Không được ngây thơ...

Thứ tư, 27/07/2022 - 07:38

Hằng năm, cứ vào dịp kỷ niệm Ngày Thương binh-Liệt sĩ (27-7), ông Thái là thương binh hạng 1/4 lại vào Quảng Trị để thắp hương cho đồng đội.

Năm nay, khi về, ông mời một số anh em sang uống trà và thưởng thức đặc sản miền Trung. Đang lúc vui chuyện, ông Hưng hàng xóm buột miệng:

- Ngày xưa, anh em mình dại. Cứ xung phong ra tuyến đầu, thành thử dính đạn rồi thành liệt sĩ, bị thương, đâm ra vất vả cho cả gia đình.

Nghe ông Hưng nói vậy, chất lính trong người ông Thái sôi lên:

- Ông mà cũng nghĩ vậy à? Nếu không xông pha ra trận thì sao đánh đuổi được quân xâm lược? Ông nói thế là xúc phạm đến các đồng đội của chúng ta đã anh dũng hy sinh vì độc lập của dân tộc.

Không được ngây thơ...
Ảnh minh họa / qdnd.vn 

Ông Hưng cố cãi:

- Bác không biết đấy thôi, trên mạng người ta còn bảo, đáng nhẽ, chúng ta không cần chiến tranh, hy sinh xương máu mà chỉ cần kiên trì thương lượng, đàm phán trong hòa bình thì đỡ mất mát, đau thương mà vẫn đuổi được quân xâm lược. Tôi nghĩ, họ nói thế cũng có lý đấy!

Nghe ông Hưng nói vậy, ông Thạch, Chi hội trưởng Chi hội Cựu chiến binh thôn phản ứng quyết liệt:

- Tôi không ngờ đến tuổi này rồi, cũng từng cầm súng trên chiến trường mà ông Hưng lại tin vào những luận điệu như vậy! Tôi hỏi ông, cuộc chiến tranh phi nghĩa do quân xâm lược gây nên trên đất nước ta, dày xéo mồ mả tổ tiên, ông cha ta; cướp bóc của cải, giết hại nhân dân, khiến xóm làng chìm trong bom đạn, già trẻ, gái trai không được sống trong hòa bình, con cháu không được đến lớp... Nếu chúng ta không cầm súng đánh đuổi quân xâm lược thì thương lượng, đàm phán có ích gì? Hay chúng ta chỉ cúi đầu xin kẻ thù thương thì chúng sẽ tự rút về nước?

Ông Hưng đuối lý:

- Thì em đọc thông tin trên mạng họ nói thế nên giãi bày ra thôi, chứ em cũng đã tham gia kháng chiến đánh đuổi giặc ngoại xâm mà không tiếc máu xương gì.

Thấy ông Hưng đã thông tư tưởng, ông Thái bảo:

- Thực tế đã chứng minh, địch chỉ ngồi vào bàn đàm phán khi chúng thất thế trên chiến trường, thậm chí trước mỗi cuộc đàm phán chúng còn cố gắng dồn lực đánh ta hòng giành lợi thế. Có qua thực tế kháng chiến mới biết rõ không thể có chuyện địch tự trả độc lập, tự do cho nhân dân, đất nước ta. Thế mà hiện nay, một số người lại tin vào luận điệu của bọn phản động, cho rằng ta không cần đánh thì rồi địch cũng tự rút. Âm mưu của những kẻ tung luận điệu phản động này là nhằm phủ nhận đường lối, công sức của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, làm cho nhân dân ta nghi hoặc, dẫn đến mất niềm tin, mất đoàn kết. Vì thế, chúng ta phải hết sức cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn nham hiểm của các thế lực thù địch.

TRẦN DUY

Mưu đồ lợi dụng Hội nghị thượng đỉnh tự do tôn giáo để chống phá Việt Nam

Thứ Hai, 25/07/2022, 09:34

Hội nghị Thượng đỉnh về tự do tôn giáo quốc tế năm 2022 được tổ chức từ ngày 28 - 30/6 tại Washington DC, Hoa Kỳ. Cũng như năm 2021, Nguyễn Đình Thắng - đối tượng cầm đầu tổ chức Ủy ban cứu người vượt biển (gọi tắt là BPSOS) tiếp tục lợi dụng hội nghị này để tuyên truyền, xuyên tạc tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam nhằm đánh bóng tên tuổi cho tổ chức và tìm kiếm các nguồn tài trợ từ các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ.

Thông thường, một kẻ lợi dụng vỏ bọc đấu tranh vì nhân quyền, tự do tôn giáo như Nguyễn Đình Thắng sẽ được số đối tượng cơ hội chính trị ở hải ngoại tung hô, ủng hộ. Thế nhưng, Nguyễn Đình Thắng lại bị chính số người Mỹ gốc Việt tại hải ngoại “bóc mẽ”, vạch trần là kẻ xảo trá chính trị, lợi dụng lòng tin của cộng đồng để ăn chặn tiền gửi, mà đỉnh điểm của việc này chính là vụ Holy Ngô, kẻ từng tham gia tổ chức BPSOS kiện Nguyễn Đình Thắng ra tòa án Mỹ về những bất minh tài chính. Chỉ điều đó cũng phần nào phản ánh bản chất của kẻ cơ hội Nguyễn Đình Thắng.

Mưu đồ lợi dụng Hội nghị thượng đỉnh tự do tôn giáo để chống phá Việt Nam -0
Quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng luôn được đảm bảo ở Việt Nam.

Nguyễn Đình Thắng lợi dụng các diễn đàn nhằm đánh bóng tên tuổi cho tổ chức, qua đó tìm kiếm những nguồn tài trợ bù đắp vào những thiếu hụt tài chính do bị cộng đồng hải ngoại tẩy chay. Và đây không phải là lần đầu tiên Nguyễn Đình Thắng lợi dụng các sự kiện để tiến hành âm mưu chống phá.

Trước đó, tại diễn đàn tại APF 2016 diễn ra ở Đông Timor, đối tượng đã có ý định cử một phái đoàn tham dự để công khai tuyên truyền, ủng hộ số chống đối trong nước, xuyên tạc tình hình tự do tôn giáo, vu cáo chính quyền Việt Nam cưỡng chế đất và tài sản của người dân trái pháp luật; vận động chính giới các nước can thiệp, đề nghị Việt Nam cho phép thành lập các “nghiệp đoàn tự do và độc lập”... Khi Hội nghị Thượng đỉnh tự do tôn giáo quốc tế 2022 diễn ra, kẻ “té nước theo mưa” Nguyễn Đình Thắng lại ráo riết thực hiện các hoạt động chống phá.

Trở lại Hội nghị Thượng đỉnh tự do tôn giáo quốc tế 2022, đây là một diễn đàn mở để các tổ chức có thể tham gia, miễn là có tiền. Do đó, để tham gia hội nghị này, Nguyễn Đình Thắng chỉ cần đăng ký và nộp lệ phí tham gia làm “đối tác tài trợ”. Sau đó, đối tượng tuyên truyền là thành viên ban tổ chức hội nghị, được phân công chủ trì 2 phiên thảo luận với chủ đề “giới trẻ lãnh đạo” và “chiến dịch toàn cầu cho các tù nhân tôn giáo”. Đồng thời tự nhận mình là tổ chức người Việt duy nhất tham dự hội nghị này. Thực hiện ý đồ chống phá Việt Nam, từ ngày 28 - 30/6/2022, BPSOS đã tham gia, tổ chức nhiều hoạt động như: Tham gia tuần hành và vận động đòi trả tự do cho số đối tượng trong nước như Nguyễn Bắc Truyển, Nguyễn Văn Hoá và Ybum Byă; tổ chức thảo luận, đưa ra cái gọi là “bằng chứng” nhằm xuyên tạc tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam…

Thật nực cười cho những hành động của BPSOS khi vận động đòi trả tự do cho số đối tượng vi phạm pháp luật chỉ vì họ theo một tôn giáo nào đó và chúng huyễn hoặc rằng đây là hành động “đàn áp tôn giáo”. Trong khi đó, các trường hợp như Nguyễn Bắc Truyển, Nguyễn Văn Hoá và Ybum Byă đều là các đối tượng vi phạm pháp luật Việt Nam, đã được đưa ra xét xử công khai, bản án dành cho các đối tượng là đúng người, đúng tội, hoàn toàn thích đáng và mọi hành động vận động đòi trả tự do cho số đối tượng trên là phi lý.

