Khát vọng Việt Nam và quá trình tạo lực để vươn mình

Thứ hai, 30/06/2025 - 05:32

Làm gì để Việt Nam vươn mình, vững vàng bước vào kỷ nguyên mới, với những cột mốc lịch sử vào năm 2030 và 2045, vừa là khát vọng của mọi công dân Việt Nam chân chính vừa là trăn trở, tâm huyết trong việc tìm cách tạo thế và lực để đất nước bứt phá, "sánh vai với các cường quốc năm châu" như mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời. Nhưng đó cũng là sự ngờ vực, ganh tị, hậm hực của một số kẻ có tư duy lệch lạc, vẫn nặng tư tưởng hằn học, thù địch...

Thời gian gần đây, trên trang Facebook Việt Tân xuất hiện không ít bài viết bày tỏ thái độ ngờ vực, quan điểm phủ nhận, nội dung xuyên tạc phương hướng, mục tiêu của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điểm qua một loạt bài viết với những luận điệu như: "Kinh tế suy trầm, tăng trưởng lên ti vi mà lấy"; "TP Hồ Chí Minh: Ăn xin cũng sắp thất nghiệp"; "Sưu cao thuế nặng nhờ ơn Đảng"; "Cứ cho dân tự do phát biểu sẽ biết ý dân là gì?"...

Khát vọng Việt Nam và quá trình tạo lực để vươn mình
 Ảnh minh họa: TTXVN

Vẫn một chiêu bài cũ, những kẻ bất mãn tìm mọi thủ đoạn để xuyên tạc chủ trương, bóp méo thực trạng làm cho một bộ phận người dân nhận thức không đúng, không đủ, chưa tin tưởng, thiếu quyết tâm thực hiện chủ trương của Đảng. Vậy sự thật là Việt Nam đã đủ lực để bứt phá hay chưa? Đảng Cộng sản Việt Nam có ảo tưởng không? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cùng nhìn lại khát vọng dân tộc và quá trình tạo lực của Đảng ta.

Khát vọng của dân tộc 

Trải qua mấy nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước, Việt Nam hết lần này tới lần khác phải chịu sự đô hộ của thực dân, phong kiến. Vì thế, hơn bất kỳ một dân tộc nào khác trên thế giới, dân tộc Việt Nam luôn khát khao có được độc lập, tự do. Bước vào thời đại Hồ Chí Minh, khát vọng đó được thổi bùng và từng bước trở thành hiện thực.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã đoàn kết đấu tranh giành lại nền độc lập, “toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Tuy nhiên, một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, và một dân tộc yếu thì khó có thể giữ được độc lập. Muốn có độc lập thật sự và bền vững, Việt Nam phải phát triển cường thịnh. Khát vọng “sánh vai với các cường quốc năm châu” đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ từ những ngày đầu lập quốc và Người tìm mọi cách để biến khát vọng đó thành hành động thiết thực của toàn dân tộc.

Khó khăn chồng chất khó khăn, ngay sau khi giành được độc lập, nhân dân ta lại phải bước vào cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, thống nhất non sông kéo dài 30 năm với sự tổn thất không thể đong đếm về nhân lực, vật lực, tài lực. Tuy nhiên, khó khăn không những không thể đè bẹp mà còn làm cho ý chí tự cường của dân tộc ngày càng mạnh mẽ. Trong diễn văn đọc tại cuộc mít tinh mừng Việt Nam đại thắng tổ chức ngày 15-5-1975, tại Hà Nội, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam, trịnh trọng tuyên bố: “Chúng ta chào mừng kỷ nguyên mới trong lịch sử 4.000 năm của dân tộc: Kỷ nguyên phát triển rực rỡ của nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh, kỷ nguyên nhân dân lao động hoàn toàn làm chủ vận mệnh của mình, đồng tâm hiệp lực xây dựng một cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho mình và cho muôn đời con cháu mai sau”.

Đại hội lần thứ XIII của Đảng đưa ra quan điểm: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”, thực chất là khẳng định lại khát vọng trở thành một đất nước hùng cường, có thể "sánh vai với các cường quốc năm châu" đã được hun đúc trong lịch sử mấy nghìn năm của dân tộc. Khát vọng ấy luôn âm ỉ cháy trong huyết quản của mỗi người con đất Việt, đây chỉ là thời điểm thích hợp nhất để thổi bùng lên khát vọng đó. Để chuẩn bị cho kỷ nguyên vươn mình hôm nay, Đảng ta đã kiên trì tạo lực lâu dài, bền bỉ và tích cực.

Quá trình tạo lực của Đảng

Thứ nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có 95 năm rèn luyện qua thực tiễn để trau dồi bản lĩnh, trí tuệ, đủ khả năng lãnh đạo cách mạng trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Cách mạng Việt Nam trước hết phải có Đảng. “Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”, suốt 95 năm qua, Đảng ta luôn nỗ lực trui rèn ý chí và bản lĩnh, năng lực và trí tuệ để có đủ phẩm chất, năng lực chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua biết bao khó khăn, thử thách. Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa (XHCN), đã nhiều lần Đảng thể hiện ý chí, bản lĩnh, trí tuệ, kiên định mục tiêu và kịp thời đưa ra các quyết sách đúng đắn, đưa cách mạng Việt Nam vượt qua những bước ngoặt mang tính quyết định.

Đó là bản lĩnh đối đầu với thù trong, giặc ngoài để dẫn dắt cách mạng vượt qua giai đoạn “ngàn cân treo sợi tóc” những ngày đầu lập quốc; bản lĩnh đối đầu với đế quốc Mỹ-quốc gia giàu có nhất thế giới và sở hữu đội quân nhà nghề với vũ khí, trang bị vô cùng hiện đại; bản lĩnh kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, khi Liên Xô và các quốc gia XHCN ở Đông Âu lần lượt sụp đổ... Đó là trí tuệ tạo lực, lập thế, chớp thời cơ phát động và lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám thành công trong chưa đầy một tháng, với sự tổn thất thấp nhất xương máu nhân dân; trí tuệ tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, cách mạng XHCN ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giai đoạn 1954-1975; trí tuệ tìm đường đổi mới, xây dựng mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN để đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng, từng bước ổn định và phát triển bền vững.

Thứ hai, Đảng đã lãnh đạo đất nước đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội, tạo thế và lực vững chắc để dân tộc bước vào kỷ nguyên vươn mình.

Bước vào thời kỳ đổi mới, kinh tế đất nước gặp phải khó khăn trầm trọng khi chúng ta mất đi sự viện trợ của Liên Xô và các nước XHCN anh em. Đảng đã khéo léo lãnh đạo đất nước thoát khỏi tình trạng bị bao vây, cấm vận. Bằng đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, Đảng đã kết hợp hài hòa nội lực với ngoại lực để phát triển kinh tế một cách ấn tượng. Tốc độ tăng trưởng GDP luôn duy trì ở mức khá cao và ổn định, trên dưới 7%/năm. 

