Sự vu cáo trơ trẽn

QĐND - Ngày 13-6 vừa qua, trên Đài RFA, Trương Minh Tam, hiện đang có mặt tại Mỹ, đã có bài trả lời phỏng vấn của đài này về vấn đề nhân quyền tại Việt Nam. Trong những câu hỏi-trả lời dạng “kẻ tung người hứng”, Tam đã “thổ lộ” về những “dự định” và “thông báo” những gì mà Tam gọi là “được thấy” trong trại giam của Việt Nam.
Cần phải nói rõ để Trương Minh Tam và những người làm ở Đài RFA hiểu rằng: Thứ nhất, ở Việt Nam hiện nay không có cái gọi là “tù nhân lương tâm”, “tù chính trị” như một số người hoang tưởng đã nghĩ ra. Ở Việt Nam hiện chỉ có những kẻ phạm pháp, đã phạm vào các tội được quy định trong Bộ luật Hình sự của Việt Nam. Những người này sau khi được xét xử công khai và công bằng, nếu đáng phải chịu án tù giam thì mới bị thi hành án theo quy định của pháp luật. Những người như Cù Huy Hà Vũ, Lê Công Định, Nguyễn Văn Hải, Trương Minh Tam và một số người khác, đều là những người đã từng phạm tội và được Tòa án của Việt Nam xét xử đúng luật. Việc Tam gọi những người này là “bất đồng chính kiến” và cho đó là nguyên nhân trực tiếp dẫn họ đến tù tội là một sự vu cáo trơ trẽn, hòng xuyên tạc những thành quả về bảo đảm nhân quyền ở Việt Nam. Trên thực tế những năm qua, Nhà nước, Chính phủ Việt Nam đã có rất nhiều cố gắng trong việc thực hiện dân chủ, bảo đảm quyền lợi chính đáng của mọi người dân Việt Nam. Hiến pháp năm 2013 ra đời, đã đánh dấu một bước tiến vượt bậc trong cải cách tư pháp, thể hiện quyết tâm cao của Nhà nước trong việc bảo đảm dân chủ, quyền con người ở Việt Nam. Cho nên dù Tam có nói xiên, nói xẹo thì vẫn không thể đánh lừa được dư luận.
Thứ hai, Tam cho rằng những “tù nhân lương tâm” ở Việt Nam bị đầy ải trong nhà tù với những khổ cực trong sinh hoạt, đời sống. Nói ra điều này chứng tỏ Tam bịa đặt, đơm chuyện. Chẳng lẽ Tam không nhìn thấy hình ảnh Cù Huy Hà Vũ với thể trạng béo tốt (mặc dù theo mấy blogger có tà tâm cho rằng Vũ đã “tuyệt thực” cả tháng trời), một mình một phòng giam, có ti vi, sách, báo... do chính đồng đảng của Vũ đưa lên mạng. Nói thêm cho Tam hiểu, trong suốt thời kỳ Mỹ đưa quân xâm lược Việt Nam, nhà tù đã được Mỹ, chính quyền Sài Gòn dựng lên khắp miền Nam Việt Nam. Đã có hàng vạn tù chính trị là những người yêu nước, thực sự muốn đánh đuổi quân xâm lược giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc đã bị Mỹ, chính quyền Sài Gòn giam cầm, tra tấn, hành hạ. Hàng nghìn chiến sĩ cộng sản-tù chính trị đã bị Mỹ, chính quyền Sài Gòn thủ tiêu, hoặc bị tra tấn đến chết. Đến nay, những di tích như: Nhà tù Côn Đảo, Nhà tù Phú Quốc, Khám lớn Sài Gòn v.v.. vẫn còn hiển hiện những tội ác dã man của Mỹ và chế độ Sài Gòn... Thế nên, những kẻ như Trương Minh Tam rất cần học lại lịch sử để dần chữa chứng bệnh hoang tưởng đang ngày càng nặng.
TRẦN THÔN

Không có “Hiến pháp mở, luật đóng” trong quản lý báo chí

QĐND - Tuần qua, trong không khí tưng bừng của cả nước chào mừng kỷ niệm 90 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam với sự trưởng thành, phát triển vượt bậc của nền báo chí nước nhà, đây đó trên internet và đài, báo hải ngoại vẫn xuất hiện những bài viết lạc lõng, cố tình bóp méo sự thật. Một trong những luận điệu mới họ đưa ra là phủ nhận những tiến bộ của quá trình chuẩn bị dự án Luật Báo chí (sửa đổi) và đề án quy hoạch báo chí hiện nay. Họ cho rằng, ở Việt Nam không có tự do báo chí thực sự do “Hiến pháp mở nhưng luật lại “đóng”... 

Pháp điển hóa nhiều điểm mới về quyền tự do báo chí

Từ sự bóp méo đó, họ đòi hỏi việc sửa đổi Luật Báo chí và quy hoạch lại hệ thống báo chí phải cho phép tồn tại báo chí tư nhân thì mới có tự do báo chí thực sự.

Những lập luận trên là hoàn toàn sai trái, bóp méo sự thật. Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (sửa đổi) năm 2013 đã nêu rõ tại Điều 25: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.

Xét cho cùng, việc sửa đổi Luật Báo chí và quy hoạch lại hệ thống báo chí hiện nay cũng là nhằm triển khai, hiện thực hóa quyền tự do báo chí của công dân theo Hiến pháp đã quy định. Nghiên cứu kỹ Điều 25 của Hiến pháp có thể thấy rõ, Hiến pháp hiến định công dân có quyền tự do báo chí, tiếp cận thông tin và thực hiện các quyền này do pháp luật (bao gồm cả các đạo luật và văn bản dưới luật) quy định.

Phát biểu tại Hội thảo góp ý xây dựng Luật Báo chí (sửa đổi) do Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức mới đây, TS Trương Minh Tuấn, Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông khẳng định: “Qua tổng kết 15 năm thi hành và xu hướng phát triển của báo chí thời gian tới, đồng thời thể chế hóa các nguyên tắc, quan điểm của Đảng về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới; một trong những yêu cầu hàng đầu đặt ra trong xây dựng Luật Báo chí lần này là phải triển khai thực hiện quy định của Hiến pháp năm 2013, trong đó có quy định mới hết sức quan trọng về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình... Vì vậy, Luật Báo chí mới phải bảo đảm những quy định trong luật đáp ứng tốt hơn nữa quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và đặc biệt là quyền tiếp cận thông tin của công dân phù hợp điều kiện phát triển của đất nước.

Nhìn lại lịch sử lập pháp ở nước ta, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam qua các thời kỳ và Luật Báo chí của nước ta đều có quy định quyền tự do ngôn luận trên nguyên lý nền tảng, bảo đảm giá trị phổ quát của quyền con người: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin”; “Báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ; không một tổ chức, cá nhân nào được hạn chế, cản trở báo chí, nhà báo hoạt động”… “Báo chí không bị kiểm duyệt trước khi in, phát sóng”. Có thể nói, những nội dung nói trên đã bao hàm khá đầy đủ, toàn diện nội hàm cơ bản về quyền tự do báo chí của công dân.

 
Ảnh minh họa/TTXVN
Dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi), trên cơ sở tiếp thu những điểm mới của Hiến pháp, đã quy định rõ ràng hơn về quyền tự do báo chí của công dân bằng việc dành hẳn một chương quy định quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận theo tinh thần Hiến pháp  và xác định Điều 12 quy định về quyền tự do báo chí; Điều 13 quy định về quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân. Trong đó, về quyền tự do báo chí quy định: Báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được Nhà nước bảo hộ; tổ chức, cá nhân không được hạn chế, cản trở cơ quan báo chí, nhà báo hoạt động đúng pháp luật; không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; Nhà nước không kiểm duyệt báo chí trước khi đăng, phát sóng. Về quyền tự do ngôn luận trên báo chí của công dân quy định: Công dân được thông tin qua báo chí về mọi mặt của tình hình đất nước và thế giới; được tiếp xúc, cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí và nhà báo; gửi tin, bài, ảnh và tác phẩm khác cho báo chí mà không chịu sự kiểm duyệt của tổ chức, cá nhân nào và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin; được phát biểu ý kiến trên báo chí về tình hình đất nước và thế giới; tham gia ý kiến vào việc xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; góp ý, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo theo quy định của pháp luật.

Cùng với các quy định trên, theo lãnh đạo Bộ Thông tin và Truyền thông, dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi) hiện có tới 35 điểm mới. Những quy định trên, theo nhiều chuyên gia pháp luật và báo chí, đã thể hiện được sự tiến bộ của dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi), pháp điển hóa nhiều nội dung về quyền tự do báo chí được hiến định trong Hiến pháp. Những quan điểm cho rằng “Hiến pháp mở, luật đóng” rõ ràng là hồ đồ, phiến diện, không có căn cứ.

Không có báo chí tư nhân 

Quan điểm xuyên suốt, nhất quán trong dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi) cũng như dự thảo đề án quy hoạch báo chí đều xác định: Ở Việt Nam, không có báo chí tư nhân song điểm mới là cơ quan báo chí được phép liên kết trong hoạt động báo chí với cơ quan báo chí khác, pháp nhân, cá nhân có đăng ký kinh doanh phù hợp với lĩnh vực liên kết. Điều này hoàn toàn không trái ngược với những giá trị phổ quát của nhân loại về quyền tự do báo chí. Theo nghiên cứu của TS Trương Minh Tuấn, tư tưởng của nhà triết học người Anh John Stuart Mill - một trong những người đầu tiên đề cập tới tự do báo chí có nhiều nét tương đồng với quan điểm của Các Mác. Theo quan điểm của Mác - Ăng-ghen, ở đâu có báo chí, ở đấy có tự do báo chí và  bản chất của báo chí tự do, đó là bản chất dũng cảm, có lý tính, có đạo đức tự do. Các Mác cho rằng, thiên chức của báo chí tự do là phải có con mắt sáng suốt của tinh thần nhân dân, là hiện thân sự tin cậy của nhân dân với bản thân mình, là những dây liên hệ biết nói gắn liền với các cá nhân, với nhà nước, với toàn thế giới... Báo chí tự do phải có luật báo chí bảo đảm.

Dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi) tại Điều 5 quy định rõ: “Báo chí ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội; là diễn đàn của nhân dân”. Đồng thời, tại Điều 16 cũng quy định rõ đối tượng được thành lập cơ quan báo chí gồm: “Cơ quan của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức chính trị-xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội-nghề nghiệp (sau đây gọi chung là cơ quan, tổ chức). Các tổ chức khác của Nhà nước do Chính phủ quy định”. Như vậy, so với Luật Báo chí hiện hành, dự thảo luật đã quy định rõ hơn về đối tượng được thành lập cơ quan báo chí và theo quy định của dự thảo luật, cá nhân, tư nhân không được thành lập cơ quan báo chí. Đây là một quy định rõ ràng, minh bạch.

Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 10 khóa XI khi cho ý kiến về đề án Quy hoạch báo chí đến năm 2025, Trung ương một lần nữa khẳng định: Không để tư nhân sở hữu báo chí, không để lợi ích nhóm chi phối báo chí, chủ động cung cấp thông tin cho báo chí. Những nội dung này đã nhận được sự quan tâm, ủng hộ của dư luận nhân dân. Tinh thần bản dự thảo Đề án Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025 cũng xác định: Không để tư nhân sở hữu báo chí, không để nhóm lợi ích chi phối báo chí; kết hợp chặt chẽ các loại hình báo chí, đồng thời phát huy lợi thế của các phương tiện, dịch vụ trên internet nhằm chủ động cung cấp thông tin chính thống có định hướng, tăng diện bao phủ trong nước và quốc tế; hạn chế ảnh hưởng tiêu cực và bảo đảm an toàn, an ninh thông tin mạng… Nhà báo Hữu Thọ, nguyên Trưởng ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương hoan nghênh chủ trương trên và cho rằng, quy hoạch phát triển và quản lý báo chí lúc này là rất cần thiết để báo chí phát triển.

Thực tế cho thấy, với việc sửa đổi Luật Báo chí và quy hoạch lại hệ thống báo chí, Đảng, Nhà nước ta đã và đang có nhiều đổi mới, nỗ lực đột phá để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của báo chí, giúp báo chí thực sự là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống xã hội; là diễn đàn của nhân dân; góp phần đưa những điểm mới của Hiến pháp năm 2013 về quyền tự do báo chí ngày càng đi vào cuộc sống.

NGUYỄN VĂN MINH

Biểu hiện mới của ‘diễn biến hòa bình’

"Diễn biến hòa bình" là sự thực, là thực tế, đã và đang diễn ra hằng ngày, hằng giờ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nước ta, không phải là một con “ngáo ộp” do chúng ta “cố tình nặn ra”, là “sản phẩm trí tuệ không có thực tế” như có những kẻ rắp tâm xuyên tạc và sự lệch lạc trong nhận thức và lập trường chính trị của một số người.
Hiện nay, trong khi nhân dân ta đang nỗ lực đẩy mạnh công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tăng cường quốc phòng, an ninh, đấu tranh chống “diễn biến hòa bình", bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ, thì lại có người cho rằng “diễn biến hòa bình" là do chúng ta “cố tình nặn ra”, là “sản phẩm trí tuệ không có thực tế”; rằng, chúng ta đã cố tình thêu dệt để hù dọa nhân dân, để che đậy khuyết điểm, chứ không có “diễn biến hòa bình"! Đây là một sự hồ đồ về chính trị của một số người hay là một thủ đoạn chống phá mới của các thế lực thù địch. Có lẽ cả hai.
Cần thấy rằng, khái niệm “diễn biến hòa bình" không phải là sự “sáng tạo” của những người cộng sản, cũng không phải là con "ngáo ộp" được thêu dệt nhằm hù dọa nhân dân, mà đó là một chiến lược, là một sản phẩm của chủ nghĩa đế quốc trong mục tiêu thủ tiêu chủ nghĩa xã hội. Đối với cách mạng Việt Nam,“diễn biến hòa bình” là một nguy cơ, trong tình hình hiện nay, càng được ráo riết đẩy mạnh và quyết liệt hơn với những thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt.
"Diễn biến hòa bình" là sự thực, là thực tế, đã và đang diễn ra hằng ngày, hằng giờ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nước ta, không phải là một con “ngáo ộp” do chúng ta “cố tình nặn ra”, là “sản phẩm trí tuệ không có thực tế” như có những kẻ rắp tâm xuyên tạc và sự lệch lạc trong nhận thức và lập trường chính trị của một số người.
"Diễn biến hòa bình" có hay không? Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam thực hiện đấu tranh chống "diễn biến hòa bình" hay không? Đó là do yêu cầu khách quan, xuất phát trực tiếp từ chính âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch chứ không phải do Đảng Cộng sản Việt Nam "cố tình vẽ ra". Không nên suy nghĩ một cách méo mó, xuyên tạc rằng không có "diễn biến hòa bình", để rồi lên mặt khuyên nhủ Đảng và nhân dân ta "không nên chống nữa", rằng chống "diễn biến hòa bình" là "vô duyên", là "vẽ việc ra để làm".
Kêu gọi không nên chống "diễn biến hòa bình" là một luận điệu đặc biệt nguy hiểm. Đây thực sự là sự "tiếp tay" cho việc thực hiện âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình" chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch; và đó cũng là một chiêu thức mới, một thủ đoạn mới của các thế lực thù địch trong thực hiện "diễn biến hòa bình" chống phá cách mạng nước ta.
Âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam đến nay là nhất quán, nhưng đã có nhiều thay đổi, không còn giữ nguyên nghĩa như trước. Nó đã chuyển sang kết hợp thực hiện “diễn biến hòa bình" về tư tưởng, lý luận với “diễn biến hòa bình" trên tất cả các lĩnh vực, với tiến công về chính trị, công kích trực tiếp, trực diện vào vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thân thế, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chúng kết hợp xuyên tạc lịch sử, lên án, phủ định sự nghiệp cách mạng và các cuộc kháng chiến chống xâm lược đầy hy sinh gian khổ của nhân dân ta, với việc phủ định những giá trị hiện tại, những thành tựu của sự nghiệp đổi mới, với việc làm lệch hướng tương lai phát triển của dân tộc. Những thủ đoạn tiến công đó được chúng kết hợp với việc sử dụng con bài pháp lý đòi Việt Nam phải thay đổi chế độ, chính sách, pháp luật quốc gia; gắn với những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực, nhất là tình hình Biển Đông.
Chúng kết hợp đẩy mạnh “diễn biến hòa bình” với việc khuyến khích, tạo điều kiện, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta. Những kiến nghị sửa đổi Hiến pháp, pháp luật theo quan điểm dân chủ và giá trị phương Tây, đòi hạn chế vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, đòi tự do báo chí (ra báo, nhà xuất bản tư nhân…), tự do lập hội (đòi thành lập công đoàn độc lập), tự do hội họp, biểu tình, đòi xóa bỏ nhiều quy định trong Bộ luật Hình sự liên quan đến lĩnh vực an ninh quốc gia..., cho thấy ngón đòn “diễn biến hòa bình” thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được chúng thực thi rất ráo riết và đặc biệt nguy hiểm.
Vì thế, trong bối cảnh hiện nay, nhiệm vụ phòng, chống “diễn biến hòa bình” của nhân dân ta càng trở nên khó khăn, phức tạp hơn. Tính phức tạp, khó khăn trong đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” biểu hiện ở chỗ, chúng ta khó phân định rạch ròi đâu là “diễn biến hòa bình”, đâu là những hạn chế, khuyết điểm của chúng ta. Đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” hiện nay là một cuộc đấu tranh mang tính tổng hợp.
Chúng ta cùng một lúc phải đối phó với nhiều thế lực thù địch, ngăn chặn đồng thời nhiều nguy cơ đối với cách mạng Việt Nam, để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ công cuộc đổi mới đất nước, bảo vệ thành quả cách mạng của nhân dân ta trong gần 70 năm qua.
Đảng và nhân dân ta vừa phải đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” vừa phải ra sức khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, đặc biệt là những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Hay nói cách khác, chống “diễn biến hòa bình” phải gắn chặt với đấu tranh khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình” hiện nay là một cuộc đấu tranh mang tính sống còn đối với chế độ xã hội và độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia của nước ta. Cuộc đấu tranh này dù có muôn vàn khó khăn, nhưng chúng ta chỉ có một sự lựa chọn, đó là: phải chiến thắng.
Muốn giành thắng lợi, trước hết chúng ta phải nỗ lực thực hiện tốt những vấn đề rất cơ bản:
Một là, giữ vững ổn định, tạo môi trường thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế.
Hai là, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, con đường, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Ba là, nâng cao khả năng "miễn dịch", sức đề kháng của cơ thể xã hội, của hệ thống chính trị, đặc biệt là của Đảng và cán bộ, đảng viên.
 Bốn là, thực hiện tốt vừa đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, vừa kiên quyết ngăn chặn "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ, lấy ngăn chặn "tự diễn biến", gột rửa, loại trừ cái xấu đã lây lan làm chính.
Năm là, thực hiện thật tốt nhiệm vụ “then chốt” xây dựng Đảng mà Đại hội XI, đặc biệt Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tư khóa XI của Đảng đã xác định. “Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của toàn Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết của cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; không dao động trong bất cứ tình huống nào” (Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 255). Tạo sự chuyển biến rõ rệt về xây dựng Đảng, nhất là xây dựng cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng, ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ.
“Diễn biến hòa bình” là sự thật và đặc biệt nguy hiểm, nhưng các thế lực thù địch có thể đạt được mục tiêu hay không, thì điều đó phụ thuộc vào chính chúng ta, vào sự khỏe mạnh, sự nỗ lực và quyết tâm của chúng ta. “Không ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta” (V.I.Lênin Toàn tập, tập 42, Nxb Tiến bộ, M. 1979, tr. 311.).
PGS, TS Nguyễn Mạnh Hưởng

Kiên quyết không để thông tin xấu độc xâm nhập vào đơn vị

QĐND - Trong tuần qua, Báo Quân đội nhân dân đã đăng một số bài vạch rõ những âm mưu, thủ đoạn, chiêu trò chống phá cách mạng nước ta của các thế lực thù địch trước thềm đại hội Đảng các cấp, trong đó có việc tung tin, xuyên tạc, bịa đặt về lãnh đạo cấp cao và “bôi đen” hình ảnh đất nước ta. Tòa soạn tiếp tục nhận được một số ý kiến của cán bộ, chiến sĩ về việc đẩy mạnh đấu tranh phòng ngừa, không để những thông tin độc hại xâm nhập vào đơn vị. 
Đại tá, Thạc sĩ PHÙNG VĂN LẬP, Phó chủ nhiệm Chính trị, Trường Đại học Chính trị:
Định hướng tốt trước những thông tin phức tạp, nhạy cảm
Thời gian qua, cán bộ, giảng viên, học viên, nhân viên, chiến sĩ Trường Đại học Chính trị luôn xác định phòng, chống, làm thất bại âm mưu, chiến lược “Diễn biến hòa bình” là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công tác chính trị, tư tưởng của nhà trường. Vì vậy, nhà trường đã đề ra những việc làm thiết thực như: Cập nhật các nội dung phòng chống “Diễn biến hòa bình” trong bài giảng các môn khoa học xã hội-nhân văn và các bài giảng chính trị; thường xuyên chủ động làm tốt công tác thông tin-tuyên truyền, tăng cường các thông tin chuyên đề, nói chuyện thời sự, định hướng tư tưởng cho bộ đội trước những vấn đề dư luận quan tâm và những vấn đề mà các thế lực thù địch, phản động tập trung chống phá cách mạng nước ta. Đặc biệt, nhà trường đã xây dựng, phát huy tốt vai trò, trách nhiệm của tổ biên tập tin, bài blog, facebook… nhằm phân tích, đánh giá những nội dung thông tin phức tạp, nhạy cảm xuất hiện trên mạng xã hội, từ đó định hướng cán bộ, giảng viên, học viên có cách tiếp cận phù hợp, tỉnh táo nhận diện những thông tin lệch lạc, sai trái, bất lợi; kiên quyết đấu tranh, đẩy lùi những thông tin xấu độc chống phá công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nhà trường cũng thường xuyên làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, bồi dưỡng, nâng cao bản lĩnh chính trị, lập trường cách mạng cho đội ngũ cán bộ, giảng viên, học viên; kịp thời ngăn chặn, xử lý, loại trừ nguy cơ suy thoái về tư tưởng chính trị có nguồn gốc từ sự yếu kém trong rèn luyện bản lĩnh, phẩm chất đạo đức, lối sống của bộ đội.
       
