Thực tiễn bi hài của những kẻ phụ bạc với quê hương

Thứ Sáu, 29/09/2023, 07:51

Thời gian qua, người sử dụng các nền tảng mạng xã hội đã “nhẵn mặt” với những cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước mang danh nghĩa “tự do, dân chủ”, “yêu nước”, “dân oan”, tung ra video, bài viết xuyên tạc, kích động hòng gây mất ổn định chính trị-xã hội, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Tuy nhiên, đằng sau những hành động khoác áo vì tự do, dân chủ, nhân quyền mà họ hô hào thì đích đến là nhận sự ban phát về lợi ích vật chất hoặc tị nạn chính trị ở các quốc gia phương Tây và Hoa Kỳ.

Những chiêu trò quen thuộc

Trong thế giới phẳng ngày nay, việc mỗi người đi, đến hay định cư ở một quốc gia nào đó hoàn toàn là quyền cá nhân. Quan trọng là có đáp ứng được các yêu cầu của nước sở tại khi đến định cư hay không. Với nhiều người Việt Nam, việc đi ra nước ngoài học tập, làm việc và định cư, đến Châu Âu, Úc, Mỹ là hoàn toàn bình thường, nhất là khi đất nước ta đã và đang ngày càng mở rộng quan hệ hợp tác, phát triển kinh tế, hội nhập sâu rộng.

Nhưng ở một khía cạnh nào đó, vẫn còn có những người không có năng lực, trình độ, không có công ăn việc làm ổn định nhưng luôn mang trong mình giấc mộng phù hoa dù họ không đáp ứng được yêu cầu của các nước sở tại. Cũng có người có chút năng lực, khi “nổ” trên mạng xã hội thì ảo tưởng mình là tài năng, là hiếm có, cho rằng ở trong nước “nhân tài không được trọng dụng” nên tìm cách vu cáo mất dân chủ, nhân quyền hòng nhận sự để ý và hỗ trợ vật chất từ bên ngoài, dần dần tạo cớ để được “chiêu mộ đến xứ thiên đường”!

Để đạt được mục đích đó, họ đã bất chấp tất cả, đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc, phản bội lại mảnh đất đã nuôi dưỡng mình trưởng thành…

Vẫn là những chiêu trò cũ rích của thế lực thù địch, các tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài, lợi dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền đưa ra những thủ đoạn, các luận điệu để xuyên tạc, bóp méo sự thật về dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam như: Phủ nhận giá trị lý luận, thành tựu, thực tiễn, các quan điểm, đường lối của Đảng về dân chủ, nhân quyền; xuyên tạc, kích động vấn đề dân tộc, tôn giáo, tự do, dân chủ; lợi dụng những hạn chế, yếu kém trong quản lý xã hội, sơ hở, thiếu sót trong quản lý, điều hành đất nước hoặc những vấn đề bức xúc, khiếu kiện kéo dài chưa được giải quyết dứt điểm để lôi kéo, kích động người dân vào các hoạt động biểu tình, gây mất an ninh trật tự, xã hội...

Để thực hiện được những âm mưu đó, các thế lực thù địch và các tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài cần những con rối ở trong nước tiếp tay hoạt động. Với chiêu trò cho tị nạn, hứa hẹn một tương lai xán lạn nơi xứ người đã khiến cho nhiều kẻ trở lên lóa mắt và sẵn sàng làm con rối cho chúng. Hằng năm, các thế lực thù địch, các tổ chức phản động lưu vong nước ngoài gửi về nước ngoại tệ cùng các phương tiện kỹ thuật như máy tính xách tay, máy ảnh kỹ thuật số, điện thoại thông minh, máy ghi âm từ xa… cho các đối tượng trong nước tiến hành kích động biểu tình, gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội. Do sự hậu thuẫn, hỗ trợ của các thế lực thù địch, các tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài nên số chống đối trong nước thời gian qua hoạt động chống phá ngày càng quyết liệt, nguy hiểm, thậm chí một số đối tượng coi hoạt động chống đối là một nghề kiếm sống, là một con đường để rời bỏ quê hương, tị nạn chính trị.

Khi số đối tượng trên bị cơ quan chức năng Việt Nam xử lý về các hành vi vi phạm pháp luật theo quy định thì các thế lực thù địch, phản động đã triệt để lợi dụng để "tôn vinh" những đối tượng trên bằng những cái tên mỹ miều như "nhà dân chủ", "nhà phản biện", "luật sư nhân quyền" để rồi lớn tiếng cho rằng việc bắt giam những người này là "vi phạm dân chủ, nhân quyền". Một mặt, lo sợ trước sự phản ứng của người dân trong nước và sợ bị pháp luật trừng trị, các đối tượng đã tìm cách đào tẩu ra nước ngoài, xin tị nạn chính trị để tiếp tục bám gót các thế lực chống đối và sử dụng không gian mạng để phát tán tin giả, thông tin bịa đặt chống phá, bôi nhọ hình ảnh đất nước Việt Nam trên trường quốc tế.

Khi giấc mộng tan vỡ nơi xứ người

Thực tế cho thấy, không ít đối tượng sau khi rời khỏi Việt Nam đã vỡ mộng với “giấc mơ miền đất hứa” hoặc sống chui lủi trong các trại tị nạn ở nước thứ ba… Thật không khó để đoán được một tương lai khó khăn đối với những người vốn chỉ “dùng loa để kiếm sống”, khi ra nước ngoài do không có trình độ, năng lực, không còn được các tổ chức phản động sử dụng nên số này lâm vào túng quẫn.