Thời cơ đặc biệt có lợi cho Việt Nam là toàn cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Đảng ta đã sớm nhận định chính xác và chuẩn bị chu đáo để tận dụng thật tốt thời cơ này. Đường lối đối ngoại đúng đắn dần đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập sâu, đầy đủ, hiệu quả vào nền kinh tế toàn cầu, nhưng vẫn giữ được tính độc lập, tự chủ. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 190 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có 13 đối tác chiến lược toàn diện; là thành viên của 17 hiệp định thương mại tự do và được đánh giá là một trong những nền kinh tế có độ mở lớn nhất thế giới.

Đối với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, ngay khi thế giới đề cập tới cuộc cách mạng này, chúng ta đã chủ động nghiên cứu, đánh giá toàn diện tác động của cuộc cách mạng này đối với sự phát triển kinh tế-xã hội Việt Nam. Trên cơ sở đó, Đảng chỉ rõ thời cơ, thách thức và những chủ trương, giải pháp để chủ động tiếp cận Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đại hội XI của Đảng xác định 3 đột phá chiến lược, gồm: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao và xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại. Đây chính là sự chuẩn bị những điều kiện quan trọng nhất để đón đầu cuộc cách mạng này.

Với quyết tâm chính trị cao, sự chuẩn bị chu đáo, thế chủ động và thái độ hành động quyết liệt của Đảng, với khát vọng mạnh mẽ của toàn dân tộc về một đất nước phồn vinh, thịnh vượng, chúng ta hoàn toàn tự tin đặt ra mục tiêu trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030, nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.

Phát biểu tại Phiên khai mạc Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII (tháng 1-2021), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Và mới đây là khẳng định của Tổng Bí thư Tô Lâm: “Thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới là Đại hội XIV của Đảng”, đã cho thấy sự nhất quán và hoàn toàn có cơ sở lý luận, thực tiễn. Có thể coi toàn cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là “thiên thời”; bản lĩnh vững vàng của Đảng cùng những thành tựu quan trọng của gần 40 năm đổi mới là “địa lợi”; sự tin tưởng, ủng hộ của nhân dân và bạn bè quốc tế là “nhân hòa”. Hội đủ “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” cho phép Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển bứt phá. Luận điệu bàn lùi của một vài kẻ bất mãn không thể cản bước tiến của trăm triệu dân ta đang vững vàng và tràn đầy khí thế bước vào kỷ nguyên phát triển của dân tộc.

ĐINH THẾ THUẬN - NGUYỄN MẠNH HÙNG 

Cảnh giác luận điệu xuyên tạc chủ trương sáp nhập đơn vị hành chính, tinh gọn bộ máy hiện nay

Thứ Hai, 30/06/2025, 06:42

Việc sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp xã và không tổ chức cấp huyện là một bước đi chiến lược của Đảng, Nhà nước nhằm tinh gọn bộ máy, tăng hiệu quả quản lý và tạo tiền đề thúc đẩy phát triển bền vững. Chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đang được thực hiện quyết liệt, đồng bộ, nhận được sự đồng thuận, ủng cao của toàn Đảng, toàn dân. Tuy nhiên với âm mưu chống phá, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội lại liên tục đưa ra những luận điệu xuyên tạc, đả phá nhằm gây hoang mang trong dư luận xã hội.

Nhận diện những luận điệu bôi nhọ, xuyên tạc trên không gian mạng

Vừa qua, Quốc hội thông qua Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với nội dung trọng tâm sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội; các quy định tại Chương IX để thực hiện mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp. Đồng thời, Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 có quy định chuyển tiếp để bảo đảm chính quyền địa phương hoạt động thông suốt, không gián đoạn, phù hợp với lộ trình thực hiện sắp xếp, sáp nhập các đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp xã, không tổ chức cấp huyện… Đây được coi là dấu ấn lịch sử có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, khởi đầu cho cuộc cách mạng sâu sắc về thể chế, thể hiện tư duy đổi mới trong tổ chức hệ thống chính trị và quản trị quốc gia; là cơ sở hiến định cho việc thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng và Nhà nước về sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.

Tuy nhiên, đứng ngoài xu hướng trên, nhiều trang mạng của các tổ chức, cá nhân thù địch, phản động đăng tải những bài viết, ý kiến xuyên tạc, chống phá. Chúng cho rằng, sáp nhập là do “ý chí chủ quan” của cá nhân nhằm “ghi điểm, tạo dấu ấn” hoặc “triệt hạ đối thủ”; “sáp nhập một thời gian rồi sẽ tách ra vì lợi ích cá nhân”; “sáp nhập, tinh giản biên chế, tinh gọn tổ chức cũng chỉ vì lợi ích nhóm”... Chúng rêu rao, tinh gọn bộ máy đã vi phạm dân chủ, “tập trung hóa quyền lực về tay một nhóm lãnh đạo”; việc sáp nhập các đơn vị, hợp nhất bộ máy chỉ là hình thức bề ngoài, tốn kém ngân sách, tiền của của nhân dân; ngụy biện “Việt Nam không có tinh giản biên chế, tinh gọn bộ máy”…

Một số luận điệu cho rằng, việc sáp nhập làm “dân khổ hơn, xa chính quyền hơn” do phải đi xa hơn để làm thủ tục hành chính, cơ chế quản lý “hà khắc hơn”. Một số cá nhân cơ hội chính trị thổi phồng những trường hợp cán bộ tình nguyện về nghỉ hưu sớm chưa nhận được các chế độ, chính sách theo Nghị định 178 của Chính phủ hoặc những trường hợp chưa kịp bố trí công việc mới, từ đó kích động gây dư luận tiêu cực, hoài nghi về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Trong khi đó, một số đối tượng lại bôi nhọ việc hỗ trợ tài chính cho người nghỉ trước tuổi khi sáp nhập là “đốt tiền dân”! Ngoài ra, chúng lợi dụng tâm lý băn khoăn trước định hướng sáp nhập một số đơn vị cấp tỉnh, không tổ chức cấp huyện, sáp nhập một số đơn vị cấp xã; thực hiện mô hình địa phương 2 cấp và tiếp tục tinh giản biên chế để kích động tư tưởng chống đối trong nội bộ, nhất là số cán bộ bị “mất ghế” sau sáp nhập.