Trung tá LÊ VĂN TẦN, Trưởng ban Tuyên huấn, Sư đoàn 377 (Quân chủng Phòng không-Không quân):
Chú trọng xây dựng môi trường văn hóa-thông tin lành mạnh
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và trước những luồng thông tin sai trái, độc hại xuất hiện trước thềm đại hội Đảng các cấp, thời gian qua, cơ quan tuyên huấn đã tham mưu cho Đảng ủy-chỉ huy Sư đoàn chỉ đạo các cơ quan, đơn vị trong toàn sư đoàn tập trung làm tốt công tác giáo dục bộ đội. Bên cạnh việc đổi mới hình thức, nội dung, phương pháp giáo dục chính trị cơ bản, giáo dục truyền thống, giáo dục thường xuyên nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị, lập trường cách mạng cho cán bộ, chiến sĩ, các đơn vị trong sư đoàn đã bám sát sự chỉ đạo của các cơ quan chức năng cấp trên để kịp thời, chủ động định hướng thông tin cho bộ đội trước những luồng thông tin phức tạp, nhạy cảm. Bên cạnh đó, tất cả các trung đội, đại đội trong sư đoàn đều duy trì nghiêm túc, hiệu quả chế độ đọc báo, xem thời sự, nghe chương trình phát thanh Quân đội nhân dân hằng ngày. Ngoài ra, các đơn vị còn phối hợp với chính quyền, mặt trận, đoàn thể nơi đóng quân tích cực tham gia phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, tăng cường các hoạt động giao lưu văn hóa thắt chặt tình đoàn kết quân dân, góp phần xây dựng cơ sở chính trị địa bàn vững mạnh, môi trường văn hóa lành mạnh, kiên quyết không để những ấn phẩm văn hóa đồi trụy, thông tin xấu độc xâm nhập vào đơn vị và đời sống bộ đội.
Đối với các cán bộ sử dụng điện thoại thông minh, tham gia facebook, đơn vị quán triệt, giáo dục và yêu cầu mỗi người đề cao ý thức kỷ luật, chấp hành nghiêm quy định của cấp trên về quản lý thông tin trên internet; sử dụng mạng xã hội đúng mục đích, có văn hóa; không được tự ý, tùy tiện để lộ, lọt những thông tin, hình ảnh dễ bị kẻ xấu lợi dụng xuyên tạc. 
Trung tá NGUYỄN VĂN CHÍ, Phó chính ủy Trung đoàn 148, Sư đoàn 316 (Quân khu 2):
Tăng cường cung cấp thông tin chính thống, lành mạnh, bổ ích
Để cán bộ, chiến sĩ luôn có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với mục tiêu lý tưởng cách mạng của Đảng và dân tộc, không bị phân tâm, dao động trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, cấp ủy-chỉ huy các cấp của Trung đoàn 148 đã chú trọng làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng gắn chặt với bảo đảm an ninh chính trị nội bộ. Ngoài việc quán triệt kế hoạch, phương án về bảo đảm an ninh, an toàn cho 100% cán bộ, chiến sĩ, hằng tháng đơn vị cung cấp đầy đủ, kịp thời về tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn đóng quân.
Các đơn vị trong trung đoàn đã phát huy tốt vai trò của đội ngũ cán bộ chính trị, cấp ủy viên, tổ chiến sĩ bảo vệ trong việc nắm bắt tình hình tư tưởng, kịp thời phát hiện những vướng mắc nảy sinh để có cách giải quyết phù hợp. Bên cạnh việc rà soát, quản lý chặt chẽ tình hình chính trị nội bộ, kiên quyết không để các luồng thông tin sai trái xâm nhập vào đơn vị, thời gian qua, trung đoàn đã tăng cường công tác quản lý thông tin quân sự, phòng chống lộ, lọt thông tin bí mật quân sự trên các trang mạng xã hội như facebook, zalo, skype, blog cá nhân của quân nhân trong đơn vị. Trung đoàn 148 luôn xác định: Đi đôi với việc tạo điều kiện thuận lợi để bộ đội được tiếp cận, hưởng thụ những thông tin chính thống, lành mạnh, bổ ích, cần chủ động, tích cực bồi đắp tình cảm, niềm tin tốt đẹp vào đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho bộ đội, bảo đảm tất cả cán bộ, chiến sĩ luôn có bản lĩnh chính trị vững vàng, không dao động trước mọi khó khăn, thử thách, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Thiếu tá BÙI VĂN SỚM, Chính trị viên Tiểu đoàn 3, Lữ đoàn 239 (Binh chủng Công binh):
Giáo dục bộ đội nhận rõ âm mưu chống phá của các thế lực thù địch
Cùng với các cơ quan, đơn vị trong Lữ đoàn 239, thời gian qua, Tiểu đoàn 3 đã chủ động quán triệt, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ nắm vững các quy định của cấp trên về việc đề cao cảnh giác trước những thông tin xuyên tạc, bịa đặt của các thế lực thù địch trước thềm Đại hội Đảng XII.
Mới đây, đơn vị đã tổ chức sinh hoạt tập trung, tuyên truyền cho bộ đội nhận thức rõ những âm mưu, thủ đoạn, hành động của các thế lực thù địch, phản động chống phá cách mạng nước ta, nói xấu cán bộ lãnh đạo cấp cao nhằm gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ. Cùng với đó, đơn vị đã giáo dục cán bộ, chiến sĩ đề cao ý thức tự giác học tập, rèn luyện, tuân thủ pháp luật Nhà nước, kỷ luật quân đội, giữ gìn lời ăn tiếng nói ở mọi lúc mọi nơi, tránh phát ngôn sai quy định. Tiểu đoàn cũng thường xuyên duy trì nghiêm chế độ đọc báo, xem thời sự hằng ngày; thông tin tình hình thời sự trong nước và thế giới vào thứ hai hằng tuần, nhằm cung cấp thông tin chính thống cho cán bộ, chiến sĩ, tạo điều kiện cho bộ đội được tiếp nhận các thông tin lành mạnh, bổ ích. Cán bộ, chiến sĩ toàn tiểu đoàn luôn thực hiện nghiêm quy định không sử dụng internet trong nội bộ đơn vị, không đưa các tin tức, hình ảnh liên quan đến đơn vị và hoạt động quân sự lên các mạng xã hội. 
Thiếu tá PHÙNG VĂN LIÊM, Chính trị viên Tiểu đoàn hỗn hợp đảo Mê, Bộ CHQS tỉnh Thanh Hóa:
Nâng cao “sức đề kháng” cho bộ đội trước thông tin độc hại
Đời sống ngoài đảo có những thiệt thòi nhất định so với trong bờ nên chúng tôi rất coi trọng việc nâng cao đời sống văn hóa-tinh thần cho bộ đội. Trên đảo chỉ có đội ngũ cán bộ được phép sử dụng internet, nhưng chỉ qua wifi và 3G, cho nên việc định hướng tư tưởng về sử dụng internet, chúng tôi chú trọng vào đội ngũ cán bộ là chính. Đội ngũ này được đào tạo trong các nhà trường quân đội, bản lĩnh và ý thức chính trị cao nên sức đề kháng của anh em trước các thông tin xuyên tạc, bịa đặt là rất tốt, tôi có thể khẳng định anh em miễn nhiễm hoàn toàn trước các thủ đoạn bôi nhọ lãnh đạo của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội…
Đối với chiến sĩ, thông qua giao ban chính trị, giảng dạy chính trị, giao ban hằng ngày; chúng tôi thường xuyên bồi dưỡng, cung cấp thông tin để anh em thấy các thế lực thù địch chống phá ráo riết như thế nào, để từ đó anh em nâng cao tinh thần tự học, tự nâng cao trình độ, có đủ bản lĩnh ứng xử trước các tình huống phức tạp trong cuộc sống. Chúng tôi chú trọng phân tích các thủ đoạn hòng chia rẽ mối đoàn kết giữa Đảng, quân đội với nhân dân; giữa công an với quân đội; các thủ đoạn bôi nhọ lãnh đạo cấp cao của các thế lực thù địch, phản động. Sở dĩ cần phân tích sâu sắc các thủ đoạn này, là để bộ đội có đủ thông tin phản bác lại khi gặp phải các chiêu trò chống phá đó. Đặc biệt, thông qua chuyên mục Làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình” trên Báo Quân đội nhân dân, đã giúp cán bộ, chiến sĩ đơn vị nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về cuộc chiến "không tiếng súng" này để đề cao cảnh giác. 
Trung sĩ NGUYỄN TUẤN TÂM, chiến sĩ Tiểu đoàn 133, Lữ đoàn 596 (Binh chủng Thông tin liên lạc):
Nói “không” với thông tin sai trái
 Chuyên mục Làm thất bại chiến lược "Diễn biến hòa bình" thu hút sự quan tâm của cán bộ, chiến sĩ đơn vị chúng tôi. Thông thường, trong giờ thông báo chính trị đầu tuần, đồng chí chính trị viên thường điểm thêm những bài báo hay, đáng chú ý trên báo chí. Trong đó, các bài đấu tranh làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình” trên Báo Quân đội nhân dân luôn được chỉ huy đơn vị khuyến khích cán bộ, chiến sĩ đọc để nâng cao nhận thức và biết cách phòng tránh.
 
