người dân đã có quyền công dân, từ sau các cuộc cách mạng dân chủ tư sản. Đó là cuộc cách mạng giành độc lập dân tộc của Hoa Kỳ năm 1776 và cuộc cách mạng dân chủ tư sản Pháp năm 1789… Những giá trị cốt lõi của hai cuộc cách mạng này được viết trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp. Không phải ai khác, chính Chủ tịch Hồ Chí Minh-lãnh tụ của Đảng Cộng sản Việt Nam và dân tộc Việt Nam đã trân trọng trích lại hai văn kiện này trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tích hợp cả hai văn kiện này khi Người nói: “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
Nét đặc sắc trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền độc lập của dân tộc đã được tích hợp với giá trị hạnh phúc, tự do của nhân dân. Ở đó, độc lập dân tộc là tiền đề, là điều kiện, còn mục tiêu cuối cùng là hạnh phúc, tự do của nhân dân. Còn nhớ, vào cuối năm 1945, ngay sau khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời, chủ nghĩa quan liêu, tình trạng tham nhũng xuất hiện trong chính quyền cơ sở, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng (đăng trên Báo Cứu quốc). Người viết: “Nếu nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(1).
Khi thực dân Pháp khiêu chiến, hòng xâm lược nước ta một lần nữa, trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”(2).
Tinh thần và ý chí bảo vệ độc lập dân tộc lại một lần nữa vang lên trong Lời kêu gọi chống Mỹ, cứu nước năm 1966 của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người nói: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Khẩu hiệu này đã được cộng đồng quốc tế đánh giá là một chân lý của thời đại.
Thủ đoạn ném đá giấu tay của những kẻ nêu ra cái gọi là khẩu hiệu “Tự do không hề miễn phí” nhằm mục đích gì?
Các sự kiện trong lịch sử dân tộc Việt Nam cho thấy mối quan hệ giữa độc lập và tự do luôn luôn gắn bó với nhau. Khi cách mạng chưa thành công thì độc lập là điều kiện, là tiền đề của tự do. Khi cách mạng đã thành công thì tự do luôn gắn liền với độc lập dân tộc. Nói cách khác, không bảo vệ được độc lập dân tộc thì sẽ không còn tự do. Hoàn toàn không có chuyện đòi “tự do”, khi dân tộc đã độc lập, khi Nhà nước đã hoàn toàn thuộc về nhân dân.
Khẩu hiệu “Tự do không hề miễn phí” về bản chất là thủ đoạn kích động người dân, gây bạo loạn chống lại chính quyền, ngoài ra không có mục tiêu gì khác. Tính thâm độc của khẩu hiệu này ở chỗ, chúng đã đánh tráo khái niệm “tự do” với khái niệm “bạo loạn”, bằng cách đặt khái niệm này trong bối cảnh chính trị khi dân tộc ta đã có độc lập, đã có Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Không phủ nhận rằng xã hội Việt Nam hiện nay còn không ít vấn đề cần giải quyết. Chẳng hạn, tình trạng phân hóa giàu nghèo chưa được thu hẹp; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức trong hệ thống chính trị các cấp; tình trạng tham nhũng, lãng phí chưa được ngăn chặn hiệu quả... Những điều đó Đảng Cộng sản Việt Nam không hề giấu giếm. Các Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI và khóa XII) đã chỉ ra các biểu hiện của căn bệnh này và yêu cầu cấp ủy các cấp, các đảng viên phải đấu tranh khắc phục.
Không những thế, thể chế của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay, cũng như Hiến pháp và pháp luật Việt Nam đã tạo cơ sở cho cuộc đấu tranh nhằm làm cho xã hội, Nhà nước ngày càng trở nên trong sạch, lành mạnh hơn.
Về thể chế, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình; các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” (Điều 4).
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị-xã hội, không chỉ bảo vệ quyền lợi của tổ chức mình mà còn có chức năng giám sát, phản biện xã hội và tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
Hiến pháp năm 2013 và hệ thống pháp luật Việt Nam ngày nay đã có các quy định đầy đủ về quyền con người và quyền công dân, trong đó có những quyền về chính trị “nhạy cảm” như quyền tự do ngôn luận báo chí. Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào… Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật” (Điều 24). “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định” (Điều 25).
Như vậy, khuôn khổ chính trị-pháp lý về các quyền con người nói chung, quyền tự do nói riêng là đầy đủ. Những kẻ trưng ra cái gọi là khẩu hiệu “Tự do không hề miễn phí” về thực chất là lời kêu gọi bạo loạn, hòng lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Thực tế cho thấy, mục tiêu lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, các thế lực thù địch đã tiến hành trong nhiều thập kỷ qua, nhưng không đánh lừa được nhân dân Việt Nam và rốt cuộc chúng chỉ nhận được thất bại. Bởi, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là ước nguyện của cả dân tộc; là con đường mà dân tộc Việt Nam đã đồng lòng, đoàn kết tự nguyện lựa chọn.
THÀNH NAM

(1)Hồ Chí Minh toàn tập, T4, Nhà xuất bản CTQG-ST, H, 1995, tr 56.
 (2) Tài liệu đã dẫn, tr 480.

Không thể xuyên tạc bản chất chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo

24/09/2018 05:00

Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam ngày nay do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng. Bản chất của chế độ đó là quyền làm chủ của nhân dân gắn liền với bảo vệ độc lập dân tộc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo theo con đường của Chủ nghĩa Mác-Lênin.

Tư tưởng đó xuyên suốt các giai đoạn cách mạng Việt Nam từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (năm 1930), qua các cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược cho đến ngày nay-sự nghiệp xây dựng đất nước, hội nhập quốc tế. Thế nhưng, vì những mục tiêu xấu độc, trên internet, mạng xã hội (MXH) có kẻ cho rằng “Nhà nước Việt Nam theo mô hình Xô viết”, chế độ “độc tài toàn trị'', ''lệ thuộc vào nước ngoài''... Vậy lịch sử và thực tiễn chế độ xã hội XHCN ở Việt Nam đã vận động và phát triển như thế nào?
 
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo-Chính cương vắn tắt của Đảng (năm 1930)-xác định mục tiêu trước mắt của Đảng Cộng sản Việt Nam là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Về xã hội: “Dân chúng được tự do tổ chức; nam, nữ bình quyền”… Về chính trị: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập”…
 