Các đối tượng còn tập trung kích động vào tâm lý hoài cổ, sự gắn bó với tên gọi làng xã, địa phương cũ, từ đó kích động dư luận với các luận điệu như: “sáp nhập là xóa sổ làng quê”, “xóa bỏ truyền thống tổ tiên”, “đánh mất bản sắc dân tộc”... Chúng đưa ra nhiều video, hình ảnh cảm tính, cắt dán như cổng chào bị tháo dỡ, tên làng biến mất để khiến người dân hiểu sai về bản chất chủ trương sáp nhập. Bên cạnh đó, các đối tượng lợi dụng phản biện xã hội, dưới danh nghĩa tổ chức “xã hội dân sự” lập ra các trang mạng, kênh YouTube, blog với tên gọi “trung tâm nghiên cứu”, “viện độc lập”, “chuyên gia phân tích chính sách”… để trình bày các nội dung dưới hình thức học thuật nhưng thực chất là cắt ghép thông tin, bóp méo mục tiêu của cải cách, xuyên tạc, thổi phồng hệ quả tiêu cực gây hoài nghi về hiệu quả cải cách. Chúng kích động tâm lý chống đối trong xã hội, tiến tới thực hiện hoạt động “bất tuân dân sự”. Đây vốn là biểu hiện nguy hiểm của chủ nghĩa dân túy trong kỷ nguyên truyền thông xã hội hiện nay nhằm thực hiện các âm mưu gây rối, biểu tình, tiến tới bạo loạn lật đổ chính quyền nhân dân. Hình thức này ngụy tạo “ấn tượng khách quan, khoa học” nhằm đánh lừa người đọc, nhất là giới trẻ và người thiếu các kinh nghiệm, gây hoang mang, hoài nghi trong dư luận.

Cần nhìn nhận đúng đắn về chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta

Trong mỗi giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm việc xây dựng, hoàn thiện tổ chức bộ máy phù hợp của hệ thống chính trị để xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, thực hiện, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị. Gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới đem đến cho nước ta những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, tạo thế và đà để đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Tuy nhiên, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh, kém hiệu quả, điều này đặt ra yêu cầu cấp bách thực hiện quyết liệt “cuộc cách mạng” nhằm xây dựng hệ thống chính trị thật sự tinh gọn. Tinh gọn bộ máy hệ thống chính trị là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, có ý nghĩa sống còn đối với sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới. Mục tiêu của công cuộc sắp xếp, tinh gọn bộ máy là xây dựng một hệ thống chính trị gọn nhẹ, minh bạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tránh tình trạng chồng chéo chức năng, lãng phí nguồn lực. Đây là đòi hỏi tất yếu nhằm nâng cao hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy, đáp ứng yêu cầu xây dựng một hệ thống chính trị hiện đại, minh bạch, vì sự phát triển nhanh, bền vững của Việt Nam trong kỷ nguyên mới.

Với quan điểm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá khách quan và toàn diện, có thể thấy tổ chức của hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay vẫn còn bộc lộ nhiều bất cập… Trong bài viết có tựa đề “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”, Tổng Bí thư Tô Lâm đã thẳng thắn chỉ rõ một số tồn tại, hạn chế của tổ chức bộ máy như: Việc đổi mới công tác cán bộ vẫn chưa có đột phá lớn; nhận thức và hành động của một số cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu chưa đầy đủ và sâu sắc, quyết tâm chưa cao; tổ chức bộ máy vẫn còn cồng kềnh; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn nhiều cơ quan, bộ phận còn trùng giẫm, chồng chéo; chi phí vận hành hệ thống tổ chức quá lớn, chiếm tới 70% tổng chi ngân sách thường xuyên của Nhà nước…

Nhận thức rõ vấn đề, Đảng ta, đứng đầu là Tổng Bí thư Tô Lâm đã, đang tập trung cao độ lãnh đạo thực hiện cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Một bộ máy tinh gọn, vận hành linh hoạt không chỉ giúp phát triển bền vững, mà còn tăng khả năng thích ứng với biến động toàn cầu. Việc cắt giảm thủ tục hành chính, loại bỏ điểm nghẽn trong hệ thống quản lý tạo thuận lợi hơn cho môi trường đầu tư, kinh doanh, thu hút nhiều hơn nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Tinh gọn tổ chức bộ máy không chỉ đáp ứng nhu cầu phát triển nội tại mà còn giúp Việt Nam nâng cao vị thế trên trường quốc tế. Một bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả không chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà còn nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Chính vì thế, chỉ trong thời gian ngắn, Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị như Kết luận số 121 - KL/TW, Kết luận số 126 - KL/TW, Kết luận số 127 - KL/TW, Kết luận số 128 - KL/TW, Công văn số 43 - CV/BCĐ, Nghị quyết số 60 - NQ/TW…

Việc sắp xếp các đơn vị hành chính và tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp là một bước đi đột phá nhằm khắc phục tình trạng phân tán nguồn lực, bộ máy cồng kềnh, nâng cao năng lực quản lý, điều hành và cuối cùng là mang lại những lợi ích thiết thực cho người dân. Để hiện thực hóa những chủ trương nêu trên đòi hỏi phải có sự điều chỉnh về mặt thể chế, pháp lý mà Hiến pháp chính là nền tảng vững chắc cho sự thay đổi mang tính hệ thống này. Ý nghĩa và tầm quan trọng của việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện quyết tâm chính trị mạnh mẽ, sự đồng thuận của toàn Đảng, toàn dân, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị.

Chưa bao giờ trong lịch sử hiện đại của đất nước, vấn đề tổ chức bộ máy nhà nước lại được đặt ra với quyết tâm chính trị và quy mô cải cách sâu rộng như hiện nay. Cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy lần này là sự thay đổi có tính hệ thống, toàn diện với mục tiêu cao nhất là làm cho đất nước mạnh lên, sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực và phục vụ nhân dân tốt hơn. Thông qua hội nghị các cấp, các cuộc tiếp xúc cử tri, lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta cũng thông tin kịp thời, giải đáp thắc mắc, tiếp thu kiến nghị của cử tri về công tác sắp xếp, tinh gọn bộ máy và nhận được sự đồng tình, ủng hộ, thống nhất rất cao của các tầng lớp nhân dân. Các hoạt động hội thảo, tọa đàm về chủ đề này cũng được tổ chức từ Trung ương đến địa phương. Giới chuyên gia, nhà lãnh đạo, nhà quản lý, cộng đồng doanh nghiệp, doanh nhân bày tỏ kỳ vọng lớn vào cuộc cách mạng mới của đất nước, đồng thời có nhiều hiến kế, đề xuất, kiến nghị có giá trị, sát thực tiễn nhằm góp phần thực hiện thành công chủ trương lớn của Đảng hướng đến xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy có tính ổn định lâu dài, có tầm nhìn chiến lược cho sự phát triển chung của đất nước, bảo đảm phù hợp với các yếu tố lịch sử, văn hóa, truyền thống, tôn giáo, dân tộc, quốc phòng, an ninh và gắn kết chặt chẽ với các vấn đề địa chính trị, địa lý, địa kinh tế, địa văn hóa, địa dân cư; tạo lập không gian cho sự phát triển bền vững. Hoạt động này không chỉ thu hút sự quan tâm của nhân dân trong nước mà còn thu hút sự quan tâm chú ý của truyền thông quốc tế. Nhiều chuyên gia, học giả quốc tế đã có những bài viết phân tích, đánh giá, bày tỏ tin tưởng vào quyết tâm mạnh mẽ của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong cải cách bộ máy. Trong hoạt động đối ngoại, khi tiếp xúc với nguyên thủ quốc gia và lãnh đạo cấp cao các nước, các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước ta cũng thông tin về chủ trương lớn này của Việt Nam, đồng thời nhận được sự quan tâm, tin tưởng của bạn bè quốc tế.