Để có thể thấy bản chất của Nguyễn Đình Thắng trong việc này, chúng ta có thể tìm hiểu về nhân thân của những người đang được Thắng kêu gọi trả tự do. Nguyễn Bắc Truyển (SN 1968, trú tại phường 4, quận 4, TP Hồ Chí Minh), đang phải chấp hành bản án 11 năm tù, 3 năm quản chế về tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”. Trong vụ án này, Truyển cùng các đối tượng gồm Phạm Văn Trội, Nguyễn Trung Tôn và Nguyễn Văn Đài đều là các thành viên sáng lập ra tổ chức Hội Anh em dân chủ do Nguyễn Văn Đài là người khởi xướng, cầm đầu. Hội Anh em dân chủ do các đối tượng thành lập ngày 24/4/2013 có tên gọi, logo, biểu tượng, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Hội có chủ tịch và các phó chủ tịch, có trưởng đại diện của các vùng, miền Bắc, Trung, Nam và hải ngoại.

Trên cơ sở cương lĩnh vắn tắt, hội đã thực hiện hàng loạt các hành vi như: Xây dựng cơ cấu tổ chức, thành lập và phân công nhiệm vụ cho các ban, tổ chức họp các hội viên vào tối thứ bảy hoặc chủ nhật hàng tuần; có kế hoạch đào tạo hội viên, phát triển lực lượng, thực hiện nhiều hình thức tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam; có quan hệ với các tổ chức, cá nhân nước ngoài để vận động ủng hộ tài trợ kinh phí cho hội hoạt động, lập dự án xin tài trợ cho hoạt động của hội; lợi dụng các sự kiện chính trị, sự kiện nhạy cảm trong nước để kích động người dân phản đối chính quyền. Theo bản án phúc thẩm, Nguyễn Bắc Truyển bị phạt 11 năm tù, quản chế 3 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.

Theo cáo trạng, từ năm 2013, Nguyễn Văn Hóa đã lập tài khoản Facebook “Nguyễn Văn Hóa” (Maria Luygonjaga) để chia sẻ, phát tán các bài viết, video, hình ảnh có nội dung kích động, xuyên tạc sự thật. Đối tượng đã tuyên truyền các luận điệu phản động, trái với đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Việc làm của Hoá nhằm mục đích kích động người dân tụ tập, biểu tình sau sự cố môi trường biển và tình hình lũ lụt trên địa bàn Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. Từ năm 2014 đến đầu năm 2015, Nguyễn Văn Hóa đã sử dụng blog “Luoishoa” để đăng tải, phát tán các tài liệu có nội dung tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin, bịa đặt gây hoang mang trong quần chúng nhân dân.

Nội dung các tài liệu này do Nguyễn Văn Hóa copy, đăng tải, phát tán các bài viết của các đối tượng chống phá khác. Ngoài ra, một số tài liệu, hình ảnh, video do Hóa tự làm hoặc biên tập lại và gửi cho các báo, đài phản động nước ngoài để tiếp tục phát tán. Các đối tượng này đều có hoạt động vi phạm pháp luật tại Việt Nam.

Về vấn đề tự do tôn giáo, chính sách nhất quán của Việt Nam là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Trên thực tế, thời gian vừa qua, Việt Nam không ngừng nỗ lực hoàn thiện hệ thống pháp luật về tôn giáo, chính sách tín ngưỡng, trong đó có việc thông qua Luật Tín ngưỡng, tôn giáo và các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Tín ngưỡng, tôn giáo.

Điều đó được thể hiện trong nhiều hoạt động tôn giáo quốc tế lớn được tổ chức thành công ở Việt Nam, trong đó có các sự kiện như kỷ niệm 500 năm cải chánh đạo Tin lành (năm 2017), Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc Vesak (năm 2019), Tổng hội dòng Đa Minh thế giới (năm 2019)... Những nỗ lực này của Việt Nam được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao. Mục đích của Nguyễn Đình Thắng và BPSOS tham gia vào các sự kiện này chính là việc “đánh bóng” tên tuổi nhằm thu hút sự chú ý của các tổ chức quốc tế và kiếm tài trợ để phục vụ cho các hoạt động cũng như có thêm nguồn thu nhập cho đối tượng cầm đầu tổ chức BPSOS chứ không hề mang lại “tự do tôn giáo” như chúng rêu rao.

Mai Anh

Chiêu trò đòi "tự trị dân tộc" - sự mơ mộng hão huyền

Thứ hai, 25/07/2022 - 08:56

Trong chiến lược “diễn biến hòa bình” đối với nước ta, hoạt động kích động người dân tộc thiểu số (DTTS) đòi ly khai tự trị dân tộc luôn là một trong những nội dung chủ đạo được các thế lực thù địch triệt để lợi dụng nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, gây mất ổn định an ninh chính trị ở các vùng DTTS...

Qua theo dõi có thể thấy, thời gian gần đây, các thế lực thù địch đã dùng nhiều thủ đoạn, phương thức để tiến hành hoạt động ly khai, đòi tự trị dân tộc chống phá nước ta. Trong đó, chúng tập trung vào một số phương thức, thủ đoạn sau:

Một là, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng các vấn đề về nguồn gốc lịch sử tộc người, đất đai, lợi dụng những hạn chế, thiếu sót trong việc thực hiện chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước, việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo phức tạp, giải quyết các “điểm nóng” tại địa phương; những tác động của mặt trái kinh tế thị trường... để tuyên truyền, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta, tìm cách bôi đen cán bộ lãnh đạo để kích động tư tưởng ly khai, dân tộc hẹp hòi, tâm lý mặc cảm, kỳ thị dân tộc và cho rằng, chỉ có thành lập “nhà nước mới, quốc gia mới riêng thì mới giàu có, văn minh, phát triển” để lôi kéo, vận động đồng bào DTTS chống lại chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước; tham gia biểu tình, bạo loạn, phá hoại an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương.  

Chiêu trò đòi "tự trị dân tộc" - sự mơ mộng hão huyền
Ảnh minh họa. TTXVN. 

Hai là, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng chiêu bài “tôn giáo hóa dân tộc”, thông qua tôn giáo thâm nhập, gây ảnh hưởng, tập hợp lực lượng là người DTTS, tiến tới hình thành tổ chức phản động trên địa bàn. Chúng lợi dụng các tôn giáo ở vùng DTTS hoặc lập ra một số hình thức "tôn giáo riêng" cho người DTTS như: "Tin lành Đề ga" ở Tây Nguyên để hình thành “Nhà nước Đề ga độc lập”; lợi dụng "Tin lành của người Mông" để thành lập “Nhà nước Mông” ở Tây Bắc; lợi dụng "Phật giáo Nam Tông Khmer" để thành lập “Vương quốc Chăm Pa” ở vùng DTTS Nam Trung Bộ, “Nhà nước Khmer Kampuchea Krom” ở Tây Nam Bộ... Chúng tập trung móc nối, lôi kéo người có uy tín trong đồng bào DTTS, học sinh, sinh viên, thanh niên DTTS, đối tượng cầm đầu, cốt cán các “tà đạo, đạo lạ”, “hiện tượng tôn giáo mới” trong vùng DTTS...

Thế lực thù địch đặc biệt triệt để lợi dụng chiêu bài “đấu tranh đòi quyền lợi cho người DTTS, đòi ly khai, tự trị” để thu hút, lôi kéo người tham gia tổ chức phản động. Ở bên ngoài, các thế lực thù địch xây dựng, phát triển lực lượng chống đối; nuôi dưỡng, hậu thuẫn, tổ chức các lớp đào tạo, huấn luyện kỹ năng hoạt động và chỉ đạo số này móc nối, tác động, xâm nhập về nước hoạt động xâm phạm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương.

Ba là, núp dưới chiêu bài hoạt động “nhân đạo”, “từ thiện” của các tổ chức phi chính phủ để lôi kéo, kích động người DTTS, người dân ở vùng sâu, vùng xa chống phá Nhà nước ta. Đây là một thủ đoạn mới hết sức tinh vi mà các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng để tác động, mua chuộc đồng bào DTTS; dùng thần quyền, giáo lý để nắm và khống chế người DTTS, chi phối các địa bàn; qua đó hòng kích động, lôi kéo người DTTS tham gia hoạt động đòi ly khai, tự trị, thành lập “nhà nước riêng”; gây mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Đặc biệt, thông qua hoạt động “nhân đạo”, “từ thiện”, kẻ địch còn tìm cách thâm nhập vào các địa bàn chiến lược, nhất là các địa bàn vùng sâu, vùng xa để thu thập tình hình, cung cấp cho các tổ chức phản động lưu vong bên ngoài báo cáo xuyên tạc chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam. 