Sau thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám, trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945, tư tưởng gắn chế độ dân chủ với nền độc lập dân tộc được Chủ tịch Hồ Chí Minh nâng cao từ những giá trị tư tưởng lớn trong Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ (năm 1776) và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp (năm 1789). Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”… “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.
Ảnh minh họa. Nguồn: TTXVN
Vào năm 1966, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam đang ở giai đoạn quyết liệt, kế thừa, phát triển tư tưởng gắn liền chế độ dân chủ với độc lập dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát một chân lý thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”!
Sau khi đất nước được hoàn toàn giải phóng, Bắc-Nam sum họp một nhà (năm 1975), mục tiêu của Đảng Cộng sản Việt Nam là “Dân giàu, nước mạnh”. Tuy nhiên, nhận thức về chế độ dân chủ có lúc cũng phạm những sai lầm. Thời kỳ từ khi đất nước được hoàn toàn giải phóng đến trước Đại hội VI (1975-1985), Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương xây dựng xã hội theo mô hình cũ của CNXH. Về chính trị, đó là xây dựng “Nhà nước chuyên chính vô sản”; về kinh tế đó là xây dựng “nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung” với hai thành phần duy nhất là kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Do đó, nhiều quyền về chính trị, kinh tế của người dân không được tôn trọng, bảo đảm.
Từ Đại hội VI (năm 1986) đến Đại hội XI (năm 2011) và Đại hội XII (năm 2016), Đảng Cộng sản Việt Nam đã chuyển sang đường lối đổi mới. Mục tiêu của Đảng Cộng sản Việt Nam là xây dựng chế độ XHCN gắn với độc lập dân tộc. “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011)” được Đại hội XI của Đảng thông qua, xác định mục tiêu tổng quát của Đảng Cộng sản Việt Nam và dân tộc Việt Nam là xây dựng xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện;… có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Thể chế hóa Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 2011, Hiến pháp năm 2013 quy định cụ thể hơn các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Có thể khẳng định Hiến pháp năm 2013 và hệ thống pháp luật của Việt Nam không chỉ tương thích với pháp luật quốc tế mà còn tiên tiến hơn nhiều quốc gia, trong đó có việc ký kết các công ước quốc tế về quyền con người. Thực tế, có quốc gia phát triển cao nhưng chưa phê chuẩn “Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa”, hoặc có quốc gia không gia nhập “Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị”. Trong khi đó, Việt Nam đã gia nhập cả hai công ước nói trên.
Không phải ngẫu nhiên Điều 4, Hiến pháp 2013 quy định Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo xã hội và Nhà nước. Lịch sử hơn 80 năm, từ khi ra đời đến nay (1930-2018), Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng chính trị duy nhất lãnh đạo cuộc đấu tranh giành và bảo vệ độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam; đồng thời, cũng là tổ chức chính trị dẫn dắt dân tộc Việt Nam sớm đi vào trào lưu văn minh của nhân loại.
Đại hội XII của Đảng xác định đường lối đối ngoại, quan hệ quốc tế của Việt Nam là “Bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia-dân tộc, trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển... Trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, nhằm phục vụ mục tiêu giữ vững hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước”(1).
Trong giai đoạn 1989-1991, Việt Nam luôn phải đối diện với nhiều nguy cơ, thách thức, việc xác định “đối tác”, “đối tượng” của cách mạng là vấn đề chính trị mới và nhạy cảm. Hội nghị Trung ương 8, khóa IX của Đảng đề ra “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Trên tinh thần thêm bạn, bớt thù, phân hóa, cô lập các thế lực thù địch, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định “đối tác” và “đối tượng” của cách mạng Việt Nam có nguyên tắc và linh hoạt: “Những ai chủ trương tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta. Bất kể thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh…”, trong đối tác có thể có đối tượng và ngược lại. Như vậy, thay vì quan điểm chính trị trong thời kỳ chiến tranh lạnh-lấy ý thức hệ làm tiêu chí “bạn”, “thù”, thì nay Đảng Cộng sản Việt Nam lấy lợi ích quốc gia, dân tộc làm tiêu chí bạn-thù. Đồng thời, lấy nguyên tắc tôn trọng chế độ chính trị, hai bên cùng có lợi làm tiêu chí để hợp tác với các quốc gia không phân biệt chế độ chính trị, ý thức hệ.
Ngày nay, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đặt trong bối cảnh chính trị quốc tế, khu vực và sự ra đời của internet, MXH, nguy cơ những cuộc chiến tranh xâm lược bằng vũ trang cổ điển dường như giảm đi, thì nguy cơ mất chế độ xã hội từ những chiến lược “mềm”-chiến lược “diễn biến hòa bình” với thủ đoạn lợi dụng internet, MXH có xu hướng tăng lên. Ứng phó với cuộc chiến này, vũ khí của chúng ta không chỉ bằng công tác tư tưởng, chính trị, mà còn bằng pháp luật và các chế tài theo luật định.
Các thế lực thù địch trong và ngoài nước gần đây đã tăng cường hoạt động nhằm từng bước chuyển hóa chế độ xã hội ở Việt Nam sang con đường tư bản chủ nghĩa. Những vụ án liên quan đến tội “lợi dụng quyền tự do ngôn luận…” gần đây là một ví dụ. Chẳng hạn, Tòa án Nhân dân (TAND) tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm bị cáo Lê Đình Lượng về tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” (ngày 16-8-2018). Trước đó, vụ Trần Thị Nga (Hà Nam), Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (Đà Nẵng) cùng tội danh và cùng thủ đoạn sử dụng internet, MXH để tung tin xuyên tạc chế độ xã hội và Nhà nước Việt Nam. Gần đây nhất, ngày 19-9-2018, TAND tỉnh Hòa Bình xét xử bị cáo Đào Quang Thực về tội danh “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”. Những bản án nghiêm khắc cho các đối tượng chống phá chế độ nói trên để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, bảo vệ cuộc sống bình yên cho nhân dân là cần thiết.
Chế độ dân chủ nhân dân, nay là dân chủ XHCN do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng. Bản chất của chế độ là bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân gắn liền với bảo vệ độc lập dân tộc. Chế độ đó đã trải qua nhiều thời kỳ lịch sử và phát triển cùng với nền văn minh nhân loại. Toàn thể dân tộc Việt Nam không cho phép bất cứ ai, với bất cứ lý do gì để xuyên tạc, bôi nhọ chế độ xã hội mà cả dân tộc đã đổ không biết biết bao nhiêu mồ hôi, xương máu để giành và bảo vệ chế độ đó.
BẮC HÀ
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB Chính trị Quốc gia, 2016, tr.153.

Phòng, chống "tự diễn biến”, "tự chuyển hóa" cần có lực lượng rộng rãi

18/09/2018 22:18

Qua theo dõi, chúng tôi nhận thấy, hiện nay có một số bạn đọc chưa hiểu rõ về lực lượng sẽ tham gia vào việc phòng, chống chiến lược "diễn biến hòa bình" nói chung; phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" nói riêng. Sau khi tìm hiểu, chúng tôi xin cung cấp một số thông tin tới bạn đọc.

Trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng ta về phòng, chống chiến lược "diễn biến hòa bình"; phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" đều xác định, lực lượng tham gia nhiệm vụ trên ở nước ta hiện nay gồm: Một là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở; hai là hệ thống các nhà trường trong cả nước; ba là các cơ quan, viện nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn; bốn là hệ thống các cơ quan báo chí của Trung ương, của các địa phương, các cấp, các ngành.
Trong đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội các cấp trong hệ thống chính trị có nhiệm vụ xây dựng các nghị quyết, chương trình hành động, kế hoạch hoạt động, đấu tranh trong hệ thống tổ chức của mình. Đồng thời trực tiếp tuyên truyền, giáo dục cho các thành viên, đoàn viên, hội viên và nhân dân hiểu rõ về bản chất của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tác hại của nó đối với xã hội và sự nghiệp cách mạng Việt Nam, tính cấp bách và ý nghĩa chính trị-xã hội to lớn của việc phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”...
Hệ thống nhà trường ở nước ta là lực lượng đặc biệt quan trọng trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, trước hết đối với thế hệ trẻ của đất nước. Thực tế cho thấy hiện nay, các hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nảy sinh ngay từ thế hệ trẻ, học sinh, sinh viên. Không ít những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, các tiêu cực và tệ nạn xã hội đã thâm nhập trực tiếp vào các nhà trường, vì vậy, các nhà trường phải vừa trang bị tri thức, giáo dục hình thành phẩm chất, nhân cách của con người Việt Nam mới, vừa kết hợp ngăn chặn các nguồn gốc, nguy cơ, tác nhân dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong học sinh, sinh viên.
Các cơ quan, viện nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn là lực lượng trực tiếp nghiên cứu các công trình khoa học các cấp, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa" nhằm cung cấp những luận cứ khoa học giúp Đảng xác định những chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo đấu tranh hiệu quả; đồng thời tổ chức các cuộc hội thảo lý luận và thực tiễn, biên soạn những chuyên đề chuyên sâu, sách chuyên khảo, tham khảo cho các chủ thể, các tổ chức, các lực lượng trong triển khai phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở nước ta. 
Với ưu thế mạnh mẽ của mình, các cơ quan thông tấn, báo chí, phát thanh, truyền hình có tiềm lực to lớn trong đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Vì vậy bản thân các cán bộ, phóng viên, biên tập viên của các cơ quan thông tấn, báo chí cần phát huy vai trò, thế mạnh của mình trong phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thông qua các tác phẩm báo chí về chủ đề này. Các cơ quan báo chí cần huy động các nhà nghiên cứu, đội ngũ chuyên gia, nhà giáo, báo cáo viên, tuyên truyền viên... để tạo lực lượng rộng rãi, chuyên sâu cùng đấu tranh trực diện trên các phương tiện thông tin đại chúng.
TRẦN THÔN