Trong bài viết “Cảnh giác với những âm mưu phá hoại trước thềm đại hội Đảng các cấp”, chúng tôi chú ý đến một giải pháp mà bài báo nêu ra là: Các đơn vị cần tiếp tục làm tốt việc sử dụng, phát huy sức mạnh tổng hợp, đồng bộ của các hình thức, nội dung, phương pháp giáo dục chính trị cho bộ đội; kịp thời cung cấp thông tin, định hướng tư tưởng, tạo sự thống nhất, đồng thuận trong đơn vị. Ở đơn vị chúng tôi thường xuyên duy trì nghiêm, hiệu quả các hình thức sinh hoạt văn hóa-tinh thần, như duy trì chế độ đọc báo, xem ti vi và tổ chức tốt các hoạt động văn hóa, văn nghệ; cuối tuần thường tổ chức thi đấu thể thao, hát karaoke… Cùng với đó, đồng chí chính trị viên cũng thường xuyên định hướng thông tin, giúp chiến sĩ nhận thức được thông tin trên mạng cái nào đúng, cái nào là xuyên tạc, bịa đặt. Đặc biệt là tinh thần đoàn kết, cán bộ, chiến sĩ yêu thương nhau, luôn quan tâm, chia sẻ với nhau cả niềm vui và nỗi buồn đã giúp chúng tôi luôn hướng đến các thông tin lành mạnh, nói không với những thông tin xấu độc. Cá nhân tôi chưa bao giờ nghe thấy những thông tin xấu độc trong đơn vị, nhưng nếu có thì chúng tôi sẽ sớm nhận ra và tổ chức đấu tranh ngay. 

Nhận diện chủ nghĩa cơ hội ở nước ta hiện nay

Chủ nghĩa cơ hội là một trào lưu tư tưởng chính trị hình thành trong phong trào công nhân, thể hiện sự thích nghi với lợi ích của tầng lớp tiểu tư sản và bộ phận giai cấp công nhân đã bị tư sản hóa.
Chủ nghĩa cơ hội thể hiện ở quan điểm tư tưởng chính trị mơ hồ, không nhất quán, lu mờ tính giai cấp, tính đảng và tính nguyên tắc về phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, về cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, về chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc...
Theo mô tả của C. Mác, những kẻ cơ hội chủ nghĩa “dốt nát về mặt lý luận nhưng lại giàu có về các thủ đoạn”. Bởi vậy, cần sáng suốt nhận diện, chỉ rõ chân tướng để có các giải pháp phòng, chống, đẩy lùi và khắc phục ảnh hưởng của nó đối với các tổ chức đảng và sự nghiệp cách mạng… Đến nay, chủ nghĩa cơ hội không còn biểu hiện đơn thuần là mâu thuẫn giữa hai luồng tư tưởng nữa, mà đã hóa thân thành “muôn hình vạn trạng”, hòa vào xã hội như một “căn bệnh” quái ác, ăn dần ăn mòn lập trường, tư tưởng của người bị tiêm nhiễm nó. Kẻ cơ hội, xét lại chỉ khoác áo Mác-xít, “trung thành” với chủ nghĩa Mác - Lê-nin trên lời nói, còn về thực chất, từ lâu họ đã phản bội lại chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Trong bối cảnh mới, sự biến động chính trị ở Đông Âu và Liên Xô những năm cuối thập niên 80, đầu 90 của thế kỷ XX dẫn tới sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực, hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã, cách mạng thế giới lâm vào thoái trào. Chủ nghĩa đế quốc coi đây là thời cơ lớn, đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình” để nhanh chóng xóa bỏ các nước xã hội chủ nghĩa còn lại, trong đó có Việt Nam với tham vọng đạt mục tiêu “không đánh mà thắng”, “chiến thắng không cần chiến tranh”.
Chúng chú trọng thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, lấy đội ngũ cán bộ, đảng viên trong bộ máy Nhà nước làm trọng điểm. Bằng nhiều phương thức, thủ đoạn thâm độc, chủ nghĩa đế quốc tìm mọi cách tác động, móc nối, câu kết với các phần tử thoái hóa, biến chất chống đối, cơ hội chủ nghĩa ở trong nước để tập hợp lực lượng, lập mặt trận thống nhất chống phá cách mạng Việt Nam từ cả hai hướng ngoài đánh vào, trong phá ra - “nội công, ngoại kích”.
Thực tiễn 30 năm đổi mới đã cho thấy, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, đất nước đã có những đổi thay rõ rệt, từ một nước chậm phát triển trở thành nước phát triển trung bình với nhiều tiềm năng đang được đánh thức, đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện, vị thế quốc tế không ngừng được nâng cao. Dẫu những kẻ cơ hội chủ nghĩa có cố tình xuyên tạc thực tế lịch sử, thì chúng vẫn không thể làm thay đổi được lòng tin của quần chúng nhân dân vào sự biến chuyển theo hướng tích cực ấy.
Để tăng cường hiệu quả của cuộc đấu tranh này, đòi hỏi sự đoàn kết toàn Đảng, toàn dân, phát huy sức mạnh tổng hợp, triển khai đồng bộ các giải pháp:
Thứ nhất, thường xuyên chăm lo tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức, củng cố niềm tin của toàn Đảng, toàn dân vào sự lãnh đạo của Đảng, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ cả đức và tài, trong đó lấy đức là “gốc”. Qua đó, không ngừng nâng cao lòng yêu nước, biến quyết tâm chung của toàn Đảng, toàn dân thành tinh thần cống hiến hy sinh, phấn đấu của mỗi cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân vì thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, vì hạnh phúc của nhân dân.
Cần kết hợp chặt chẽ giáo dục, rèn luyện toàn diện với xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên là then chốt, gắn tư tưởng với tổ chức. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng cảnh báo: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”; “Vì chưa gột rửa sạch chủ nghĩa cá nhân, cho nên có đảng viên còn “kể công” với Đảng".
Thứ hai, tiếp tục thực hành và nâng cao dân chủ trong điều kiện một Đảng cầm quyền. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã nghiên cứu, chỉ rõ tính tất yếu ra đời của nền dân chủ vô sản thay thế nền dân chủ tư sản. Trong mỗi cuộc cách mạng vô sản thắng lợi, giai cấp vô sản nhất thiết phải đoạt lấy dân chủ từ tay giai cấp tư sản: “Dân chủ tức là chính quyền của nhân dân”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên quan niệm “dân chủ” trong mối quan hệ không tách rời với các quan niệm “dân là gốc”, “dân là chủ”, “dân làm chủ”… Thực hành dân chủ trong Đảng, phát huy sức mạnh lãnh đạo của Đảng làm mẫu mực để phát huy cao nhất sức mạnh làm chủ của nhân dân. Mở rộng dân chủ trong Đảng làm cơ sở tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tạo lập và định hướng hoạt động của xã hội theo hướng ngày càng mở rộng các quyền và quy chế thực thi dân chủ. Sự thống nhất về tư tưởng và hành động của Đảng, giai cấp công nhân và dân tộc là cơ sở để thực hành, mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội.
Thứ ba, dân chủ gắn liền với kỷ cương, có khuôn khổ, trật tự; chỉ có thể thực hiện dân chủ đi đôi với kiên quyết chống các biểu hiện đối lập với dân chủ. Hơn nữa, không thể có dân chủ mà lại thiếu hệ thống pháp luật, trật tự, kỷ cương để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội. Những yêu cầu dân chủ của nhân dân phải được thể chế hóa thành các chuẩn mực mang tính nhà nước và pháp quyền, thành nguyên tắc tổ chức và vận hành của Nhà nước cũng như các tổ chức xã hội khác.
Thực hành dân chủ trong Đảng là làm cho tính dân chủ trong Đảng được mở rộng, phát huy cao độ trí tuệ tập thể xây dựng nghị quyết lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo để đưa sự nghiệp cách mạng đi đúng mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Dân chủ trong Đảng xa lạ với những tư tưởng thủ cựu, độc đoán, chuyên quyền, độc quyền chân lý, cũng như thói quen tự do vô kỷ luật, không chấp hành nghị quyết, không phục tùng chân lý. Như vậy, dân chủ gắn với tập trung, chấp hành kỷ luật nghiêm minh, tự giác. Đây là nguyên tắc tổ chức cơ bản của chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, yếu tố cơ bản để phân biệt một Đảng cách mạng chân chính với các đảng phái cơ hội, hữu khuynh trong phong trào công nhân, mảnh đất dung dưỡng các phần tử cơ hội, xét lại hoạt động phá hoại. Phủ nhận nguyên tắc này là phủ nhận Đảng Cộng sản từ bản chất. Đảng chống tập trung quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, song triệt để tuân theo nguyên tắc tập trung dân chủ. “Chỉ có thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ mới bảo đảm sự thống nhất ý chí và hành động của Đảng, chỉ có như vậy Đảng mới có sức mạnh và sức chiến đấu”.
Trong công tác tư tưởng, sinh hoạt chính trị: khuyến khích tự do tư tưởng, không áp đặt khi có các ý kiến khác nhau, thậm chí đối lập nhau; cần biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến đa số, đồng thời có cơ chế bảo lưu ý kiến của thiểu số; tôn trọng ý kiến cấp trên nhưng cũng có cơ chế bảo lưu ý kiến cấp dưới; định rõ thời hạn xem xét, kết luận, thông báo về các ý kiến thiểu số. Nghiêm cấm việc lạm dụng quyền tự do, dân chủ tuyên truyền quan điểm cá nhân đối lập với đường lối, nghị quyết của Đảng. Khắc phục tình trạng thiếu trật tự, kỷ cương, kỷ luật, mất đoàn kết kéo dài ở không ít cấp ủy, tổ chức đảng các cấp là góp phần phòng ngừa, đấu tranh với chủ nghĩa cơ hội ngay từ mầm mống phát sinh.
PGS, TS Phạm Văn Nhuận, (Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự, Bộ Quốc phòng)

Phòng ngừa, đẩy lùi nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”