Bốn là, chúng tìm cách đánh tráo và đồng nhất khái niệm “quyền dân tộc tự quyết” là quyền của quốc gia-dân tộc với quyền của các DTTS để tuyên truyền, xuyên tạc nhằm làm cho một số đồng bào các dân tộc ngộ nhận rằng, “quyền dân tộc tự quyết” là quyền của riêng các DTTS, từ đó, chúng tìm cách kích động, lôi kéo đồng bào dân tộc đòi thành lập nhà nước riêng, phá hoại khối đại đoàn kết của dân tộc như: “Nhà nước Tin lành Đề ga” ở Tây Nguyên, “Vương quốc Chăm Pa” ở Tây Nam Bộ, “Vương quốc Mông” ở Tây Bắc... Lợi dụng “quyền dân tộc tự quyết” làm điều kiện trong quan hệ ngoại giao với nước ta; gắn vấn đề viện trợ, hợp tác kinh tế với việc đòi Nhà nước Việt Nam trao “quyền tự quyết, tự quản” cho các DTTS ở trong nước, qua đó hòng tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ nước ta.

Năm là, tìm mọi cách để tác động quốc hội các nước phương Tây, các tổ chức quốc tế thông qua các dự luật, nghị quyết, báo cáo... hoặc tổ chức nhiều cuộc điều trần, hội thảo, họp báo nhằm xuyên tạc, bóp méo tình hình dân chủ, nhân quyền ở các vùng DTTS trong nước. Thông qua đó, họ tìm cách vận động các nước, các chính khách, người Việt ở nước ngoài tài trợ vật chất, tiền, phương tiện để tiến hành các hoạt động đòi ly khai, tự trị dân tộc đối với nước ta. Họ còn tăng cường “quốc tế hóa” vấn đề “quyền dân tộc tự quyết” để tạo sức ép từ bên ngoài, đồng thời kích động các hoạt động chống đối Nhà nước ta từ bên trong. Bên ngoài, các tổ chức phản động lưu vong như: "Hội người Mông thế giới", "Hội những người miền núi", "Nhà nước Đề ga độc lập"... tăng cường tổ chức biểu tình ủng hộ các đối tượng trong nước hoạt động tích cực, quyết liệt hơn. 

Thời gian qua, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng những khó khăn trong cuộc sống của đồng bào DTTS để tổ chức truyền đạo trái pháp luật, đội lốt tôn giáo hoạt động chính trị, móc nối xây dựng cơ sở. Đi liền với việc truyền bá các tà đạo, phát triển cái gọi là “hiện tượng tôn giáo mới”; chúng khuyến khích đồng bào các DTTS duy trì tập tục lạc hậu, thiếu khoa học, cổ vũ cho lối sống thực dụng trong thanh niên, thiếu niên, từng bước làm băng hoại đạo đức, bản sắc văn hóa dân tộc. Họ cũng tận dụng thế mạnh các phương tiện thông tin đại chúng trong đó tập trung sử dụng internet, đài phát thanh, truyền hình bằng tiếng dân tộc; in ấn tài liệu, văn hóa phẩm, đặc biệt là sử dụng phương pháp tuyên truyền miệng, rỉ tai để kích động hoạt động ly khai, đòi tự trị dân tộc đối với đồng bào các DTTS ở trong nước.  

Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào DTTS ở nước ta không ngừng được cải thiện, nâng lên, các quyền cơ bản của đồng bào DTTS ngày càng được bảo đảm. Tuy nhiên, việc giải quyết vấn đề dân tộc trong thời gian qua còn có những hạn chế nhất định. Đó là đời sống văn hóa-xã hội của đồng bào DTTS tuy đã có những tiến bộ đáng kể, song mức hưởng thụ văn hóa tinh thần của người dân còn thấp, vẫn còn một bộ phận đồng bào DTTS có cuộc sống khó khăn. Hệ thống chính trị cơ sở ở một số vùng DTTS còn yếu; công tác quản lý xã hội còn có sơ hở, chưa sát dân, chưa nắm bắt kịp thời tâm tư nguyện vọng của đồng bào, nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới. Công tác nắm tình hình có lúc, có nơi còn yếu, chưa phát hiện kịp thời các vụ việc phức tạp xảy ra, dẫn đến việc giải quyết còn lúng túng, thụ động; chính quyền ở một số địa phương còn sơ hở, thiếu sót trong việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhất là các chính sách về dân tộc, tôn giáo để các đối tượng và các thế lực bên ngoài lợi dụng tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá ta.

Từ thực tế trên, trong thời gian tới, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục đẩy mạnh hoạt động ly khai, đòi tự trị dân tộc hòng “diễn biến hòa bình” đối với nước ta. Do vậy, công tác phòng ngừa, đấu tranh cần có sự tham gia của cả hệ thống chính trị trong việc triển khai thực hiện đồng bộ nhiều nhóm giải pháp trên nhiều lĩnh vực xã hội, trong đó, cần tập trung vào một số giải pháp trọng tâm sau đây: 

Một là, tiếp tục tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về âm mưu, thủ đoạn hoạt động ly khai, đòi tự trị dân tộc của các thế lực thù địch để chống phá Đảng, Nhà nước ta; nâng cao ý thức tự giác của nhân dân trong việc thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về dân tộc, tôn giáo; tích cực tham gia công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động này. Tiếp tục phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện của Đảng trong công tác đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, hoạt động lợi dụng vấn đề này để chống phá nước ta.  

Hai là, tiếp tục thực hiện hiệu quả các chương trình, dự án phát triển kinh tế, xã hội, xóa đói giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, thường xuyên chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; không ngừng nâng cao trình độ dân trí, văn hóa, xã hội cho đồng bào DTTS, vùng sâu, vùng xa. Tiếp tục thực hiện hiệu quả các chương trình, dự án phát triển kinh tế, xã hội, xóa đói giảm nghèo nhằm góp phần bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền và lợi ích chính đáng của đồng bào các DTTS, vùng sâu, vùng xa trên cơ sở pháp luật. Thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố, kiện toàn hệ thống chính trị ở cơ sở; quan tâm xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân thực sự vững chắc, trong đó, tập trung xây dựng các khu vực phòng thủ “cơ bản, toàn diện, liên hoàn, vững chắc”; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trên địa bàn vững mạnh, thực sự là nòng cốt trong giữ vững an ninh trật tự tại địa phương.   

Ba là, không ngừng xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc dựa trên nền tảng khối liên minh công-nông-trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, hiệu lực hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong mở rộng, đa dạng hóa các hình thức tập hợp nhân dân; là “cầu nối” giữa Đảng với nhân dân, làm cho mối liên hệ giữa Đảng, Nhà nước với đồng bào các DTTS ngày càng gắn bó khăng khít. Tiếp tục phát huy và thực hiện đồng bộ, triệt để, hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở trong vùng đồng bào DTTS, vùng sâu, vùng xa. Đề cao tinh thần dân tộc và tôn trọng những điểm khác biệt của các DTTS không trái với lợi ích chung của đất nước; kiên quyết chống tư tưởng kì thị, chia rẽ dân tộc, tôn giáo, dân tộc hẹp hòi, cực đoan hoặc mặc cảm dân tộc, tôn giáo.

Bốn là, chủ động nắm chắc tình hình từ sớm, từ xa; ngay từ trung tâm của các tổ chức phản động lưu vong; tập trung đánh giá, dự báo sát tình hình biến động của cục diện thế giới, khu vực; sự điều chỉnh chiến lược, chính sách các nước lớn... để kịp thời phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, hoạt động đòi ly khai, tự trị dân tộc của các thế lực thù địch chống phá nước ta. Giải quyết triệt để, kịp thời các “điểm nóng”, các mâu thuẫn, khiếu kiện trong đồng bào DTTS ngay từ cơ sở, không để kéo dài, không lây lan, vượt cấp. Thường xuyên chăm lo bồi dưỡng, nâng cao phẩm chất đạo đức và năng lực chuyên môn gắn với chế độ đãi ngộ hợp lý cho đội ngũ cán bộ chuyên trách về công tác dân tộc, tôn giáo ở địa phương.  

