Chiêu trò ‘hạ bệ thần tượng’ và lối suy diễn chủ quan

Nhằm làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ ta, các thế lực thù địch đã sử dụng nhiều thủ đoạn, trong đó có thủ đoạn được gọi là “hạ bệ thần tượng”, xuyên tạc, bôi nhọ thân thế, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. 
Cuộc cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được dẫn dắt bởi Chủ nghĩa Mác-Lênin do Chủ tịch Hồ Chí Minh nghiên cứu, tiếp thu, vận dụng và phát triển một cách sáng tạo đã trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, làm nên những thành quả vĩ đại. Đó là Cách mạng giành lại độc lập dân tộc; các cuộc kháng chiến đầy hy sinh gian khổ chống lại thực dân, đế quốc xâm lược hùng mạnh nhất thời đại, bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và ngày nay đang giành được những thành tựu quan trọng trong sự nghiệp xây dựng đất nước và hội nhập quốc tế.
Thế nhưng, trên một số mạng, có kẻ đã xuyên tạc lịch sử, bôi nhọ thân thế, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, rằng: Các cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, thống nhất đất nước là do Nguyễn Ái Quốc đã du nhập “học thuyết đấu tranh giai cấp gây ra”, rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn “đặt lợi ích của Đảng, của “ý thức hệ” lên trên lợi ích của dân tộc”… Lịch sử đã hoàn toàn bác bỏ những lập luận xuyên tạc, vu cáo đó. Là một nước nhỏ, yếu để chống lại các cường quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta không thể không tranh thủ sự giúp đỡ của các quốc gia XHCN và các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên thế giới (trong đó có nhân dân Mỹ, Pháp…). Song chưa bao giờ Hồ Chí Minh và Đảng ta xa rời mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH vì lợi ích của nhân dân.
Tại cuộc Hội thảo quốc tế “Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, Nhà văn hóa lớn” (Hà Nội, 3/1990), Giám đốc UNESCO khu vực châu Á - Thái Bình Dương, ông Modagat Ahmet, nói: “Chỉ có ít nhân vật trong lịch sử trở thành một bộ phận của huyền thoại ngay từ khi còn sống và rõ ràng Hồ Chí Minh là một trong số đó”.
Chính vì vậy mà có người còn nói: “Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là George Washington vừa là Abraham Lincoln của đất nước mình”. Là George Washington vì Hồ Chí Minh là người lãnh đạo cuộc đấu tranh giành lại độc lập dân tộc cho dân tộc ta; là  Abraham Lincoln vì Người đã lãnh đạo cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ thực dân - phong kiến ở Việt Nam. Công cuộc xây dựng xã hội mới, xã hội XHCN do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng đã và đang được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta thực hiện.
Để thực hiện mục tiêu, lý tưởng của mình, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã không quản ngại khó khăn, gian khổ, hiểm nguy vừa lao động kiếm sống, vừa học tập và hoạt động cách mạng. Theo một thống kê chưa đầy đủ, Nguyễn Ái Quốc đã trải qua hơn 20 nghề, trong đó có những nghề rất vất vả và nguy hiểm như: Phu khuân vác, cào tuyết, … Người đã từng làm nhiều nghề của giới trí thức, văn nghệ sỹ, như  giảng dạy, viết báo, viết kịch, vẽ đồ giả cổ…
Một thống kê khác cho thấy Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là nhà cách mạng đi nhiều nhất vào những năm đầu thế kỷ XX. Người đã từng đặt chân đến tất cả các các châu lục, đến các nước phát triển (đương thời), như Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Nga… Theo một thống kê Người đã đến 37 quốc gia, trong đó có tới 25 nước Người đã đến trước khi nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời.
Để hoạt động cách mạng, Nguyễn Ái Quốc phải hy sinh tuổi trẻ, đời tư, hoạt động bí mật. Năm 1929, tòa án Vinh đã tuyên án tử hình vắng mặt Người.
Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, lợi ích của dân tộc luôn luôn đặt trên hết. Người đã từng nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Tuy nhiên nét đặc sắc trong tư tưởng của Hồ Chí Minh là ở chỗ toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị (Tổ chức Đảng, Chính quyền các cấp, Mặt trận, các đoàn thể…) không có mục đích tự thân mà đều nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân, đặc biệt là dựa trên tôn trọng và bảo đảm vai trò làm chủ của nhân dân mà Người thường nói là “lấy dân làm gốc”.
Nhân đây cần nói thêm rằng không có chuyện Hồ Chí Minh đặt “lợi ích của Đảng” của “ ý thức hệ” lên trên lợi ích của dân tộc, của nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chế độ XHCN”. Người còn nói: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”.
Bởi vậy có thể nói những kẻ xuyên tạc, bôi nhọ thân thế, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh càng làm bộc lộ nhân cách xấu xa của họ mà thôi.
Bắc Hà