QĐND - Trong Chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, một trong những thủ đoạn hết sức thâm hiểm của chúng là thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta, nhằm tha hóa nhận thức của cán bộ, từ đó dẫn đến những thay đổi về đường lối, chính sách-những biểu hiện của chuyển hóa chế độ XHCN ở nước ta sang một quỹ đạo khác. Đặc biệt là trong thời điểm hiện nay, khi tổ chức đảng các cấp đang tiến hành đại hội để tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII thì việc chống phá càng ráo riết. Các thế lực thù địch, cơ hội, bất mãn sử dụng đủ mọi chiêu trò, kể cả những việc có tính xảo trá như: Dựng chuyện, làm giả công văn giấy tờ, gửi đơn nặc danh tới các cơ quan công quyền để khiếu nại, tố cáo... Tất cả những hành động ấy là nhằm mục đích gây chia rẽ nội bộ, làm cho cán bộ, đảng viên nghi kỵ lẫn nhau, đảng viên phai nhạt niềm tin, quần chúng thiếu tin tưởng vào cấp ủy, chính quyền.
Nhìn nhận một cách xác đáng, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có cả nguyên nhân bên trong và nguyên nhân bên ngoài, nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan, song quá trình và mức độ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chủ yếu do nguyên nhân bên trong, nguyên nhân chủ quan, tức là do chính chúng ta quyết định. Điều này đã được V.I.Lê-nin cảnh báo: “Không ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta… Nếu chúng ta do sai lầm mà gây ra sự chia rẽ thì tất cả sẽ sụp đổ”(1). Vì vậy, để làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, đòi hỏi chúng ta phải kịp thời phát hiện và triệt tiêu các mầm mống, khả năng gây ra “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng chính trị. Thực tế cho thấy, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở mỗi con người, mỗi tổ chức trước hết và chủ yếu là về tư tưởng chính trị. Lĩnh vực này diễn ra hết sức phức tạp, đa dạng, với nhiều cấp độ, dần dần, nhỏ nhặt, mà biểu hiện cao nhất đó là sự suy thoái về tư tưởng chính trị trên các khía cạnh như: Phủ nhận nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng ta là Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đòi Đảng phải từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ và thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; phê phán lịch sử cách mạng Việt Nam một cách thiếu khách quan; đòi xét lại con đường đi lên CNXH ở nước ta, kêu gọi thay bằng chế độ TBCN; xuyên tạc, bôi nhọ hình ảnh lãnh tụ Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, Quân đội nhân dân và Công an nhân dân.
Thực tiễn cách mạng thế giới đã cho thấy, nếu tư tưởng chính trị chệch hướng sẽ làm cho bộ máy Đảng và Nhà nước bị chia rẽ, dẫn đến hệ lụy là nguy cơ “tự sụp đổ” chế độ chính trị khó tránh khỏi. Vì vậy, các thế lực thù địch luôn đặt trọng tâm thúc đẩy "tự diễn biến", “tự chuyển hóa” nhằm vào các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, là nơi hoạch định ra đường lối, chủ trương, chính sách, chiến lược phát triển đất nước. Tùy theo từng đối tượng và phạm vi tác động mà các thế lực thù địch sử dụng những thủ đoạn, nội dung, hình thức, biện pháp để thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng chính trị khác nhau.
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực kinh tế. Biểu hiện đó là sự phủ nhận đối với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay; hạ thấp, đi đến làm mất vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước XHCN; đòi tư nhân hóa nền kinh tế, xóa bỏ chế độ công hữu tư liệu sản xuất chủ yếu để thay thế bằng chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN... Quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực kinh tế càng trở nên nguy hiểm trong điều kiện các thế lực thù địch có tiềm lực kinh tế rất mạnh. Chúng tìm mọi cách lợi dụng những kẽ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, khoét sâu vào hạn chế, khuyết điểm của ta để cổ súy, thúc đẩy tư nhân hóa nền kinh tế, nhằm đến một lúc nhất định, khi sở hữu tư nhân TBCN đã giữ vai trò chi phối cơ sở hạ tầng kinh tế, thực chất là chuyển hóa thành kinh tế TBCN, thì kiến trúc thượng tầng XHCN chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa và “đổi màu”. Khi đó, chế độ kinh tế XHCN được thay thế bằng chế độ kinh tế TBCN.
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trên lĩnh vực văn hóa, xã hội, đạo đức, lối sống. Biểu hiện của quá trình này ở việc sùng bái, chạy theo văn hóa, lối sống tư sản; từ bỏ các giá trị văn hóa, đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc; thương mại hóa các hoạt động văn hóa một cách thái quá, đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc; đề cao chủ nghĩa cá nhân, sống xa hoa, xa rời quần chúng...
Tổng cục Chính trị Công an nhân dân phối hợp với Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân tổ chức tọa đàm khoa học "Kinh nghiệm về đấu tranh chống diễn biến hoà bình và phòng, chống tự diễn biến, tự chuyển hoá trên lĩnh vực tư tưởng- văn hoá ở Việt Nam hiện nay". Ảnh minh họa/ Nguồn: QĐND
Nhận rõ tính chất nguy hại của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng nêu rõ: “Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên”(2). Vì vậy, chúng ta cần làm tốt việc phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, trước hết chú trọng vào một số biện pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, phải luôn giữ vững bên trong đi đôi với chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện "tự diễn biến", “tự chuyển hóa”. Giữ vững bên trong là giữ vững ổn định chính trị, xã hội; kiên định mục tiêu, lý tưởng XHCN; phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc; giữ vững truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc... Đồng thời, chủ động đấu tranh vạch rõ âm mưu, thủ đoạn hiểm độc của các thế lực thù địch tìm cách thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta ở mọi nơi, mọi lúc.
Thứ hai, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, lấy "xây" làm cơ sở quyết định để “chống”. Trước hết, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải tập trung xây dựng, củng cố hệ thống chính trị luôn trong sạch, vững mạnh để  bảo đảm sự “miễn dịch” trước những tác động tiêu cực từ bên ngoài. Phát hiện kịp thời các nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ khi còn ở dạng mầm mống, khả năng để làm cơ sở đấu tranh, phê phán, ngăn chặn hữu hiệu. Đồng thời, đấu tranh kiên quyết và triệt để với tệ nạn tham nhũng, lãng phí, quan liêu, coi đó như một thứ “giặc nội xâm”, không khác gì cuộc đấu tranh làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Thứ ba, phải coi trọng công tác tổ chức, cán bộ kết hợp với tăng cường giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên vừa “hồng” vừa “chuyên”. Cần làm tốt công tác tuyển chọn, bồi dưỡng, sắp xếp cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt, chủ trì các cấp trong hệ thống chính trị, không để các thế lực thù địch lợi dụng để thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta. Vì thế, phải coi trọng gắn kết chặt chẽ công tác tổ chức, cán bộ với tăng cường giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên về bản lĩnh chính trị, nâng cao trình độ lý luận cách mạng, năng lực công tác, trau dồi phẩm chất đạo đức, lối sống, để mỗi người không dao động tư tưởng trước những tình huống khó khăn, phức tạp.
Trong tình hình hiện nay, các thế lực thù địch vẫn ráo riết thực hiện nhiều âm mưu, thủ đoạn nham hiểm để hòng thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta. Song, mọi mưu đồ của chúng có thực hiện được hay không, hoàn toàn phụ thuộc vào chính chúng ta. Vì vậy, cần khẳng định, khi mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi người dân Việt Nam luôn nhận rõ mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch trong chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta hiện nay; đồng thời, trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào cũng luôn vững niềm tin sắt son vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sự quản lý của Nhà nước, vào thắng lợi của công cuộc đổi mới đất nước, thì sẽ góp phần phòng ngừa, đẩy lùi được nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Th.S NGUYỄN ĐỨC THẮNG..................
(1) V.I.Lê-nin toàn tập, NXB Tiến Bộ, Mát-xcơ-va, 1977, tập 42, tr.311.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.257. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI.

Cảnh giác với những âm mưu phá hoại trước thềm đại hội Đảng các cấp

QĐND - Mỗi khi đất nước ta chuẩn bị tổ chức các sự kiện lớn, các thế lực thù địch, phản động ở ngoài nước lại tăng cường câu kết với các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị trong nước ra sức chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ ta với nhiều âm mưu, thủ đoạn tinh vi, nham hiểm. Đặc biệt là trước mỗi dịp đại hội Đảng các cấp, sự chống phá này ngày càng gia tăng, quyết liệt.
Thủ đoạn cũ, chiêu trò mới
Trong khi cả nước ta đang nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội chào mừng đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XII của Đảng, thì thời gian gần đây, trên nhiều trang mạng xã hội, blog ở hải ngoại và trong nước đã đăng tải những thông tin sai trái, độc hại, gây bất lợi cho sự ổn định an ninh chính trị và làm “ô nhiễm” môi trường thông tin xã hội. Một trong những thủ đoạn được chúng sử dụng ráo riết trong thời gian này là tận dụng triệt để internet để tung ra những “thông tin giả dối” nhưng lại được khoác dưới vỏ bọc “đóng góp trung thực, thẳng thắn vì nhân dân, vì đất nước”(!). Chẳng hạn như, chúng tung tin ông cán bộ cao cấp này sở hữu “hàng loạt ngôi biệt thự khủng”; vị lãnh đạo ngành kia cho con cháu “đứng tên” hàng chục “lô đất vàng” ở các thành phố lớn; ông quan đầu tỉnh nọ “chống lưng” cho nhiều doanh nghiệp giàu “khét tiếng” ở địa phương… Để cố tình tạo dựng lòng tin cho người xem, những thông tin này được “cắt, dán” thêm một số hình ảnh minh họa như biệt thự nguy nga tráng lệ, mảnh đất ở vị trí đắc địa, xe ô tô ngoại nhập hạng sang… Nhưng thực chất, đó chỉ là những hình ảnh “cắt, dán” thông qua công nghệ photoshop y như thật. Cùng với đó, chúng còn liều lĩnh tung tin rằng, trong Đảng đã có sự phân chia sâu sắc về “phe cánh”, có “phe cánh” nghiêng về quan hệ mật thiết với cường quốc này, có “phe cánh” ngả về thân thiết quan hệ với cường quốc kia(!); việc bầu bán nhân sự mới của Đảng diễn ra trong tình thế “giằng co quyết liệt” giữa các “nhóm lợi ích”(!)…
Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ IX. Ảnh: Qdnd.vn