Năm là, tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền chính sách, thành tựu đã đạt được trong việc bảo đảm quyền con người ở Việt Nam, trong đó có các quyền của đồng bào DTTS. Kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền đối nội và tuyên truyền đối ngoại; tận dụng thế mạnh của các kênh ngoại giao, đối thoại, hợp tác làm cho cộng đồng quốc tế, kiều bào ta ở nước ngoài hiểu đúng quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và thành tựu đã đạt được trong thực hiện chính sách dân tộc, tôn giáo, bảo đảm quyền của đồng bào DTTS ở nước ta. Qua đó, nhằm tranh thủ sự ủng hộ của các quốc gia, các chính khách quốc tế và cộng đồng người Việt ở nước ngoài đối với nước ta.

  LÃ VỌNG          

Cần loại bỏ tư duy “cuốc vào” trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

Thứ năm, 21/07/2022 - 06:12

Xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật là nhiệm vụ có tính rường cột trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Muốn xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có chất lượng, vừa phù hợp với thực tiễn, vừa theo kịp xu hướng phát triển của thực tiễn đòi hỏi các cơ quan, tổ chức, cá nhân được giao nhiệm vụ soạn thảo, dự thảo văn bản đó phải có trách nhiệm cao, có kiến thức chuyên môn sâu về lĩnh vực mình được giao soạn thảo.

Đặc biệt là các tổ chức, cá nhân khi tham gia vào quy trình soạn thảo phải luôn công tâm, minh bạch, tuyệt đối không được đan cài lợi ích của ngành mình, tổ chức mình vào trong văn bản quy phạm pháp luật thì mới làm cho văn bản quy phạm pháp luật đạt được tính cách mạng và khoa học.

Thực tiễn cho thấy, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của mỗi quốc gia. Quốc gia nào có hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đầy đủ, chính xác, khoa học, toàn diện thì quốc gia đó sẽ có nhiều thuận lợi trong quản lý xã hội, điều chỉnh hành vi của con người, tạo ra nhiều cơ hội cho sự phát triển.

Đối với nước ta, là nước đang trong quá trình phát triển, còn nhiều lĩnh vực mới, vấn đề, hiện tượng mới nảy sinh cần phải được điều chỉnh bằng luật pháp, do đó công tác xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật càng phải được tiến hành khẩn trương, nhưng phải chặt chẽ, khoa học. Việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật phải bảo đảm đúng với thẩm quyền, hình thức, quy trình, thủ tục theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Cần loại bỏ tư duy “cuốc vào” trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật
 Ảnh minh họa: baochinhphu.vn

Trong những năm gần đây, công tác ban hành các văn bản quy phạm pháp luật đã được Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo sát sao tới mức quyết liệt để nhằm tháo gỡ những vướng mắc, làm giảm, tiến tới chấm dứt việc nợ đọng văn bản quy phạm pháp luật.

Các bộ, ban, ngành Trung ương, các UBND, sở, ban, ngành các địa phương được giao nhiệm vụ soạn thảo dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật, nhất là các văn bản luật, dưới luật cũng đã có những cố gắng, bảo đảm cho các văn bản pháp luật sau khi dự thảo có nội dung, hình thức sát với yêu cầu thực tiễn, đúng với quy định của luật, sát với sự chỉ đạo của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ.

Chỉ tính riêng trong 6 tháng đầu năm 2022, các bộ, ngành đã xây dựng, trình ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền 255 văn bản quy phạm pháp luật. Các địa phương ban hành hơn 1.500 văn bản quy phạm pháp luật cấp tỉnh, hơn 1.300 văn bản quy phạm pháp luật cấp huyện và 478 văn bản quy phạm pháp luật cấp xã. Hầu hết các văn bản quy phạm pháp luật sau khi được cấp có thẩm quyền thông qua và ban hành đã phát huy được tác dụng trong quản lý xã hội, điều chỉnh hành vi của các tổ chức, cá nhân.   

Tuy nhiên trong quá trình soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật cũng còn một số cơ quan, tổ chức, cá nhân chưa thấm nhuần tư tưởng công minh, chính trực, tính phổ thông, do đó đã xuất hiện các dự thảo văn bản luật, dưới luật mang hơi hướng lợi ích cục bộ theo kiểu “cuốc giật vào lòng” đối với một số tổ chức, cá nhân, nhất là đối với các cơ quan, bộ, ngành được giao trực tiếp đảm nhiệm dự thảo văn bản luật; hoặc soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật với các điều khoản nội dung không rõ ràng, gây ra sự lúng túng trong áp dụng, vận dụng.

Thực tế này đã diễn ra, bằng chứng là có khá nhiều văn bản luật khi trình ra Quốc hội đã bị các đại biểu bỏ phiếu không tán thành, buộc cơ quan chủ quản và các cơ quan liên quan phải chuẩn bị lại. Những văn bản quy phạm pháp luật này thường có nội dung trùng lặp, chồng chéo giữa chức năng, nhiệm vụ của cơ quan này với cơ quan khác, giữa ngành, lực lượng này với ngành, lực lượng khác đã được luật hóa; hoặc là chồng chéo về mặt nội dung giữa các văn bản luật.

Cũng có những tổ chức, cá nhân khi được giao soạn thảo dự thảo văn bản luật đã cố tình làm cho quyền của ngành mình, cơ quan mình “phình ra” trong một số điều, khoản, mục của luật, hoặc văn bản dưới luật. Nếu như các cơ quan, tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ giám sát, góp ý vào văn bản luật vì những lý do nào đó mà bỏ qua, thì sau khi văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực thi hành sẽ gây cản trở trong quá trình thực thi pháp luật và gây phiền nhiễu đối với các đối tượng được điều chỉnh trong luật.

Hệ lụy thứ nhất của việc soạn thảo và ban hành những văn bản pháp luật “có sạn” là sẽ tạo ra một hệ thống văn bản pháp luật không phù hợp với thực tiễn, hoặc là có luật cũng như không, dẫn đến hiện tượng mất công bằng trong xã hội. Xuất phát từ sự “có thể co giãn” của văn bản luật mà cơ quan nắm quyền thực thi pháp luật có thể vận dụng tùy tiện, có lợi cho người này, tổ chức này, hoặc ngược lại, lâu dần dẫn đến mất niềm tin của nhân dân vào luật pháp và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai là văn bản luật nếu có những "lỗ hổng" sẽ đẻ ra sự nhũng nhiễu, cửa quyền của cơ quan, tổ chức, cá nhân thực thi pháp luật và cũng là chỗ để một số đối tượng lợi dụng “lách luật” hòng trục lợi hoặc làm những điều phi pháp.

Thứ ba là việc chuẩn bị các văn bản quy phạm pháp luật thiếu chuẩn mực, lợi ích cục bộ sẽ làm mất đi tính khoa học của văn bản luật, thể hiện tư duy lạc hậu, trình độ, nhận thức hạn chế của cơ quan, tổ chức, cá nhân đảm nhiệm soạn thảo, xa hơn là các văn bản này sẽ làm chậm tiến độ ban hành văn bản pháp luật, làm cho một số hành vi, lĩnh vực nảy sinh trong thực tiễn chậm được luật hóa, dẫn đến kéo lùi sự phát triển của xã hội.

Khắc phục các văn bản quy phạm pháp luật có “lỗ hổng”; khắc phục tư duy “cuốc giật vào lòng”, mưu mô lợi ích cục bộ trong việc xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật là việc cấp thiết phải thực hiện rốt ráo và triệt để. Trước hết, các cơ quan chức năng phải thường xuyên rà soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm cho các văn bản này có sự thống nhất về nội dung, không chồng chéo về lĩnh vực, vấn đề cần điều chỉnh trong văn bản luật. Khi phát hiện các “lỗ hổng”, các dấu hiệu trục lợi của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong văn bản luật thì kiên quyết kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, kể cả văn bản luật mới có hiệu lực thi hành.

Về vấn đề này, trong hội nghị sơ kết công tác 6 tháng đầu năm 2022, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Lê Thành Long cho rằng: “Cần phải đẩy mạnh kiểm tra, rà soát văn bản vừa toàn diện, vừa có trọng tâm, trọng điểm. Các cơ quan chức năng phải đôn đốc, bảo đảm kết luận kiểm tra được thực hiện kịp thời, đúng pháp luật; chú trọng xử lý kết quả rà soát các quy định pháp luật mâu thuẫn, chồng chéo, không phù hợp với thực tiễn...”.