Vì vậy, trước những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động, người dân cần tỉnh táo, đề cao cảnh giác, không chia sẻ trên mạng xã hội thông tin xấu độc, thất thiệt, thông tin chưa được kiểm chứng, nhất là thông tin từ số đối tượng mượn danh “phản biện”, “dân chủ” để chống phá Đảng, Nhà nước, nhân dân.

Liêm Chính - Bình Nguyên 

Nhận diện thủ đoạn “đánh bùn sang ao”, chống phá chủ trương, chính sách mới của Đảng, Nhà nước

Thứ Sáu, 27/06/2025, 05:44

Chính sách công là một trong số những công cụ hữu hiệu, là thước đo sự thành công của hoạt động quản lý Nhà nước. Thời gian qua, Nhà nước ta tiếp tục ban hành nhiều chính sách mới với mục tiêu thúc đẩy phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. 

Nhận diện những thủ đoạn xuyên tạc chính sách mới của Nhà nước

Tuy nhiên, quá trình triển khai thực hiện một số quy định mới như Nghị định 168/2024/NĐ-CP (Nghị định 168), Nghị định số 70/2025/NĐ-CP (Nghị định 70), trong dư luận xã hội có những quan điểm, ý kiến chưa đồng nhất, việc triển khai bộc lộ những khó khăn về hạ tầng, kỹ thuật, về thói quen, phong tục tập quán của người dân.

Tại diễn đàn Quốc hội, quá trình thảo luận, thông qua các dự án luật (như Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu thầu; Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP); Luật Thuế giá trị gia tăng; Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt…), do có các ý kiến chưa đồng nhất dẫn đến hiện tượng một bộ phận người dân, doanh nghiệp bày tỏ sự băn khoăn, lo lắng. Lợi dụng vấn đề này, các đối tượng phản động, cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí với Việt Nam đã tìm cách “ngụy tạo chứng cứ”, “bới lông tìm vết”, ráo riết tuyên truyền theo dạng “đánh bùn sang ao”, kích động tư tưởng bất mãn, chống đối trong dư luận xã hội. 

Thực tế cho thấy, sau 6 tháng Nghị định 168 được thi hành đã bước đầu ăn nhập vào đời sống, tạo nên sức răn đe để người dân chấp hành pháp luật về giao thông kỷ cương hơn, văn minh hơn. Tương tự, Nghị định số 70 hay Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật Thuế giá trị gia tăng… sau khi ban hành đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ của dư luận bởi tính kịp thời, đúng đắn, phù hợp nhằm triển khai chính sách thuế mới, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, xử lý nạn hàng giả, hàng nhái, hàng lậu vốn là vấn đề nhức nhối.

Nhận diện thủ đoạn “đánh bùn sang ao”, chống phá chủ trương, chính sách mới của Đảng, Nhà nước -0
Ảnh minh hoạ.

Không chịu nhìn nhận sự thay đổi tích cực, tiến bộ của xã hội Việt Nam, các đối tượng xấu cố tình “bới lông tìm vết”, tái diễn chiêu trò “đánh bùn sang ao”, “lập lờ đánh lận con đen”, bóp méo sự thật, thêm thắt, cắt xén thông tin về các quy định pháp luật khiến người dân hiểu sai vấn đề, tạo ra sự lo lắng, hoang mang hoặc bức xúc, tiêu cực. Mới đây, trên trang tin của tổ chức Việt Tân tiếp tục đưa ra những thông tin xuyên tạc khi cho rằng: “Nghị định 168 cướp bóc người tham gia giao thông là một hành động “ngăn sông”, Nghị định 70 cướp bóc các tiểu thương là một hành động “cấm chợ””… Từ đó, chúng bôi nhọ, xuyên tạc về khái niệm kỷ nguyên mới với những luận điệu như “thực chất cái gọi là “kỷ nguyên mới” là chính sách ngăn sông, cấm chợ thời hiện đại!”.

Chúng còn phán xét một cách vô căn cứ rằng “Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt là hành động núp dưới danh nghĩa vì sức khỏe cộng đồng và môi trường nhưng trên thực tế, đây là một bước leo thang trong chính sách tận thu từ đời sống dân thường, khi cả việc “uống nước giải khát” hay “tránh nóng” cũng bị liệt vào hàng xa xỉ”...

Tái diễn chiêu trò “bình cũ rượu mới”, nếu như luận điệu chống phá Nghị định 168 đã trở nên sáo mòn thì nội dung xuyên tạc Nghị định 70 và Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt lại đang có sức nóng đối với dư luận xã hội. Các đối tượng đã xảo trá tìm cách lợi dụng những thay đổi, tác động trực diện từ chính sách thuế mới đến đời sống, nhất là những vấn đề nhạy cảm liên quan đến sinh kế của người dân để xuyên tạc, gieo rắc tâm lý ngờ vực, đánh tráo khái niệm với những thuật ngữ nhạy cảm như “ngăn sông, cấm chợ”, “tận thu”… 

Sau khi các bài viết trên được phát tán trên không gian mạng, số “chân rết” nhanh chóng vào bình luận, chia sẻ theo dạng “té nước theo mưa”. Chúng còn sử dụng các phần mềm kỹ thuật, tạo vô số những bình luận gắn với các tài khoản ảo, tạo ra làn sóng dư luận cổ xúy quan điểm cực tiêu cực, tấn công các mục tiêu là hệ thống chính sách mới của Đảng, Nhà nước liên quan đến lĩnh vực thuế. Qua đó tạo sự đối kháng, làm suy yếu khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất ổn định chính trị - xã hội. 

Xuất phát từ tư tưởng hận thù, thiếu thiện chí, tất yếu chúng không bao giờ muốn nhìn thấy một Việt Nam phát triển hùng cường, xã hội có kỷ cương, kỷ luật nên cố tình xuyên tạc, phủ nhận những kết quả tích cực và tạo ra những luồng thông tin, dư luận xấu, bôi đen hiện thực xã hội. Thủ đoạn chống phá đó ảnh hưởng đến việc thực thi chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; đồng thời tạo “chiến tranh tâm lý” gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc và làm mất uy tín của Đảng, Nhà nước, kích động mâu thuẫn, xung đột xã hội, kêu gọi người dân tẩy chay chính sách, chống lại lực lượng thực thi nhiệm vụ. Đây chính là bản chất của các đối tượng chống đối chính trị và tất nhiên không hề mang tính “xây dựng”, “hiến kế” như những lời nói mĩ miều mà chúng vẫn thường xuyên rêu rao trên không gian mạng hòng lừa bịp người dân. 

Việc mở các chiến dịch “truyền thông bẩn” chống phá chủ trương, chính sách mới của Đảng, Nhà nước là một dạng của hoạt động tuyên truyền phá hoại tư tưởng, làm tiền đề kích động, kêu gọi người dân tụ tập đông người, biểu tình phản đối. Nếu yêu sách không được đáp ứng, chúng sẽ tìm cách “đổ thêm dầu vào lửa”, kích động những người có tâm lý tiêu cực, nhẹ dạ cả tin thực hiện hành động leo thang, quá khích như tấn công trụ sở chính quyền, lực lượng chức năng hoặc tổ chức biểu tình nhằm gây rối an ninh, trật tự; kích động bạo loạn theo cái gọi là “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố” hòng lật đổ chính quyền nhân dân. 