Theo PGS, TS Nguyễn Hồng Vinh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học nghệ thuật Trung ương, thực ra những thủ đoạn các thế lực thù địch, phản động đưa ra rất cũ, nhưng tác hại, hậu quả lại hết sức khôn lường. Việc chúng cố tình rỉ tai nhau để “nói dối việc lớn”, ra sức nhào nặn, thêm thắt thông tin, lan truyền những tin đồn thất thiệt, bôi nhọ hình ảnh lãnh đạo cao cấp ở Trung ương và địa phương, thậm chí ngụy tạo băng ghi âm để xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng…đã gây nhiễu thông tin, tạo sự hoài nghi, phân tâm trong xã hội, khiến một bộ phận người dân mất phương hướng.
Trong khi đó, một số đối tượng bất mãn, cơ hội chính trị ở trong nước lại ngấm ngầm câu kết với những phần tử phản động ở nước ngoài để tung tin, viết bài, tán phát tài liệu chống phá chế độ, “khoét sâu, tô đậm” những hiện tượng tiêu cực mà thực chất là “bôi đen" xã hội ta, làm cho người nước ngoài có cái nhìn thiên lệch về Việt Nam. Số đối tượng này cũng thường xuyên xuất hiện trên một số trang mạng nước ngoài để đăng đàn, trả lời phỏng vấn với những thông tin, nội dung gây bất lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.  
Tại sao những thông tin sai trái, phản động lại xuất hiện trong dịp này với mật độ dày, tần suất lớn? Lý do cho việc chúng cố tình “tăng tốc” chiến dịch chống phá ta trước các kỳ đại hội Đảng hòng làm mất ổn định nội bộ trong hàng ngũ lãnh đạo, gieo giắc hoài nghi, ngờ vực lẫn nhau, làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào Đảng và chế độ. Việc “nhai đi nhai lại, nói tái nói hồi” những vấn đề chống phá đã cũ, cộng thêm những hình thức biểu đạt thông tin nham hiểm mới của chúng cũng chỉ nhằm mưu đồ cuối cùng là làm “mục ruỗng” chế độ, rồi tiến tới “sụp đổ từ bên trong"!
Quân đội ta đề cao cảnh giác trước những thông tin độc hại
Trước những “ma trận thông tin” sai trái, độc hại xuất hiện ngày càng nhiều trên internet, các đơn vị quân đội cần phải làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ về những tác hại, nguy cơ của những thông tin bất lợi đó. Cấp ủy, chỉ huy các cấp cần tăng cường công tác quản lý chính trị nội bộ, xây dựng môi trường văn hóa, môi trường thông tin lành mạnh, tạo điều kiện cho bộ đội được tiếp cận, hưởng thụ những thông tin tin cậy, tích cực, nhân văn.
Một trong những vấn đề mà các đơn vị cần làm tốt hiện nay là tiếp tục sử dụng, phát huy sức mạnh tổng hợp, đồng bộ của các hình thức, nội dung, phương pháp giáo dục chính trị cho bộ đội; kịp thời cung cấp thông tin, định hướng tư tưởng, tạo sự thống nhất, đồng thuận trong đơn vị. Cùng với đó, cần tích cực đổi mới công tác tuyên truyền miệng, nói chuyện thời sự, thông tin chuyên đề; duy trì nghiêm túc và hiệu quả chế độ đọc báo, xem thông tin thời sự hằng ngày… Mọi hoạt động thông tin, tuyên truyền, giáo dục phải hướng đến mục tiêu không ngừng bồi đắp, nâng cao bản lĩnh chính trị, lập trường cách mạng, tinh thần cảnh giác để cán bộ, chiến sĩ quân đội luôn trung thành tuyệt đối với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, không dao động, phân tâm tư tưởng trong mọi tình huống.
Muốn quản lý và định hướng tốt các nội dung thông tin hiện nay, cần đề cao vai trò, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp, nhất là ở đơn vị cơ sở. Ngoài những hiểu biết cơ bản về vai trò của công nghệ thông tin trong xã hội hiện đại, cán bộ lãnh đạo, chỉ huy đơn vị cần có trình độ, khả năng xem xét, đánh giá các luồng thông tin sai trái, độc hại để không bao giờ bị “sập bẫy” trước những thông tin phản động của các thế lực thù địch; đồng thời biết định hướng, hướng dẫn bộ đội tìm đến những luồng thông tin chính thống, lành mạnh, bổ ích. Trong công tác giáo dục tư tưởng, cần chú trọng cung cấp đầy đủ, kịp thời những thông tin chính thống, chủ động làm rõ những thông tin "nóng" mà dư luận xã hội quan tâm; đồng thời phải biết phân tích, định hướng trước những thông tin phức tạp, nhạy cảm, tránh để những thông tin trái chiều xuất hiện trong đơn vị. Đặc biệt, cán bộ các cấp trong quân đội cần quán triệt và thực hiện nghiêm túc nội dung trong Quy định 47-QĐ/TW của Đảng, đó là: “Không cung cấp, để lộ, làm mất hoặc viết bài, đăng những thông tin, tài liệu bí mật của Đảng và Nhà nước hoặc những việc chưa được phép công bố; không tàng trữ, tuyên truyền, tán phát hoặc xúi giục người khác tuyên truyền, tán phát thông tin, tài liệu dưới mọi hình thức để truyền bá những quan điểm trái với đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước”.
Trong bối cảnh xã hội thông tin bùng nổ, cấp ủy-chỉ huy các cấp cần tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức, ý thức, trách nhiệm của bộ đội về việc tiếp nhận, sử dụng, trao đổi thông tin trên mạng xã hội phải bảo đảm đúng pháp luật, đúng kỷ luật quân đội và có văn hóa. Khi ra ngoài doanh trại, đi công tác xa sự quản lý chỉ huy của đơn vị, không tự ý lên mạng tham gia bình luận, chia sẻ, trao đổi với những trang mạng xã hội, blog cá nhân có động cơ, dụng ý không lành mạnh; không tự ý đưa những thông tin, hình ảnh có thể gây ảnh hưởng không tốt đến tư cách, hình ảnh quân nhân và hoạt động quân sự. Bên cạnh đó, cần phải chú trọng giữ gìn lời ăn tiếng nói, thực hiện nghiêm túc kỷ luật phát ngôn ở mọi lúc, mọi nơi; không tùy tiện bàn luận, bàn tán về nhân sự cấp ủy khóa mới, nhằm phòng ngừa những thông tin gây “nhiễu” trong và ngoài đơn vị.
PHÚC NỘI

Chiêu trò đóng vai ‘người yêu nước’ gợi ý, kiến nghị không lừa được ai

Nhằm chuyển hóa chế độ xã hội ta sang mô hình thể chế chính trị “dân chủ”, “đa nguyên” ngoại nhập, một số người đóng vai “người yêu nước” đã viết bài post lên mạng, cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam “đang bế tắc trong chọn lựa chính thể thích hợp để phát triển và giữ vững chủ quyền quốc gia”; đã để “vuột” (để lỡ) nhiều cơ hội và đang đứng trước một cơ hội lớn. Vậy xin bạn đọc hãy xem họ nói Việt Nam đã “vuột” cơ hội nào? đang đứng trước cơ hội gì? Và thực chất “gợi ý”, kiến nghị của họ ra sao?
Trước hết, chúng ta hãy xem họ nói Việt Nam đã bỏ lỡ những cơ hội nào?
Theo họ thì đó là những cơ hội sau: Trong năm 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam đã bỏ lỡ cơ hội “bắt tay” với chính phủ Trần Trọng Kim lập chính phủ liên hiệp, theo chế độ Quân chủ lập hiến. Tiếp đó là cơ hội Đảng Cộng sản Việt Nam ra tuyên bố giải tán Đảng Cộng sản “thật lòng” rồi “cử người sang gặp trực tiếp chính phủ Mỹ thiết lập quan hệ thì tình hình sẽ khác đi nhiều”. Theo họ trong những năm 1954-1968, Đảng Cộng sản Việt Nam còn bỏ lỡ cơ hội Mỹ đã chọn miền Nam Việt Nam làm đối tác chiến lược, xây dựng một xã hội tự do, dân chủ và giàu mạnh… Nói tóm lại theo họ thì Đảng Cộng sản Việt Nam đã bỏ lỡ cơ hội đưa Việt Nam trở lại chế độ người bóc lột người, trở lại chế độ thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc. Nếu nói là Đảng ta đã để lỡ cơ hội thì đó chỉ là “cơ hội” mất nước, “cơ hội” trở thành tay sai cho ngoại bang.
Thứ hai, theo họ, Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn nào?
Đóng vai “người yêu nước”, họ cho rằng Việt Nam hiện nay đang đứng trước một cơ hội lớn: Đó là tất cả các nước phát triển phương Tây đang ủng hộ Việt Nam trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo trên Biển Đông. Bằng chứng là: “Việt Nam là tác nhân rất quan trọng trong chính sách “chuyển trục” của Mỹ. Các nước Mỹ, Nhật… đã công khai bày tỏ mong muốn cung cấp cho Việt Nam vũ khí nhằm ngăn chặn các xâm chiếm lãnh thổ của Trung Quốc... Chỉ cần Việt Nam bảo vệ được chủ quyền của mình trên hai quần đảo này là góp phần giải quyết phần quan trọng của vấn đề Biển Đông”.
Gắn liền với “cơ hội” này, theo họ đương nhiên là “cơ hội” để Việt Nam chuyển sang chế độ “dân chủ”, “đa nguyên” với những tiêu chí sau: “tự do lập hội: lập Công đoàn độc lập; thực hiện chế độ “đa đảng”; “tự do ứng cử, bầu cử chọn đảng thành lập chính quyền”; xây dựng nhà nước pháp quyền “tam quyền phân lập”; bảo đảm quyền “tự do ngôn luận” – báo chí tư nhân”… Có lẽ đến đây thì bạn đọc đã rõ thực chất những “bức xúc”, bản chất “lòng yêu nước” của họ là gì? Có thể nói đây là thủ đoạn chính trị thâm độc, lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân ta để hạ thấp, xuyên tạc, bôi nhọ vai trò lãnh đao, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự nham hiểm của thủ đoạn này là người ta đã chọn một thời điểm nhạy cảm để tác động vào tâm trạng của người dân nhằm chuyển hóa xã hội ta sang mô hình xã hội “dân chủ”, “nhân quyền”, “đa nguyên” ngoại nhập…, là cốt lõi của chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.
Trở lại vấn đề “cơ hội” của cách mạng Việt Nam, những người có kiến thức và cách nhìn nhận khách quan về lịch sử cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX thì đều có thể thấy rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam đã tận dụng được nhiều cơ hội để đưa cách mạng nước ta tiến lên, hạn chế những tổn thất cho dân tộc. Chẳng hạn, chớp thời cơ Nhật đảo chính Pháp, Nhật đầu hàng Đồng Minh, nhân dân ta đã dùng bạo lực chính trị tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám, 1945, thiết lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trước khi quân Đồng Minh vào Việt Nam. Hoặc tranh thủ thời cơ các nước XHCN đoàn kết, thống nhất Đảng ta đã lãnh đạo cuộc chiến tranh cách mạng, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Hiện nay, Việt Nam đang nắm bắt cơ hội ủng hộ của cộng đồng quốc tế trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Để nắm bắt được cơ hội này, Đảng Cộng sản Việt Nam trong nhiều thập kỷ qua, nhất là trong thời kỳ đổi mới (mở đầu từ 1986 đến nay) đã nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại “độc lập,  tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ”; Việt Nam mong muốn  “là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế” (Văn kiện Đại hội XI, NXB CTQG, HN, 2011, Tr 46,  83). Cho đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với hơn 180 nước. Trong đó có quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với tất cả 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc. Hiện nay Việt Nam đang là thành viên của Hội đồng nhân quyền Liên Hợp Quốc (khóa 2014-2016).
Để bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, Việt Nam kiên trì nguyên tắc độc lập, tự chủ về chính trị; đặt lợi ích của dân tộc lên trên hết. Trên lĩnh vực quân sự đó là thực hiện chính sách: không tham gia các liên minh quân sự, không để cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia. Nguyên tắc trên không chỉ là đường lối chính trị, chiến lược quốc phòng, an ninh mà còn là bản lĩnh, là phẩm giá của dân tộc ta.
Vọng Đức

Phải chăng kinh tế tư nhân là nền tảng của nền kinh tế quốc dân?