Một điều dễ nhận thấy nhất là khi số đối tượng trên rời Việt Nam ra nước ngoài thì cũng là lúc họ không còn nhận được sự quan tâm từ những kẻ vốn luôn hứa hão, dần dần “chìm nghỉm” trên mạng, thậm chí số đối tượng trên còn phải chịu sự “ghẻ lạnh” từ chính những tổ chức từng đỡ đầu, khích lệ các hành vi chống phá ở trong nước do không còn giá trị lợi dụng. Trước khi rời Việt Nam, mạng xã hội được các đối tượng trên triệt để lợi dụng để kích động, chống đối, xuyên tạc sự thật. Còn sau khi rời Việt Nam thì mạng xã hội lại là nơi để các đối tượng kêu than về sự quay lưng của chính tổ chức từng cưu mang rồi cuộc sống khó khăn khi không có chuyên môn, trình độ…

Chuyện các nhà “dân chủ” ngày càng vỡ mộng về cuộc sống trời Tây đã chẳng còn là chuyện gì xa lạ nữa, thậm chí khi bị vỡ mộng, số này còn liên tục có những bài viết tố cáo lẫn nhau cho thấy thực tế thực sự bi hài. Kể từ khi Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (blogger Mẹ Nấm) được bảo lãnh “xuất khẩu miễn phí” ra nước ngoài từ năm 2018 đến nay, gần như các thông tin về “Mẹ Nấm” đã không còn xuất hiện nhiều trên mạng xã hội khi mà công việc chính là chống phá ở trong nước đã không còn thực hiện được nữa. Đến nay, những thông tin về “Mẹ Nấm” có chăng chỉ là những lời than vãn trên mạng xã hội về cuộc sống khó khăn, khổ sở mà trợ cấp thì không đủ để duy trì cuộc sống tối thiểu.

Trần Thị Nga khi sang đến Mỹ lại không nhận được sự trợ giúp từ những tổ chức vẫn nói “luôn đồng hành”, Nga túng thiếu, vật lộn khó khăn cả vật chất lẫn tinh thần, khi đó mới nhận ra mình đã bị mắc mưu những kẻ giảo hoạt. Còn kẻ giảo hoạt thì nói rồi quên, hứa rồi bỏ, tung hô rồi phó mặc, sự thật ấy khi Nga nhận ra thì đã quá muộn. Thực tiễn vỡ mộng đó đã khiến cho Trần Thị Nga thốt lên chua xót: “Vậy là tôi đã có thêm một bài học một kinh nghiệm có giá trị”! Vậy mà, khi còn trong tù, Nga không hối lỗi cải tạo để sớm được trở về với xã hội, trở về với cộng đồng hưởng cuộc sống thanh bình, tự do, mà còn tìm kiếm mộng ảo nơi “thiên đường đất Mỹ”, giờ đây mới đớn đau tỉnh ngộ.

Hay như Lê Thu Hà, một người từng được biết đến là cộng sự đắc lực của Nguyễn Văn Đài trong các hoạt động gây rối khi còn ở Việt Nam. Tuy nhiên khi sang Đức tị nạn thì Hà đã bị Đài bỏ rơi vì không còn giá trị sử dụng mà chỉ làm vướng bận thêm cuộc sống của y để rồi khi tìm đường về Việt Nam thì không còn cơ hội nữa. Cũng có những trường hợp sau khi sang Mỹ, châu Âu, nhờ được sự giúp đỡ của người thân, họ tìm được việc làm, tạm ổn định cuộc sống. Tuy nhiên, dù không quá vất vả, lận đận kiếm tiền song các “nhà dân chủ” sớm nhận ra sự thật đắng cay: Các tổ chức, cá nhân vốn hứa bao bọc, giúp đỡ nhằm tạo ngọn cờ chống đối trong nước, nay tìm cách tảng lờ, coi như không liên quan như Bạch Hồng Quyền, Nguyễn Văn Hải…

Có lẽ, đây mới chỉ là những đoạn đầu của con đường không tương lai của những người trên, những kẻ phản bội đất nước, dân tộc để cầu hư vinh. Chỉ khi ra nước ngoài, bản chất thật sự của số gọi là “nhà dân chủ, người yêu nước, nhà đấu tranh nhân quyền” mới bộc lộ, để rồi chìm dần vào sự quên lãng khi đã không còn giá trị sử dụng đối với các tổ chức chống phá ở nước ngoài. Cha ông ta thường dạy “không ai cho không thứ gì”. Những kẻ phản bội đất nước thì đa phần đều đã làm cha làm mẹ, luôn nói rằng được sống trong môi trường giáo dục nhưng bản thân lại không làm theo điều cha ông đã dạy “đói cho sạch, rách cho thơm”.

Quê hương, đất nước bất luận trong hoàn cảnh nào cũng thiêng liêng, cao quý, làm sao có thể rời bỏ mẹ cha, ruồng bỏ quê hương. Chỉ có những người phụ bạc với đất mẹ, với Tổ quốc thì bước đi đâu mà không phải cúi đầu, còn gì liêm sỉ để ngẩng lên mà nhìn người khác? Con đường do họ chọn và chính họ chấp nhận rời bỏ quê hương, phản bội lại Tổ quốc, đi ngược lại với lợi ích của nhân dân. Đến khi nhận ra bị chính những tổ chức phản động lợi dụng “vắt chanh, bỏ vỏ”, sức tàn lực kiệt, hối cải, nghĩ đường về quê hương thì mọi thứ đã muộn. Đây cũng là bài học cho những kẻ trong nước lựa chọn con đường phản bội lại đất nước, dân tộc, tiếp tay cho các tổ chức thù địch, phản động, nuôi mộng định cư ở miền đất hứa và “đổi đời”.

Bình Nguyên - Hoàng Ly

Đưa ra khỏi Đảng những đảng viên “hữu danh vô thực”

Thứ năm, 28/09/2023 - 05:53

Làm trong sạch nội bộ Đảng là vấn đề được Đảng ta rất quan tâm, chú trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên và năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Tiến hành đưa ra khỏi Đảng những đảng viên thoái hóa, biến chất đang được Đảng ta đẩy mạnh, “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ” là chủ trương hoàn toàn đúng đắn của Đảng trong công cuộc phòng, chống tham nhũng. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Đây là cuộc đấu tranh chống “giặc nội xâm”, không phải là cuộc đấu giữa các “phe cánh” hay “đấu đá nội bộ”, như có người không hiểu hoặc cố tình xuyên tạc với động cơ sai, dụng ý xấu” (1).

Làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh

Việc xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật, đưa những người không còn đủ tiêu chuẩn ra khỏi Đảng, góp phần làm cho Đảng trong sạch vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với quần chúng và góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Theo V.I.Lênin, đưa những người không còn đủ tiêu chuẩn ra khỏi đảng là tất yếu khách quan, bởi khi đảng giành được chính quyền, trở thành đảng cầm quyền thì nhiệm vụ chính trị của đảng đã có sự phát triển, đòi hỏi phải tăng cường công tác xây dựng Đảng nhằm đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ mới: “Ngày nay... mặt trận quân sự đã nhường chỗ cho mặt trận kinh tế, vì chúng ta đã chuyển sang chính sách kinh tế mới... Để thực hiện việc cải thiện đó, chúng ta phải gạt bỏ ra khỏi đảng những phần tử xa rời quần chúng (cố nhiên không cần nói đến những phần tử làm ô danh đảng trước quần chúng)” (2). Mặt khác, do vị trí của đảng cầm quyền đã làm cho một số kẻ cơ hội, vì sự hấp dẫn của đảng, tìm mọi cách luồn lách, chui vào đảng, dẫn đến tình trạng bè cánh, phe nhóm trong đảng. Bên cạnh đó, một số người cộng sản khi có chức quyền đã tha hóa, biến chất, mắc bệnh kiêu căng, quan liêu, tham nhũng và ăn hối lộ. Do đó, V.I.Lênin cho rằng: “Những đảng viên hữu danh vô thực thì cho không, chúng ta không cần. Đảng độc nhất nắm chính quyền trên thế giới quan tâm đến việc nâng cao chất lượng đảng viên, đến việc thanh trừ “bọn luồn lọt vào đảng” ra khỏi hàng ngũ mình, chứ không phải quan tâm là làm tăng thêm số lượng đảng viên” (3).

Hiện nay, Đảng ta đang đẩy mạnh việc xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên thoái hóa biến chất, trong đó có cả những cán bộ, đảng viên giữ vị trí quan trọng trong các cơ quan, tổ chức của Đảng và Nhà nước, thậm chí là những đảng viên được đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn phát triển, tương lai rộng mở nhưng lại thiếu tu dưỡng, rèn luyện, rơi vào chủ nghĩa cá nhân, “gục ngã” trước những cám dỗ vật chất tầm thường. Có thể nói, chưa bao giờ chúng ta xử lý nghiêm khắc nhiều cán bộ, kể cả cán bộ cấp cao sai phạm như vừa qua, từ vụ án công ty Việt Á, vụ Cục Lãnh sự (Bộ Ngoại giao), vụ liên quan đến Tập đoàn FLC, Tân Hoàng Minh, Vạn Thịnh Phát đến vụ công ty AIC, dự án đường cao tốc Đà Nẵng-Quảng Ngãi... Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Đây là điều không ai mong muốn, thậm chí rất đau xót, rất đau lòng, nhưng vì sự nghiệp chung, vì sự nghiêm minh của kỷ luật Đảng, thượng tôn pháp luật của Nhà nước, sự trong sạch, vững mạnh và uy tín của Đảng, Nhà nước và ý nguyện của nhân dân, chúng ta phải làm và kiên quyết làm”(4). Những sai phạm của cán bộ, đảng viên không thể để tiếp diễn, kéo dài, phải kiên quyết xử lý, kịp thời, nghiêm minh và công khai, làm nghiêm từ trên xuống dưới, không có vùng cấm, vùng trống, không có ngoại lệ, không có đặc quyền, bất kể người đó là ai.

Đưa ra khỏi Đảng những đảng viên “hữu danh vô thực”
Ảnh minh họa: TTXVN 

 

Để Đảng trong sạch cần phải làm gì?

Tiến hành xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật, rà soát, sàng lọc và kiên quyết đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng là hoàn toàn đúng đắn, thể hiện cao độ tính đấu tranh tự phê bình và phê bình trong Đảng ta hiện nay. Đây cũng là cơ sở quan trọng để đấu tranh, bác bỏ quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị cho rằng việc xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật là “thanh trừng, đấu đá nội bộ”. Để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh đặt ra nhiều vấn đề đối với nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên của Đảng ta hiện nay nhằm đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ:

Nâng cao chất lượng công tác kết nạp đảng viên. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm Chỉ thị số 28-CT/TW, ngày 21-1-2019 của Ban Bí thư về “Nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên và rà soát, sàng lọc, đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng”. Chú trọng công tác xây dựng kế hoạch tạo nguồn kết nạp đảng viên. Cấp ủy, tổ chức đảng cần tiến hành chặt chẽ, cẩn trọng việc thẩm tra lý lịch và lấy ý kiến nhận xét của tổ chức chính trị-xã hội đối với người được xem xét kết nạp vào Đảng. Chú trọng việc kết nạp đảng viên ở cơ sở trọng điểm còn ít đảng viên hoặc chưa có đảng viên. Kết hợp chặt chẽ giữa kết nạp đảng viên với giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện và sàng lọc đảng viên. Đổi mới nội dung, chương trình bồi dưỡng đối tượng kết nạp đảng và đảng viên mới bảo đảm thiết thực, chất lượng, hiệu quả theo hướng tập trung vào những vấn đề cơ bản về Đảng, tiêu chuẩn, điều kiện, nhiệm vụ, quyền của đảng viên, tính tiên phong, gương mẫu, nhất là xác định đúng đắn động cơ vào Đảng. Kiên quyết chấn chỉnh những biểu hiện sai trái trong công tác kết nạp đảng viên, khắc phục triệt để tình trạng chạy theo số lượng, xem nhẹ chất lượng.

Tăng cường công tác giáo dục, rèn luyện, quản lý đảng viên. Đa dạng hóa các nội dung giáo dục, rèn luyện đảng viên, trong đó tập trung giáo dục, nâng cao nhận thức về mục tiêu, lý tưởng; chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn; các chỉ thị, nghị quyết của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp; đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, “tự soi”, “tự sửa”, đề cao danh dự, lòng tự trọng của đảng viên. Chú trọng đổi mới, nâng cao chất lượng học tập lý luận chính trị, học tập nghị quyết; chủ động nắm tình hình, diễn biến tư tưởng, kịp thời định hướng cho đảng viên trước những vấn đề phát sinh; tăng cường trách nhiệm của đảng viên trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch. Tăng cường công tác quản lý đảng viên toàn diện trên các mặt chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống; các quan hệ xã hội; về việc lập và sử dụng các trang thông tin trên internet, mạng xã hội; quản lý chặt chẽ đảng viên ở ngoài nước và đảng viên ra nước ngoài công tác, học tập, lao động. Tiếp tục thực hiện chặt chẽ Quy định số 213-QĐ/TW, ngày 2-1-2020 của Bộ Chính trị về “Trách nhiệm của đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối liên hệ với tổ chức đảng và nhân dân nơi cư trú”. Quan tâm, tạo điều kiện và phát huy tính tích cực, tự giác của đội ngũ đảng viên trong tự học, tự rèn luyện, tự quản lý.