Không thể phủ nhận giá trị tích cực từ các chủ trương, chính sách mới của Đảng, Nhà nước

Đất nước ta đang hướng tới kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, đây là khoảng thời gian đất nước, dân tộc phải có sự bứt phá mãnh liệt. Để đạt được mục tiêu đó, việc phấn đấu xây dựng một xã hội văn minh, hiện đại là điều tất yếu khách quan. Do đó, điều kiện cần là quy định pháp luật phải nghiêm minh, điều kiện đủ là người dân ngày càng nâng cao ý thức chấp hành pháp luật.

Khi Nghị định 70 có hiệu lực, khó có thể tránh được quá trình thích nghi, ăn nhập với đời sống của một bộ phận người dân, nhất là việc xử lý mạnh tay với nạn hàng giả, hàng nhái, hàng lậu có thể trong thời gian ngắn sẽ ảnh hưởng đến một bộ phận tiểu thương và nhu cầu mua sắm của người dân.

Tuy nhiên về lâu dài thì người tiêu dùng sẽ được sử dụng hàng đúng chất lượng, các nhà sản xuất uy tín có điều kiện để phát triển; quá trình kinh doanh sẽ ngày càng minh bạch, lành mạch rõ ràng, không có cơ hội cho hàng giả, hàng nhái, không có nguồn gốc hoành hành. Vấn đề này được đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm nêu tại buổi làm việc với Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội, trong đó Tổng Bí thư đã chỉ rõ nhiều cửa hàng đóng cửa vì kinh doanh hàng giả chứ không phải vì chính sách thuế như một số phương tiện truyền thông thiếu thiện chí rêu rao. Và với cách quản lý mới, các tiểu thương, doanh nghiệp sẽ hoàn thành nghĩa vụ thuế cho nhà nước, góp phần làm cho đất nước ta càng giàu, mạnh hơn. Cho nên việc ban hành, triển khai chính sách thuế mới là cần thiết, bảo đảm công bằng, minh bạch giữa các cá nhân, hộ kinh doanh, đây cũng là xu thế tất yếu của nền kinh tế hội nhập, buộc chúng ta phải tuân thủ các cam kết hợp tác quốc tế.

Việc áp dụng thuế tiêu thụ đặc biệt với một số mặt hàng như nước ngọt, thuốc lá… cũng được dư luận đồng tình ủng hộ cao, góp phần phòng ngừa những tác hại, tác động tiêu cực đến sức khỏe của người dân, đặc biệt là với nước ngọt khi lượng đường trong thực phẩm đã được chứng minh là nguyên nhân gây ra các loại bệnh tật mạn tính nguy hiểm, phá hủy sức khỏe của cộng đồng. Trong khi đó, đối tượng sử dụng nhiều nhất chính là trẻ em, học sinh, thanh niên… Đây chính là thế hệ sau này trở thành tương lai của đất nước, do đó phải bảo đảm để các em thật sự khỏe mạnh, đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước. 

Thực tế khách quan trên là minh chứng sống động phản bác các luận điệu lệch lạc mà những kẻ chống phá thường rêu rao. Việc phán xét vô căn cứ, thiếu thiện chí như vậy đã cho thấy rõ hơn bộ mặt xảo trá, thù địch của các tổ chức thù địch, phản động. Chính vì vậy, sau khi các bài viết chống phá đăng tải trên trang web của Việt Tân đã nhận vô số những lời phê phán, lên án từ cộng đồng mạng cho dù số tay chân đã nỗ lực hướng lái dư luận theo chiều hướng tiêu cực. Điều đó đã chứng tỏ sự thật không thể phủ nhận, đó là những quan điểm lệch lạc, sai trái của Việt Tân từ lâu đã không còn giá trị dẫn dắt dư luận, ngược lại bị người dân phản ứng mạnh mẽ. Xu hướng này là sự tất yếu của tiến bộ xã hội khi nhận thức của người dân ngày càng được nâng cao, sự am hiểu về chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật được hoàn thiện, tạo ra sức đề kháng tốt hơn để người dân phân biệt được mặt tốt, mặt xấu, tin thật, tin giả, tin xấu độc trên không gian mạng.

Tuy nhiên, với mục tiêu phá hoại các chính sách của Đảng, Nhà nước không hề thay đổi, chúng vẫn triệt để sử dụng các thủ đoạn xuyên tạc, bôi nhọ Việt Nam. Do đó, bên cạnh việc chủ động hoàn thiện thể chế, chính sách, các cơ quan, ban ngành chức năng cần tăng cường tuyên truyền, giúp cho quần chúng nhân dân, kiều bào ta ở nước ngoài cảnh giác, nhận diện âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động; nhận diện các thông tin xấu, độc, qua đó nâng cao ý thức, trách nhiệm công dân, tham gia đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc. Khuyến cáo người dân không tin, không nghe những thông tin trái chiều, chưa được kiểm chứng trên mạng xã hội, chủ động theo dõi các trang tin chính thống của Đảng, Nhà nước, tránh bị kích động, xúi giục tham gia các hoạt động chống phá; không chia sẻ các thông tin sai sự thật, chưa được kiểm chứng trên mạng xã hội. Tiếp tục hiến kế để góp phần điều chỉnh, khắc phục những tồn tại, hạn chế của chính sách pháp luật, góp phần xây dựng một xã hội văn hiến – văn minh – hiện đại, tạo đà xây dựng đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình, phát triển thịnh vượng.

Phạm Duy 

Nhận thức đúng đắn vai trò quan trọng của hệ thống tư pháp quân sự

Thứ năm, 26/06/2025 - 05:39

Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hoạt động tư pháp giữ vai trò đặc biệt quan trọng, góp phần bảo đảm công lý, kỷ cương pháp luật và quyền con người.

Trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hoạt động tư pháp quân sự có vai trò quan trọng trong việc duy trì và tăng cường kỷ luật, bảo vệ bí mật quân sự, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của Quân đội. Tuy nhiên, hiện nay có một số ý kiến, nhận định mang tính phiến diện, nhằm hạ thấp vai trò của hoạt động tư pháp quân sự, sâu xa có thể làm suy yếu nền quốc phòng toàn dân. Về vấn đề này, phóng viên Báo Quân đội nhân dân có cuộc trao đổi với Trung tướng, PGS, TS Trần Văn Độ, nguyên Phó chánh án Tòa án Nhân dân (TAND) Tối  cao, nguyên Chánh án Tòa án Quân sự (TAQS) Trung ương, nguyên đại biểu Quốc hội khóa XII, XIII.