Việc đào tạo, xây dựng đội ngũ chuyên gia cao cấp về soạn thảo dự thảo văn bản luật là việc cấp thiết nên cần phải được tiến hành chặt chẽ. Đội ngũ chuyên gia này có thể là các luật sư, hoặc các cán bộ tư pháp có kinh nghiệm, có trình độ cao về các chuyên ngành, lĩnh vực và am hiểu sâu sắc về luật pháp.

Về mặt vĩ mô thì cần phải nâng tỷ lệ đại biểu chuyên trách của Quốc hội, bảo đảm cho mỗi đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thực sự là một chuyên gia của đất nước về một lĩnh vực nào đó và họ chính là những người thẩm định, giúp Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua các văn bản quy phạm pháp luật một cách chính xác, khoa học.

Đối với các loại văn bản dưới luật, thì trước khi soạn thảo cần phải rà soát, xây dựng đội ngũ soạn thảo dự thảo sao cho minh bạch và phải thực sự vì công việc, “dĩ công vi thượng”. Tuyệt đối không vì có tình cảm với người này, người kia mà đưa họ vào ban soạn thảo, như vậy dễ dẫn đến những lệch lạc trong khâu soạn thảo.

Việc thông qua các văn bản này phải được thẩm định kỹ càng thông qua các hội đồng được lập ra bởi những người có trách nhiệm, bảo đảm thực hiện đúng quy trình, không làm ngang, làm tắt. Hiện nay có khá nhiều cơ quan, đơn vị không tổ chức các cuộc họp hội đồng thông qua các văn bản quy phạm pháp luật nên đã “xin ý kiến” bằng văn bản đối với từng cá nhân. Vì thế việc góp ý đôi khi cũng không chặt chẽ, dẫn đến việc góp ý chất lượng không cao làm ảnh hưởng đến chất lượng văn bản.  

Văn bản quy phạm pháp luật chuẩn mực, khoa học, cách mạng sẽ là cơ sở để xây dựng một xã hội phát triển, tiến bộ. Ở đó, các đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của văn bản quy phạm pháp luật đều có quyền lợi, nghĩa vụ như nhau.

Văn bản quy phạm pháp luật càng toàn diện, chặt chẽ, minh bạch thì càng hạn chế được sự nhũng nhiễu, ngăn chặn hiện tượng tiêu cực của những người thực thi công vụ, đồng thời thể hiện được tính ưu việt của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Vì vậy, mỗi người khi được giao nhiệm vụ cần phải nêu cao tinh thần “dĩ công vi thượng”, loại bỏ hoàn toàn tư duy, lợi ích cục bộ, thực hiện nhiệm vụ soạn thảo dự thảo văn bản quy phạm pháp luật một cách công minh, chính trực, vì nhân dân, vì sự phát triển của đất nước. Tất cả thành viên trong bộ phận tham gia soạn thảo đều nêu cao tinh thần ấy thì chắc chắn hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của nước ta sẽ đạt được tính khoa học, phát triển và thực sự có lợi cho quốc gia, dân tộc. 

TRẦN VŨ

Chủ động phòng, chống quan điểm sai trái, thù địch, góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa

Thứ hai, 18/07/2022 - 06:22

Bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy là quan điểm xuyên suốt của Đảng ta.

Nghị quyết Đại hội XII của Đảng xác định: “Có kế sách ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm và triệt để triệt tiêu các nhân tố bất lợi, nhất là các nhân tố bên trong có thể gây ra đột biến”. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục bổ sung, phát triển thành: “Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những yếu tố bất lợi, nhất là những yếu tố nguy cơ gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch”.

1. Quan điểm BVTQ từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy là hoàn toàn đúng đắn, xuất phát từ bài học kinh nghiệm được đúc kết từ lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, đồng thời thể hiện bước phát triển quan trọng từ thực tiễn và lý luận của Đảng về quốc phòng, an ninh (QPAN), đối tác, đối tượng, về BVTQ trong tình hình mới.

Từ xưa đến nay, đất nước ta đã áp dụng nhiều biện pháp, như: Tích cực hoạt động bang giao, giữ hòa khí với các nước láng giềng, tránh chiến tranh khi còn có thể; chăm lo xây dựng, củng cố lực lượng quân đội, tiềm lực quốc gia; giữ vững biên giới; thực hiện kế sách khoan thư sức dân... Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Bất kỳ hòa bình hoặc chiến tranh, Việt Nam cũng phải nắm vững chủ động, phải thấy trước, chuẩn bị trước”.

Thực tế cho thấy, BVTQ từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy là tư tưởng chỉ đạo, hành động xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Kế sách này được vận dụng sáng tạo, linh hoạt thông qua việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân và "thế trận lòng dân"; thực hiện tốt chủ trương kết hợp chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với QPAN trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội... Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động không ngừng chống phá kế sách BVTQ từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Vì vậy, Đảng, Nhà nước ta đã đề ra nhiều giải pháp để đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn chống phá này. Đặc biệt, ngày 22-10-2018 Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Tiếp đó, ngày 4-6-2019, Ban Bí thư ban hành Kết luận số 53-KL/TW về việc chỉ đạo đấu tranh ngăn chặn, xử lý, gỡ bỏ, triệt phá tin giả, thông tin sai sự thật, xấu độc trên internet, mạng xã hội. Hai văn bản này tạo khuôn khổ phối hợp đồng bộ, có hiệu quả giữa các cơ quan làm nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, nhất là trên không gian mạng.

Chủ động phòng, chống quan điểm sai trái, thù địch, góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa
Ảnh minh họa / qdnd.vn 

2. Việc đặt ra yêu cầu chủ động đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, góp phần BVTQ từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy xuất phát từ đánh giá, nhận định thấu đáo của Đảng ta về tình hình trong nước, những diễn biến mới và thay đổi nhanh chóng trên thế giới; phương thức, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch.

Về tình hình trong nước. Tuy đất nước đã đạt được nhiều thành tựu to lớn mà không ai có thể phủ nhận, như Đảng ta đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”; song vẫn còn tồn tại những hạn chế, khiếm khuyết, như: Sự phân hóa giàu nghèo, khoảng cách chênh lệch về sự phát triển giữa các vùng miền, vẫn còn nhiều vụ việc tham nhũng, tiêu cực... Các thế lực thù địch, phản động luôn tận dụng những hạn chế, khuyết điểm này để suy diễn, xuyên tạc, thổi phồng hòng chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, quyết liệt chống phá Đảng, Nhà nước ta.

Về những diễn biến mới và thay đổi nhanh chóng trên thế giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, thay đổi rất mau lẹ, khó đoán định với nhiều xu hướng đáng quan ngại nổi lên (như chủ nghĩa dân tộc cực đoan, khủng bố quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia, trào lưu dân túy, sự gia tăng của chủ nghĩa bảo hộ...) đặt ra hàng loạt thách thức đối với các quốc gia. Không gian lựa chọn chiến lược của Việt Nam bị thu hẹp dưới tác động của thay đổi địa chính trị quốc tế, cạnh tranh chiến lược ngày càng gay gắt giữa các nước lớn. Bối cảnh mới đòi hỏi Việt Nam phải duy trì thế cân bằng chiến lược trong quan hệ với các nước để tránh đối đầu, trở thành nạn nhân của xung đột vũ trang và chiến tranh.

Đặc biệt, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tạo ra một không gian chiến lược mới-“không gian mạng”. Đây là môi trường chủ yếu, không thể thiếu trong triển khai các chiến lược, quan hệ đối ngoại, củng cố, duy trì hoạt động kinh tế-xã hội của các quốc gia, đưa tới những chuyển biến sâu sắc về mọi mặt, trong đó có những phương tiện và phương thức bảo đảm QPAN, BVTQ, tạo ra những thách thức mới...

Trong thế giới phẳng hiện nay, người dân được tiếp cận thông tin rất nhanh và phong phú, đa chiều, cả mặt thuận và mặt trái, trong đó nhiều thông tin không được kiểm chứng. Những thông tin xuyên tạc, bịa đặt, bóp méo trên không gian mạng tác động rất lớn đến tư tưởng, tình cảm của nhân dân và sự nghiệp QPAN, BVTQ.

Phương thức, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch không ngừng thay đổi, ngày càng tinh vi, xảo quyệt, đặc biệt là tận dụng thành tựu khoa học, công nghệ để tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ ta. Không gian mạng đã được chúng tận dụng triệt để với quy mô, mức độ, đối tượng rộng khắp và rất khó kiểm soát. Các thế lực thù địch, phản động, đối tượng chống đối chủ yếu sử dụng mạng xã hội để tung tin xấu độc, tán phát tài liệu, quan điểm sai trái nhằm tuyên truyền, phá hoại nền tảng tư tưởng, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, từng bước thực hiện âm mưu thay đổi chế độ chính trị nước ta. Theo báo cáo của Bộ Công an, chỉ riêng năm 2020 đã phát hiện hơn 3.000 trang mạng có nội dung xấu độc, đăng tải hơn 800.000 bài viết, video clip có nội dung chống phá, hòng làm lung lay niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, Nhà nước.