QĐND - Theo dõi một số cuộc hội thảo khoa học và phương tiện truyền thông đại chúng gần đây cho thấy, có một số người đưa ra những quan điểm xa lạ với quan điểm chính thống của Đảng và Nhà nước ta. Đáng chú ý là những phát biểu đó ngày càng nhiều và cao giọng hơn trước. Tiếp sức còn có “cố vấn” đẳng cấp nước ngoài. Vấn đề trung tâm mà họ kêu gọi là tư nhân hóa nền kinh tế.
Trước hết, xin lược qua vấn đề sở hữu tư nhân ở nước ta trong mấy chục năm qua với những bước thăng trầm tùy từng thời kỳ lịch sử.
Còn nhớ những năm 1958-1960, thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở miền Bắc chúng ta đã lên án tư hữu, coi nó là biểu hiện của phương thức sản xuất lạc hậu, không tương thích với chủ nghĩa xã hội (CNXH). Vì vậy, đã phát động phong trào đưa nông dân ồ ạt vào hợp tác xã từ bậc thấp đến bậc cao. Lối làm ăn tập thể kiểu cũ kéo dài về cơ bản cho đến những năm 80 của thế kỷ trước. Những doanh nghiệp tư bản tư nhân được vận động tham gia công tư hợp doanh, nhưng về thực chất thì gần như bị quốc hữu hóa và hoạt động giống xí nghiệp quốc doanh. Tình hình đó còn lặp lại sau ngày thống nhất đất nước năm 1975.
Ảnh minh họa / qdnd.vn
Không thể phủ nhận kinh tế hợp tác xã đã có vai trò to lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, bảo đảm hậu phương vững chắc cho tiền tuyến đánh giặc. Nhưng cũng không thể nói khác là kinh tế hợp tác xã theo kiểu chúng ta xây dựng, về cơ bản, đã kìm hãm lực lượng sản xuất, gần như triệt tiêu động lực tích cực và sáng tạo của người lao động. Trong khi đó, chỉ với 5% ruộng đất mà mỗi hộ xã viên được nhận để tự canh tác nếu sản xuất hiệu quả thì đã có thể nuôi sống cả gia đình.
Điều nói trên chứng minh tính đúng đắn trong luận điểm của C.Mác rằng, không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển vẫn chưa phát triển, và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ.
Vậy mà sau chiến tranh một thời gian dài, kinh tế tập thể kiểu cũ vẫn được duy trì. Chúng ta không thừa nhận kinh tế tư nhân là một thành phần kinh tế cả trong đường lối, chính sách lẫn trong thực tế.
Chúng ta đã không chú ý đến lời giáo huấn của C.Mác và V.I.Lê-nin rằng, trong thời kỳ quá độ lên CNXH, nền kinh tế không thuần nhất, vừa có thành phần kinh tế XHCN, vừa có thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa (TBCN), thậm chí có cả thành phần kinh tế tiền TBCN. Và câu nói nổi tiếng của Ph.Ăng-ghen: Bắt con ngựa TBCN cày trên mảnh đất của CNXH. Có nghĩa là sử dụng chủ nghĩa tư bản (CNTB) phục vụ CNXH.
Việc xa rời những chỉ dẫn quan trọng trong xây dựng CNXH đã dẫn đến căn bệnh “ấu trĩ tả khuynh”(1) mà V.I.Lê-nin đã từng căn dặn phải đề phòng.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) chúng ta mới thừa nhận có thành phần kinh tế tư nhân. Nghị quyết Đại hội viết sâu sắc về vấn đề này: Nền kinh tế nước ta kém phát triển không chỉ vì lực lượng sản xuất lạc hậu, mà còn vì quan hệ sản xuất đi trước quá xa tính chất và trình độ lực lượng sản xuất. Nói cách khác là không phù hợp.
Nhưng khắc phục tư duy cũ không phải là việc có thể hoàn thành trong “một sớm một chiều” mà đòi hỏi một quá trình. Còn nhớ hồi đầu năm 1987, ngay sau Đại hội VI, tháng 12-1986, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã đi thăm một số cơ sở sản xuất tư nhân ở nội và ngoại thành Hà Nội. Lúc bấy giờ đó là điều hiếm thấy, xa lạ với nhiều người, khiến một số đồng chí trong Đảng, kể cả cán bộ cấp cao, cũng băn khoăn. Nghị quyết của Đảng đã có, nhưng để đi vào cuộc sống thật không dễ dàng.
Trong sản xuất tập thể, đến năm 1981, Chỉ thị số 100-CT/TW của Ban Bí thư về khoán sản phẩm mới chỉ nói đến nhóm và người lao động. Nghĩa là còn phải nói đến tập thể-nhóm. Nhưng đến năm 1988, với “khoán 10” đã cho phép khoán đến hộ gia đình. Động lực mới cho sản xuất theo đó cũng được tăng lên.
Từ những năm 90 của thế kỷ trước, chúng ta đã cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân. Đến năm 2002, Đảng ta ban hành nghị quyết riêng về kinh tế tư nhân. Nghị quyết coi kinh tế tư nhân là bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài. Nghị quyết yêu cầu sửa đổi một số cơ chế, chính sách, theo đó kinh tế tư nhân có thể thụ hưởng những chính sách ưu đãi của Nhà nước đối với các ngành, các vùng, các sản phẩm và dịch vụ cần ưu tiên, khuyến khích phát triển không phân biệt thành phần kinh tế. Nhà nước có chính sách hỗ trợ về đào tạo, khoa học và công nghệ, về thông tin, xúc tiến thương mại. Đại hội X (năm 2006) thừa nhận kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế. Đại hội XI (năm 2011) khuyến khích thành lập các tập đoàn kinh tế tư nhân và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế Nhà nước. Tư nhân không chỉ hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu mà còn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Gần đây Nhà nước khuyến khích tư nhân đầu tư vào các công trình kết cấu hạ tầng lớn, sử dụng rộng rãi hình thức công-tư trong hoạt động kinh tế...
Như vậy, về mặt pháp lý và thực tế, kinh tế tư nhân đã có chỗ đứng vững chắc trong nền kinh tế đất nước. Dĩ nhiên, chưa thể nói là tiềm năng của nó đã được huy động đầy đủ, mặc dù so với trước đây đã có những bước tiến khá dài.
Nhưng nếu từ đó mà kêu gọi tư nhân hóa nền kinh tế là một sự chệch hướng. Cần nhận thức đúng việc tư nhân góp vốn với các doanh nghiệp nhà nước và tập thể để mở rộng sản xuất, kinh doanh. Đó là phương thức kinh doanh công-tư kết hợp. Không thể đồng nhất việc tư nhân mua lại một số doanh nghiệp nhà nước vừa và nhỏ, doanh nghiệp nhà nước có vai trò ít quan trọng trong nền kinh tế, doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả... với việc tư nhân hóa nền kinh tế, có nghĩa là chuyển nền kinh tế hiện nay sang chế độ sở hữu tư nhân.
Một quan điểm khác cho rằng, kinh tế nhà nước hoạt động kém hiệu quả, chỉ có kinh tế tư nhân mới là động lực chủ yếu để đưa nền kinh tế đi lên, nên hãy để cho tư nhân đảm nhiệm vai trò phát triển kinh tế. Nói như vậy cũng không ổn. Thực tế chứng minh rằng, cả kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân đều có những đơn vị hoạt động hiệu quả và những đơn vị làm ăn kém hiệu quả. Do quản lý kinh tế trong nước còn yếu kém nên cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới vừa qua tác động đã làm cho hàng chục vạn doanh nghiệp ở nước ta đổ vỡ, trong đó có cả doanh nghiệp nhà nước, tập thể và tư nhân. Điều đó là khá rõ ràng. Cái đáng nói là, doanh nghiệp nhà nước với điều kiện thuận lợi hơn tư nhân mà làm ăn “bê bết” là không thể chấp nhận được.
Để thay đổi thực trạng này, một trong những vấn đề cần quan tâm là công tác quản lý. Có nhà kinh tế nước ngoài đã đúc kết bằng một mệnh đề “sở hữu công nhưng quản lý tư”. Hàm ý là tư nhân quản lý chặt đồng tiền của mình đã bỏ ra. Muốn như vậy phải chọn người thật đúng - “chọn mặt gửi vàng”. Không phải là chỉ định các chức vụ quản lý theo quan hệ thân quen, vì tiền bạc, hoặc bị chi phối theo “lợi ích nhóm”. Tất cả các chức vụ quan trọng phải bằng lựa chọn thi tuyển công khai, minh bạch. Trường hợp Vinashin quốc doanh của chúng ta là một trong những bài học đắt giá về công tác quản lý. Hơn 700 triệu USD công trái thu về đưa vào kinh doanh bị “bốc hơi”, thua lỗ và tham nhũng hết, hơn nữa còn nợ đọng lên tới mấy tỷ USD không trả được. Quản lý nhà nước cấp trên đến mức độ này mới biết chuyện, khi doanh nghiệp trên thực tế “đã chết” từ lâu rồi. Nếu sửa được những yếu kém trong công tác quản lý thì các đơn vị kinh tế nhà nước vẫn có khả năng mang lại hiệu quả kinh tế.
Có người còn đẩy lên cao khi công khai cho rằng, kinh tế tư nhân là nền tảng của nền kinh tế quốc dân của chúng ta.
Trước đây chúng ta mắc sai lầm tả khuynh vì không sử dụng kinh tế tư nhân thì nay có người phạm sai lầm ngược lại, gán cho kinh tế tư nhân vai trò mà nó không thể làm được xét cả về lý luận và thực tiễn.
Không thể thượng tầng kiến trúc của chúng ta vận hành theo định hướng XHCN mà hạ tầng cơ sở dựa trên sở hữu tư nhân. Hoàn toàn mâu thuẫn, vì kinh tế tư nhân, như kinh nghiệm thế giới đã chỉ ra, nếu tự nó, sẽ vận động về hướng nào, chắc mọi người đã rõ.
Hạ tầng cơ sở của mỗi thời đại lấy quan hệ sản xuất đặc trưng, tiêu biểu của thời đại đó làm nền tảng. Những quan hệ sản xuất khác trước đó vẫn được sử dụng nếu thực tế có nhu cầu, nhưng không bao giờ lại đóng vai trò là nền tảng, là chủ đạo của nền kinh tế quốc dân. Đó là một chân lý bất di bất dịch của mọi thời đại.