Phóng viên (PV): Có ý kiến cho rằng,“hoạt động tư pháp trong Quân đội là không cần thiết, trùng lặp với hệ thống tư pháp dân sự”, “các cơ quan tư pháp Quân đội thiếu tính độc lập, dễ bị chi phối bởi cấp trên trong Quân đội”. Quan điểm của đồng chí về vấn đề này?

Trung tướng, PGS, TS Trần Văn Độ: Đây là những ý kiến nhận định, đánh giá phiến diện, thiếu căn cứ và không phản ánh đúng thực tiễn cũng như vai trò thiết yếu của hệ thống tư pháp trong Quân đội đối với sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng vững mạnh để bảo vệ Tổ quốc. Các cơ quan thuộc hệ thống tư pháp trong Quân đội được thiết lập từ những ngày đầu sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công cho đến ngày nay để phù hợp với đặc thù tổ chức, nhiệm vụ, hoạt động của Quân đội, nhưng vẫn áp dụng chung Bộ luật Hình sự, theo các thủ tục được Bộ luật Tố tụng hình sự quy định mà các cơ quan tiến hành tố tụng trong và ngoài Quân đội phải tuân thủ mà không có ngoại lệ. Đặc biệt, các cơ quan trong hệ thống tư pháp quân sự vẫn chịu sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện về mọi mặt của Đảng. Việc hình thành hệ thống tư pháp quân sự như hiện nay là xuất phát từ tình hình đất nước nói chung và đặc thù tổ chức, hoạt động của Quân đội nói riêng.

Nhận thức đúng đắn vai trò quan trọng của hệ thống tư pháp quân sự
Phiên xét xử của Tòa án Quân sự Quân khu 7. 

Nhìn rộng ra thế giới, hệ thống tư pháp quân sự đã tồn tại từ lâu, thậm chí ở một số quốc gia như Hoa Kỳ, TAQS còn xử lý các vụ kiện dân sự mà gia đình quân nhân là đương sự để bảo vệ hậu phương tốt, giúp quân nhân yên tâm công tác. Các quốc gia khác như: Nga, Trung Quốc, Pháp, Italy, Đức... cũng đều có hệ thống tư pháp quân sự với thẩm quyền tương tự Việt Nam và hoạt động rất hiệu quả.

Như vậy, ý kiến cho rằng “hệ thống tư pháp trong Quân đội là không cần thiết, trùng lặp với hệ thống tư pháp dân sự”, “các cơ quan tư pháp Quân đội thiếu tính độc lập, dễ bị chi phối bởi cấp trên trong Quân đội” không chỉ thiếu tôn trọng sự thật mà còn nhằm mục đích chia rẽ nội bộ, làm suy yếu Quân đội, suy yếu nền quốc phòng toàn dân và hạ thấp uy tín của Quân đội.

PV: Vậy đâu là những cơ sở pháp lý khẳng định vị trí, vai trò, tầm quan trọng của hoạt động tư pháp trong Quân đội, thưa đồng chí?

Trung tướng, PGS, TS Trần Văn Độ: Tại Việt Nam, lịch sử tư pháp Quân đội gắn liền với lịch sử cách mạng. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 33-C ngày 13-9-1945 về thành lập các TAQS tiền thân của TAND ngày nay. Tại điều II, Sắc lệnh nêu rõ: TAQS sẽ xử tất cả các người nào vi phạm vào một việc gì có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trừ khi phạm nhân là binh sĩ thì thuộc về nhà binh tự xử lấy theo quân luật.

Điều 102, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Hệ thống TAND gồm TAND Tối cao và các tòa án khác, bao gồm cả TAQS-một bộ phận đặc thù nhưng không tách rời của hệ thống tư pháp.

Về tổ chức, TAQS gồm 3 cấp: TAQS Trung ương, các TAQS quân khu và các TAQS khu vực, thay cho các TAQS quân đoàn, quân chủng, binh chủng trước đây để không phụ thuộc vào người chỉ huy. Việc thành lập các TAQS khu vực thay cho tòa án các đơn vị theo Chiến lược cải cách tư pháp là khuôn mẫu để thành lập các tòa án khu vực trong phạm vi cả nước ngày nay.

Về thẩm quyền xét xử, các TAQS xét xử: Các vụ án do quân nhân, người khác do Quân đội trực tiếp quản lý thực hiện; các vụ án do người khác thực hiện xâm phạm sức mạnh chiến đấu Quân đội như gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe của quân nhân, gây thiệt hại cho vũ khí, khí tài và tài sản của Quân đội; xâm phạm bí mật quân sự và các vụ án xảy ra trong khu vực có bảo vệ của Quân đội...

Đồng bộ với các TAQS là hệ thống cơ quan điều tra trong Quân đội và viện kiểm sát quân sự với tổ chức và thẩm quyền xuất phát và đồng bộ với TAQS.

Những quy định pháp luật trên cho thấy hệ thống tư pháp trong Quân đội được pháp luật tổ chức chặt chẽ, bảo đảm nguyên tắc độc lập tư pháp, đúng quy trình, đầy đủ quyền hạn. Quy định về hệ thống tổ chức và thẩm quyền của hệ thống tư pháp quân sự như vậy là để góp phần tăng cường kỷ luật, bảo vệ sức mạnh chiến đấu của Quân đội, bảo vệ bí mật quân sự, từ đó bảo vệ, tăng cường tiềm lực quốc phòng của đất nước. Vì vậy, việc cho rằng hợp nhất tư pháp Quân đội vào tư pháp dân sự là thiếu khoa học, không phù hợp thực tiễn, không đáp ứng yêu cầu của chính sách quốc phòng của nước ta.

Thực tế cho thấy, qua một số vụ việc, với sự vào cuộc tích cực của các cơ quan điều tra hình sự trong Quân đội, viện kiểm sát quân sự, TAQS là minh chứng cho tính nghiêm minh trong Quân đội-điều mà các thế lực thù địch thường tìm cách xuyên tạc.

PV: Hiện nay Đảng và Nhà nước đang đẩy mạnh sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Theo đồng chí, trong bối cảnh đó, hệ thống tư pháp trong Quân đội cần được điều chỉnh ra sao cho phù hợp?

Trung tướng, PGS, TS Trần Văn Độ: Tinh gọn bộ máy là chủ trương lớn, đúng đắn của Đảng và Nhà nước nhằm xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, hiệu lực, hiệu quả. Tuy nhiên, điều đó không đồng nghĩa với việc “cào bằng” hay giản lược một cách cơ học. Đặc biệt, đối với hệ thống tư pháp trong Quân đội vốn hoạt động trong môi trường có tính đặc thù cao thì càng phải được cân nhắc kỹ lưỡng, thấu đáo, tránh mọi sự nóng vội, chủ quan, duy ý chí.

Hệ thống tư pháp Quân đội là một phần không thể tách rời của hệ thống tư pháp quốc gia. Vai trò của nó không chỉ là điều tra, truy tố, xét xử các hành vi vi phạm pháp luật trong nội bộ Quân đội mà còn góp phần giữ vững kỷ luật, bảo đảm sự trong sạch, nghiêm minh của Quân đội. Cho nên, trong xu thế tinh gọn, hệ thống tư pháp Quân đội cần được điều chỉnh theo hướng tổ chức hợp lý hơn chứ không phải bị xem nhẹ hay thu hẹp một cách máy móc.