Đặc biệt, các thế lực thù địch, phản động cố tình tung nhiều thông tin không có lợi cho chính sách BVTQ từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy của Đảng, Nhà nước ta. Ví như chúng thường lợi dụng những sự việc trên Biển Đông để bóp méo, bịa đặt, xuyên tạc quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo; kích động chiến tranh và gây chia rẽ, bất ổn trong nước; đòi hỏi Đảng, Nhà nước ta phải xem xét lại chính sách đối ngoại theo hướng tẩy chay nước này, dựa vào nước khác... Đây là những luận điệu phản động rất nguy hiểm, cố tình phá hoại chính sách đối ngoại, quốc phòng của Việt Nam theo nguyên tắc vừa đạt được mục tiêu BVTQ vừa giữ được môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.

3. Dự báo, hoạt động chống phá của các đối tượng phản động, chống đối sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp, khó kiểm soát hơn trong thời gian tới. Vì vậy, để chủ động đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, gây tổn hại tới chính sách BVTQ từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy của Đảng, Nhà nước và toàn dân, toàn quân ta; đồng thời góp phần thực hiện thắng lợi đường lối BVTQ từ sớm, từ xa, cần thực hiện tốt một số nội dung sau:

Một là, các cơ quan nghiên cứu lý luận, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cần chủ động hơn nữa trong công tác nghiên cứu chiến lược, nắm chắc tình hình, diễn biến trong và ngoài nước, cụ thể như: Các xu hướng vận động của thế giới và khu vực, nhất là khu vực ASEAN, Biển Đông; phân tích kỹ những cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn; những diễn biến trên thế giới để chỉ rõ những tác động đối với sự nghiệp xây dựng và BVTQ... Trên cơ sở đó, chuẩn bị các luận cứ khoa học phục vụ nhiệm vụ đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái; hoàn thiện chiến lược BVTQ, nhất là kế sách chủ động BVTQ từ trong thời bình; tập trung phát triển, hoàn thiện lý luận BVTQ từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy trong tình hình mới.

Hai là, tăng cường thông tin, tuyên truyền để đạt được thống nhất cao trong cán bộ, đảng viên và nhân dân về chủ trương BVTQ từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy. Để thực hiện được điều này, Ban Tuyên giáo Trung ương và các cấp, ngành cần thường xuyên cập nhật kiến thức về BVTQ trong tình hình mới; xây dựng đội ngũ tuyên truyền viên và cập nhật thường xuyên tài liệu tuyên truyền công khai về các vấn đề dư luận trong nước và quốc tế quan tâm theo hướng dễ đọc, dễ hiểu... để nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền.

Ba là, thường xuyên quan tâm nghiên cứu, nắm thật chắc tình hình tư tưởng, các xu hướng xã hội, đặc biệt là những vấn đề, sự kiện nhân dân quan tâm để kịp thời thông tin, định hướng dư luận có nhận thức đúng; không để các thế lực thù địch, phản động lợi dụng "khoảng trống thông tin" để xuyên tạc, kích động; tránh để người dân vì tò mò mà tìm cách tiếp cận thông tin xấu độc, thiếu kiểm chứng... Thực tế cho thấy, đây là việc hết sức quan trọng, bảo đảm giữ vững niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng; phòng, chống tư tưởng, tâm lý dao động, mất lòng tin trong nhân dân và dẫn tới “tự diễn biến”, suy thoái về tư tưởng chính trị trong một bộ phận cán bộ, đảng viên có lập trường tư tưởng không vững vàng.

Bốn là, tăng cường công tác tuyên truyền, thông tin đối ngoại; chủ động cung cấp thông tin chính thống, đầy đủ cho các đối tác, cơ quan đại diện nước ngoài tại Việt Nam để họ hiểu đúng, hiểu toàn diện, tránh cách nhìn phiến diện, thiên lệch về tình hình tại Việt Nam; không để các đối tượng phản động, chống đối lợi dụng cung cấp thông tin một chiều, không đúng thực tế, gây bất lợi cho Đảng, Nhà nước ta, nhất là trong thực hiện kế sách BVTQ từ sớm, từ xa.

Năm là, luôn theo dõi sát, nắm bắt kịp thời các dạng quan điểm sai trái và những hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị nhằm chủ động trong đấu tranh, ngăn chặn hiệu quả. Đồng thời, cần đổi mới phương thức đấu tranh trên các mặt pháp lý, truyền thông, tuyên truyền, đặc biệt là về mặt kỹ thuật. Lực lượng chuyên trách các cấp cần đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ để kịp thời phát hiện, ngăn chặn thông tin sai trái, tội phạm mạng...; tăng cường số lượng, chất lượng thông tin tích cực để đẩy lùi thông tin xấu độc.

Sáu là, chủ động phát hiện sớm và xử lý kịp thời những vụ việc phức tạp, nổi cộm phát sinh, những vấn đề bức xúc trong xã hội; không để các thế lực thù địch lợi dụng để tuyên truyền chống phá, không để các vụ việc phức tạp kéo dài, phát triển ngoài tầm kiểm soát, gây ra tâm lý hoài nghi, giảm lòng tin trong quần chúng nhân dân đối với các cấp chính quyền và Đảng, Nhà nước ta.

TS LỤC ANH TUẤN, Thư ký khoa học chuyên trách, Hội đồng Lý luận Trung ương

Bài 4: Sứ mệnh tiên phong của những tài năng lớn (tiếp theo và hết)

Chủ nhật, 17/07/2022 - 07:47

Nói đến người nổi tiếng (NNT) là nói đến tài năng. Những tài năng lớn của thời đại đồng thời là những nhân cách lớn. Để xây dựng đất nước hùng cường, không thể thiếu vai trò của nhân tài.

Để bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, làm thất bại mọi âm mưu, chiến lược chống phá của các thế lực thù địch, không thể thiếu vai trò của những tài năng lớn. Phấn đấu có nhiều tài năng lớn trong đội ngũ NNT vừa là mục tiêu, vừa là giải pháp, được Đảng ta đặc biệt quan tâm...

Phấn đấu có nhiều tài năng lớn

Như các bài trước đã đề cập, chưa bao giờ đất nước ta có lực lượng NNT đông đảo như hiện nay. Đơn cử trong lĩnh vực văn học, hiện cả nước có hơn 1.000 nhà văn là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Bên cạnh đó là một lực lượng sáng tác đông đảo thuộc hội văn học-nghệ thuật các địa phương và một số lượng lớn người sáng tác tự do. Trong số đó có nhiều cây bút nổi tiếng, có ảnh hưởng lớn đến đông đảo công chúng. Hằng năm, số đầu sách về lĩnh vực văn hóa, tư tưởng, văn học xuất bản ra thị trường lên đến con số hàng nghìn. Số lượng tác giả, tác phẩm rất nhiều, nhưng lại hiếm tác phẩm đỉnh cao. Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021 của Đảng đã đánh giá: “Thiếu những tác phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật lớn, tầm cỡ, phản ánh được tầm vóc của sự nghiệp đổi mới, có tác dụng tích cực đối với việc xây dựng đất nước, xây dựng con người...”.

Chúng ta đều biết, việc đánh giá tài năng, công trạng của tác giả phải thông qua tác phẩm, công trình sáng tạo. Thiếu vắng những tác phẩm tầm cỡ thời đại, đồng nghĩa chúng ta đang thiếu những tài năng lớn. Đó có thể là những nhân tố chưa xuất hiện, có thể là những tiềm năng chưa được khai mở, phát huy. Để có tác phẩm lớn, phải bắt nguồn từ chăm lo xây dựng, bồi dưỡng để đất nước xuất hiện những tài năng lớn. Với phương châm lấy xây để chống, công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đòi hỏi phải có những tác phẩm đỉnh cao trong môi trường văn hóa, văn học, nghệ thuật để thực hiện sứ mệnh định hướng tư tưởng, định hướng thẩm mỹ, bồi đắp lý tưởng của Đảng cho công chúng.