Phòng, chống "tự diễn biến, tự chuyển hóa" trong sử dụng mạng xã hội

QĐND – Mạng xã hội là một sản phẩm văn minh của công nghệ thông tin, có nhiều tiện ích to lớn trong đời sống hiện đại. Thế nhưng nếu chủ quan, đơn giản, nhiều người sẽ bị “lạc lối” trên mạng xã hội, thậm chí nguy hiểm hơn là vô hình trung gián tiếp tán phát những thông tin xấu độc, hoặc rò rỉ thông tin bí mật Nhà nước, gây hại cho cộng đồng; thậm chí tiếp tay cho các đối tượng chống phá Đảng, Nhà nước…
Từ vô tình bị lợi dụng đến vi phạm pháp luật
Trong một cuộc trao đổi với chúng tôi gần đây, TS Lê Văn Thanh, Bí thư Đảng ủy, Viện trưởng Viện Đại học Mở Hà Nội, cho biết, rất cần định hướng cho cán bộ, giảng viên và sinh viên trước “ma trận thông tin” trên mạng xã hội. Chẳng hạn, thông tin về một số cuộc tuần hành liên quan tới biển, đảo, bảo vệ cây xanh trên mạng xã hội được gắn với cái mũ “yêu nước”. Nếu không biết bản chất sự thật của thông tin, giới trẻ rất dễ bị “lạc lối” trên mạng xã hội, bị lôi kéo hoặc ít ra là đồng tình, sẻ chia, tán phát thông tin xấu độc mà không biết.
Trung tá Uông Thiện Hoàng, giảng viên Khoa Lịch sử nghệ thuật quân sự (Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng), là người đã tham gia giảng dạy nhiều khóa giáo dục quốc phòng cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn Hà Nội cũng rất trăn trở trước thực tế có cán bộ, giáo viên, nhà khoa học, văn nghệ sĩ, người có uy tín sử dụng trang mạng xã hội cá nhân đã tán phát thông tin xấu độc, sai sự thật. Trong đó có thầy giáo ở một trường THPT ở Hà Tĩnh dạy giỏi và hiện vẫn có rất nhiều học sinh đến học thêm khi ông nghỉ hưu. Tuy nhiên, đáng tiếc là trên trang facebook cá nhân, ông thường xuyên đăng lại các bài về những hạn chế, tiêu cực xã hội kèm theo các bình luận, suy diễn chủ quan... cổ xúy học sinh, sinh viên nói xấu chế độ, gieo rắc tâm lý chán chường, bi quan cho giới trẻ. Đáng phê phán hơn phải kể đến một dịch giả, nhà thơ, nhà văn nguyên là cán bộ của một bộ, nay là cán bộ một ban của Hội Nhà văn Việt Nam. Thời chống Mỹ, ông này được Nhà nước cho đi học tập ở nước ngoài nhưng nay nghỉ hưu lại thường xuyên có những bài thơ dạng thơ 5 chữ với nội dung nói xấu Đảng, Nhà nước. Không ít người chưa hiểu rõ bản chất nhân vật này nên thường chia sẻ những bài thơ trên cho bạn bè qua trang cá nhân.
Ảnh minh họa
Người dùng mạng xã hội khi phản biện xã hội cũng dễ mắc nhiều sai lầm. Những ngày qua, cả nước tưng bừng kỷ niệm 40 năm Giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước thì trên facebook của một nhà báo đang làm việc tại cơ quan báo chí của tổ chức Đoàn lại đăng tải nhiều bài viết, bài thơ có biểu hiện “xét lại lịch sử”. Thậm chí trên trang cá nhân, đi kèm link các bài đăng báo của mình, anh này còn có những lời lẽ xúc phạm cả lãnh đạo Đảng, Nhà nước.
Trên thực tế đã có nhiều vụ việc vi phạm pháp luật đáng tiếc trong sử dụng mạng xã hội. Vụ việc nhóm thanh niên dân tộc thiểu số ở tỉnh Gia Lai khi tham gia facebook đã bị các đối tượng phản động nước ngoài lôi kéo dùng trang cá nhân tuyên truyền cho “Tin lành Đề Ga” quả là một bài học đắt giá. Tương tự, vụ việc một thầy giáo dạy ngoại ngữ ở thị xã Phú Thọ dùng facebook để đăng tải những thông tin cho các lực lượng “dân chủ” khiến nhiều học sinh hoang mang. Tuy nhiên, ông này đã bị cơ quan chức năng xử lý dù bao bọc dưới cái vỏ tinh vi “thông tin do bạn bè chia sẻ”.
Theo lãnh đạo Cục An ninh Thông tin và Truyền thông (Bộ Công an), hoạt động tuyên truyền, phá hoại tư tưởng của các thế lực thù địch bên ngoài đã tác động không nhỏ, gây ra những hiện tượng “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nước. Một số cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ nghiên cứu, giảng dạy trong những vụ, viện, trường học viết bài có nội dung trái với quan điểm của Đảng và Nhà nước rồi phát tán trên internet. Những người này có thể bị kích động, lôi kéo, lợi dụng; từ việc được kẻ xấu phỏng vấn, đăng tải, khuếch trương các bài viết của họ tới việc sử dụng hình ảnh, đưa họ tham gia vào những hoạt động mang danh dân chủ, bảo vệ chủ quyền, bảo vệ cây xanh… nhưng thực chất là để chống phá chế độ. Nhiều trang mạng xã hội tuy không trực tiếp đăng tin, bài có nội dung chống Đảng, Nhà nước nhưng có đường liên kết đến các trang phản động là thực trạng khá phổ biến, gây hậu quả phức tạp, vô hình trung tiếp tay cho các luận điệu sai trái. Một thống kê của Công an TP Hà Nội cho biết, có tới hơn 70% hoạt động thúc đẩy “tự diễn biến, tự chuyển hóa” được tiến hành bằng phương thức tác động tư tưởng thông qua internet, mà nhiều nhất là qua facebook và blog.
Tỉnh táo và chủ động đấu tranh
Mặc dù facebook được coi là mạng xã hội lớn nhất thế giới nhưng nó vẫn bị vắng bóng và hạn chế ở nhiều nước như: Bra-xin, Trung Quốc, Nhật Bản, Nga, Ả-rập Xê-út… Ở Việt Nam, Đảng, Nhà nước ta luôn tôn trọng nhu cầu sử dụng mạng xã hội của người dân. Theo thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông, ở Việt Nam hiện có khoảng 30 triệu người sử dụng internet và hơn 100 triệu thuê bao điện thoại di động, khoảng 25 triệu người sử dụng facebook.
Một số chuyên gia cho rằng, cần có biện pháp quản lý chặt chẽ hơn nữa mạng xã hội. Theo TS Nguyễn Công Dũng, Phó tổng biên tập thường trực Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, cần tham khảo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới trong quản lý mạng xã hội như ở Nga, từ năm 2013, “mạng xã hội facebook được nhà nước Nga yêu cầu loại bỏ "thông tin cấm”.
Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15-7-2013 của Chính phủ và Thông tư số 09/2014/BTTTT ngày 19-8-2014 của Bộ Thông tin và Truyền thông đã có nhiều quy định chi tiết về hoạt động quản lý, cung cấp, sử dụng thông tin trên trang thông tin điện tử và mạng xã hội. Trong đó có nhiều hành vi bị nghiêm cấm trong sử dụng mạng xã hội như: Lợi dụng việc cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin trên mạng nhằm mục đích chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc; tuyên truyền chiến tranh, khủng bố; gây hận thù, mâu thuẫn giữa các dân tộc, sắc tộc, tôn giáo; tuyên truyền, kích động bạo lực, dâm ô, đồi trụy, tội ác, tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc; đưa thông tin xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự và nhân phẩm của cá nhân; truyền bá tác phẩm báo chí, văn học, nghệ thuật, xuất bản phẩm bị cấm; giả mạo tổ chức, cá nhân và tán phát thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân… Còn không ít người dùng mạng xã hội chưa nắm vững các quy định này nên đã có sai phạm. Đây là vấn đề cần khắc phục trong thời gian tới.
Với cán bộ, chiến sĩ LLVT, việc sử dụng mạng xã hội không bị cấm như ở nhiều quân đội trên thế giới nhưng Bộ Quốc phòng cũng đã có những quy định cụ thể để quản lý. Trong đó, mỗi quân nhân phải chú ý việc không được sử dụng mạng xã hội với tư cách quân nhân; không đăng tải, tán phát thông tin về hoạt động của các đơn vị quân đội, để lộ thông tin về quân số, vũ khí trang bị, biên chế tổ chức, hoạt động tác chiến, nghiệp vụ… Các quân nhân không được để lộ, lọt thông tin bí mật quân sự, không sử dụng mạng máy tính, thiết bị của cơ quan, đơn vị quân đội truy nhập mạng xã hội…
Mạng xã hội với đặc trưng nổi bật mang tính cá nhân, tính tương tác cộng đồng cao nhưng lại là không gian ảo rất khó kiểm chứng, kiểm soát thông tin và các mối quan hệ. Vì vậy, người sử dụng mạng xã hội phải luôn tỉnh táo, có bản lĩnh vững vàng để không bị “lạc lối”. Đặc biệt, với người dùng là cán bộ, đảng viên, công chức, người tham gia các đoàn thể xã hội thì việc dùng mạng xã hội tuy chỉ là trang cá nhân nhưng có thể gây ảnh hưởng tới uy tín của tập thể, đoàn thể họ đang công tác. Việc đăng tải những thông tin, hình ảnh liên quan đến đơn vị mình hoạt động nếu thiếu cân nhắc có thể gây ra những nguy hại khôn lường.
Người sử dụng mạng xã hội cần phải thận trọng, cảnh giác, sàng lọc thông tin. Không nên đăng tải, chia sẻ thông tin từ những trang web, trang mạng xã hội không rõ nguồn gốc… vì những thông tin này rất khó kiểm chứng. Vụ việc kẻ xấu tung tin bịa đặt về Hội nghị Thành Đô gần đây là một ví dụ. Chỉ từ một đường link bịa đặt của một đối tượng xấu được đài, báo hải ngoại dẫn lại; không ít trang mạng xã hội trong nước đã chia sẻ, gây dư luận xấu, sự hoang mang trong dư luận.
Mặt khác, việc dẫn nguồn, chia sẻ thông tin từ các trang báo điện tử, mạng xã hội phải được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Người dùng mạng xã hội không được dùng trang cá nhân chia sẻ, tổng hợp như một trang thông tin điện tử và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những lời bình luận, những thông tin đi kèm đường link mình chia sẻ. Nên chọn lựa thông tin chính thống. Theo Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Trương Minh Tuấn: “Mỗi người phải tự chắt lọc thông tin cho mình vì mạng xã hội không phải là kênh thông tin chính thống. Những người dùng mạng xã hội phải tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về thông tin mình đưa ra”.
 Đối với cán bộ, đảng viên, cần gương mẫu chấp hành 19 điều đảng viên không được làm, có nhiều điều liên quan đến phát ngôn. Đây cũng là vấn đề thời gian qua, còn một số cán bộ, đảng viên vi phạm. Trong đó, đáng chú ý có cả phát biểu của cán bộ cấp cao về kinh tế thị trường, hoài nghi về con đường xã hội chủ nghĩa, gây phân tâm trong cán bộ, đảng viên, bị nhiều đài, báo nước ngoài lợi dụng, xuyên tạc. Theo GS, TS Lê Hữu Nghĩa, Phó chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, không ít cấp ủy, cơ quan chính quyền, nhiều cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đúng tính chất nguy hiểm của “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ; thậm chí có người còn phụ họa theo những quan điểm sai trái. 
Sinh thời, Lê-nin từng căn dặn: Không có kẻ thù nào, dù là hung bạo nhất có thể chiến thắng được những người cộng sản, ngoại trừ chính họ tự tan rã, chính những lỗi lầm của họ và họ không kịp sửa chữa. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 (khóa XI) cũng nhấn mạnh: “Chủ động phòng ngừa, đấu tranh phê phán những biểu hiện “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng”. Những biểu hiện sai lệch trên mạng xã hội cần được cảnh báo và xử lý.
NGUYỄN VĂN MINH

Không ai có thể đánh đổ biểu tượng niềm tin của một dân tộc

QĐND - Mỗi quốc gia, dân tộc trên thế giới đều có biểu tượng niềm tin của mình. Biểu tượng niềm tin kết tụ sức mạnh tinh thần, tình cảm, sự xác tín thiêng liêng của cả dân tộc và trở thành một trong những trụ lực vững vàng, bền chắc nhất để cộng đồng dân tộc ấy tồn tại, phát triển. Đụng chạm đến biểu tượng niềm tin của một dân tộc là đụng chạm đến tình cảm thiêng liêng, sâu đậm của hàng triệu con người. Thế nên, một vài tiếng nói “lạc bầy”, cố ý bôi nhọ, xuyên tạc Chủ tịch Hồ Chí Minh, sẽ không bao giờ được lòng dân Việt Nam chấp thuận. Bởi lẽ…  