Từ việc suy diễn nội dung cuốn sách đến xuyên tạc, miệt thị chế độ

09:05 17/09/2018
Cuối tháng 8 vừa qua, Cục Xuất bản, in và phát hành (Bộ Thông tin và Truyền thông) đã có công văn gửi Sở Thông tin và Truyền thông các tỉnh, thành phố đề nghị kiểm tra, rà soát và thu hồi cuốn sách “Gạc Ma - vòng tròn bất tử”. 
Công văn cho biết: Cục Xuất bản, in và phát hành nhận được Công văn số 193/XBVH ngày 30-8-2018 của NXB Văn học báo cáo về việc tạm dừng phát hành cuốn sách “Gạc Ma - vòng tròn bất tử” do ông Lê Mã Lương chủ biên, xác nhận đăng ký xuất bản số 1253-2018/CXBIPH/04-64/VH, Quyết định xuất bản số 746/QĐ-VH (bản bìa cứng) và 1146/QĐ-VH (bản bìa mềm) để rà soát nội dung, tiến hành sửa chữa những chi tiết sai sót và in lại bản mới. 
Cuốn sách “Gạc Ma - vòng tròn bất tử”. 
Tuy nhiên, NXB Văn học phát hiện cuốn sách trên vẫn được phát hành trên thị trường. Để ngăn chặn việc phát tán cuốn sách có nội dung sai sót nêu trên ra thị trường, Cục đề nghị Sở Thông tin và Truyền thông các tỉnh, thành phố phối hợp kiểm tra, rà soát và thu hồi tại địa bàn (nếu có) cuốn “Gạc Ma - vòng tròn bất tử” của NXB Văn học. 
Sách “Gạc Ma – vòng tròn bất tử” được thực hiện từ năm 2014, kể lại việc 64 chiến sĩ hải quân Việt Nam bị thảm sát vào rạng sáng 14-3-1988 trên bãi đá san hô Gạc Ma, thuộc quần đảo Trường Sa (Việt Nam) bởi quân đội Trung Quốc. 
Cuốn sách được thực hiện trong 4 năm, với sự tham gia biên soạn của 68 người, trong đó có một số nhà nghiên cứu, sĩ quan, cựu chiến binh. Tuy nhiên, do nội dung cuốn sách đề cập sự kiện lịch sử, trong khi tư liệu được viết dưới dạng lời kể, chưa có cơ sở thẩm định khoa học, các tài liệu kiểm chứng nên ngay từ giai đoạn bản thảo, cuốn sách đã vấp phải phản ứng từ người trong cuộc.
Đến khi phát hành, cuốn sách tiếp tục gây phản ứng, trong đó có những nội dung nhạy cảm, dễ gây hiểu sai lệch vấn đề, bản chất lịch sử. Khoản 4, Điều 35, Luật Xuất bản quy định: “Khi phát hiện xuất bản phẩm có nội dung vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 10 của Luật này thì cơ sở in phải dừng việc in và báo cáo với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền, đồng thời thông báo với nhà xuất bản, cơ quan, tổ chức, cá nhân đặt in”. 
Do đó, việc Cục Xuất bản, in và phát hành có công văn đề nghị kiểm tra, rà soát và thu hồi cuốn sách “Gạc Ma - vòng tròn bất tử” là cần thiết khi cuốn sách này có những lỗi về nội dung và câu chữ.
Tuy nhiên, lợi dụng sự quan tâm từ người đọc, các thế lực xấu tiếp tục tìm cách xuyên tạc bản chất sự việc, đưa ra những thông tin nhằm miệt thị chế độ. Nhiều trang mạng nước ngoài suy diễn rằng, do đây là vấn đề nhạy cảm mà “cộng sản đang tìm cách bưng bít, che đậy” nên đã cấm đoán, thu hồi cuốn sách.
Công văn của Cục Xuất bản, in và phát hành bị suy diễn thành “công văn bịt mồm”, ngăn cản tự do ngôn luận, tự do tiếp cận thông tin. Một số trường hợp còn đăng tải trên facebook, nói rằng hành động thu hồi cuốn sách trong thời đại công nghệ thông tin là kiểu quản lý lạc hậu, bảo thủ và cho thấy “sự lo sợ của chính quyền”. 
Số này đăng trên trang facebook kêu gọi mọi người hãy săn lùng để đọc sách và hứa sẽ tìm cách in ấn, gửi tặng sách, chỉ cần cung cấp tên, địa chỉ trên phần comment của bài viết đăng trên facebook đó.
Về nội dung cuốn sách cũng bị các đối tượng suy diễn đang có “đấu đá nội bộ”. Từ những nội dung do Thiếu tướng Lê Mã Lương đề cập trong cuốn sách, họ xuyên tạc rằng, cuốn “Gạc Ma - vòng tròn bất tử” không phải là cuốn sách hay nhất và duy nhất “vạch trần thực chất chế độ CSVN”, vì những chủ đề này đã có không biết bao nhiêu tác giả Việt và thế giới từng cho ra đời hàng ngàn tác phẩm với nội dung tương tự, nhưng chỉ có “đứa con tinh thần” của một tướng Việt cộng mới được đón chào và đỡ đầu mau mắn như vậy, vì nó là nhân chứng sống, là “đứa con thoát thai từ trong lòng của CS, nói lên sự thật của chính chế độ mà ông ta tôn thờ phục vụ hàng bao nhiêu chục năm”! Từ việc miệt thị, họ tung hứng “đây là một sự kiện hy hữu, và có lẽ đây cũng là điềm báo ngày suy tàn của chế độ CSVN”...  
Một trang mạng nước ngoài đả kích rằng, cuốn sách “Gạc Ma – vòng tròn bất tử” bị cấm phát hành vì “các tướng tranh luận thô bạo, mạt sát lẫn nhau, chỉ vì một chữ “trước” có hay không có trong câu “không được nổ súng” hay “không được nổ súng trước”.
Bằng những câu từ như “Gạc Ma – vòng tròn bất tử hay bức tử”, một số bài viết tìm cách suy diễn vấn đề “nổ súng” trong cuốn sách rồi tùy tiện xuyên tạc, đả kích quan điểm, đường lối quân sự, ngoại giao của lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta. 
Các đối tượng tìm cách liệt kê, xâu chuỗi một số sự kiện trong chiến tranh biên giới Việt – Trung cũng như diễn biến tại Hoàng Sa, Trường Sa trong thế kỷ trước, mượn lời của một số đối tượng phản động lấy danh nghĩa “nghiên cứu lịch sử”, từ đó cải sửa, đưa đẩy vấn đề sai lệch bản chất rồi nhằm vào cá nhân lãnh đạo Đảng, Nhà nước trong thời kỳ đó để đả kích, nguyền rủa.
Chiêu bài này rất nguy hiểm vì nếu người đọc thiếu hiểu biết, thiếu nhận thức sẽ bị các đối tượng đẩy vấn đề từ sai lệch bản chất vụ việc ở Gạc Ma đến kích động quan điểm, tư tưởng thù hận chế độ dưới danh nghĩa “kêu gọi lòng tự tôn dân tộc, lòng xả thân vì Tổ quốc”. 
Rõ ràng, việc mượn cớ những sự kiện lịch sử để xuyên tạc sự thật rồi phê phán, miệt thị cá nhân các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, chỉ trích, nguyền rủa chế độ là một trong những thủ đoạn mà các thế lực thù địch đã, đang tìm cách lợi dụng chống phá nhằm thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”. 
Trong khi đó, những vấn đề này lại thường thu hút sự chú ý của dư luận. Khi một cuốn sách, một ấn phẩm xuất bản hay báo chí bị đình bản, thu hồi do liên quan đến nội dung lịch sử, nhiều người thường có tâm lý tò mò tìm hiểu thông tin, còn các thế lực thù địch lại lợi dụng tâm lý đó để tự tung tự tác.
Trong công nghệ số, với sức lan tỏa mạnh mẽ từ mạng xã hội, người dân rất dễ bị tiêm nhiễm thông tin sai lệch, nguy hiểm như vậy. Do đó, cùng việc kịp thời đưa ra những thông tin cụ thể, rõ ràng từ cơ quan quản lý Nhà nước thì việc nêu cao ý thức cảnh giác cho mọi người là hết sức cần thiết.
Đăng Minh

Bình tĩnh, tỉnh táo, cảnh giác trước những cái nhìn lệch lạc về giáo dục Việt Nam

17/09/2018 05:00

Những ngày qua, trong khi hàng triệu học sinh, sinh viên háo hức bước vào năm học mới 2018-2019, thì trên nhiều trang mạng xã hội, nhất là các trang mạng của những phần tử cơ hội và một số tờ báo điện tử nước ngoài thiếu thiện chí với Việt Nam đã có những nhận định chủ quan, cái nhìn sai trái, ý kiến lệch lạc về giáo dục Việt Nam. Cần phải vạch rõ “chân tướng” đằng sau những luận điệu này.