Bài 4: Sứ mệnh tiên phong của những tài năng lớn (tiếp theo và hết)
 Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021. Ảnh:TTXVN.

Nhận thức sâu sắc tầm quan trọng của tác giả, tác phẩm mang tầm thời đại, Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021 của Đảng đặt mục tiêu, giải pháp rất cụ thể: “Đổi mới chính sách đãi ngộ, sử dụng đối với văn nghệ sĩ và những người làm công tác văn hóa. Tôn vinh tài năng và cống hiến của họ cho sự phát triển văn hóa nước nhà”... “Phấn đấu có nhiều tài năng lớn ở các loại hình văn hóa, nghệ thuật, có những tác phẩm tầm cỡ, phản ánh được sâu sắc hiện thực đổi mới vĩ đại của đất nước, có ý nghĩa tích cực trong việc xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam hiện nay...”. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh giải pháp: “Chú trọng hơn giáo dục đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo và các giá trị cốt lõi, nhất là giáo dục tinh thần yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc tốt đẹp của người Việt Nam; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa...”.

Như vậy, để có nhiều tài năng lớn, không thể trông chờ vào quy luật vận động của thị trường, mà phải có chiến lược ươm mầm, đào tạo, bồi dưỡng một cách bài bản, khoa học. Tài năng lớn chỉ có thể xuất hiện ở một nhân cách lớn, đó là người được giáo dục chu đáo về đạo đức, nhân cách, năng lực sáng tạo, là người sở hữu nguồn năng lượng nội sinh được chưng cất, thăng hoa từ tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc và truyền thống của tiên tổ, ông cha. Tài năng lớn là sứ giả của văn hóa dân tộc, giữ sứ mệnh tiên phong ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong đội ngũ NNT và đời sống xã hội; củng cố, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới...

Xứng đáng với niềm tin, kỳ vọng của Đảng và nhân dân

Chính sách ưu đãi, trọng dụng nhân tài của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế đã sản sinh ra những tài năng lớn trên lĩnh vực kinh tế, khoa học, kỹ thuật, công nghệ... Sự góp mặt của những doanh nhân, nhà khoa học có tầm ảnh hưởng quốc tế sâu rộng góp phần giúp nền kinh tế đất nước khởi sắc, đóng góp to lớn cho an sinh xã hội, giải quyết việc làm cho người lao động.

Quan điểm của Đảng ta rất rõ ràng, đó là đặt văn hóa ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội trong tiến trình xây dựng, phát triển đất nước hùng cường. Vì vậy, để lĩnh vực văn hóa, tư tưởng có nhiều tài năng lớn, giữ vai trò tiên phong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chính sách trọng dụng, thu hút nhân tài của Đảng trong lĩnh vực này cần được cụ thể hóa, đi vào cuộc sống ngay từ cơ sở.

Nhìn lại lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, kiến thiết xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta thấy trong mọi giai đoạn lịch sử, Đảng và Bác Hồ đều rất quan tâm, chăm lo thu hút, trọng dụng nhân tài. Nhờ đó, trong những giai đoạn khó khăn nhất, đất nước vẫn có một đội ngũ tài năng lớn. Sự đóng góp của họ đã tạo sức mạnh đột biến, đột phá, góp phần giúp chúng ta giành chiến thắng trên các chiến trường, trên các mặt trận, trong đó mặt trận tư tưởng chính trị, văn hóa giữ vai trò là nền tảng.

Những tài năng lớn được sử sách lưu danh, dân tộc tôn vinh như: Tố Hữu, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính, Nam Cao, Nguyễn Minh Châu, Văn Cao, Thanh Tịnh... không chỉ là những văn nghệ sĩ nổi tiếng mà tác phẩm của họ còn mang thông điệp, tư tưởng thời đại, có ảnh hưởng sâu sắc đến thế giới quan, ý thức hệ của các tầng lớp nhân dân. Đáng chú ý là, trong số nhiều tài năng lớn, có những người từng dao động, ngả nghiêng về tư tưởng, nhưng khi thay đổi ý thức hệ, họ đã một lòng một dạ đi theo Đảng phục vụ kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

Năm 1947, trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống Pháp bước vào thời kỳ cam go, quyết liệt, để giúp đất nước và lực lượng kháng chiến có được những tài năng lớn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm nổi tiếng “Sửa đổi lối làm việc”. Người nghiêm khắc chấn chỉnh tư tưởng, nhận thức lệch lạc, cực đoan trong thu hút, trọng dụng nhân tài. Người viết: “Rất nhiều nhân tài ngoài Đảng. Chúng ta phải thật thà đoàn kết với họ, nâng đỡ họ. Phải thân thiết với họ, gần gũi họ, đem tài năng của họ giúp ích vào công cuộc kháng chiến cứu nước. Chúng ta phải tẩy sạch các bệnh kiêu ngạo, bệnh hẹp hòi, bệnh bao biện”. Học tập, vận dụng phong cách “Sửa đổi lối làm việc” của Bác, trong thời kỳ đất nước đẩy mạnh hội nhập quốc tế, nhất là từ những nhiệm kỳ đại hội gần đây, với chủ trương hòa hợp dân tộc, Đảng ta ngày càng coi trọng thu hút nhân tài trong cộng đồng kiều bào. Chỉ tính riêng trong nghệ thuật điện ảnh, nhiều nghệ sĩ Việt kiều trở về nước hoạt động sáng tạo góp phần giúp nghệ thuật thứ bảy khởi sắc, có một số tác phẩm điện ảnh vươn tầm quốc tế. Đó là những tín hiệu đáng mừng.

Tài năng trong lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, văn học, nghệ thuật của người Việt Nam không thiếu. Nhưng để có những tài năng lớn, từ đó cho ra đời những tác phẩm mang tầm thời đại, phản ánh sinh động, xứng tầm vóc công cuộc đổi mới vĩ đại của đất nước trong hơn 35 năm qua, đòi hỏi những tài năng ấy phải có một tầm văn hóa, tầm tư tưởng, tầm nhân cách lớn.

Muốn có điều đó, phải bắt đầu từ công tác giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng. Đẩy mạnh việc giáo dục, đào tạo, trang bị lý luận chính trị vững chắc, bồi dưỡng truyền thống văn hóa dân tộc, tinh thần yêu nước cho đội ngũ NNT là một trong những vấn đề ưu tiên cần làm hiện nay. Đảng ta xác định: "Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” trong toàn dân, thì tinh thần ấy, ý chí ấy, khát vọng ấy cần được thổi bùng lên thành nhu cầu tự thân và khát vọng của những NNT. Tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị chủ quản; các tổ chức hội, đoàn, hiệp hội... các cấp với vai trò quản lý, “bà đỡ” của NNT, cần cụ thể hóa chủ trương của Đảng, xác định rõ phương hướng, kế hoạch, chương trình hành động sát thực, phát hiện, bồi dưỡng, thu hút, trọng dụng tài năng, đón đợi sự xuất hiện của nhiều tài năng lớn.

Với tinh thần lấy xây để chống, khi NNT ý thức rõ trách nhiệm xã hội, khi tài năng lớn là ngọn cờ tiên phong, chúng ta sẽ củng cố vững chắc ý thức hệ của Đảng trong đội ngũ NNT, tạo bức tường thành tư tưởng chính trị vững chắc, ngăn chặn suy thoái, phòng chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.

THANH KIM TÙNG

Bài 3: Chiến sĩ trên mặt trận mới

Thứ bảy, 16/07/2022 - 06:00

Cách đây hơn 70 năm, vào ngày 5-1-1952, trong bối cảnh toàn dân tộc đang thực hiện đường lối kháng chiến “toàn dân, toàn diện” chống thực dân Pháp, Bác Hồ đã gửi thư cho các họa sĩ, nhắn gửi đến toàn thể văn nghệ sĩ, người nổi tiếng (NNT).

Người căn dặn: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Bảy thập kỷ trôi qua, lịch sử trải qua bao biến cố thăng trầm, soi rọi vào mặt trận bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay, lời dạy của Người vẫn nóng hổi tính thời sự...

Không bàng quan, đứng ngoài cuộc

Trong giai đoạn hiện nay, văn hóa nghệ thuật là lĩnh vực có số lượng NNT nhiều nhất. Chỉ tính riêng các loại hình nghệ thuật, đến nay đã có hơn 450 người được phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân. Bên cạnh đó là số lượng đông đảo Nghệ sĩ Ưu tú.