Chúng ta cần tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong điều tra, kiểm sát, xét xử, giúp tiết kiệm nguồn lực nhưng vẫn kiểm soát chặt chẽ. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan tư pháp trong và ngoài Quân đội để xử lý những vụ án có yếu tố dân sự-quân sự lồng ghép một cách hiệu quả, nhưng không làm mờ nhạt vai trò của hệ thống tư pháp Quân đội.

PV: Để hệ thống tư pháp Quân đội thực sự tinh gọn mà vẫn hoạt động hiệu lực, hiệu quả, theo đồng chí cần chú trọng những vấn đề gì trong thời gian tới?

Trung tướng, PGS, TS Trần Văn Độ: Theo tôi, cần tập trung vào 3 vấn đề then chốt. Trước hết, cần giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội, trong đó có tổ chức tư pháp trong Quân đội. Đây là nền tảng chính trị bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất, xuyên suốt, bao trùm của Đảng.

Thứ hai là tổ chức lại bộ máy theo hướng “tinh nhưng không yếu”, “gọn nhưng không thiếu”, tránh tình trạng cắt xén gây ra khoảng trống pháp lý hoặc rối loạn chức năng của hệ thống tư pháp trong Quân đội.

Thứ ba là tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp trong Quân đội, để mỗi cán bộ làm công tác tư pháp trong Quân đội không chỉ là người “gác cổng pháp luật” mà còn là chỗ dựa pháp lý cho cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân.

Qua đây, tôi mong rằng, các cấp lãnh đạo khi xem xét, quyết định các vấn đề liên quan đến hệ thống tư pháp trong Quân đội cần bảo đảm tính kế thừa giữa lịch sử và hiện tại, phù hợp với xu thế phát triển của thế giới. Trong đó, cần xác định rõ ràng sự đóng góp của hệ thống tư pháp trong Quân đội đối với nhiệm vụ bảo vệ sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu của Quân đội.

Các cấp có thẩm quyền, các cơ quan chức năng cần đẩy mạnh tuyên truyền, có tiếng nói mạnh mẽ hơn để giải thích rõ ràng, bác bỏ những luận điệu thiếu căn cứ, giúp cho người dân hiểu đúng về vị trí, vai trò và sự cần thiết của việc duy trì hệ thống tư pháp trong Quân đội. Phải làm sao để người dân thấy rằng, những quan điểm, nhận định, ý kiến nhằm hạ thấp vai trò của tư pháp quân sự là không có cơ sở chính trị, lý luận, pháp lý và thực tiễn.

Tóm lại, hệ thống tư pháp quân sự ở Việt Nam có lịch sử lâu đời, được tổ chức và hoạt động độc lập, hiệu quả, đóng vai trò then chốt trong việc bảo vệ bí mật quân sự, tăng cường sức mạnh quốc phòng và khả năng sẵn sàng chiến đấu của Quân đội.

Nằm trong xu thế chung của nhiệm vụ xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh”, chính quy, hiện đại hiện nay, việc tinh gọn bộ máy tư pháp trong Quân đội là cần thiết nhưng vẫn phải phải bảo đảm duy trì và nâng cao hiệu quả hoạt động của thiết chế tư pháp quan trọng này, đồng thời tuân thủ nghiêm ngặt sự lãnh đạo của Đảng, của Quân ủy Trung ương, chỉ đạo của Bộ Quốc phòng đối với hoạt động tư pháp trong Quân đội.

PV: Trân trọng cảm ơn đồng chí!

VĂN HÓA (thực hiện) 

Bác bỏ luận điệu xuyên tạc “Việt Nam tham gia chạy đua vũ trang, đi ngược lại chính sách hòa bình”

Thứ hai, 23/06/2025 - 05:18

Xuyên tạc đường lối, chính sách quốc phòng của Đảng, Nhà nước ta là thủ đoạn vô cùng nham hiểm của các thế lực thù địch, phản động nhằm chống phá cách mạng Việt Nam. Hiện nay, lợi dụng chủ trương củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong tình hình mới, các thế lực thù địch, phản động ra sức tuyên truyền rằng “Việt Nam đang tập trung nguồn lực lớn cho quốc phòng, an ninh, nhất là chi ngân sách nhà nước để phát triển công nghiệp quốc phòng, mua sắm vũ khí, trang bị hiện đại, tạo ra cuộc chạy đua vũ trang, đe dọa đến hòa bình, ổn định ở khu vực, đi ngược lại chính sách quốc phòng hòa bình, tự vệ đã tuyên bố”.

Đây là luận điệu thù địch, xuyên tạc có chủ đích, vô căn cứ. Bởi lẽ:

Thứ nhất, chính sách quốc phòng của Việt Nam là hòa bình và tự vệ.

Tự vệ chính đáng là quyền tự nhiên của mọi quốc gia, dân tộc, được thừa nhận trong Điều 51 của Hiến chương Liên hợp quốc và tồn tại trong tập quán quốc tế. Trong bối cảnh tình hình hiện nay, tự vệ chính đáng của một quốc gia bao gồm những hoạt động cần thiết để phòng ngừa, chống trả những mối đe dọa, hành vi, hoạt động xâm phạm đến lợi ích chính đáng của quốc gia mình.

Là một dân tộc có truyền thống hòa hiếu, yêu chuộng hòa bình và tôn trọng luật pháp quốc tế, vì vậy, đặc trưng bản chất chính sách quốc phòng của Việt Nam là hòa bình và tự vệ. Điều này đã được công khai, minh bạch hóa trong các văn kiện của Đảng, Hiến pháp và hệ thống pháp luật của Nhà nước Việt Nam. Điều 4, Luật Quốc phòng năm 2018 khẳng định: “Củng cố, tăng cường nền quốc phòng toàn dân, sức mạnh quân sự để xây dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới...; thực hiện chính sách hòa bình, tự vệ; sử dụng các biện pháp chính đáng, thích hợp để phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi, đánh bại mọi âm mưu và hành vi xâm lược”. Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 nhấn mạnh: “Chính sách quốc phòng của Việt Nam mang tính chất hòa bình và tự vệ. Việt Nam phản đối các hoạt động chạy đua vũ trang”. Như vậy, chính sách quốc phòng hòa bình, tự vệ, chống chiến tranh, phản đối các hoạt động chạy đua vũ trang dưới mọi hình thức của Việt Nam đã luôn được khẳng định công khai, minh bạch, rõ ràng.