Đề cao tính đấu tranh tự phê bình và phê bình của các cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên. Thường xuyên giáo dục cho đội ngũ đảng viên nhận thức sâu sắc về ý nghĩa, mục đích của tự phê bình và phê bình; duy trì nghiêm nền nếp, chế độ sinh hoạt tự phê bình và phê bình. Thường xuyên đổi mới nội dung, cách thức tiến hành tự phê bình và phê bình. Trong sinh hoạt tự phê bình và phê bình cần có động cơ trong sáng, thái độ chân thành, không nể nang, né tránh, bao che khuyết điểm; không lợi dụng tự phê bình và phê bình để nói xấu, gây mất đoàn kết, hạ uy tín của các cá nhân, tổ chức. Mặt khác, cần có biện pháp bảo vệ người phê bình đã dũng cảm đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực; đồng thời cần có quy định cụ thể đối với cá nhân, tổ chức có khuyết điểm, bị phê bình phải kiên quyết sửa chữa, khắc phục khuyết điểm không để kéo dài; các cá nhân, tổ chức khi được phê bình cần tôn trọng và tiếp thu những đóng góp để đề ra các biện pháp khắc phục, sửa chữa cho phù hợp. Kết hợp chặt chẽ tự phê bình và phê bình trong Đảng với phê bình của quần chúng. Nêu cao vai trò, trách nhiệm, tính tiền phong gương mẫu của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, thực hiện “trên trước, dưới sau”, làm “từ trong ra, từ ngoài vào”. Kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện có thái độ thành kiến, trù dập người phê bình khuyết điểm; thiếu trách nhiệm cả trong phê bình và tự phê bình; chống mọi biểu hiện chủ nghĩa cá nhân, cục bộ bè phái, mất đoàn kết trong thực hiện tự phê bình và phê bình.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng. Cấp ủy, tổ chức đảng cần quán triệt, thực hiện tốt Quy định số 22-QĐ/TW, ngày 28-7-2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về “Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng”. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, đặc biệt là người đứng đầu cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đối với công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng; chủ động nắm chắc tình hình tổ chức đảng, đảng viên, nâng cao năng lực dự báo các tình huống, các vấn đề phức tạp, nổi cộm có thể nảy sinh trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng. Thực hiện chặt chẽ nguyên tắc trong kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng; tăng cường công tác giám sát thường xuyên, giám sát chuyên đề, kiểm tra đảng đột xuất đối với các tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên, kể cả cấp ủy viên cùng cấp khi có dấu hiệu vi phạm để ngăn chặn, xử lý kịp thời, nghiêm minh các vi phạm. Kịp thời củng cố, kiện toàn, xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra các cấp có trình độ chuyên môn nghiệp vụ; có đủ phẩm chất, bản lĩnh, tinh thần trách nhiệm và có dũng khí đấu tranh trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng. Giải quyết kịp thời, dứt điểm các đơn, thư tố cáo, khiếu nại theo đúng quy định; không để xảy ra tình trạng đơn, thư kéo dài hoặc lợi dụng công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng để gây mất đoàn kết, chia rẽ trong các tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên.

Kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”. Nâng cao nhận thức của các cấp ủy, tổ chức đảng về nhiệm vụ “xây” và “chống”, trong đó “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách. Tập trung xây dựng đội ngũ đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức trong sạch, lành mạnh; luôn năng động, sáng tạo, đi đầu trong các hoạt động, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động vì lợi ích chung; đồng thời luôn vững vàng trước những cám dỗ của lợi ích vật chất. Triển khai thực hiện hiệu quả mô hình “chi bộ bốn tốt”, “đảng bộ cơ sở bốn tốt”. Cấp ủy, tổ chức đảng cần quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021; Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 16-6-2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. Tiếp tục cụ thể hóa nội dung đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tăng cường công tác tuyên truyền, nêu gương người tốt, việc tốt trong công tác xây dựng Đảng. Bên cạnh đó, cần kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; hoặc lợi dụng công tác xây dựng Đảng để đưa ra khỏi Đảng những người không cùng phe cánh, những người mình không ưa thích, hoặc dám đấu tranh phê bình mình.

----------------------

(1), (4) Nguyễn Phú Trọng (2023), “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh”, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr.14, 28.

 (2) V.I.Lênin (1921), “Vấn đề thanh Đảng”, Lênin toàn tập, tập 44, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, tr.151-153.

(3) V.I.Lênin (1919), “Nhà nước của công nhân và tuần lễ Đảng”, Lênin toàn tập, tập 39, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr.255.

TUẤN ANH - XUÂN TRƯỜNG - DUY HIỆP 

Sự phi lý của luận điệu xuyên tạc “thơ cách mạng kháng chiến chỉ là thơ minh họa chính trị”

Thứ hai, 25/09/2023 - 05:30

Thơ cách mạng Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ (1946-1975) đã thể hiện niềm tự hào dân tộc, tự hào về truyền thống vẻ vang của ông cha ta trong suốt hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đó là những tác phẩm bám sát lịch sử chiến đấu hào hùng của quân dân ta, là bản anh hùng ca bất diệt. Tuy nhiên, vẫn có những người cố ý phủ nhận, xuyên tạc giá trị thơ cách mạng kháng chiến thế kỷ 20 và cho rằng đó chỉ là “thơ minh họa chính trị”. Luận điệu đó vừa phi lý, vừa phi nghĩa nên cần phải phê phán, bác bỏ.