Giới văn nghệ sĩ, nhất là những NNT hoạt động trong môi trường nghệ thuật biểu diễn, là lực lượng có ảnh hưởng xã hội rất rộng rãi. Đây cũng chính là môi trường nhạy cảm, văn nghệ sĩ dễ bị tác động, ảnh hưởng bởi các trào lưu, xu hướng nghệ thuật của các nền văn hóa trên thế giới.

Bài 3: Chiến sĩ trên mặt trận mới
 Ảnh minh họa: qdnd.vn

Trong bối cảnh hội nhập, giao thoa văn hóa, các thế lực thù địch, lực lượng chống phá đất nước luôn tìm mọi cách tác động, lôi kéo NNT bằng những phương thức, thủ đoạn rất tinh vi. Kể từ khi đất nước đổi mới (năm 1986), đặc biệt, trong hai thập niên đầu thế kỷ 21, đã có nhiều nghệ sĩ nổi tiếng sa chân vào con đường lầm lỗi, đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc.

Khi tài năng đang vào độ chín, là những ngôi sao sáng trên màn ảnh, sân khấu, là thần tượng của đông đảo giới trẻ, họ trở thành mục tiêu tấn công, lôi kéo của các thế lực thù địch. Vì non kém bản lĩnh, nhận thức hạn chế, lại bị vầng hào quang ảo do các thế lực dựng lên mê hoặc, những nghệ sĩ này đã dao động, ngả nghiêng, trở thành công cụ cho các thế lực thù địch lợi dụng phát ngôn, xuyên tạc lịch sử, đi ngược lại lý tưởng của Đảng và nhân dân ta. Những biểu hiện ấy chính là sự suy thoái tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận NNT.

Với chính sách nhân đạo, nhân văn và chủ trương hòa hợp dân tộc, Đảng, Nhà nước ta đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để những nghệ sĩ, trong đó có nhiều NNT ở hải ngoại trở về quê hương hoạt động nghệ thuật. Ngay cả những người từng mắc sai lầm, sau khi ăn năn, hối cải, cũng được đất nước, quê hương dang rộng vòng tay chào đón trở về.

Thị trường giải trí, môi trường biểu diễn nghệ thuật trong nước, vì thế có thêm nhiều sắc màu, phong cách đa dạng, phong phú. Tuy nhiên, bên cạnh đại đa số nghệ sĩ về nước tự giác tuân thủ các quy định của pháp luật trong nghệ thuật biểu diễn, vẫn có một số gương mặt thiếu tự giác, thiếu chuẩn mực, công khai vi phạm các quy định, gây khó khăn cho công tác quản lý của cơ quan chức năng.

Đáng nói là, các thành phần cực đoan chính trị, phản động, thế lực thù địch lại bám vào những hành vi sai trái của một số nghệ sĩ để chỉ trích cơ quan chức năng các cấp, xuyên tạc, bôi nhọ đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật Nhà nước. Kiểu tạo cớ để thực hiện các chiến dịch tuyên truyền kích động, chống phá Đảng, Nhà nước từ môi trường lao động nghề nghiệp của NNT, nhất là trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, là thủ đoạn nham hiểm của các thế lực thù địch.

Trong bối cảnh Đảng ta đang đẩy mạnh công cuộc xây dựng, chỉnh đốn, làm trong sạch nội bộ, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, việc đấu tranh phòng, chống các biểu hiện suy thoái, tiêu cực, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là một mặt trận.

Đó là cuộc đấu tranh ý thức hệ đầy cam go, phức tạp. Văn nghệ sĩ, NNT là những chiến sĩ trên mặt trận mới, đầy quyết liệt, khó khăn, thử thách. Đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh hiện nay là nhiệm vụ vẻ vang, lâu dài, quyết liệt, nhằm bảo vệ thành quả cách mạng, truyền thống ngàn đời của tiên tổ, ông cha. NNT cần thấy rõ trách nhiệm, bổn phận của mình, không bàng quan, không đứng ngoài cuộc. Tại Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021,

Đảng ta đã xác định: Chủ thể xây dựng và phát triển văn hóa là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo; đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ đóng vai trò quan trọng. Đảng ta chủ trương đề cao, phát huy vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, của những người làm công tác văn hóa; đặc biệt chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ làm công tác văn hóa, văn học, nghệ thuật...

Quan điểm này là sự cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về xây dựng đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ trong tình hình mới; là sự vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, văn học, nghệ thuật và xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao trong giai đoạn mới.

Củng cố, lan tỏa hệ giá trị của người nổi tiếng

Có thể nói, chưa bao giờ đất nước ta có một đội ngũ NNT đông đảo trên các lĩnh vực đời sống xã hội như hiện nay. Trên mặt trận bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chúng ta đang có một đội ngũ chiến sĩ hùng hậu. Đại đa số NNT đều được trang bị kiến thức lý luận chính trị, tham gia sinh hoạt, lao động sáng tạo trong các tổ chức chính trị-xã hội.

Lực lượng đông đảo, nền tảng vững vàng, vấn đề cần làm là xốc lại tinh thần, thống nhất nhận thức và hành động để mỗi NNT thực sự là một chiến sĩ, chiến đấu cho sự trường tồn của dân tộc, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.

Sinh thời, Bác Hồ đã căn dặn: “Để làm tròn nhiệm vụ cao quý của mình, văn nghệ sĩ cần phải rèn luyện đạo đức cách mạng, nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân, giữ gìn thái độ khiêm tốn; phải thật sự hòa mình với quần chúng, cố gắng học tập chính trị, trau dồi nghề nghiệp”.

Thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta đã đề ra chủ trương, phương châm, sách lược của cuộc đấu tranh này là lấy xây để chống, xây kết hợp với chống, lấy cái đẹp dẹp cái xấu. Trên hết và trước hết, đội ngũ NNT phải xốc lại tinh thần bằng rèn luyện đạo đức cách mạng, biểu hiện cao nhất là lòng trung thành với Tổ quốc, với Đảng, với nhân dân. Càng nổi tiếng càng phải khiêm tốn, hòa mình với quần chúng, tự giác học tập chính trị, trau dồi nghề nghiệp... như lời dạy của Bác.

Những yêu cầu, đòi hỏi nêu trên đối với NNT không phải là những quan điểm bây giờ mới đặt ra, mà nó được xây dựng ngay trong cương lĩnh từ ngày Đảng ra đời, được bổ sung, phát triển qua các kỳ đại hội, tương ứng với những giai đoạn lịch sử.

Ngày nay, trước sự chống phá quyết liệt, toàn diện của các thế lực thù địch, vấn đề này được đặt ra với những yêu cầu, đòi hỏi cao hơn, phù hợp với tình hình thực tế. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ hạn chế, bất cập trong lĩnh vực này, đó là: Văn hóa chưa được quan tâm tương xứng với kinh tế và chính trị, chưa thật sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước.

Vai trò của văn hóa trong xây dựng con người chưa được xác định đúng tầm, còn có chiều hướng coi trọng chức năng giải trí đơn thuần... Môi trường văn hóa, xã hội tiếp tục bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực... Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập này có vai trò của đội ngũ NNT.

Những biểu hiện lệch chuẩn, lệch hướng trong lao động sáng tạo và hành vi ứng xử của một bộ phận NNT đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa xã hội. Dù chúng ta đã triển khai nhiều giải pháp khắc phục, nhưng những hạn chế, bất cập, nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong hàng ngũ NNT vẫn chưa được ngăn chặn hữu hiệu. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Chưa có giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn, đẩy lùi sự xuống cấp nghiêm trọng về một số mặt văn hóa, đạo đức, lối sống, gây bức xúc xã hội...”.

Muốn đấu tranh có hiệu quả, làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch thì phải có những đột phá, bắt đầu từ công tác giáo dục, bồi dưỡng, củng cố các hệ giá trị cho NNT trên nền tảng đạo đức cách mạng, sức mạnh văn hóa, truyền thống dân tộc và tiếp thu tinh hoa tiến bộ của nhân loại

Đội ngũ NNT trên các lĩnh vực, trước hết là các học giả, trí thức, chuyên gia, văn nghệ sĩ nổi tiếng... cần bày tỏ chính kiến rõ ràng, lan truyền thông điệp, năng lượng tích cực cho đời sống xã hội trên cơ sở các hệ giá trị của sự nổi tiếng. Với vị thế là lực lượng tinh hoa của đất nước, với lợi thế “quyền lực mềm” đặc trưng, hệ giá trị của NNT phải là biểu hiện sinh động của hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam. 

(còn nữa)

THANH KIM TÙNG