Chuyện bé xé ra to, gắn vấn đề giáo dục với mưu đồ chính trị
Nguyên cớ khởi đầu từ một clip đăng trên trang mạng xã hội quay cảnh một người được cho là giáo viên tiểu học đang hướng dẫn phụ huynh cách dạy con lớp 1 đánh vần theo cuốn Tiếng Việt 1-Công nghệ giáo dục (TV1-CNGD) của một giáo sư. Một câu chuyện giảng dạy theo phương pháp mới tưởng như bình thường, nhưng nó bị đẩy lên quá mức làm “nóng” dư luận. Nhân cơ hội này, một số người vốn có cái nhìn định kiến, cực đoan và những kẻ có tư tưởng cơ hội chính trị, bất mãn, thù hằn với chế độ Việt Nam đã cố tình làm to chuyện, phức tạp hóa vấn đề, thậm chí gắn vấn đề giáo dục với vấn đề chính trị với những toan tính xấu.
Không chỉ đưa ra các nhận định đầy miệt thị, ác ý như: “Cải cách giáo dục của Việt Nam mấy chục năm nay thất bại vì tư duy tiểu nông, vì bóc ngắn cắn dài”, “Giáo dục Việt Nam trong 30 năm qua không chỉ rối loạn bởi các đề án hoang tưởng tiêu tốn hàng ngàn tỷ đồng mà còn đối diện với cuộc khủng hoảng suy đồi đạo đức nghiêm trọng khiến niềm tin vào những gì được gọi là “cải cách” sụp đổ”; có người còn đưa ra cái gọi là “kiến nghị” rằng: “Nếu không làm được một bộ sách giáo khoa cho ra hồn, giải pháp khả thi là mua một bộ sách giáo khoa của Anh, Mỹ về cho các cháu học, cháu nào học được thì học mà không học được thì dịch ra tiếng Việt mà học”(!). Rồi một số người lại đề xuất cái gọi là “khuyến cáo”: “Những thiên thần vô tội không nên và không thể tiếp tục bị đem ra làm vật hy sinh cho các tranh cãi liên miên về cải cách giáo dục và chương trình-sách giáo khoa hay các thử nghiệm cải cách thi cử”. Họ còn lên tiếng lu loa: “Ý thức hệ giáo điều trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường vẫn gây nên sự ngộ nhận chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cải cách khiến cho mục đích giáo dục thiếu tính thực tế, sai với lẽ tự nhiên”(!)...
Trước đó, lợi dụng những sai phạm xảy ra ở Hội đồng thi Sở Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) ba tỉnh: Hà Giang, Sơn La và Hòa Bình, một số ý kiến cũng tỏ thái độ hằn học khi cho rằng “gian lận thi cử ở Hà Giang là bi kịch từ lỗi hệ thống”; “sự thối nát của nền giáo dục Việt có căn gốc từ thể chế chính trị”(!).
Những lời lẽ trên cần phải phê phán, bác bỏ vì nó đã được nhìn nhận qua “lăng kính màu đen”, đánh đồng hiện tượng với bản chất, lợi dụng vấn đề giáo dục để đan cài mục đích chính trị thiếu lành mạnh.
Về những sai phạm trong kỳ thi THPT quốc gia ở ba tỉnh nêu trên, ngay sau khi xảy ra vụ việc, những người gây ra sai phạm đã bị cơ quan chức năng khởi tố, bắt tạm giam vì đã phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ. Những bài thi, thí sinh được nâng điểm thi qua quá trình thẩm định chặt chẽ đã bị hạ điểm thi theo đúng quy chế. Có thể nói rằng, sự vào cuộc kịp thời, khẩn trương, quyết liệt của các cơ quan chức năng góp phần nhanh chóng làm sáng tỏ vụ việc để dư luận xã hội hiểu đúng tình hình; tin tưởng vào việc tổ chức kỳ thi THPT quốc gia ngày càng được bảo đảm nghiêm túc, chặt chẽ hơn.
Không thể phủ nhận những thành tựu và nỗ lực đổi mới của giáo dục Việt Nam
Có thể nói rằng, việc nhiều người dân cũng như dư luận xã hội quan tâm đến những đổi mới của lĩnh vực giáo dục nói chung, chương trình cải cách giáo dục và sách giáo khoa nói riêng, là điều bình thường, vì sự nghiệp giáo dục là sự nghiệp của toàn dân. Người dân lo toan đến giáo dục là lo toan đến vận mệnh đất nước. Thế nhưng, cần tỉnh táo nhận diện, phân biệt đâu là những ý kiến thẳng thắn, tâm huyết, trách nhiệm, vì lợi ích chung; đâu là ý kiến đội danh “phản biện” mà “biện” thì ít, còn “phản” thì nhiều! Mặt khác, khi nhìn nhận, đánh giá về vấn đề giáo dục rất cần có thái độ thận trọng, khách quan và cái nhìn biện chứng, khoa học.
Ảnh minh họa: qdnd.vn.
Ví như khi nhận định về tài liệu TV1-CNGD, không nên và cũng không thể chỉ lấy một phương pháp đánh vần mới, không giống cách đánh vần truyền thống, rồi đưa ra hai thái cực, hoặc là phủ nhận hoàn toàn, hoặc là ủng hộ tuyệt đối. Về vấn đề này, đại diện lãnh đạo Bộ GD&ĐT đã khẳng định, tài liệu TV1-CNGD về cơ bản bảo đảm các yêu cầu về mục tiêu, chuẩn kiến thức kỹ năng của môn Tiếng Việt lớp 1 trong Chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) cấp tiểu học. Tài liệu này là một trong những phương án để các địa phương lựa chọn nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Tiếng Việt lớp 1 trong Chương trình GDPT hiện hành, nhất là với học sinh vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, sẽ không mở rộng triển khai chương trình để giữ ổn định cho đến khi thực hiện Chương trình GDPT mới được triển khai từ năm học 2019-2020.
Mặc dù cơ quan chức năng đã thông tin chính thức như vậy, nhưng một số người coi việc đánh vần “lạ” theo tài liệu TV1-CNGD như là cái cớ để “xới tung” một vấn đề không mới, nhưng lại ẩn chứa những dụng ý chính trị cũ rích khi cho rằng, giáo dục Việt Nam “rối rắm vì thiếu triết lý”, lại “không cải tiến được vì không có làn gió mới, máu mới vào nền giáo dục”, rồi từ đó phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp giáo dục, xuyên tạc bản chất của nền giáo dục cách mạng Việt Nam đã được bao thế hệ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục bền bỉ vun trồng, bồi đắp suốt 73 năm qua.