Vậy nên Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo,... Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”(2). Hiến pháp năm 2013 cũng chỉ rõ “kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”(3). Cương lĩnh và Hiến pháp nói như vậy là đúng về lý luận. Nhưng trên thực tế hiện nay, vai trò đó chưa được thực hiện đúng như yêu cầu, vẫn còn nhiều yếu kém. Điều này cũng dễ hiểu. Cương lĩnh đã lưu ý điều đó khi viết “ngày càng trở thành nền tảng” (tác giả nhấn mạnh).
Vấn đề này có nguyên nhân chủ quan và khách quan.
Về chủ quan, Đảng và Nhà nước dù đã quan tâm nhiều đến việc củng cố và kiện toàn kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, nhưng so với yêu cầu vẫn chưa đạt và hiệu quả còn thấp.
Về khách quan, đây là công việc hết sức khó khăn, phức tạp và lâu dài. Phải trải qua một thời kỳ thử nghiệm và lựa chọn, thất bại và thành công, cuối cùng mới tìm ra được những mô hình tốt để hoàn thiện và nhân lên trên diện rộng, trở thành một xu thế bền vững, không thể đảo ngược.
Tầm vóc của nó thật là vĩ đại, vì đây “là việc đặt nền móng kinh tế cho tòa nhà mới, tòa nhà xã hội chủ nghĩa”(4).
V.I.Lê-nin đã nhiều lần đề cập đến vấn đề này sau Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, rằng “danh từ nước Cộng hòa xô-viết xã hội chủ nghĩa có nghĩa là chính quyền xô-viết quyết tâm thực hiện bước chuyển lên chủ nghĩa xã hội, chứ hoàn toàn không có nghĩa là đã thừa nhận chế độ kinh tế mới là chế độ xã hội chủ nghĩa”(5). Điều đó đòi hỏi một thời kỳ quá độ dài. Phải dùng chính quyền mới để tạo lập chế độ kinh tế mới phù hợp(6).
Đây là sự vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa thượng tầng kiến trúc và hạ tầng cơ sở. Trong quá trình đó, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước cũng như tính chất nền tảng của kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể sẽ lớn dần lên và đạt tới độ chín muồi khi cơ sở vật chất của CNXH và chế độ kinh tế mới tương ứng với chế độ chính trị được xây dựng xong về cơ bản. Không thể đòi hỏi sự tiến bộ vượt bậc của quan hệ sản xuất XHCN ngay đầu thời kỳ quá độ như một số người mong muốn. Đó cũng là một biểu hiện của bệnh “ấu trĩ tả khuynh” như V.I.Lê-nin đã vạch ra.
Những vấn đề nói trên mang tính quy luật đối với các nước tiền TBCN hoặc những nước TBCN kém phát triển tiến lên CNXH.
Trên đây chúng ta đã bàn về việc tại sao kinh tế tư nhân không đóng được vai trò là nền tảng của kinh tế quốc dân trong chế độ chúng ta.
Còn về mặt thực tế, tư nhân nước ta hiện nay và cả sau này khi phát triển hơn, xét về tổng thể, vẫn không thể đảm đương nổi vai trò này.
Tư nhân không muốn và không đủ sức đầu tư vào những công trình lớn, xây dựng dài ngày, hiệu quả đầu tư thấp, thu hồi vốn chậm; những công trình công ích lãi suất thấp hoặc phi lợi nhuận; còn những công trình quốc phòng-an ninh vốn là độc quyền của Nhà nước.
Vậy, Nhà nước định hướng tư nhân phát triển theo con đường nào?
Phần lớn những doanh nghiệp tư nhân vừa và lớn được khuyến khích phát triển theo con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước hay như thuật ngữ mà chúng ta quen dùng hiện nay là “đối tác công tư”, “công-tư kết hợp”.
Đó là con đường đầy triển vọng, không chỉ có lợi cho cả “công” và “tư” mà còn có lợi cho việc tạo nên sức mạnh tổng hợp của đất nước. V.I.Lê-nin đánh giá cao con đường này. Người nói: “Trong một nước tiểu nông, trước hết các đồng chí phải bắc những chiếc cầu nhỏ vững chắc, đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội”(7).
Hiện nay, chúng ta đang có bước khởi đầu đi trên con đường này. Đó là việc những đơn vị kinh tế tư nhân lớn tham gia góp vốn cùng kinh tế nhà nước để được nhượng quyền khai thác có điều kiện những cơ sở lớn thuộc kết cấu hạ tầng, như: Hải cảng, sân bay, đường cao tốc... theo hợp đồng. Nhà nước vẫn giữ quyền chi phối một số mặt quản lý quan trọng để bảo đảm hài hòa các lợi ích: Nhà nước-doanh nghiệp-người tiêu dùng. Chúng ta cần mở rộng hơn nữa hình thức này trên các lĩnh vực khác của đời sống kinh tế.
Đối với vấn đề này hiện nay cũng đang có những quan điểm trái ngược nhau. Một số người cho rằng, làm như thế là tài sản Nhà nước bị xâm phạm, là tạo điều kiện cho tư nhân phát triển đi đôi với sở hữu XHCN bị thu hẹp... Họ không thấy rằng, nếu để cho Nhà nước độc quyền kinh doanh tất cả thì không làm nổi, hoặc dẫn đến tình trạng cơ sở vật chất kỹ thuật bị xuống cấp. Đó là chưa nói đến làm như vậy Nhà nước sẽ rút ra được một số tiền không nhỏ để đầu tư vào những công trình khác đang rất “khát” vốn. Một dự báo cho thấy trong 15 năm tới, số công trình thuộc kết cấu hạ tầng dự kiến triển khai sẽ rất lớn, trong đó Nhà nước chỉ bảo đảm được 30% tổng số vốn. Làm theo cách trên là một sự lựa chọn tốt, tìm lối ra cho nền kinh tế.
Tất nhiên, chúng ta phải đề phòng, ngăn chặn và đấu tranh quyết liệt với các hành vi tiêu cực, lợi dụng hình thức này để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc lợi ích nhóm.
Còn quan điểm khác cổ súy tư nhân hóa toàn bộ nền kinh tế, Nhà nước không cần nắm gì, chỉ cần thông qua luật để điều tiết là đủ… “Tay không bắt giặc” cũng là phi thực tế. Tóm lại, hiện đang có hai xu hướng: Một là, Nhà nước nắm lấy tất cả; hai là, Nhà nước buông tất cả. Như vậy, chúng ta càng thấy luận điểm “Chủ nghĩa tư bản nhà nước” của V.I.Lê-nin là giải pháp đúng đắn biết nhường nào!
Nói về quá trình cổ phần hóa ở nước ta đang tiến hành hiện nay, có người cho đó là quá trình tư nhân hóa. Có lẽ gọi đó là quá trình xã hội hóa (đầu tư) thì đúng hơn.
Quá trình tư nhân hóa điển hình diễn ra ở nước Nga thời Tổng thống B.En-xin đầu những năm 90 của thế kỷ trước. Lúc đó người ta bán rẻ cho tư nhân những cơ sở kinh tế lớn hoặc vừa, quan trọng nhiều hoặc ít. Có những người chớp thời cơ, qua một đêm trở thành tỷ phú. Về sau, dưới thời Tổng thống V.Pu-tin đã diễn ra cuộc đấu tranh quyết liệt để lấy lại một phần tài sản quốc gia bị mất vào tay những kẻ tài phiệt.
Còn ở nước ta, thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, xét về chủ trương, không mang tính chất tư nhân hóa. Đối tượng cổ phần hóa do Nhà nước quyết định: Cổ phần doanh nghiệp nào, toàn bộ hoặc một phần. Nhà nước có thể không tham gia cổ đông, hoặc tham gia với tư cách là cổ đông thường hay cổ đông chi phối. Tiền thu về hoặc để đầu tư trở lại doanh nghiệp hoặc đầu tư để phát triển doanh nghiệp mới. Người mua cổ phần đa dạng: Đó chính là doanh nghiệp nhà nước; doanh nghiệp tập thể; là nhà đầu tư nước ngoài (coi trọng nhà đầu tư chiến lược) bao gồm nhà nước và tư nhân; nhà đầu tư tư nhân trong nước; bản thân người lao động. Như vậy là toàn xã hội có thể cùng tham gia cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
Quá trình cổ phần hóa ở nước ta hiện nay hết sức tránh lấy tốc độ hoàn thành vào năm 2015 làm mục tiêu duy nhất mà xem nhẹ chất lượng cổ phần hóa. Phải chú ý xây dựng phương án quản trị doanh nghiệp, phương án sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp sau cổ phần hóa. Chính điều này quyết định tính hiệu quả và sự thành công của cổ phần hóa doanh nghiệp.
Tóm lại, vai trò, vị thế của kinh tế tư nhân ở nước ta đã có một bước tiến dài so với trước. Chúng ta phải tiếp tục hoàn thiện về thể chế, nhất là chỉ đạo tổ chức thực tiễn để thực hiện đúng đường lối, chính sách, phát huy hơn nữa tiềm năng của kinh tế tư nhân. Nhưng đừng bao giờ quên rằng đây là kinh tế tư nhân hoạt động dưới CNXH, chịu sự chi phối của Nhà nước pháp quyền XHCN, có nhiệm vụ góp phần xây dựng CNXH thành công. Đừng bao giờ gán cho kinh tế tư nhân vai trò và nhiệm vụ mà nó không thể có và không thể nào thực hiện được.
Giáo sư LÊ XUÂN TÙNG
 (Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Bí thư Thành ủy Hà Nội)
(1) V.I.Lê-nin toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.36, tr.347
 (2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.73-74
 (3) Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014, tr.25
 (4) V.I.Lê-nin toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.44, tr.188
 (5) V.I.Lê-nin: Sđd, t.36, tr.362
 (6) V.I.Lê-nin: Sđd, t.36, tr.208, 210; t.42, tr.33
 (7) V.I.Lê-nin: Sđd, t.44, tr.189