Bác Hồ - biểu tượng niềm tin của dân tộc Việt Nam
Từ hàng nghìn đời nay, nhân dân Việt Nam luôn nặng nghĩa ân tình, biết ơn tất cả những ai có công khai thiên lập địa, mở mang bờ cõi, xây dựng đất nước và giữ gìn giang sơn gấm vóc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Đạo lý biết ơn các bậc tiên hiền, tiên liệt đã ăn sâu vào tâm thức của mỗi người Việt, trở thành một trong những nét tâm lý tính cách văn hóa đặc trưng tiêu biểu của dân tộc Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ảnh tư liệu.
Sau nhiều năm nghiên cứu, các nhà sử học, nhà văn hóa, chuyên gia lịch sử quân sự đã thống nhất khẳng định: Cùng với nhân vật lịch sử huyền thoại Quốc tổ Hùng Vương, còn có 13 nhân vật kiệt xuất trong lịch sử dựng nước và giữ nước đã đi vào lòng dân, xứng đáng được Bộ Văn hóa-Thể thao và Du lịch quy hoạch xây dựng tượng đài, đó là: Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế, Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Lý Công Uẩn, Lý Thường Kiệt, Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ (Quang Trung) và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vì 14 vị trên đã đáp ứng được một trong ba tiêu chí: Người khởi xướng, lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống lại ách đô hộ ngoại xâm, giành độc lập dân tộc; người đứng đầu một vương triều có đóng góp đặc biệt xuất sắc, lãnh đạo dân tộc giành được những thành tựu to lớn trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước; nhà quân sự, chính trị, văn hóa lỗi lạc.
Tất cả 14 nhân vật lịch sử đó được nhân dân tôn kính, thờ phụng ở rất nhiều nơi. Trong đó, Quốc tổ Hùng Vương được thờ phụng ở hơn 1.400 di tích; “Đức thánh Trần” Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn được thờ phụng ở hơn 400 làng xã và di tích lịch sử tại nhiều địa phương.
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, theo thống kê của các cơ quan chức năng, hiện cả nước đã có hơn 600 di tích, địa điểm di tích lưu niệm Bác Hồ tại gần 30 tỉnh, thành phố; 103 tượng đài Bác Hồ được xây dựng trong khuôn viên, trụ sở của các cơ quan, đơn vị trên toàn quốc.
Tại sao các vị anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa, đặc biệt là Quốc tổ Hùng Vương, Trần Quốc Tuấn và Chủ tịch Hồ Chí Minh lại được nhân dân ta tôn kính, thờ phụng ở khắp nơi như vậy?
Bởi vì, các vua Hùng đã có công khai cơ lập quốc, xây nền đắp móng cho giang sơn Việt Nam từ buổi bình minh của lịch sử dân tộc để Tổ quốc ta trường tồn đến hôm nay và mai sau.
Trần Quốc Tuấn là vị anh hùng dân tộc gắn liền với 3 lần chiến thắng quân xâm lược Mông-Nguyên, để lại một dấu son chói lọi trong lịch sử giữ nước của dân tộc Việt Nam và mang tầm thời đại ở thế kỷ XIII.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất ở thế kỷ XX; người sáng lập, rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam; người khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, chế độ dân chủ công-nông đầu tiên ở Đông Nam Á; người cha thân yêu của các LLVT nhân dân Việt Nam; người đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và mang lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam.
Lịch sử vốn khách quan, lòng dân là công tâm nhất. Không ai có thể phong “thánh” cho ai, mà “thánh” xuất phát từ lòng dân, sống mãi trong lòng dân. Thế nên, dân gian mới có câu “Thương dân, dân lập đền thờ…”. Lòng dân Việt Nam đối với Bác Hồ, có lẽ không câu nào sâu sắc hơn câu đối mà ông Nguyễn Văn Từ đã viết cách nay 55 năm, nhân dịp mừng sinh nhật Bác tròn 70 tuổi (19-5-1960): Lo vì Dân, nghĩ vì Dân, vui khổ cũng vì Dân, dốc chí thờ Dân, công Bác với Dân thiên thu bất tận/ Bố gọi Bác, con gọi Bác, cháu chắt lại gọi Bác, nối dòng theo Bác, lòng Dân mong Bác vạn thọ vô cương.

Tên tuổi Hồ Chí Minh mang dấu ấn thời đại
Nhân dân, dân tộc Việt Nam tôn kính Bác Hồ như một tình cảm tự nhiên, vì Người đã làm “rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta”. Nhưng không chỉ có vậy, tên tuổi Hồ Chí Minh đã vượt qua biên giới lãnh thổ Việt Nam, lan tỏa sâu rộng trên nhiều nước và trở thành một trong những nhân vật mang dấu ấn thời đại.
Cách đây 32 năm, sau khi tập hợp ý kiến của 300 nhà khoa học trên thế giới, cuốn từ điển tiểu sử mang tên “Văn hóa thế kỷ XX” (XXth Century culture) được Nhà xuất bản Harper and Row (Mỹ) xuất bản năm 1983, trong đó có tiểu sử Hồ Chí Minh. Được xếp vào tiểu sử danh nhân văn hóa thế giới, vì ý kiến của 300 nhà khoa học đều có chung nhận định: “Hồ Chí Minh là người khởi xướng, giương cao ngọn cờ giải phóng các dân tộc thuộc địa và trở thành người dẫn đường chủ chốt được mặc nhiên thừa nhận và kính trọng của châu Á và của thế giới thứ ba”.
Cuối tháng 12-1999, khi nhân loại sắp kết thúc thế kỷ XX và thiên niên kỷ thứ hai để bước vào thế kỷ XXI và thiên niên kỷ thứ ba, tờ The Times (Thời báo) hàng đầu nước Mỹ cùng Hãng truyền hình CBS đã công bố 100 nhân vật quan trọng nhất của thế kỷ XX. Đây là kết quả được bầu chọn bởi 7 triệu người dân của nhiều nước trên thế giới, trong danh sách đó có Hồ Chí Minh. Trong số 100 nhân vật được bầu chọn, The Times lại chọn ra danh sách 20 nhà lãnh đạo và nhà cách mạng có uy tín nhất thế giới, trong đó có Hồ Chí Minh cùng những tên tuổi lừng danh khác như: V.I.Lê-nin, M.Găng-đi, Man-đê-la…  
Trong khóa họp toàn thể lần thứ 24 tại Pa-ri (Pháp) từ ngày 20-10 đến ngày 20-11-1987, UNESCO đã thảo luận, xem xét và thông qua Nghị quyết về Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vào thời điểm đó, cả thế giới mới có 21 nhân vật lỗi lạc trên thế giới đáp ứng tiêu chí chung nhất là “Những người để lại những dấu ấn quan trọng trong quá trình phát triển văn minh, tiến bộ của nhân loại” được UNESCO ra nghị quyết kỷ niệm. Đúng dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1890 / 19-5-1990), UNESCO đã chính thức tôn vinh Hồ Chí Minh là "Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất". Nghị quyết của UNESCO có đoạn nhấn mạnh: “Hồ Chí Minh là biểu tượng kiệt xuất của sự khẳng định quyền dân tộc đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội... Những lý tưởng của Người là hiện thân của nguyện vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc văn hóa của mình và thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc”. Đồng thời, UNESCO đã khuyến nghị 159 quốc gia thành viên “Kết hợp kỷ niệm lần thứ 100 Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng cách tổ chức những hoạt động đa dạng để tư­ởng niệm Người, để làm cho mọi ngư­ời hiểu được tầm vóc to lớn của những tư tưởng và sự nghiệp của Người vì sự nghiệp giải phóng dân tộc”.
Không ngẫu nhiên mà Hồ Chí Minh được thế giới đánh giá cao như vậy. Trước đó, vào năm 1923, ngay lần đầu tiên gặp Nguyễn Ái Quốc, nhà thơ Xô-viết Ô-xíp Man-đen-xtam từng có nhận định sắc sảo như một lời tiên tri: “Từ Nguyễn Ái Quốc tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa châu Âu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai”. Khi nhận được tin Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần (2-9-1969), Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông đã gửi viếng Bác một câu đối: Chí khí tráng sơn hà, kim cổ anh hùng duy hữu nhất/ Minh tinh quang nhật nguyệt, Á Âu hào kiệt thị vô song (Nghĩa là: Chí khí trải khắp cả non sông; anh hùng xưa đến nay chỉ có một/ Vì sao sáng hơn mặt trời, mặt trăng; hào kiệt cả Á Âu không đâu có).
Mới đây, Tạp chí Tổng hợp Mỹ La-tinh và thế giới thứ ba, ấn bản của Cu-ba đã phát hành phụ san đặc biệt số tháng 5-2015, dành trọn vẹn 12 trang khổ lớn nói về Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân kỷ niệm 125 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1890 / 19-5-2015). Ngoài phiên bản của Cu-ba, tạp chí này còn được xuất bản tại các nước Vê-nê-du-ê-la, U-ru-guay, Ác-hen-ti-na và Tây Ban Nha.