Thực tế, nền giáo dục Việt Nam luôn vận động theo sự phát triển của xã hội. Việt Nam đã tiến hành ba lần cải cách giáo dục (các năm 1950, 1956, 1981) cho phù hợp với từng thời kỳ lịch sử và đáp ứng với yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng. Hiện nay, sự nghiệp đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, đang được triển khai tích cực với những bước đi, giải pháp phù hợp.
Theo đánh giá của nhiều chuyên gia giáo dục, kể từ khi thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW của Đảng từ năm 2013 đến nay, nhiều đổi mới trong ngành giáo dục có tín hiệu khả quan. Việc triển khai chương trình GDPT mới đang đi đúng lộ trình. Theo kế hoạch đề ra đến năm học 2019-2020, chương trình GDPT mới sẽ được triển khai ở bậc tiểu học, bắt đầu từ lớp 1. Đến nay, đã có 24 trường đại học thí điểm tự chủ. Một trong những thành tựu của ngành giáo dục thời gian qua là chất lượng giáo dục mũi nhọn tiếp tục được giữ vững, nổi bật là các đoàn học sinh Việt Nam tham dự Olympic quốc tế hằng năm đều đoạt giải cao. Trong tháng 7-2018 vừa qua, 100% thí sinh Việt Nam dự thi Olympic quốc tế các môn: Vật lý, Toán học, Hóa học, Sinh học đều đoạt huy chương (gồm 7 huy chương vàng, 6 huy chương bạc, 5 huy chương đồng), trong đó, Việt Nam là một trong 10 nước đoạt từ hai huy chương vàng trở lên và xếp thứ hạng cao tại cuộc thi Olympic Vật lý quốc tế; đặc biệt thí sinh Nguyễn Phương Thảo đạt tổng điểm cao nhất cuộc thi trên tổng số 261 thí sinh tại Olympic Sinh học quốc tế tổ chức ở Iran.
Theo báo cáo được Ngân hàng Thế giới (WB) công bố ngày 15-3-2018, 7 trong số 10 hệ thống giáo dục hàng đầu thế giới đang nằm ở khu vực Đông Á-Thái Bình Dương, trong đó sự phát triển thực sự ấn tượng thuộc về hệ thống giáo dục của Việt Nam và Trung Quốc. WB gọi Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia tiên phong trong đổi mới giáo dục. Đầu tháng 6-2018, QS (Quacquarelli Symonds) của Anh quốc-một trong những bảng xếp hạng có uy tín hàng đầu thế giới-đã công bố bảng xếp hạng tốp 1.000 trường đại học thế giới, trong đó lần đầu tiên Việt Nam có hai đại diện là Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh. Những kết quả này thêm một lần khẳng định quá trình đổi mới của giáo dục Việt Nam đang đi đúng hướng, được nhiều tổ chức quốc tế có uy tín ghi nhận.    
Nỗ lực vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng toàn diện giáo dục
Tất nhiên, nói thế không có nghĩa là giáo dục Việt Nam chỉ có những thành tựu, mà cũng đang phải vượt qua những thách thức không nhỏ. Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam, nhất là đội ngũ cán bộ quản lý, nhà giáo đã nhận thấy những bất cập, hạn chế của ngành giáo dục cần phải khắc phục, đó là: Chương trình học có môn còn quá tải; phương pháp dạy học còn thiên về truyền thụ kiến thức nên chưa phát huy được tính tích cực của người học; việc kiểm tra, thi cử còn nặng về điểm số dẫn tới áp lực cho học sinh; giáo dục đại học chưa đáp ứng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước…
Nhận thức sâu sắc vấn đề đó, những năm qua, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm từng bước khắc phục những tồn tại trong lĩnh vực giáo dục, tiếp tục đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục theo hướng chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc học, trình độ và giữa các phương thức GD&ĐT; xây dựng nền giáo dục mở, thực học, thực nghiệp; bảo đảm các điều kiện nâng cao chất lượng; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống GD&ĐT. Từ đầu năm 2018 đến nay, nhiều phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và kỳ họp của Quốc hội đã góp ý, thảo luận sôi nổi về việc sửa đổi Luật Giáo dục và Luật Giáo dục Đại học hiện hành để sớm thông qua vào kỳ họp gần nhất. Động thái này của Quốc hội cũng không ngoài mục đích tạo ra “cú hích” mới, động lực mới thúc đẩy sự phát triển giáo dục nước nhà trong thời gian tới.
Giáo dục liên quan đến mọi người, mọi nhà và ảnh hưởng mật thiết đến sự ổn định, phát triển của quốc gia. Do vậy, khi nhìn nhận, đánh giá về giáo dục rất cần phải được xem xét toàn diện, thấu đáo ở mọi khía cạnh, đặt trong mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa những thành quả đổi mới đã đạt được và những sức ỳ, lực cản trong lộ trình đổi mới cần phải khắc phục. Không nên lấy một vài cái sai đơn lẻ trong hoạt động giáo dục hay những vấn đề đang còn tranh luận để phủ nhận những nỗ lực đổi mới giáo dục cũng như những thành quả giáo dục của Việt Nam trong những năm qua. Vì điều đó làm tổn thương đến tình cảm, niềm tin, tinh thần nhiệt huyết, trách nhiệm cao cả của hơn 1,2 triệu giáo viên, giảng viên và hàng vạn cán bộ quản lý giáo dục đang lặng thầm cống hiến cho sự nghiệp “trồng người”.
THIỆN VĂN