Sự phi lý của những luận điệu xuyên tạc thơ thời kháng chiến

Thời gian qua, trên nhiều trang mạng, diễn đàn, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị và một số “nhà nghiên cứu” đã có nhiều ý kiến xuyên tạc, phủ nhận giá trị thơ cách mạng Việt Nam trong thời kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, làm tổn thương cả một thế hệ nhà thơ đã đóng góp tâm huyết, tài năng cho sự phát triển của nền văn học nước nhà, nhất là xúc phạm đến những nhà văn, nhà thơ đã anh dũng hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Sự phi lý của luận điệu xuyên tạc “thơ cách mạng kháng chiến chỉ là thơ minh họa chính trị”
Ảnh Minh họa 

Theo họ, dòng thơ này ra đời “theo sự chỉ đạo, đặt hàng của Đảng mà không phải viết do cảm xúc, do tình người của nhà văn”; “là thứ thơ cổ động, không có giá trị gì về nghệ thuật”. Lại có kẻ cho rằng, thơ thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ là “quê mùa”, “tỉnh lẻ”, tác phẩm vì thế “không thể vươn tới cõi thẳm sâu trong thế giới tinh thần mà hầu hết là tả thực, vội vã, sống sượng, nên ít có tính tư tưởng, sức sống của tác phẩm như thế cũng èo uột và ngắn ngủi” (!?).

Những ý kiến, lập luận nêu trên vừa không dựa trên thực tiễn đời sống chiến đấu của quân dân ta trong cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, vừa là cái nhìn phiến diện, lệch lạc, hàm chứa mưu đồ xấu xa là phủ nhận những giá trị của thơ cách mạng kháng chiến thế kỷ 20, sâu xa hơn là phủ nhận toàn bộ giá trị nền văn học nghệ thuật cách mạng nước nhà.  

Thơ cách mạng “vị nhân sinh”, vì sứ mệnh cao cả là giải phóng dân tộc

Thơ là sự thổ lộ tình cảm sâu sắc được thăng hoa, lắng đọng qua cảm xúc thẩm mỹ, làm lay động và mang lại cảm xúc cho người đọc. Với chức năng “văn dĩ tải đạo”, “thi dĩ ngôn chí”, thơ chân chính luôn hướng tới cái đẹp để ca ngợi, nuôi dưỡng, bồi đắp những giá trị chân-thiện-mỹ cho con người. Theo nhà phê bình văn học Nga V.Belinsky (1811-1848): “Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật. Phục vụ cuộc sống, phục vụ con ng­ười là mục đích lớn nhất của thơ chân chính”. Lãnh tụ V.I.Lenin cũng cho rằng: “Nghệ thuật thuộc về nhân dân. Nghệ thuật phải bắt rễ sâu xa trong lòng đông đảo quần chúng lao động. Nó phải được quần chúng đó hiểu và yêu thích. Nó phải tập hợp được tình cảm, tư tưởng, ý chí của quần chúng đó, nâng họ lên. Nó phải thức tỉnh những nghệ sĩ trong quần chúng và phát triển các nghệ sĩ đó”.

Trong lịch sử ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, mỗi khi đất nước có giặc ngoại xâm thì cuộc sống, số phận mỗi người dân tất yếu phải gắn chặt với vận mệnh của đất nước. Trong hoàn cảnh đó, lương tâm và trách nhiệm đặt ra tiếng nói của mỗi thi sĩ phải hòa chung với tiếng nói chung của dân tộc, thể hiện tình cảm của quảng đại quần chúng nhân dân lao động, biết đau chung cùng nỗi đau của người dân nô lệ, biết yêu thương, cảm mến và tôn vinh với những con người đã xả thân vì nghĩa lớn.

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Rõ ràng là dân tộc bị áp bức, thì văn nghệ cũng mất tự do. Văn nghệ muốn tự do thì phải tham gia cách mạng”. Vì vậy, dù có những đặc trưng, đặc thù thế nào đi chăng nữa thì từ sự nhận thức, phản ánh của mình, nhà thơ vẫn phải nhằm mục đích góp phần vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc, giải quyết những mâu thuẫn, những yêu cầu đặt ra của thời đại. Do đó, trong thời kỳ thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược nước ta, trước cảnh mất nước lầm than, nhân dân ta “một cổ hai tròng”, đây là “lửa thử vàng” để xem dòng thơ nào, tác giả nào thực sự “vị nhân sinh”, gắn bó với vận mệnh dân tộc, đất nước.

Trong những thời khắc trọng đại, yêu cầu nghệ thuật của thơ được tự giác kết hợp với yêu cầu chính trị, với nhiệm vụ lịch sử của đất nước. Thử hỏi thời kỳ đó, những tiếng thở dài “Không rên xiết là thơ vô ý nghĩa” hay “Lũ chúng ta đầu thai nhầm thế kỷ/ Một đôi người u uất nỗi chơi vơi” liệu có đại diện cho tiếng nói cả dân tộc không? Chắc chắn là không!

Hiển nhiên rằng, thơ không còn con đường nào khác ngoài con đường “bay theo đường dân tộc đang bay” và nhà thơ tự nguyện: “Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi/ Cùng đổ mồ hôi cùng sôi giọt máu/ Tôi sống với cuộc đời chiến đấu/ Của triệu người yêu dấu gian lao” (Xuân Diệu). Lịch sử thời kỳ ấy đặt ra cho mỗi nhà thơ, mỗi bài thơ đều thể hiện ý thức trách nhiệm với nhân dân, chủ động dùng thơ như một vũ khí tinh thần trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược. Nhà thơ trước hết phải là một công dân, đồng thời cũng là một chiến sĩ để những tác phẩm của mình phục vụ tốt nhất cho mục tiêu đấu tranh giành độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.

Thơ cách mạng kháng chiến của chúng ta đã làm tròn sứ mệnh vẻ vang đó. Thế nên, ai đó cho rằng, thơ thời kỳ này không có giá trị là một nhận định hàm hồ, thiếu nhân văn, xuyên tạc, nếu không muốn nói là thái độ vô ơn bạc nghĩa, có dụng ý xấu.