Thuộc lớp người “Là nguồn cổ vũ đời đời bất diệt”
Nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa Cu-ba Phi-đen Ca-xtơ-rô từng nói: “Đồng chí Hồ Chí Minh thuộc những lớp người đặc biệt mà cái chết là mầm mống của sự sống và là nguồn cổ vũ đời đời bất diệt”. Có lẽ vì vậy mà sau khi Bác Hồ qua đời, 45 năm qua (1969-2014), trong số hơn 60 triệu lượt khách vào Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh viếng Người và tham quan khu di tích Bác Hồ tại Phủ Chủ tịch, có khoảng 7 triệu lượt khách nước ngoài đến từ 160 quốc gia, vùng lãnh thổ và hàng trăm tổ chức quốc tế, trong số đó có rất nhiều nguyên thủ quốc gia, chính khách nổi tiếng thế giới.
Riêng 5 ngày nghỉ lễ mới đây (từ ngày 28-4 đến 3-5-2015, trừ ngày 1-5 Lăng Bác không tổ chức đón khách), đã có hơn 103.000 lượt người vào Lăng viếng Bác Hồ, trong số đó có hơn 11.300 lượt khách nước ngoài (chiếm gần 11% tổng số khách tham quan).
Với lòng ngưỡng mộ Bác Hồ, bên cạnh việc đặt tên đường, tên trường học, tên quảng trường, tên vườn hoa, tên công viên mang danh “Hồ Chí Minh” ở nhiều nước trên thế giới, đến nay có 15 nước thuộc các chế độ khác nhau ở nhiều châu lục như: Nga, Pháp, Anh, Cu-ba, Thái Lan, Phi-líp-pin, Mông Cổ, Mê-xi-cô, Xri Lan-ca, Ma-đa-gát-xca… đã dựng tượng đài Hồ Chí Minh.
Những “con số biết nói” đó như minh chứng rõ ràng hơn về Hồ Chí Minh đã nằm trong trái tim nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế sâu sắc đến nhường nào!
Một bài viết khó có thể nói hết tầm vóc vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tuy vậy, những dẫn chứng trên đây thêm một lần khẳng định: Nhân dân ta kính yêu Chủ tịch Hồ Chí Minh như một tình cảm tự nhiên và rất đỗi thiêng liêng. Vì Người là tinh hoa của lịch sử dân tộc mấy ngàn năm hội tụ, là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam và là biểu tượng văn hóa bất tử của dân tộc Việt Nam. Lý tưởng, niềm tin, lẽ sống của Bác Hồ là lý tưởng, niềm tin và lẽ sống của cả dân tộc Việt Nam.
Tự hào về Chủ tịch Hồ Chí Minh là chúng ta tự hào về Đảng quang vinh và dân tộc anh hùng, vì Người là linh hồn của Đảng, là trí tuệ, phẩm giá, lương tâm và danh dự của dân tộc Việt Nam. Những ước vọng cao đẹp của Người sẽ được Đảng và nhân dân ta từng bước thực hiện thành công. Tư tưởng của Người luôn là ngọn đuốc sáng, soi đường cho nhân dân ta tiến về phía trước để xây dựng một nước Việt Nam hùng cường, phồn vinh, sánh vai với các cường quốc năm châu bốn biển.