Ngăn ngừa hành vi lợi dụng internet, mạng xã hội để xuyên tạc về quyền con người

10/09/2018 04:00

Sự ra đời của internet, tiếp đó là mạng xã hội (MXH) về mặt khoa học, công nghệ (KHCN) mở ra một thời đại mới cho nhân loại. Nhờ internet, MXH mà con người nhận được thông tin không bị hạn chế bởi vị thế xã hội, tức thì… ở mọi nơi trên thế giới. Dựa trên internet, MXH, ngày nay với máy vi tính (computer), điện thoại thông minh (smartphone) con người có thể tra cứu và trao đổi thông tin ở bất cứ đâu về mọi chủ đề.

Nhiều người cho rằng internet, MXH đã tạo ra một thế giới thứ hai-thế giới mạng-thế giới ảo. Các nhà khoa học thì cho rằng với internet, MXH, nhân loại có thêm một hệ sinh thái mới-hệ sinh thái số. Đó là một hệ thống thông tin trên tất cả lĩnh vực được lưu giữ có thể dễ dàng tìm kiếm (trên Wikipedia) và nhiều công cụ tìm kiếm, trao đổi thư từ (trên Google, Yahoo) và tương tác trực tuyến trên Facebook.
Thế nhưng trong hệ sinh thái số, thế giới ảo lại đặt ra nhiều thách thức đối với nhân loại, nhất là việc đánh giá tính chân thực của thông tin từ những việc đơn giản như mua hàng trên mạng cho đến những vấn đề liên quan đến an ninh quốc gia, trật tự xã hội, quyền riêng tư của cá nhân... Khác với thế giới thực, những thông tin mà người ta có được trên thế giới ảo khó kiểm chứng. Điều này, dẫn đến kẻ xấu có thể lợi dụng internet, MXH vì những mục tiêu không tốt, như: Đưa thông tin giật gân, câu view, câu like; đưa thông tin về đời tư do hẹp hòi, ích kỷ, định kiến cá nhân... Thông tin sai sự thật không những ảnh hưởng đến xã hội, mà thậm chí có người đã tìm đến cái chết thương tâm… 
Ảnh minh họa. Nguồn: http://vietnamnet.vn/
Ở Việt Nam, trên lĩnh vực chính trị, những phần tử cơ hội đã lợi dụng internet, MXH để nhằm vào việc chống phá, hòng lật đổ chính quyền nhân dân, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN), như: Xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; xuyên tạc lịch sử cách mạng Việt Nam; bôi nhọ chính quyền các cấp… kêu gọi người dân biểu tình, gây rối…
Vừa qua (16-8-2018), Tòa án Nhân dân tỉnh Nghệ An mở phiên tòa xét xử sơ thẩm bị cáo Lê Đình Lượng (sinh năm 1965) trú tại xóm 9, xã Hợp Thành (Yên Thành, Nghệ An), bị truy tố về tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” quy định tại Điều 79 Bộ luật Hình sự năm 1999. Theo cáo trạng, liên tục trong thời gian dài, Lượng lập tài khoản trên Facebook để tán phát hàng trăm thông tin, clip có nội dung chống phá Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, kích động tuần hành, biểu tình, gây rối an ninh trật tự. Trước đó, nhiều bị cáo, như: Trần Thị Nga (Hà Nam), Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (Đà Nẵng) cũng có hành vi tương tự-lập tài khoản trên MXH, tán phát bài viết, các clip với nội dung thông tin  bịa đặt nhằm chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam. Tất cả các đối tượng nêu trên đều bị cơ quan bảo vệ pháp luật xử lý theo đúng quy định của pháp luật.
Các thế lực thiếu thiện cảm với Việt Nam ở nước ngoài cũng sớm lợi dụng internet, MXH để đưa thông tin can thiệp, chống phá chế độ xã hội, Nhà nước Việt Nam. Điển hình là hằng năm Hoa Kỳ công bố hai bản Phúc trình thường niên về tình hình nhân quyền và tình hình tôn giáo trên thế giới đăng trên trang web của Bộ Ngoại giao và sứ quán Hoa Kỳ, sau đó được các cơ quan báo chí, hãng thông tấn phương Tây, như: BBC, RFA, VOA, RFI đưa lại. Trong các bản “Phúc trình” nói trên, Hoa Kỳ thường xuyên tạc chính sách, pháp luật Việt Nam, đặc biệt là xuyên tạc quyền tự do ngôn luận, báo chí, tự do internet ở Việt Nam. Chứng cứ mà họ bao biện cho hành vi của mình thường là những vụ án về tội phạm lợi dụng tự do ngôn luận, báo chí, lợi dụng internet, MXH để tán phát các thông tin xấu độc chống phá chế độ xã hội và Nhà nước Việt Nam.
Gần đây, trong dịp Quốc hội khóa XIV thảo luận về dự án Luật Đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú Quốc (gọi tắt là dự án Luật Đặc khu) và Luật An ninh mạng, nhiều trang mạng phương Tây cho rằng cơ quan chức năng của Việt Nam đã sử dụng “hai điều luật cực kỳ mơ hồ trong Bộ Luật Hình sự là Điều 88 về tội “tuyên truyền chống nhà nước” và Điều 258 về “lợi dụng các quyền tự do dân chủ” để bắt bớ và bỏ tù nhiều người bất đồng chính kiến”. Những cuộc biểu tình, gây rối (ngày 10 và 11-6-2018) ở một số địa phương gần đây với cái cớ là phản đối dự án Luật Đặc khu, Luật An ninh mạng, thực tế là đã có bàn tay của các thế lực thù địch ở nước ngoài lợi dụng internet, MXH để kích động nhân dân chống lại chính quyền. Nối tiếp những hành động trên, ngày 12-7-2018, một số nghị sĩ cực hữu Hoa Kỳ (nhóm Vietnam Caucus) soạn thảo văn bản, “kêu gọi” lãnh đạo công ty Facebook và Google không chuyển văn phòng lưu trữ dữ liệu cá nhân người dùng ở nước ngoài về Việt Nam.
Trên lĩnh vực quyền con người (QCN), sự ra đời của thế giới ảo, hệ sinh thái số dựa trên internet, MXH là cơ sở KHCN quan trọng hàng đầu trong nâng cao khả năng bảo đảm của nhà nước, sự hưởng thụ các quyền và tự do của người dân trên tất cả lĩnh vực, nhất là trong lĩnh vực báo chí và tiếp cận thông tin. Chính sách, pháp luật nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tăng cường phát triển KHCN và hội nhập quốc tế, trong đó có kết nối internet, đồng thời tôn trọng và bảo đảm QCN trên tất cả lĩnh vực, trong đó có tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin.
Hiến pháp 2013 dành cả Chương II quy định về “QCN, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Thể chế hóa Hiến pháp 2013, Quốc hội Việt Nam đã chỉnh sửa và xây dựng nhiều văn bản luật nhằm bảo đảm những quyền trên. Trước Hiến pháp 2013, Chính phủ đã ban hành nghị định về “Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng” (15-7-2013). Trong nghị định này, Chính phủ xác định chính sách phát triển, quản lý internet của Nhà nước Việt Nam là: “Thúc đẩy việc sử dụng internet…; khuyến khích phát triển ứng dụng tiếng Việt…; phát triển hạ tầng internet băng rộng… chú trọng việc phổ cập dịch vụ internet ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn; ngăn chặn những hành vi lợi dụng internet gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, vi phạm đạo đức, thuần phong mỹ tục...”.
Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 quy định nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin: “Mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin; thông tin được cung cấp phải chính xác, đầy đủ; việc cung cấp thông tin phải kịp thời, minh bạch, thuận lợi cho công dân; đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật...”.
Theo quy định của Luật Tiếp cận thông tin thì quyền tiếp cận thông tin là một quyền có thể bị hạn chế hoặc là quyền có điều kiện. Các hành vi bị nghiêm cấm, bao gồm: “Cố ý cung cấp thông tin sai lệch, không đầy đủ, trì hoãn việc cung cấp thông tin; hủy hoại thông tin; làm giả thông tin… Cung cấp hoặc sử dụng thông tin nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín, gây kỳ thị về giới, gây thiệt hại về tài sản của cá nhân, cơ quan, tổ chức...” (Điều 11). Như vậy có thể nói, khuôn khổ chính sách, pháp luật của Việt Nam về bảo đảm QCN trong bối cảnh internet, MXH là đầy đủ, đồng thời những quy định của pháp luật Việt Nam hoàn toàn tương thích với luật quốc tế về QCN.
Trên thực tế, việc bảo đảm QCN trong lĩnh vực tự do ngôn luận, báo chí, tiếp cận thông tin được Đảng và Nhà nước Việt Nam thực hiện khá sớm. Việt Nam hòa mạng internet toàn cầu từ ngày 1-12-1997. Theo tổ chức nghiên cứu về MXH quốc tế-Next Web, hiện nay Việt Nam nằm trong "Top 10 quốc gia có nhiều người dùng Facebook nhất thế giới" với 64 triệu người, chiếm 3% tổng số tài khoản Facebook toàn cầu. Người dân có thể đăng lên mạng và tải về các video/clip hoàn toàn không bị cấm đoán nếu không vi phạm pháp luật.
Ngoài các đài phát thanh, truyền hình quốc gia và các tỉnh, thành phố, hiện nay Việt Nam có tới 74 báo và tạp chí điện tử, 336 MXH, 1.174 trang thông tin điện tử được cấp phép hoạt động. Giá dịch vụ internet ở Việt Nam vào loại rẻ nhất khu vực. Người nước ngoài và người dân Việt Nam có thể tiếp cận tin tức của các cơ quan thông tấn, báo chí trên thế giới, như: AFP, AP, BBC, VOA, Reuters, Kyodo, Economist, Financial Times… mà không có bất kỳ hạn chế nào.
Như vậy, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với bảo đảm QCN, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong điều kiện internet, MXH là đầy đủ, thuận lợi. Tuy nhiên, khi sử dụng internet, MXH cần nhận thức đúng về QCN, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Đó là nghĩa vụ tuân thủ pháp luật; thực hiện đúng những hạn chế quyền, nhằm bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Điều này, không chỉ là trách nhiệm về chính trị, pháp lý mà còn thuộc về đạo đức, lối sống của mỗi người và cũng là quy định của nhiều quốc gia trên thế giới.
BẮC HÀ