Bác bỏ luận điệu xuyên tạc “Việt Nam tham gia chạy đua vũ trang, đi ngược lại chính sách hòa bình”

 Việt Nam rất tích cực trong việc tham gia vào các hoạt động gìn giữ hòa bình quốc tế. Ảnh: Phái đoàn thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc 

Những năm qua, Việt Nam phải đối mặt với những thách thức, mối đe dọa không nhỏ về quốc phòng, an ninh từ các thế lực thù địch, phản động. Trong bối cảnh đó, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trong tình hình mới xác định quyết tâm chính trị của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta là: Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ thành quả cách mạng, sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nền văn hóa và uy tín, vị thế quốc tế của đất nước; bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng; giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; triệt tiêu các nhân tố gây mất ổn định chính trị từ bên trong; dập tắt nguy cơ xung đột, chiến tranh; giữ vững, củng cố môi trường hòa bình để xây dựng, phát triển đất nước; đóng góp tích cực vào gìn giữ hòa bình thế giới.

Để thực hiện mục tiêu đó, tất yếu đòi hỏi Việt Nam phải có sự quan tâm, đầu tư đúng mức để củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, bảo đảm đủ sức mạnh để bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống. Ngoài mục đích đó, quốc phòng Việt Nam không có mục đích khác, không can thiệp vào công việc nội bộ, đe dọa hoặc xâm lược bất kỳ một quốc gia nào khác, bằng bất kỳ một hình thức, tính chất nào. Như vậy, có thể thấy rõ với chính sách quốc phòng như vậy, Việt Nam không trở thành mối đe dọa đối với bất cứ quốc gia nào trong khu vực và trên thế giới.

Thứ hai, Việt Nam đã và đang nỗ lực tạo lập, gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định của khu vực và trên thế giới.

Những năm qua, Việt Nam tích cực, chủ động nỗ lực ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế.

Cụ thể là Việt Nam cùng các nước láng giềng đã có nhiều nỗ lực trong việc áp dụng có hiệu quả luật pháp và thông lệ quốc tế để giải quyết các bất đồng, tranh chấp đặt ra. Trong đó, Việt Nam đã ký với Lào Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia; ký với Campuchia Hiệp định về vùng nước lịch sử trên biển và Hiệp ước về nguyên tắc giải quyết các vấn đề về biên giới; ký với Malaysia Thỏa thuận về hợp tác thăm dò, khai thác chung vùng chồng lấn; ký với Thái Lan Hiệp định về phân định ranh giới biển; ký với Trung Quốc Hiệp ước về biên giới trên đất liền và Hiệp định về phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ; ký với Indonesia Hiệp định về phân định ranh giới thềm lục địa...

Hiện nay, việc giải quyết các tranh chấp giữa Việt Nam với các quốc gia khác, trong đó có vấn đề chủ quyền trên Biển Đông, Việt Nam luôn kiên định, kiên trì lập trường giải quyết bất đồng thông qua biện pháp hòa bình, đối thoại, trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế; trước hết là thực thi hiệu quả và đầy đủ Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), Tuyên bố 6 điểm ngày 20-7-2012 của ASEAN về Biển Đông; đồng thời, Việt Nam đang tích cực hợp tác, đàm phán, tiến tới cùng các nước hữu quan xây dựng Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) nhằm duy trì hòa bình, ổn định, bảo đảm an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không; tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.

Thứ ba, Việt Nam là một dân tộc hòa hiếu, yêu chuộng hòa bình, phản đối xung đột quân sự, chiến tranh, chủ động bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Việt Nam đã phải tiến hành nhiều cuộc chiến tranh chống xâm lược trong suốt chiều dài mấy nghìn năm lịch sử để có được độc lập, tự do, toàn vẹn lãnh thổ và môi trường hòa bình, ổn định như ngày nay. Vì thế, Đảng, Nhà nước Việt Nam nhận thức rất rõ sự cần thiết và thấu hiểu được giá trị to lớn của hòa bình, ổn định đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Dân tộc Việt Nam luôn mong muốn được chung sống hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển với các dân tộc khác và cần có môi trường hòa bình, ổn định để tiếp tục xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Nhân dân Việt Nam không muốn có xung đột, chiến tranh vì điều đó dẫn đến những tổn thất, đau thương, mất mát to lớn cho không chỉ một phía. Việt Nam đang nỗ lực tạo lập, gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định cho đất nước và khu vực; song Việt Nam cũng quyết không sợ chiến tranh xâm lược từ nước khác, sẵn sàng tiến hành các hoạt động quốc phòng, quân sự cần thiết để tự vệ, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi điều kiện, hoàn cảnh.

Trong bối cảnh phức tạp của tình hình quốc tế hiện nay, Việt Nam nhận thức rõ trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của quốc gia, dân tộc, cần phải đấu tranh; trong mỗi đối tượng có thể có mặt cần tranh thủ hợp tác, thuyết phục, nỗ lực thúc đẩy hợp tác, giảm bất đồng, xung đột để đạt lợi ích cao nhất cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Việt Nam thực hiện phương châm "bảo vệ đất nước từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy"; chủ động phòng ngừa, ngăn ngừa nguy cơ xung đột, chiến tranh, làm thất bại âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước.

Thứ tư, Việt Nam tăng cường tiềm lực, sức mạnh quốc phòng, an ninh một cách hợp lý, chính đáng, không cổ xúy chạy đua vũ trang.

Quốc phòng, an ninh luôn là những lĩnh vực trọng yếu, quyết định đến thành bại, thịnh suy của mỗi quốc gia, dân tộc, không phân biệt thể chế chính trị và trình độ phát triển.

Là một quốc gia đang phát triển, có độ mở của nền kinh tế cao, sức chống chịu và khả năng cạnh tranh còn hạn chế, lại luôn phải đối mặt với những khó khăn, thách thức trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, Việt Nam xác định phát triển đất nước nhanh, bền vững, gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế-xã hội, bảo vệ môi trường là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng, bảo đảm quốc phòng, an ninh và đối ngoại là trọng yếu, thường xuyên.

Trong những năm gần đây, xuất phát từ yêu cầu cấp bách của nhiệm vụ củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, phát triển công nghiệp quốc phòng, hiện đại hóa LLVT; xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, vì vậy, Việt Nam có sự quan tâm đúng mức, hợp lý trong đầu tư ngân sách và các nguồn lực khác cho củng cố quốc phòng, an ninh.

Từ những lý giải trên, cần khẳng định Việt Nam là một dân tộc hòa hiếu, yêu chuộng hòa bình, tôn trọng luật pháp quốc tế. Trong bối cảnh phải đối phó với nhiều thách thức, mối đe dọa về quốc phòng, an ninh từ cả bên ngoài và bên trong, để bảo vệ đất nước từ sớm, từ xa, Việt Nam đã và đang đầu tư một nguồn lực nhất định, phù hợp với nhu cầu và khả năng của đất nước để tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh. Điều này là hoàn toàn chính đáng và phù hợp với chính sách quốc phòng hòa bình, tự vệ của Việt Nam. Do đó, mọi luận điệu xuyên tạc, bịa đặt xoay quanh việc chi ngân sách quốc phòng, an ninh của Việt Nam đều là những trò hề, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động và không hề lừa gạt được những người Việt Nam yêu nước chân chính.

Đại tá NGUYỄN MINH THÀNH, Khoa Lịch sử nghệ thuật quân sự, Học viện Chính trị