THIÊN VĂN

Chống các quan điểm sai lệch

Chủ tịch nước đề nghị, nếu ai đó còn có ngần ngại, còn có bất đồng, chúng ta hãy nói với các bạn ấy rằng Mẹ hiền Việt Nam lúc nào cũng dang rộng cánh tay đón nhận tất cả những người con của mình về với Tổ quốc. Không có lý do gì, sự bất đồng gì ngăn cản sự đoàn kết, thống nhất quốc gia trong sự nghiệp phát triển, xây dựng đất nước của chúng ta.
>>Bài 1: Tôn trọng sự thật một giai đoạn lịch sử
>>Bài 2: Trải nghiệm thực tế để thay đổi định kiến
Tháng 6/2007, trong chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã có cuộc gặp gỡ với kiều bào tại quận Cam - một địa chỉ hội tụ đông đảo người Việt di cư sau 30/4/1975. Bằng tình cảm ấm áp, chân tình, Chủ tịch nước chia sẻ: “Chúng ta nghĩ Tổ quốc là cái gì xa xôi, nhưng Quốc văn giáo khoa thư nói rằng, đó là những gì gần gũi nhất... Tôi mong bà con của mình, hãy vì quê hương đất nước, gác bỏ những khác biệt của mình, hãy đoàn kết lại, cùng nhau xây dựng Mẹ hiền Việt Nam, đất nước Việt Nam giàu mạnh, hùng cường”.
Chủ tịch nước đề nghị, nếu ai đó còn có ngần ngại, còn có bất đồng, chúng ta hãy nói với các bạn ấy rằng Mẹ hiền Việt Nam lúc nào cũng dang rộng cánh tay đón nhận tất cả những người con của mình về với Tổ quốc. Không có lý do gì, sự bất đồng gì ngăn cản sự đoàn kết, thống nhất quốc gia trong sự nghiệp phát triển, xây dựng đất nước của chúng ta.                            
Tháng 7/2013, nhân chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang dành thời gian gặp mặt đại diện cộng đồng người Việt, lưu học sinh, sinh viên Việt Nam, bạn bè Mỹ và Liên hợp quốc. Tại cuộc gặp này, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nhấn mạnh rằng, Việt Nam quyết tâm tiếp tục công cuộc đổi mới, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, không ngừng tạo cơ hội để tăng cường quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ và tăng cường gắn kết với cộng đồng người Việt Nam tại Hoa Kỳ.
Chủ tịch nước chia sẻ những quan tâm, hoan nghênh những nỗ lực và kết quả hoạt động của người Việt Nam tại Hoa Kỳ; đồng thời bày tỏ mong muốn hai bên tiếp tục tăng cường hợp tác sâu rộng trên nhiều lĩnh vực một cách thiết thực, góp phần tích cực vào tiến trình hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Hoa Kỳ cũng như đem lại những lợi ích thiết thực cho hai nước và khu vực.
Ngày nay, Việt Nam giành được những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới, đất nước hội nhập ngày càng sâu rộng, quan hệ quốc tế với xu hướng đa phương hóa, đa dạng hóa, các quan điểm, tư duy cũng có nhiều đổi mới so với trước. Đó là điều kiện để chúng ta thực hiện hiệu quả hơn, sâu rộng hơn, thực chất hơn vấn đề hòa giải, hòa hợp dân tộc. Lực lượng người Việt cực đoan ngày càng suy yếu về số lượng và phạm vi hoạt động nhưng tăng cường mức độ chống phá với thủ đoạn ngày càng tinh vi, gây ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình hòa giải, hòa hợp dân tộc cũng như sự phát triển nói chung.
Kiều bào đến thăm đảo Trường Sa.
Với truyền thống hòa hiếu của dân tộc Việt Nam, chúng ta nhất quán thực hiện chủ trương khép lại quá khứ, hướng tới tương lai - Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Điều này được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ rõ trong diễn văn tại lễ kỷ niệm 40 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước: “Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - thành công, thành công, đại thành công”, đồng bào ta ở trong nước cũng như ở nước ngoài, mỗi người chúng ta hãy nêu cao tinh thần dân tộc, lòng yêu nước thương nòi, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, không phân biệt quá khứ, vượt lên trên những khác biệt, cùng nhau chân thành hòa hợp dân tộc, vun đắp và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, tất cả vì một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh như mong muốn cuối cùng trong Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ kính yêu”.
Trong việc thực hiện hòa giải, hòa hợp dân tộc, qua nghiên cứu, đánh giá thực tiễn, theo chúng tôi cần nhất quán những quan điểm sau:
Thứ nhất, lấy lợi ích dân tộc, gốc rễ đồng bào làm điểm tựa. Dân tộc Việt Nam có truyền thống tương thân, tương ái thì dù sinh sống ở đâu, cái nghĩa đồng bào vẫn là điểm trọng. Con cái có thể lúc này hay lúc khác vì các lý do khác nhau mà ra đi, mà có những khác biệt nhưng đất mẹ luôn bao dung, rộng vòng tay đón những đứa con trở về. Quan điểm của Đảng ta luôn thể hiện tinh thần đó và việc thực hiện hiệu quả hơn nữa Nghị quyết 36/NQ-TW của Bộ Chính trị về công tác người Việt Nam ở nước ngoài là một yêu cầu khách quan. Nghị quyết đã đánh giá một cách toàn diện, thực chất hệ thống chủ trương, chính sách, pháp lý, hành chính đối với kiều bào và đề ra những giải pháp trọng tâm trong thời gian tới.
Thứ hai, tôn trọng lịch sử, không khoét sâu hận thù. Có cuộc chiến tranh nào mà không có đau thương, mất mát, không có chia ly kẻ đi, người ở, không có những hận thù. Nhưng tất cả khi đã là quá khứ, chúng ta phải biết để nó lại đằng sau, biết lấy đó làm bài học để tránh lặp lại. Việc những người Việt từng phải đối đầu giữa hai bên chiến tuyến, đó là một giai đoạn lịch sử mà dân tộc ta trải qua với bao biến cố để có được độc lập, thống nhất như ngày hôm nay. Việc bộ phận người Việt sau 30/4/1975 di cư sang Mỹ và nhiều nước khác cũng là một sự thật lịch sử và dù ra đi với bất kỳ lý do gì, chúng ta cũng nên có cách nhìn nhận ôn hòa.
Thứ ba, lấy chân thành để xóa thù hận: Những khác biệt trong quan điểm giữa bộ phận người Việt ở nước ngoài, nhất là tại Mỹ với đất nước cần được giải quyết bằng sự chân tình. Trên cơ sở quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước, chúng ta đến với họ bằng sự thực tâm, chủ động mở rộng tiếp xúc cả với những người còn có định kiến, mặc cảm với Nhà nước và chế độ; tạo điều kiện để những người đã phục vụ trong chế độ cũ, những người hoạt động tôn giáo, văn hóa - nghệ thuật, xã hội… có tinh thần dân tộc được trở về quê hương. Tất cả các hoạt động này đã tác động tích cực đến cộng đồng cũng như dư luận trong và ngoài nước, bà con dần hiểu hơn, tin tưởng hơn vào chính sách của Nhà nước ta. Bắc nhịp cầu qua ngăn cách, xóa bỏ khác biệt trong ý thức họ không đơn giản, nó đòi hỏi những nỗ lực to lớn cả từ phía Nhà nước cũng như từ phía cộng đồng người Việt trong và ngoài nước. Tuy nhiên, dân tộc Việt Nam hoàn toàn có cơ sở để thực hiện mục tiêu ấy bởi tinh thần dân tộc, sự bao dung và lòng yêu nước, một truyền thống bền vững.
Thứ tư, cần phản bác những quan điểm cực đoan, có tính chất lợi dụng vấn đề hòa giải, hòa hợp để chống đất nước. Đó là những quan điểm được bơm vá, bôi vẽ, xuyên tạc làm sai lệch bản chất như cho rằng, đối với người Việt Nam thì không thể có hòa giải, hòa hợp hay đặt ra điều kiện, muốn hòa giải, hòa hợp thì Đảng Cộng sản Việt Nam phải từ bỏ Chủ nghĩa Mác - Lê nin, phải từ bỏ Chủ nghĩa xã hội… Hòa giải, hòa hợp là nguyện vọng chính đáng, xuất phát từ cội nguồn dân tộc và thực hiện trên cơ sở lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc, do đó không thể có chuyện đặt ra yêu cầu, điều kiện như trên. Đòi xóa bỏ Đảng Cộng sản, đòi đa nguyên, đa đảng, đòi từ bỏ chủ nghĩa xã hội thực chất là sự xảo trá của những kẻ chống phá, lợi dụng chiêu bài hòa giải, hòa hợp để xuyên tạc, áp đặt. Hòa hợp dân tộc, xóa đau thương chiến tranh là đòi hỏi khách quan, mở ra cơ hội khép lại quá khứ, gạt bỏ hận thù, thành kiến, chân thành hòa giải, hòa hợp, đó là một chính sách vĩ mô lâu dài chứ không phải là thủ đoạn chính trị như luận điệu xuyên tạc của kẻ địch.
Thứ năm, hòa giải hòa hợp là xu thế tất yếu của thời đại. Cần nhận thức rằng, dù còn những khác biệt, những vách ngăn chưa được tháo gỡ song xu thế đồng thuận và ủng hộ công cuộc phát triển đất nước ngày càng mạnh mẽ hơn bao giờ hết, trở thành nguyện vọng chung của hầu hết người Việt Nam. Dù ở đâu, bất cứ ai cũng có quyền về quê hương đất mẹ để thăm lại cố hương, nhớ lại tuổi thơ yên bình, gặp lại người thân, thắp nén nhang cho người thân đã khuất, không có gì cản trở những ý nguyện tốt đẹp của bất cứ ai đối với đất nước mình. Sự chống phá chỉ là thiểu số và ngày càng lạc lõng, đơn điệu trong xu thế phát triển đất nước, sự hội nhập sâu rộng, đặc biệt là quan hệ hợp tác toàn diện Việt – Mỹ.
Về giải pháp, thời gian tới, cần thực sự thể hiện tinh thần hòa hợp dân tộc, phát huy cao độ truyền thống đại đoàn kết toàn dân, đề cao trách nhiệm của các ngành, các cấp, chủ động đến với kiều bào, chăm lo và bảo vệ quyền lợi chính đáng để bà con kiều bào thấy Đảng và Nhà nước là chỗ dựa vững chắc trong quá trình hội nhập, ổn định cuộc sống, giữ gìn bản sắc dân tộc, đặc biệt là duy trì Tiếng Việt.
Bên cạnh đó, phải thực sự coi trọng nguồn lực của cộng đồng, xóa bỏ mọi rào cản, phân biệt giữa đồng bào trong nước và đồng bào ở nước ngoài trong xây dựng chính sách, tạo hành lang pháp lý thông thoáng hơn cho bà con về nước kinh doanh và đầu tư, tạo điều kiện cho bà con kiều bào đóng góp cho đất nước trong khả năng của mình bằng những hình thức phù hợp. Điểm nữa, chủ động có những biện pháp đột phá trong vận động kiều bào, đồng thời kiên quyết đấu tranh, cô lập, tiến tới làm tan rã các lực lượng cực đoan, phản động. Công tác thông tin tuyên truyền đối ngoại cần có những bước đột phá, phù hợp với tình hình, đặc biệt trong bối cảnh công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ ngày nay.
Đăng Trường