Không thể xuyên tạc những giá trị lịch sử của Tuyên ngôn Độc lập

00:01 02/09/2018
Cách đây 73 năm, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập trước toàn thể dân tộc Việt Nam và cộng đồng quốc tế, khai sinh ra chế độ xã hội mới cùng với sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, mở ra một thời đại mới cho dân tộc ta - thời đại độc lập dân tộc gắn với những giá trị cao cả nhất của nhân loại. Đó là tự do, bình đẳng, bác ái gắn với hòa bình và tình hữu nghị giữa các dân tộc.
Trên 2/3 thế kỷ, kể từ khi bản Tuyên ngôn độc lập ra đời, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc ta đã bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc, xây dựng đất nước hướng tới mục tiêu dân giầu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Thế nhưng trong những ngày mùa thu năm nay, lợi dụng internet, mạng xã hội, các thế lực thù địch trong và ngoài nước, những phần tử thoái hóa về tư tưởng chính trị đã tải lên mạng những bình luận xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ chế độ nhằm chuyển hóa chế độ ta sang con đường “dân chủ, nhân quyền” ngoại nhập.
Họ viết: “Cách mạng tháng Tám là “ăn cướp” chính quyền từ tay chính phủ Trần Trọng Kim”. Gần đây, còn có kẻ tải lên mạng mà chúng gọi là “nỗi buồn mùa thu”, nuối tiếc chính phủ Trần Trọng Kim với bản Tuyên ngôn độc lập của “Nước đế quốc Việt Nam” cùng với “Hoàng đế Bảo Đại” (!). =
Có kẻ còn viết rằng, Chủ nghĩa Mác-Lênin và Cách mạng tháng Tám đã đưa dân tộc vào các cuộc chiến tranh “huynh đệ tương tàn”… Thực là, chỉ có những kẻ tâm thần về chính trị khi ngày nay vẫn đặt bút, gõ phím viết và tải lên mạng những nội dung kỳ quặc rằng trong chế độ Trần Trọng Kim vẫn có “Hoàng đế” và niềm tự hào dân tộc là “quốc gia đế quốc” (!?).
Trong bản Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích lại 2 bản tuyên ngôn có ý nghĩa thời đại. Đó là Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1789.
Lịch sử cho thấy, những lực lượng cầm quyền ở hai nền dân chủ đó đã đi ngược lại các giá trị hai bản tuyên ngôn nói trên. Họ chẳng những không chia sẻ giá trị dân chủ với các dân tộc khác mà trái lại đã phản bội lại những lý tưởng đó. Các cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của thực dân Pháp (1945-1954) và đế quốc Mỹ (1954-1975) nhằm tạo dựng chế độ độc tài tàn bạo cho thấy rõ điều đó.
Gần 90 năm qua (1930-2018), đi theo con đường của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn trung thành với mục tiêu độc lập dân tộc, xây dựng chế độ xã hội XHCN. Ngay sau khi giành được chính quyền trong cả nước, trong điều kiện thù trong giặc ngoài, Đảng ta đã chỉ đạo tiến hành tổng tuyển cử trong cả nước xây dựng Nhà nước theo mô hình “dân chủ, cộng hòa”, trao quyền lại cho toàn dân, theo nguyên tắc chính quyền các cấp, từ cơ sở đến Trung ương đều do nhân dân bầu ra, đại diện cho quyền và lợi ích của đại đa số nhân dân.
Do nhiều nguyên nhân, trong một vài thời kỳ lịch sử, một số quyền con người (QCN) của nhân dân ta đã bị một số hạn chế. Chẳng hạn trong thời kỳ chiến tranh, Nhà nước ta không thể tiến hành các cuộc bầu cử theo luật định để bảo đảm quyền bầu cử và ứng cử của nhân dân. Trong thời kỳ trước đổi mới theo mô hình cũ của CNXH với nền kinh tế kế hoạch hóa, các thành phần kinh tế tư nhân và kinh tế thị trường bị kỳ thị, do đó các quyền về chính trị, nhất là về kinh tế, trong đó có quyền lựa chọn thành phần kinh tế của người dân không được bảo đảm. Những khiếm khuyết này đã được khắc phục trong mô hình xã hội XHCN kiểu mới, mở đầu từ Đại hội VI, 1986.
Có thể nói, cho đến nay lý tưởng của bản Tuyên ngôn độc lập, 1945 đã được hiện thực hóa trong chế độ dân chủ XHCN với những đặc trưng dân tộc, đồng thời mang giá trị thời đại. Đó là:
1 - “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Là một quốc gia nằm ở một trong những đại bản địa – chính trị quan trọng bậc nhất khu vực Đông Nam Á và thế giới, Việt Nam luôn luôn phải ứng phó với tham vọng về lãnh thổ và chiến lược cạnh tranh chính trị, kinh tế giữa các nước lớn ở Biển Đông.
Từ kinh nghiệm lịch sử, Việt Nam phải ứng phó bằng chiến lược chính trị- quân sự, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa với tinh thần và ý chí “kiên trì, kiên quyết” giữ gìn hòa bình và chủ quyền quốc gia trên đất liền, trên biển, trên không và trên không gian mạng. Tuy nhiên tinh thần yêu nước, ý thức về độc lập dân tộc không phải một dạng của chủ nghĩa dân túy giả danh, tham vọng về lãnh thổ hoặc áp đặt về chế độ chính trị của dân tộc mình cho dân tộc khác.
Nhà nước CHXHCN Việt Nam ngày nay là một thành viên có trách nhiệm của Liên hợp quốc, luôn tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế.
2 - Yêu chuộng hòa bình, thủy chung với bạn bè quốc tế
Yêu chuộng hòa bình là một truyền thống của dân tộc. Tuyên ngôn độc lập năm 1945 đã phát triển truyền thống đó trong bối cảnh của thời đại mới, đó là yêu chuộng hòa bình, thủy chung với bạn bè gần xa trong cộng đồng quốc tế, không phân biệt chế độ chính trị, ý thức hệ; gác lại quá khứ, hướng tới tương lai.
Cho đến nay tất cả các quốc gia đã từng phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam đều đã trở thành bè bạn, đối tác chiến lược, có nước đã trở thành đối tác toàn diện của Việt Nam.
Ngày nay, Việt Nam thực hiện chính sách quân sự “ba không”. Đó là “không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia. Với chính sách này, các nước láng giềng gần xa không lo sợ Việt Nam có thể có hành động nào đó làm phương hại đến lợi ích quốc gia của họ.
Đây cũng là thông điệp với các nước lớn: Việt Nam không phải là “con bài” mà họ có thể lợi dụng vì lợi ích của họ. Tuy nhiên chính sách này không cản trở Việt Nam trở thành bạn bè, đối tác chiến lược và đối tác toàn diện trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong bối cảnh quốc tế và khu vực đang diễn ra phức tạp, nhanh chóng, chiến lược Bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta ngày nay chỉ rõ việc kết hợp chặt chẽ giữa phương thức đấu tranh phi vũ trang với đấu tranh vũ trang khi cần thiết để không bị động bất ngờ. Đó là chiến lược bảo vệ Tổ quốc từ xa, chủ động đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” và phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Nhạy bén, linh hoạt trong xác định “đối tác” và “đối tượng”, Nghị quyết TW 8 (khóa IX) của Đảng ta xác định: “Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta”(1).
Quan điểm về “đối tác” và “đối tượng” kết hợp với chính sách quốc phòng “ba không” là sự hoàn thiện chiến lược bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta trong bối cảnh chính trị quốc tế và khu vực hiện nay.
3- Tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân (QCN, QCD)
QCN là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử nhân loại, là giá trị cao quý chung của các dân tộc. Ngày nay QCN được xem như là một thước đo của sự tiến bộ và trình độ văn minh của các xã hội, không phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển và bản sắc văn hóa.
Lịch sử cho thấy, sau 169 năm kể từ khi có bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ (1776), 156 năm ra đời bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp (1789), nhân dân các nước thuộc địa nói chung, nhân dân Việt Nam nói riêng (trước 1945) vẫn phải sống kiếp nô lệ - sống dưới ách thống trị của thực dân, phong kiến.
Không quốc gia TBCN nào thật sự chia sẻ giá trị nhân quyền cho dân tộc ta cũng như các dân tộc thuộc địa khác. QCN và quyền công dân của dân tộc Việt Nam chỉ ra đời từ khi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo giành được thắng lợi vào năm 1945.
Trong Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trân trọng trích dẫn hai văn kiện: Tuyên ngôn độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp rồi suy ra “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Bởi vậy có thể nói Tuyên ngôn độc lập năm 1945 là bản Tuyên ngôn kép - Tuyên ngôn độc lập của dân tộc Việt Nam và Tuyên ngôn về QCN của các dân tộc thuộc địa của chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc.
Sự khác biệt về QCN của dân tộc ta không chỉ về thời điểm ra đời mà còn về tiền đề, tính chất và nội dung của các quyền. Tiền đề của QCN của dân tộc ta (và cũng là của các dân tộc bị áp bức nói chung) là độc lập dân tộc. Không có độc lập dân tộc thì không thể có QCN. Gắn liền với tiền đề này là một chế độ xã hội của dân, do dân và vì dân.
Chế độ đó không chỉ xây dựng một lần là mãi mãi giữ được bản chất của nó mà phải thường xuyên đấu tranh chống suy thoái bằng nhiều biện pháp. Vì quy luật chung của các chế độ xã hội, nhà nước, cho dù dựa trên ý thức hệ nào cũng có xu hướng quan liêu hóa.
Chống suy thoái, bảo vệ QCN quyền công dân bằng pháp luật là một nội dung tư duy chính trị mới của Đảng ta. Hiến pháp 2013, lần đầu tiên các QCN, quyền và nghĩa vụ công dân đã được Quy định trong chương II. Nội dung các quy định về quyền và nghĩa vụ, những hạn chế quyền trong Hiến pháp 2013 hoàn toàn tương thích với các Công ước quốc tế về QCN của Liên hợp quốc.
Nhiều QCN được xem là nhạy cảm, phức tạp của người dân trong bối cảnh xuất hiện Internet, mạng xã hội cũng đã được luật hóa, trên cơ sở vừa bảo đảm QCN vừa bảo vệ chế độ xã hội. Thể chế hóa Hiến pháp 2013, thời gian qua, Quốc hội ta đã sửa đổi và xây dựng nhiều luật trên cơ sở bảo đảm QCN gắn với bảo vệ chế độ xã hội  như Bộ luật Hình sự 2015; Luật Báo chí, 2016; Luật Tiếp cận thông tin, 2016; Nghị định của Chính phủ về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet năm 2013…
Có thể nói, trong lịch sử tư tưởng Việt Nam và lịch sử tư tưởng nhân loại, hiếm có một văn kiện chính trị nào lại tích hợp ở đỉnh cao tinh hoa trí tuệ, đồng thời mạng giá trị bền vững như bản Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo và công bố vào ngày 2-9-1945. 73 năm qua, ở những bước ngoặt của cách mạng, người ta đều tìm thấy mục tiêu và sự khích lệ từ Tuyên ngôn độc lập.
Chặng đường đổi mới phía trước của dân tộc ta dưới sự lãng đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục đi theo lý tưởng của Tuyên ngôn độc lập và nhất định sẽ đem lại những thành tựu mới.
(1)-  Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) “về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” .
* TS. Cao Đức Thái, Giảng viên cao cấp, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu quyền con người - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
TS. Cao Đức Thái

Vạch trần thủ đoạn của Ngô Văn Hoàng Hùng, kẻ cầm đầu tổ chức khủng bố “Triều Đại Việt”