Không thể phủ nhận giá trị to lớn, cao đẹp của thơ cách mạng

Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã cuốn hút đông đảo nhà thơ giàu năng lực sáng tác và đầy tâm huyết tham gia sứ mệnh giải phóng dân tộc. Thế hệ nhà thơ từ trước cách mạng như Tố Hữu, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Tế Hanh, Lưu Trọng Lư, Hoàng Cầm, Hữu Loan, Anh Thơ... đã được ánh sáng của Đảng “thay đổi đời tôi, thay đổi thơ tôi” để sáng tác các tác phẩm thơ phục vụ cách mạng. Thế hệ nhà thơ nối tiếp là Nguyễn Đình Thi, Quang Dũng, Hoàng Trung Thông, Chính Hữu, Nông Quốc Chấn, Bàn Tài Đoàn... rồi đến Xuân Quỳnh, Bằng Việt, Vũ Quần Phương, Thanh Hải, Thu Bồn, Lê Anh Xuân, Anh Ngọc, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh, Vương Trọng, Hoàng Nhuận Cầm, Giang Nam, Lâm Thị Mỹ Dạ... Còn có nhiều nhà thơ đã anh dũng hy sinh quên mình vì nghĩa lớn và tác phẩm của họ đã trở thành bất tử trong dòng chảy thơ ca cách mạng của dân tộc.

Từ thực tế chiến trường khốc liệt, những câu chuyện cao đẹp, giàu tính nhân văn, những tấm gương chiến đấu hy sinh anh dũng đã tác động mạnh đến những tâm lý, tình cảm của mỗi tác giả để họ sáng tạo nên những bài thơ có giá trị sâu sắc. Sứ mệnh thiêng liêng cao cả của nhà thơ đã hòa vào dòng người “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, “Đường ra trận mùa này đẹp lắm”. Khao khát của nhà thơ là được đến với “biển lớn cuộc đời”. Không có sự hy sinh nào lớn lao, cao cả hơn sự hy sinh cho đất nước mình, dân tộc mình: “Ôi! Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt/ Như mẹ cha ta, như vợ như chồng/ Ôi, Tổ quốc! Nếu cần, ta chết/ Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông” (Chế Lan Viên)...

Nghệ thuật của thơ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã phát triển mạnh mẽ, đóng góp nhiều thành tựu xuất sắc trong nền văn học Việt Nam. Ngôn từ của thơ thời kỳ này đã góp phần tạo cho thơ Việt Nam một tâm thế mới, sức thuyết phục, truyền cảm hứng mạnh mẽ đối với công chúng để thể hiện tầm vóc cao đẹp của dân tộc và con người Việt Nam. Nhiều nhà thơ đã sử dụng bút pháp tinh tế: “Em là ai? Cô gái hay nàng tiên?” (Tố Hữu); “Cánh tay thần Phù Đổng sẽ vươn mây?” (Chế Lan Viên). Nhiều nhà thơ đã thổ lộ tình yêu đôi lứa luôn gắn liền với tình yêu quê hương, đất nước: “Anh yêu em như yêu đất nước”, “Em đứng bên đường như quê hương/ Vai áo bạc quàng súng trường” (Nguyễn Đình Thi); “Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình/ Phải biết gắn bó và san sẻ/ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở/ Làm nên Đất Nước muôn đời...” (Nguyễn Khoa Điềm);  “Em chính là quê hương ta đó” (Lê Anh Xuân)...

Có thể khẳng định rằng, thơ cách mạng trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ mang đậm chất sử thi, trữ tình, phản ánh sâu sắc cuộc sống lao động, chiến đấu hào hùng của quân dân ta. Những cách tân nghệ thuật được thể hiện trên nhiều bình diện: Từ việc mở rộng hình thức câu thơ đến sự vận dụng ngôn ngữ thơ một cách linh hoạt, từ những đổi mới phong phú trong giọng điệu thơ đến việc tìm tòi những kiểu kết cấu mới cho thơ. Nó vừa kết hợp hài hòa giữa lý tưởng và hiện thực, giữa chất anh hùng ca và tính trữ tình, giữa truyền thống và tìm tòi sáng tạo của các nhà thơ cách mạng.

Vậy thì sao vẫn có người xuyên tạc “đổi trắng thay đen” để cho rằng thơ thời kỳ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ là thơ “minh họa chính trị” được!

Những kẻ xuyên tạc, chống phá đã cố tình lờ đi hay không hiểu rằng, thời kỳ này, văn học nghệ thuật nói chung, thơ nói riêng đã vận động theo hướng cách mạng hóa, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước. Nhà thơ đồng thời là một chiến sĩ, tác phẩm của họ trở thành vũ khí đắc lực góp phần cổ vũ cuộc chiến đấu gian khổ, hào hùng của quân dân cả nước. Các tác giả đã gắn bó với cuộc kháng chiến, được tôi luyện trong lửa đạn và nếm trải những gian lao, thử thách nơi trận mạc, cho nên, trong giai đoạn này, “chất thép” và “chất thơ” đã hòa quyện nhuần nhuyễn. Thơ cách mạng đã tới được những khái quát sâu sắc về đất nước, con người, về hiện tại và tương lai, về dân tộc và thời đại, về lương tâm, trách nhiệm và lẽ sống.

Như vậy, có thể khẳng định rằng, trong 30 năm, thơ thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ đã phát triển cả về chất lượng và số lượng, trên cơ sở sự thống nhất hài hòa giữa nội dung và hình thức, giữa truyền thống và hiện đại. Nhất quán trong một quan niệm nghệ thuật tích cực, phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng, các nhà thơ không ngừng tìm tòi, sáng tạo, nhằm tạo dựng một nền thơ xứng đáng với tầm vóc của dân tộc, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

Những đóng góp lớn lao của các nhà thơ chân chính và những giá trị nhân văn cao cả của thơ cách mạng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc là căn cứ thực tiễn và minh chứng sinh động để chúng ta phê phán, bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận dòng thơ này.

Đại tá, TS PHẠM QUANG THANH

 (Phó chủ nhiệm Khoa Công tác Đảng, Công tác chính trị, Trường Sĩ quan Chính trị)

Luận điệu “bẻ lái”, xuyên tạc về đường lối đối ngoại của Việt Nam

Thứ Hai, 25/09/2023, 06:03

Sự kiện Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden có chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam từ ngày 10 - 11/9 theo lời mời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được báo chí trong nước và quốc tế phản ánh đậm nét. Lợi dụng sự kiện này, các thế lực thù địch, phản động tung ra những luận điệu đả phá, xuyên tạc mối quan hệ hợp tác, ngoại giao giữa hai nước.