Trải nghiệm thực tế để thay đổi định kiến

Trong bài viết của Đại tá Khuất Biên Hòa ghi theo lời kể của nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh (Báo điện tử Vietnamnet ngày 29/4/2015) khẳng định: Không hề có cuộc trả thù “tắm máu” nào, đội quân và bộ máy chính quyền Sài Gòn tan rã tại chỗ nên các đô thị của miền Nam hầu như nguyên vẹn, không bị tàn phá. Kết thúc chiến tranh có người thắng kẻ thua nhưng không hề có sự trả thù và phục thù gay gắt. Đây là yếu tố tiên quyết, là cơ sở nền tảng cho sự ổn định chính trị để đất nước đứng vững và phát triển đi lên. 
Không chỉ binh lính mà cả sỹ quan Mỹ và các nước chư hầu đã sang tham chiến ở Việt Nam; họ đã gây tội ác, nhưng khi họ bị bắt lại được ta đối xử nhân đạo, được thả về, sau này họ và người thân của họ sang thăm lại đất nước Việt Nam thì họ thấy ân hận vì đã đem đau khổ cho một dân tộc hiền hậu và vị tha như thế này.
Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, ngày 26/3/2004 xác định người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời và là một nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tố quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nước ta với các nước. Do đó, một trong những chủ trương được Đảng ta khẳng định rõ trong Nghị quyết này là: “Xoá bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp; xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai”.
Tới nay, sau hơn 10 năm thực hiện, công tác người Việt Nam ở nước ngoài (NVNONN) tạo được bước chuyển mới trên cả 3 lĩnh vực: xây dựng chính sách, đổi mới công tác thông tin, báo chí và vận động cộng đồng. Triển khai nhiệm vụ hoàn chỉnh và xây dựng mới các chính sách dành cho kiều bào được nêu trong Nghị quyết, chúng ta đã rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng mới những văn bản pháp lý quan trọng liên quan đến NVNONN như: luật quốc tịch, đất đai, nhà ở, đầu tư, doanh nghiệp, pháp lệnh về ngoại hối, các quy định về miễn thị thực nhập xuất cảnh cho NVNONN, về cư trú, hồi hương… theo hướng ngày càng thuận lợi cho kiều bào.
Nhiều việc làm thiết thực được các cơ quan chức năng Việt Nam thúc đẩy, trong đó có việc gặp gỡ, đối thoại với số người chống đối đang định cư tại Mỹ, nhất là tại bang Texas và quận Cam, bang Califonia. Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn là người trực tiếp đối thoại nhiều lần với những người này, trong đó có những người chống đối khét tiếng, được cho là “định kiến ăn vào máu”.
Chia sẻ điều này, Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn cho rằng, thuyết phục những đối tượng đó phải bằng tình cảm, đôi khi cần cả sự dũng cảm khi phải nói những điều rất thật với họ. “Họ nói thẳng với tôi rằng họ đã theo dõi quá trình hoạt động từ trước đến nay của tôi, thấy tôi là người có tấm lòng, có sự cởi mở chân thành nên họ mới đến gặp, để xem “sự chân thành của ông ra sao” - Thứ trưởng nói. Chẳng hạn, trong số những người đến gặp đoàn có nhiều người cầm đầu các phong trào cực đoan chống đối từ nhỏ đến lớn. Người trẻ tuổi nhất trong số họ cũng đã trên dưới 60, đều là những người đã trải qua cuộc chiến tranh trong nước, rồi đi ra nước ngoài đã 40 năm.
Một trong những hoạt động được kiều bào quan tâm, thể hiện ý nghĩa sâu sắc trong tiến trình hòa hợp dân tộc, đó là tổ chức gặp gỡ, đưa kiều bào đi thăm quần đảo Trường Sa. Chính họ qua thực tiễn mắt thấy tai nghe để kiểm nghiệm một thực tế là chúng ta đang bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc, không như luận điệu xuyên tạc khi họ nghe ở nước ngoài.
Năm 2014, phu nhân của Hạm trưởng tàu Nhật Tảo - Trung tá Ngụy Văn Thà (người đã chỉ huy chiến hạm Nhật Tảo bảo vệ Hoàng Sa) và Hạm phó Nguyễn Thành Trí, hai người đã ngã xuống ở Hoàng Sa ra Trường Sa đã tự tay thắp nén nhang tưởng niệm những người thân, người chồng của mình đã ngã xuống để bảo vệ Hoàng Sa ngày trước. Rồi ông Nguyễn Ngọc Lập, từng là Thiếu úy Thủy quân lục chiến dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa, hiện đang sống ở quận Cam - trung tâm của những người chống Cộng; luật sư David Nguyễn, Trưởng ban vận động và tổ chức bầu cử hội đồng đại diện cộng đồng người Việt quốc gia Houston và vùng phụ cận hay nhà báo Lý Kiến Trúc, câu lạc bộ văn hóa và báo chí quận Cam…
Để thuyết phục ông Lập về thăm đất nước, ra Trường Sa, Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn phải qua ba lần gặp gỡ, phân tích thân tình. Khi thăm viếng ngôi mộ mang tên hạ sĩ Hà Hữu Lộc, Tiểu đoàn 4, Trung đoàn 43, Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn nói với ông Nguyễn Ngọc Lập rằng: “Bia mộ vẫn còn nguyên phiên hiệu, đơn vị… Những ngôi mộ thế này xây từ ngày xưa có ai phá đâu. Chân lý ở đâu, sự thật ở chỗ nào khi các anh cứ hô hào, kêu gọi chống Cộng, nói rằng Cộng sản không làm gì cho nghĩa trang. Trong khi đồng đội quý vị nằm đây... Nếu đất nước không có đại đoàn kết thì những ngôi mộ kia có còn những tấm bia nguyên vẹn như vậy không?”. Lặng nhìn ngôi mộ từng là chiến sĩ đồng đội của mình, ông Lập thừa nhận: “Chúng tôi đến để đối diện với sự thật”.
Còn nhà báo Việt kiều Lý Kiến Trúc thừa nhận “trang sử Việt Nam đã bước qua trang mới, trang sử cũ khép lại. Quên đi những trang sử đau khổ của Việt Nam mà hãy phát triển Việt Nam, muốn vậy phải giải quyết khối đại đoàn kết của người Việt trong nước và người Việt ở hải ngoại, hòa giải, hòa hợp lẫn nhau…”.
Rõ ràng, bằng sự chân tình, gần gũi giữa con người với con người, bằng hiện thực xã hội qua những chuyến đi như vậy đã giúp những người vốn có tư tưởng định kiến “thâm căn cố đế” có những trải nghiệm ý nghĩa. Chúng ta chưa đặt vấn đề họ thay đổi tư tưởng chống đối bằng hành động yêu nước bởi mọi thứ không dễ trong một sớm một chiều mà điều quan trọng là từ thực tiễn cuộc sống và tình cảm thân tình để giúp họ có cách nhìn đúng mực hơn, trước hết là giảm sự xa lánh, bớt đi hận thù.
Ông Nguyễn Ngọc Lập sau chuyến về thăm quê, tình cảm, nghĩ suy cũng đã có những đổi khác. Ông nói: “Người ta bảo là cả chuyến đi về Việt Nam không thấy ông Nguyễn Ngọc Lập khóc. Trời ơi, tôi khóc mà anh thấy được sao. Bay tới Đài Loan tôi chưa khóc, nhưng từ Đài Loan về, tôi khóc đến mức hai người ngồi cạnh tôi tưởng tôi làm sao”. Mấy chục năm ôm mối hận thù, từng “cầm trịch” những phong trào chống Cộng tại quận Cam, nay ông nhìn nhận: “Đã đến lúc mình nên nói thật, ai nắm được chính nghĩa thì người đó thắng. Muốn nói gì đi chăng nữa thì cũng phải dựa trên dân tộc. Khó nhất hiện nay là phải nhận ra được kẻ thù của mình là chính mình. Mình cần hòa giải với chính mình trước rồi mới thương xót, tha thứ cho người khác được”.
Còn ông Vũ Chung, nhà báo hiện đang sinh sống tại khu vực Little Sài Gòn, trung tâm sinh hoạt cộng đồng của người Việt tại quận Cam, chuyến về quê hương thời gian qua là dấu ấn rất đáng nhớ. Từng có những hành động chống đối kịch liệt, nay ông nhìn nhận: những sự hiểu lầm, bất đồng giữa bộ người Việt tại Mỹ với trong nước đang dần được thu hẹp.
Ông cho rằng, so với 20 năm về trước, hôm nay người Việt Nam tại hải ngoại, nhất là những người đã về Việt Nam có hiểu biết về những sự thay đổi của Việt Nam và có cái nhìn đúng đắn hơn những người chưa bao giờ trở về.“Tôi nghĩ cùng với thời gian, sự hiểu biết sẽ lớn dần lên qua sự gặp gỡ giữa người ngoài nước và trong nước dưới dạng đi du lịch, làm ăn, thăm thân… Sự tiếp xúc đó, dù lặng lẽ nhưng là một lực đẩy dẫn đến những điều tốt đẹp” – ông Vũ Chung nói.
Từng là Thiếu úy quân đội Việt Nam Cộng hòa, sau ngày thống nhất đất nước, ông Vũ Chung phải đi tập trung cải tạo 5 năm, sau đó sang Mỹ định cư và làm báo. Bằng những hoạt động tích cực gần đây, ông Vũ Chung chứng minh rằng khi có sự hiểu biết, sẻ chia, bằng thân tình, bao dung, mọi hố sâu ngăn cách đều có thể thu hẹp.
Cũng lớn lên tại miền Nam và định cư tại Mỹ đã hàng chục năm như nhà báo Vũ Chung và Thiếu úy Lập, kỹ sư Lê Thành Du được sang Mỹ học từ năm 1972, ngay khi vừa tốt nghiệp trung học. Gia đình ông có nhiều người từng nắm giữ nhiều chức vụ cao trong chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Ông cho rằng, không có cái gọi là thù địch vĩnh viễn. Ông lấy viện dẫn, hai nước Việt Nam và Mỹ từng là đối thù mà nay bắt tay nhau được thì không lý gì những người Việt với nhau lại không làm được việc hòa hợp dân tộc. Do đó, cùng là người Việt dù sống ở đâu, nếu đất nước cần thì mình vẫn góp công sức, sẻ chia, sự khác biệt vì vậy cũng sẽ được thu hẹp lại.
Ông Nguyễn Văn Tuyên, người di cư sang Mỹ từ năm 1984, nay là hội viên Hội Doanh nhân Việt Nam tại Mỹ lại thể hiện trách nhiệm của mình bằng những dự án cung cấp nước sạch cho vùng sâu vùng xa ở Việt Nam. Ông quan niệm, chiến tranh là điều không ai mong muốn, cuộc chiến nào cũng để lại đau thương, tổn thất và vì thế chúng ta không nên đào sâu thù hận chiến tranh khi nó đã lùi vào quá khứ. “Đã 40 năm rồi, chúng ta nên khép lại trang sử cũ, cùng ngồi lại với nhau để xây dựng đất nước, đưa đất nước tiến vào một quỹ đạo mới chứ không phải là ngồi bới móc, thù hận với đất nước” - ông Tuyên tỏ rõ quan điểm.
Ông Vũ Trọng Kim, Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam nói rằng, nhiều năm tham gia công tác mặt trận, ông đã có các cuộc tiếp xúc với đồng bào ta ở nước ngoài. Trong số họ có nhiều người từng tham gia chính quyền cũ.
Rất nhiều người như ông Trần Bá Phúc ở Australia đã từng cầm cờ ba que tới Đại sứ quán để chống cộng quyết liệt, nhưng giờ lại là người rất xuất sắc trong việc vận động kiều bào ủng hộ đất nước. Có những người trước đây rất bất mãn, vì lý do này khác hoặc vì chính sách thực hiện không tới nơi tới chốn thì bây giờ đều đã thay đổi. Họ đã gạt đi những gì là cá nhân vị kỷ, họ được giải thoát. Ông Vũ Trọng Kim thừa nhận, chính sự nghiệp đổi mới của chúng ta đã thuyết phục họ một cách sâu sắc nhất, đó chính là sự tự nhận thức. Sự thật, nhiều đồng bào ta ở nước ngoài, nhất là những người ngoài 50 tuổi thường bắt đầu quay về quê hương. Tuổi thành niên thì vì các lý do khác nhau mà ra nước ngoài, nhưng có tuổi là tìm về đất mẹ.
Sự thật nói trên cho thấy, không có khái niệm gọi là hận thù vĩnh viễn, không có chuyện người Việt “không thể dung hòa” như luận điệu tuyên truyền của các thế lực xấu.
(Còn nữa)
Đăng Trường