08:32 01/09/2018
Quá trình đấu tranh, đến ngày 30-8, Cục An ninh nội địa phối hợp với Công an địa phương đã bắt giữ thêm 7 đối tượng, ngăn chặn các hoạt động phạm tội do tổ chức khủng bố “Triều Đại Việt” gây ra.
Sau khi 6 đối tượng do Nguyễn Khanh làm “Trưởng nhóm” thực hiện việc chế tạo quả nổ tại trụ sở Công an phường (quận Tân Bình, TP Hồ Chí Minh) bị bắt giữ, Ngô Văn Hoàng Hùng (66 tuổi, tại Tiền Giang, quốc tịch Canada), kẻ cầm tổ chức khủng bố “Triều Đại Việt” tiếp tục móc nối với số đối tượng trong nước, tập hợp số thanh niên lêu lổng, bất mãn với chế độ, số đối tượng bị xử lý kỷ luật, cần tiền tham gia vào tổ chức. 
Các đối tượng đã đăng tải nhiều clip nói xấu Đảng, Nhà nước, kích động người dân xuống đường biểu tình... Quá trình đấu tranh, đến ngày 30-8, Cục An ninh nội địa phối hợp với Công an địa phương đã bắt giữ thêm 7 đối tượng, ngăn chặn các hoạt động phạm tội do chúng gây ra. Vậy bản chất của “Triều Đại Việt” là gì?
Tháng 1-2018, do bất đồng quan điểm, một số đối tượng cốt cán của tổ chức khủng bố “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời” tách ra và thành lập cái gọi là “Triều Đại Việt” có trụ sở chính lại Canada do Ngô Văn Hoàng Hùng làm “Tổng tư lệnh”. Các đối tượng tham gia gồm: Trần Thanh Đình, Ngô Cường, Trần Công Tuấn, Huỳnh Thanh Hoàng, Lê Thái Hoàng và Nguyễn Thanh Long. 
Các đối tượng chủ trương hoạt động bạo động vũ trang, lật đổ Đảng và Nhà nước ta với phương châm “đốt sạch”, “giết sạch”, “phá sạch”, “cướp sạch” lấy cờ ngũ sắc làm quốc kỳ. 
Để thực hiện dã tâm này, các đối tượng triệt để sử dụng các tiện ích trên không gian mạng, đặc biệt là Youtube, Facebook đăng tải gần 200 video, clip dưới hình thức livestream với nội dung xuyên tạc lịch sử, vụ cáo Nhà nước Việt Nam, kêu gọi người dân đứng lên đấu tranh bạo động, lật đổ chế độ, ủng hộ “Triều Đại Việt” về lãnh đạo đất nước. 
Chúng chỉ đạo đồng bọn ở trong nước mua vũ khí, vật liệu nổ từ Campuchia mang về nước; hỗ trợ tiền, chỉ đạo một số cơ sở trong nước mua sắm vũ khí, chế tạo bom, mìn hoạt động khủng bố, phá hoại; kích động người dân xuống đường cướp vũ khí để đảo chính.
Đối tượng Ngô Văn Hoàng Hùng.
Tháng 6- 2018, số cầm đầu “Triều Đại Việt” đã chuyển hàng trăm triệu đồng về nước và chỉ đạo 6 nhóm đối tượng do Nguyễn Khanh làm “Trưởng nhóm” chế tạo quả nổ, tấn công trụ sở Công an phường 12, quận Tân Bình gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự và an ninh quốc gia.
Ngoài ra, chúng còn chuẩn bị một lượng lớn vũ khí gồm các quả nổ và kịp nổ lên kế hoạch tấn công khủng bố nhà riêng của một số đồng chí lãnh đạo địa phương nhưng đã bị Công an TP Hồ Chí Minh chủ trì phối hợp với Công an tỉnh Đồng Nai  bắt giữ, xử lý. Ngô Văn Hoàng Hùng cùng đồng bọn tiếp tục chuyển tiền về nước để chỉ đạo số đối tượng trong nước mua vũ khí, thuốc nổ từ Campuchia mang về Việt Nam để “chờ lệnh”, chỉ đạo đối tượng hoạt động bí mật, phát triển lực lượng, chuẩn bị “quốc kỳ” băng rôn, khẩu hiệu để tham gia biểu tình, bạo loạn khi có thời cơ.
 Những thông tin chúng tôi tìm hiểu được cho thấy Ngô Văn Hoàng Hùng đã đi ngược lại lợi ích của quốc gia và dân tộc. Mục đích của Ngô Văn Hoàng Hùng dùng đồng tiền để lừa phỉnh, lợi dụng sự nhẹ dạ cả tin của một số người dân để tuyên truyền, kích động, khiến họ hiểu sai về đường lối, chính sách của Đảng..., có những hoạt động vi phạm pháp luật, gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia. 
Được biết, Ngô Văn Hoàng Hùng sinh ra trong một gia đình có 4 anh chị em, anh ta là con trưởng. Hùng đi lính quân dịch B2, học ở Quang Trung. Đến năm 1970-1973, làm lính truyền tin liên đoàn 65 Sài Gòn, là hạ sỹ điện tử. Năm 1973-1975, lao công đi binh tại quân đoàn 4 Cần Thơ. Sau khi giải phóng, Ngô Văn Hoàng Hùng về làm thợ sửa xe đạp rồi làm thợ điện.
Thế nhưng với bản chất của một kẻ phản cách mạng, Ngô Văn Hoàng Hùng vẫn chưa bao giờ nguôi mưu đồ phản quốc. Cuối năm 1976, được tên Tiết móc nối, Ngô Văn Hoàng Hùng và một đối tượng tên Phước gia nhập vào tổ chức phản động “Sư đoàn Tiền Giang”. Song bọn chúng chưa kip hành động gì thì tổ chức này đã tan rã do các đối tượng cấp trên bị bắt. 
Trước khi bị bắt, tên Tiết đã chỉ chị cho Ngô Văn Hoàng Hùng và Phước cứ nằm im chờ thời cơ hoạt động. Đến cuối năm 1977, hai tên này lại nhen nhóm lên một tổ chức mới để chống phá lại cách mạng. Bọn chúng liên hệ với bọn phản động ở trong rừng thuộc Long An. 
Đầu năm 1978, được sự giới thiệu của Tám, chúng đến gặp thị Rành, vận động đối tượng này vào tổ chức, giao cho Rành theo dõi việc quản lý súng của du kích để chúng cướp. Ngày 10-1-1978, Rành báo cáo cho chúng biết chiều đó đám cưới, tối mọi người sẽ ngủ say là thời cơ để chúng cướp súng, các đối tượng đã lên kế hoạch hành động. Bọn chúng đã cướp được 3 khẩu súng và bắt trói 3 du kịch... 
Ý đồ của bọn chúng là sau khi cướp được súng, bọn chúng sẽ tìm cách liên lạc với bọn phản động ở rừng cửa gà Long An để giao nộp cho đồng bọn. Nhưng sau đó, tổ chức này tan rã và chúng bị bắt. Với hành vi phạm tội trên, ngày 28-5-1979, Ngô Văn Hoàng Hùng bị tuyên án tù chung thân. 
Đến năm 1982, với chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước, được giảm án từ chung thân xuống 20 năm... Trong quá trình cải tạo, đối tượng lợi dụng cơ hội đã bỏ trốn, vượt ngục sang Canada. Đối tượng Ngô Văn Hoàng Hùng sau đó đã bị truy nã về tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân...
Mang trên mình lệnh truy nã, suốt bao năm qua đối tượng Ngô Văn Hoàng Hùng chưa bao giờ đặt chân về quê hương. Trong thời gian bỏ trốn, Hùng vẫn tiếp tục có những hành động chống phá lại Đảng và nhà nước. Động cơ của đối tượng này suy cho cùng là tư thù cá nhân... chứ không phải ảo tưởng như bọn chúng đã tuyên truyền trên mạng Internet. 
Các hoạt động chống phá của đối tượng đã thể hiện rõ điều đó. Hiện nay, Ngô Văn Hoàng Hùng vẫn tiếp tục gửi tiền về nước, chỉ đạo đối tượng trong nước mua vũ khí, thuốc nổ từ Campuchia về nước để “chờ lệnh” chỉ đạo các đối tượng hoạt động bí mật, phát triển lực lượng chuẩn bị “quốc kỳ” băng rôn, khẩu hiệu để tham gia biểu tình, bạo loạn khi có thời cơ. 
Như đã phân tích ở trên thì âm mưu và dã tâm của Ngô Văn Hoàng Hùng và đồng bọn là rất nguy hiểm. Vì thế, mỗi người dân yêu nước cần phải tỉnh táo trước âm mưu và luận điệu tuyên tuyền phản động của các đối tượng và đồng bọn.
Xuân Mai- Vũ Linh