Sự kiện Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden có chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam từ ngày 10 - 11/9 theo lời mời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được báo chí trong nước và quốc tế phản ánh đậm nét. Trong khuôn khổ chuyến thăm, hai bên ra Tuyên bố chung, nâng cấp mối quan hệ Đối tác toàn diện lên Đối tác chiến lược toàn diện, vì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững. Lợi dụng sự kiện này, các thế lực thù địch, phản động tung ra những luận điệu đả phá, xuyên tạc mối quan hệ hợp tác, ngoại giao giữa hai nước.

Luận điệu “bẻ lái”, xuyên tạc về đường lối đối ngoại của Việt Nam -0
Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden có chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam theo lời mời của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Chiêu trò gian xảo

Xuyên tạc đường lối đối ngoại, chính sách ngoại giao của nước ta là một trong những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động, các phần tử cơ hội. Các đối tượng vẽ ra câu chuyện Việt Nam nâng cấp quan hệ vì trước những diễn biến phức tạp, tranh chấp trên Biển Đông; họ dựng lên việc Việt Nam cần phải dựa vào Hoa Kỳ mới thoát khỏi ảnh hưởng nước khác, mới phát triển được đất nước, bảo vệ được lãnh thổ.

Trước chuyến thăm của Tổng thống Joe Biden, các tổ chức phản động sống lưu vong, các hãng truyền thông định kiến với Việt Nam ở hải ngoại phát tán nhiều bài viết với nội dung xấu độc để kêu gọi Chính phủ Hoa Kỳ gây sức ép vấn đề dân chủ, nhân quyền với Việt Nam; cho rằng quan hệ Việt – Mỹ sẽ không phát triển nếu dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam không được cải thiện, nếu còn chế độ cộng sản, “đảng cai trị”. Sau khi nước ta nâng cấp quan hệ thì họ bôi nhọ mối quan hệ này “không thực chất”, có những bài viết, bình luận miệt thị, cho rằng mối quan hệ chỉ “theo chiều hướng tiêu cực”. Mặt khác, các thế lực thù địch còn tỏ vẻ “lo lắng”, bày trò “tư vấn vạch hướng đi” cho Việt Nam để “mối quan hệ đi vào thực chất”!

Mục đích của các thế lực thù địch nhằm xuyên tạc đường lối đối ngoại của Việt Nam, trong đó xuyên tạc mối quan hệ Việt Nam với Hoa Kỳ, Việt Nam với Trung Quốc và một số nước khác. Các luận điệu xuyên tạc nhằm tìm cách cô lập, hạ thấp vị thế, uy tín Việt Nam trên trường quốc tế; phá hoại mối quan hệ nước ta với các nước, chia rẽ tinh thần đoàn kết, hợp tác, hữu nghị của Việt Nam với các nước. Đó là những âm mưu, thủ đoạn hết sức nguy hiểm, cần phải nhận diện, đấu tranh.

Phát huy truyền thống tự lực, tự cường, không ngừng mở rộng, hợp tác quốc tế

Từ khi Đảng, Nhà nước ta ra đời cho đến nay, thắng lợi trong công cuộc kháng chiến, kiến quốc trước đây, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay khẳng định rõ, dân tộc ta luôn nhất quán thực hiện phương châm lấy nội lực, tự lực cánh sinh là chính, là quyết định, đồng thời coi trọng tăng cường đoàn kết, hợp tác quốc tế. Dựa vào nước này để chống lại nước kia hoàn toàn không có trong đường lối, chính sách và thực tiễn đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”. Tinh thần tự lực, tự cường đã trở thành truyền thống quý báu của dân tộc ta, là nhân tố quan trọng để đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Hiện nay, xu thế hợp tác và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng song tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường vẫn là yếu tố quyết định đối với sự phát triển bền vững của dân tộc ta.

Đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ XHCN, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc...”.

Điều 4, Luật Quốc phòng năm 2018 nêu rõ, Việt Nam “thực hiện đối ngoại quốc phòng phù hợp với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chống chiến tranh dưới mọi hình thức; chủ động và tích cực hội nhập, mở rộng hợp tác quốc tế, đối thoại quốc phòng, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; không tham gia lực lượng, liên minh quân sự của bên này chống bên kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ của Việt Nam để chống lại nước khác; không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; giải quyết mọi bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; phù hợp với Hiến pháp, pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế có liên quan mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên”.

Vì vậy, bên cạnh mở rộng, tăng cường hợp tác quốc tế theo tinh thần Việt Nam là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, Đảng, Nhà nước ta luôn phát huy cao độ tinh thần đại đoàn kết toàn dân, chủ động tự lực, tự cường nhằm thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Đối với vấn đề Biển Đông, nước ta chủ trương thực hiện tốt phương châm: bốn không, bốn tránh; chín K; bốn giữ vững. Bốn không gồm: không tham gia liên minh quân sự, không liên kết với nước này để chống nước kia, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác, không sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Bốn tránh: tránh xung đột, tránh đối đầu, tránh bị cô lập về chính trị, tránh bị lệ thuộc về chính trị. Chín K: kiên quyết, kiên trì, khôn khéo, không khiêu khích, không mắc mưu khiêu khích, kiềm chế, không để nước ngoài lấn chiếm và không để xảy ra xung đột, đụng độ, không nổ súng trước. Bốn giữ vững: giữ vững chủ quyền quốc gia; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển; giữ vững quan hệ hữu nghị, hợp tác; giữ vững ổn định chính trị trong nước.

Đối với Trung Quốc, ngày 18/1/1950 đã đi vào lịch sử quan hệ hai nước Việt Nam - Trung Quốc, một mốc son quan trọng khi nước bạn là nước đầu tiên thiết lập ngoại giao với nước ta. Trải qua những khó khăn trong lịch sử, hai Đảng và nhân dân hai nước đã kề vai sát cánh, dành cho nhau sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn, quý báu, góp phần vào thành công của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH ở mỗi nước.

Đến năm 2008, hai nước thiết lập khuôn khổ Đối tác chiến lược toàn diện. Nước ta và nước bạn đã bàn và xây dựng thẳng thắn về những vấn đề còn chưa thống nhất giữa hai nước, nhất trí giải quyết những bất đồng trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau; thông qua thương lượng, hòa bình, giải quyết các mâu thuẫn trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, không làm phức tạp thêm tình hình, không mở rộng thêm tranh chấp, bất đồng. Tăng cường hợp tác trên biển, hợp tác để khu vực biển Đông là khu vực hòa bình, hợp tác, hữu nghị; lấy đại cục quan hệ hai nước làm trọng, xuất phát từ tầm cao chiến lược và toàn cục…

Kiên trì thông qua hiệp thương hữu nghị, xử lý và giải quyết thỏa đáng vấn đề trên biển; trên tinh thần tôn trọng đầy đủ chứng cứ pháp lý và xem xét các yếu tố liên quan khác như lịch sử, mở rộng nhận thức chung, thu hẹp bất đồng. Hai nước tiếp tục củng cố và phát triển quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc theo phương châm 16 chữ vàng “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần bốn tốt “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”.