Bài 1: Tôn trọng sự thật một giai đoạn lịch sử

Tháng 4 và những ngày đầu tháng 5/2015, trong khi cả dân tộc kỷ niệm ngày chiến thắng, thống nhất non sông thì một bộ phận người Việt hải ngoại vẫn định kiến hận thù, tiếp tục lặp lại các điệp khúc chống phá cực đoan. Hơn bao giờ hết, vấn đề hòa giải, hòa hợp dân tộc càng được đặt ra cấp thiết bởi cùng một đất mẹ, chúng ta không thể kéo dài tình trạng này. Vết thương còn có ngày lành sẹo, bầu bí một giàn, lòng ái quốc chính là cội nguồn cho tinh thần hòa giải, hòa hợp dân tộc, hướng về đất mẹ.

Trong loạt bài này, chúng tôi đưa ra góc nhìn vấn đề hòa giải, hòa hợp dân tộc, tìm hiểu thực tế những hoạt động hòa giải cũng như chính kiến, sẻ chia của những người từng ở bên kia chiến tuyến, nay hướng về Đất Mẹ… Từ đó, chúng tôi đề xuất các giải pháp, quan điểm để đảm bảo thực hiện hòa giải, hòa hợp dân tộc được thực chất hơn cũng như phản bác quan điểm lợi dụng danh nghĩa này để chống phá đất nước của các thế lực thù địch.


Hành động chống phá “đến hẹn”
Tháng 4 và đầu tháng 5 năm nay, trong khi đồng bào dù ở trong hay ngoài nước đều một lòng hướng về Tổ quốc, bằng những hoạt động khác nhau kỷ niệm ngày Bắc Nam thống nhất, núi sông liền một dải thì một bộ phận người Việt định cư tại Mỹ và một số nơi khác lại tiếp tục điệp khúc chống đối cực đoan, xới lại sự hận thù. Một số nhóm người Việt tại California tụ tập dưới biểu ngữ “tưởng niệm ngày quốc hận”, treo cờ ba que và nghe “diễn văn tưởng niệm” với lời lẽ nặng sự hận thù.
Đây là hành động có tính thường niên của bộ phận người Việt ra đi sau 30/4/1975, tới nay vẫn ôm chặt tư duy cũ, chống đối và định kiến về đất nước. Họ được cổ súy bởi những mắt xích vốn là người Việt cực đoan, số này “lĩnh ấn tiên phong” trong việc hô hào, kêu gọi tụ tập, tuần hành và các hành động thành lập, tham gia các tổ chức phản động tại hải ngoại.
Cũng vì sự vận động của số chống đối này mà tháng 8/2009, tại thành phố Westminster, họ thông qua cái gọi là “nghị quyết 4257” về việc coi ngày thứ bảy cuối cùng mỗi tháng tư là "Ngày Thuyền nhân Việt Nam". Ở cấp tiểu bang California thì đưa ra cái gọi là “Nghị quyết ACR-40”, công bố tháng tư là tháng của người Mỹ gốc Việt với 6 điểm, trong đó tung hô những khẩu hiệu như “nỗ lực tranh đấu vì lý tưởng tự do”, coi lá cờ vàng ba sọc đỏ (cờ ba que) là “biểu tượng của người Mỹ gốc Việt”; lấy tuần lễ từ 24 đến 30/4 hằng năm là “tuần tưởng niệm tháng tư đen”…
Mới đây, đạo luật S-219 về cái gọi là “hành trình đến tự do” được Thượng nghị sĩ gốc Việt Ngô Thanh Hải bảo trợ và tìm cách vận động để Quốc hội Canada thông qua ngày 22/4/2015. Điều đáng nói là đạo luật do người Canada gốc Việt soạn thảo, vận động này tiếp tục khoét vào sự hận thù khi coi ngày 30/4 hàng năm là ngày để kỷ niệm làn sóng người tị nạn Việt Nam đã được Canada đón nhận sau khi chính quyền Sài Gòn sụp đổ và chiến tranh Việt Nam chấm dứt.
Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Hải Bình. Ảnh: Hữu Nghị.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Hải Bình nêu rõ, S-219 là một đạo luật hoàn toàn sai trái, chứa đựng nhiều nội dung xuyên tạc ý nghĩa ngày 30/4 và cả lịch sử cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế, trong đó có Canada ủng hộ.
30/4 đã là ngày đại lễ của cộng đồng người Việt Nam ở bất cứ nơi đâu, ngày đánh dấu thắng lợi hoàn toàn của cuộc chiến tranh vệ quốc, cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược và các thế lực phản động, tay sai, đưa giang sơn thu về một mối. Bản chất cuộc chiến vệ quốc của Việt Nam là sự thật lịch sử. Sau 40 năm, Việt-Mỹ từ hai bên chiến tuyến, từ đối đầu, đối súng đã trở thành đối tác, bình thường hóa quan hệ từ 1995 và tới nay đã xác lập quan hệ đối tác toàn diện. 40 năm, những người lính Việt Nam Cộng hòa xưa kia đã ở sườn núi của cuộc đời hoặc khuất núi theo quy luật tự nhiên. Chừng đó thời gian là thêm một, hai thế hệ nữa sinh ra, trưởng thành, đủ để nhận thức về cuộc sống.
Câu hỏi đặt ra: Với quãng thời gian như vậy, với bối cảnh mới, tại sao hiềm khích, hận thù vẫn còn, vẫn dai dẳng trong bộ phận người Việt hải ngoại? Tại sao chúng ta cùng đất mẹ, bầu bí một giàn lại chưa thể hòa hợp? Nguyên nhân do đâu và làm thế nào để hòa hợp dân tộc là vấn đề không mới nhưng rất cần được hóa giải và bây giờ là lúc hội đủ nhiều điều kiện để làm được điều đó.
Truyền thống nhân nghĩa
Khi nhìn lại thực tế lịch sử, một số thông tin hải ngoại đã bóp méo sự thực, quy chụp rằng do chúng ta đối xử “thậm tệ” với bên thua cuộc và không hề quan tâm việc hòa giải, hòa hợp dân tộc. Số này cũng ngụy biện khi áp đặt tâm lý “ăn thua” của người Việt, rằng tuy “cùng một mẹ” nhưng người Việt Nam mang nặng tư tưởng hận thù, không thể dung hòa và vu cáo Đảng, Nhà nước ta “bỏ rơi” kiều bào ở Mỹ cũng như ở nước ngoài nói chung.
Đây là những quan điểm “mượn gió bẻ măng”, lộ rõ ý đồ chống phá đất nước, mượn cớ hiện tượng người Việt Nam di cư sang Mỹ nói riêng, ra nước ngoài định cư nói chung để phê phán, đả phá chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng, Nhà nước ta, tìm cách tung tin hỏa mù, vu cáo để ly gián, gây chia rẽ trong các tầng lớp nhân dân cũng như giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, giữa người dân trong nước với kiều bào…
Thực chất, hòa hiếu, hòa hợp dân tộc chính là truyền thống nhân nghĩa, nhân văn có từ lâu đời của dân tộc ta. Sử cũ chép rằng, sau khi đánh thắng 3 đợt xâm lược của giặc Nguyên – Mông, nhà Trần họp các quan lại xem việc định công, xét tội. Số là khi quân Nguyên đang cường thịnh, triều thần lắm kẻ hai lòng, theo giặc. Sau khi giặc thua chạy về phương Bắc, triều đình bắt được biểu hàng của các quan. Đình thần muốn lục ra để trị tội nhưng Thượng hoàng Nhân Tông nghĩ rằng, làm vậy là hạ sách bèn sai đốt tráp đi cho yên lòng mọi người, duy chỉ kẻ nào theo giặc, thực sự nguy hại thì mới xử lý. Quân dân cũng theo cách đó mà xử sự.
Lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta thời kỳ nào cũng chứng kiến những kẻ hai lòng theo giặc, phản triều đình nhưng cách xử sự cũng căn cứ tính chất, mức độ, dựa trên nền tảng nhân nghĩa “đánh người chạy đi, không ai đánh người chạy lại”.
Từ năm 1946, Bác Hồ đã nói khi chúng ta vừa giành chính quyền từ cuộc khởi nghĩa cách mạng Tháng Tám rằng, khi chống Pháp, cũng có những người Việt đứng ở bên phía Pháp. Bác nói “Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi, 5 ngón tay cũng có ngón ngắn ngón dài, nhưng ngắn dài đều hợp ở nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác. Nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng, đại độ, ta phải nhận ra rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường ta phải lấy tinh thân ái mà cảm hóa họ, có như thế mới thành đoàn kết. Có đại đoàn kết thì tương lai chắc chắn vẻ vang”.
Trong thư chúc Tết kiều bào đầu năm 1946 - năm đầu tiên khi nước nhà vừa giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá cao tấm lòng yêu mến cố hương, luôn hướng về Tổ quốc của kiều bào và khẳng định: “Tổ quốc và Chính phủ cũng luôn luôn nhớ thương các đồng bào, như bố mẹ thương nhớ những người con đi vắng. Đó là nhân tâm thiên lý, đó là tình nghĩa một nhà như thế”. 
(Còn nữa)
Đăng Trường

Trò hề về một giải thưởng nhân quyền quốc tế

Vừa qua, Tổ chức Civil Rights Defenders (viết tắt là CRD, mang tên là Những người bảo vệ dân quyền) của Thụy Điển mới trao giải thưởng Người bảo vệ Dân quyền 2015 trị giá 50.000 euro cho blogger Nguyễn Ngọc Như Quỳnh được trang web của các thế lực phản động hải ngoại ca ngợi là “giải thưởng nhân quyền cao quý hàng đầu thế giới”, người nhận giải “là người Châu Á đầu tiên”, là “một trong 3 nhà đấu tranh nhân quyền đầu tiên trên thế giới được vinh danh”.
Tổ chức đứng ra trao giải được ca ngợi là “đã hoạt động trên 30 năm trong các vấn đề bảo vệ các quyền dân sự và chính trị” với nhiệm vụ chính là “hỗ trợ cho những người bảo vệ nhân quyền tại các xã hội áp bức trên toàn thế giới”. Thực hư về giải thưởng này là thế nào?                             
CRD (trước đây gọi là “Ủy ban Helsinki Thụy Điển cho nhân quyền”) khởi nguồn là một trong 40 tổ chức phi chính phủ hình thành từ phong trào Helsinki sau năm 1975 nhằm giám sát việc thực hiện Hiệp ước Helsinki năm 1975 như là một thỏa thuận tạo diễn đàn giải quyết bất đồng giữa các nước phương Đông và phương Tây ở châu Âu trong Chiến tranh lạnh tổ chức tại Finlandia Hall của Helsinki, Phần Lan trong tháng 7/1975 với sự tham dự của 35 nước như Mỹ, Canada, Liên Xô và phần lớn các nước châu Âu.
Bản chất và danh nghĩa là “giám sát các chính phủ nước họ kiểm soát xung đột và bảo vệ nhân quyền” với Liên Xô, nhưng nhìn lại quá trình này, giới nghiên cứu đã có những bài viết như “Quá trình Helsinki và cái chết của chủ nghĩa cộng sản”phân tích Hiệp ước Helsinki tạo ra một khe nứt trong áo giáp của "chủ nghĩa xã hội" giúp “phát triển lý luận và ý tưởng là rất quan trọng để lật đổ chủ nghĩa cộng sản trên khắp châu lục này vào năm 1989”.
Sau khi sứ mệnh khai sinh không còn, CRD đổi tên và hoạt động với mục đích bảo vệ quyền con người, về quyền dân sự và chính trị với “địa bàn” hoạt động không phải là ở Thụy Điển mà hướng tới các quốc gia/vùng lãnh thổ hoàn toàn “xa xôi” và “xa lạ” như Cuba, Thái Lan, Ukraine, Uzbekistan, Venezuela, Miến Điện, Campuchia hay Việt Nam.
Ngoài việc trao giải thưởng cho “Người bảo vệ dân quyền” hằng năm, tổ chức này còn tổ chức ngày hội quy tụ “những nhà đấu tranh dân chủ hàng đầu thế giới” (?) mà họ cũng không hề giấu giếm mục đích thực chất là những “ngày hội” đài thọ miễn phí này là “tham gia vào khóa đào tạo nhằm tăng cường khả năng hoạt động của các nhà hoạt động này” sau khi trở về đất nước. Tổ chức này còn được trang bị những vòng tay giúp định vị và bảo vệ an toàn cho “các nhà đấu tranh dân chủ” tránh bị bắt cóc hay thủ tiêu và nó đã xuất hiện ở Việt Nam, được đeo trên tay của những cá nhân bị dư luận và chính quyền lên án có hành động chống phá đất nước, gây rối an ninh, trật tự.
Khôi hài nhất là ngay khi giải thưởng trên vừa được tuyên bố đã xuất hiện một phong trào tẩy chay, lên án giải thưởng, người trao giải, người nhận giải từ chính những nhân vật tự nhận “đấu tranh dân chủ” với Nguyễn Ngọc Như Quỳnh. Số này cho rằng, Quỳnh không xứng đáng với giải thưởng, rằng “Tây lông có mắt như mù”, rằng thế lực hậu thuẫn, vận động trao giải này cho Quỳnh không thực sự “phục vụ lợi ích của người dân Việt Nam”…
Một số đã vận động nhau viết thư tiếng Anh gửi đến tổ chức CRD lên án tổ chức này “chọn nhầm người vinh danh”, cá nhân nhận giải là kẻ “phá hoại phong trào dân chủ”, “độc tài”, “tấn công người khuyết tật”…
Một số blogger bình phẩm, hiếm khi mà các bài viết, quan điểm ở cả phía những kẻ nhân danh “đấu tranh dân chủ, nhân quyền” và phía những blogger, facebooker thường xuyên lên án những kẻ này trên mạng Internet (thường bị chụp mũ là “dư luận viên”) lại có điểm chung ở việc lên án quy trình và bản chất các giải thưởng nhân quyền quốc tế đến vậy. Cả hai phía đều “thống nhất” rằng, các giải thưởng nhân quyền quốc tế do chính giới phương Tây đẻ ra, dùng nó làm công cụ chi phối chính trị các quốc gia khác, nhất là các quốc gia mà Mỹ và phương Tây cho rằng “độc tài” cần phải thay đổi thể chế chính trị. Quy trình trao giải đều là cá nhân trong nước được tổ chức hay thế lực bên ngoài hậu thuẫn, vận động, cán cân nghiêng về thế lực đứng ra vận động (lobby) nào mạnh hơn thì cá nhân đó được “vinh danh”.
Chưa khi nào có một cá nhân có hoạt động “đấu tranh dân chủ” nhận được số tiền thưởng lớn đến như vậy nên dễ hiểu là chưa khi nào nó lại gây tranh cãi, bức xúc và điều tiếng đến vậy. Chắc chắn giải thưởng này sẽ kích thích những kẻ tự xưng “đấu tranh dân chủ” thay đổi hướng hoạt động vào “trình diễn” với các ông bà chính khách phương Tây về “thành tích đấu tranh dân chủ, nhân quyền” của họ để tìm kiếm các giải thưởng có giá trị vật chất khác. Các bài viết trên facebook, blog thay vì chỉ dùng tiếng Việt sẽ tích cực được chuyển thể sang tiếng Anh và tag vô tội vạ các nick facebook của các vị ngoại giao, dân biểu Tây phương vào “chứng kiến”. Các hoạt động “đấu tranh dân chủ” thay vì vận động người dân trong nước đi theo họ sẽ chuyển sang dành cho vận động các đại sứ quán, chính khách Tây phương nhiều hơn.
Mỗi khi đại sứ quán Tây phương nào đó tổ chức hội thảo, tọa đàm về nhân quyền là các anh chị “dân chủ” rầm rập lao đến, tranh nhau “trình diễn” thành tích chống chính quyền xem ai hơn ai kém, ai bị “đàn áp” nhiều hơn và vị nhân viên ngoại giao Tây phương chỉ việc làm quan tòa phán xét “tình trạng vi phạm dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam”, ban phát lời hay ý đẹp, định hướng cho các ông bà “dân chủ” nên thế nọ thế kia cùng với vài lời hứa hẹn có cánh.
Từ đây, nếu chịu khó quan sát, dư luận sẽ chứng kiến nhiều màn diễn dở khóc dở cười – hệ lụy của “giải thưởng quốc tế” kia cả ở phía chính khách Tây phương lẫn “các nhà đấu tranh dân chủ”. Còn đa phần những người Việt thì ngao ngán khi phải chứng kiến những câu chuyện trong “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng tái xuất.
Đinh Hương