Đối với Hoa Kỳ, Việt Nam – Hoa Kỳ bình thường hóa quan hệ năm 1995 cách đây 28 năm. Hai nước thiết lập và triển khai mối quan hệ Đối tác toàn diện năm 2013 với nhiều nỗ lực vun đắp và xây dựng lòng tin, cùng hướng về phía trước, đến  nay đã nâng cấp lên Đối tác chiến lược toàn diện. Đặc biệt, 10 năm qua, lòng tin ngày càng củng cố và tăng cường góp phần đưa quan hệ hai nước tiếp đà phát triển hiệu quả, trên cả bình diện song phương, khu vực và quốc tế, phù hợp nguyện vọng của nhân dân hai nước.

Nhiều năm qua, Hoa Kỳ luôn là một trong những đối tác có đầu tư lớn nhất tại Việt Nam, với gần 1.150 dự án đang hoạt động, tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 10,3 tỷ USD. Việt Nam đã vươn lên vị trí đối tác thương mại lớn thứ 7 của Hoa Kỳ trên toàn thế giới, đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam vào Hoa Kỳ ngày càng lớn mạnh.

Như vậy, thực tế sự phát triển mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc, Việt Nam – Hoa Kỳ là tất yếu khách quan, xu thế chung của thời đại. Đồng thời, đã chứng minh đường lối, chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng ta, thể hiện nét đặc sắc “ngoại giao cây tre” vì lợi ích của mỗi quốc gia - dân tộc, đóng góp vào hòa bình, hợp tác, phát triển trong khu vực và trên thế giới, hoàn toàn không có chuyện “theo bên này, chống bên kia” như luận điệu những kẻ xấu, cố  tình xuyên tạc, bịa đặt.

Tống thống Joe Biden khẳng định với báo chí quốc tế ngay sau cuộc hội đàm cấp cao vào chiều tối 10/9 rằng: “Ngày hôm nay, chúng ta có thể nhìn lại chặng đường quan hệ giữa hai nước, từ xung đột tới bình thường hóa và việc nâng cấp mối quan hệ đó lên tầm cao mới sẽ là một động lực cho thịnh vượng và an ninh tại một trong những khu vực quan trọng nhất trên thế giới”.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ: “Quan hệ đối tác đó tiếp tục dựa trên cơ sở tôn trọng đầy đủ những nguyên tắc cơ bản định hướng cho quan hệ hai nước trong thời gian qua, trong đó có tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế và thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau. Chúng tôi cũng đã nhấn mạnh rằng, sự hiểu biết lẫn nhau, hoàn cảnh của nhau, tôn trọng các lợi ích chính đáng của nhau và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau luôn có ý nghĩa quan trọng. Việt Nam đánh giá cao và coi trọng khẳng định của Hoa Kỳ ủng hộ một nước Việt Nam “mạnh, độc lập, tự cường và thịnh vượng””.

Đại Thắng

Nhận diện thủ đoạn bôi nhọ, chống phá lực lượng CAND

Thứ Sáu, 22/09/2023, 06:40

CAND Việt Nam là “thanh bảo kiếm” sắc bén, “lá chắn thép” vững chắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Với vai trò, chức năng nhiệm vụ phòng, chống các loại tội phạm, lực lượng Công an trở thành mục tiêu mà các thế lực thù địch, phản động, các phần tử cơ hội, bất mãn hướng tới nhằm xuyên tạc, chống phá.

Thời gian qua, các đối tượng xấu tìm cách bôi nhọ, hạ thấp uy tín, danh dự và phủ nhận những công lao của biết bao cán bộ, chiến sĩ ngày đêm vất vả bảo vệ sự bình an cho đất nước, cho nhân dân.

Hoạt động tuyên truyền chống phá được các đối tượng đẩy mạnh mỗi khi trong ngành Công an phát hiện, xử lý trước pháp luật hoặc kỷ luật những cán bộ, chiến sĩ thoái hóa, biến chất, có sai phạm về đạo đức, tác phong nghề nghiệp, vi phạm quy định của ngành và của pháp luật hiện hành. Đây là thủ đoạn hết sức tinh vi, xảo quyệt, họ lợi dụng những bức xúc của dư luận xã hội, kết hợp “ngụy tạo chứng cứ” nhằm tạo ra làn sóng tiêu cực hướng tới công kích, bôi nhọ ngành Công an theo dạng “tát bùn sang ao”.

Nếu ví lực lượng Công an như “cây xanh lớn” thì những trường hợp vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật là “cành lá héo”, chỉ mang tính nhỏ lẻ, là hiện tượng xảy ra ở nơi này hay nơi khác. Thế nhưng, bằng cách lập luận xảo trá, cùng những hình ảnh được cắp ghép, chỉnh sửa, các nhà dân chủ giả hiệu đã đánh tráo hiện tượng thành bản chất, cho rằng những sai phạm của cá nhân là “phần nổi của tảng băng chìm”, đánh đồng với tất cả lực lượng CAND. Những bài viết, bình luận dựa vào những sai phạm, hiện tượng tiêu cực của một số cán bộ, chiến sĩ để đẩy thành vấn đề lớn, từ đó kích động tâm lý hiềm khích, thù hằn với lực lượng Công an.

Ngoài ra, các đối tượng còn “bới lông tìm vết”, soi mói chuyện đời tư của các cán bộ, chiến sĩ trong ngành Công an, qua đó bồi bút xuyên tạc, làm ảnh hưởng đến uy tín, danh dự của lực lượng Công an. 

Khi các cán bộ, chiến sĩ Công an lập được những công trạng, thành tích xuất sắc trong công tác bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, giúp đỡ người dân gặp thiên tai, hoạn nạn, khó khăn… thì các đối tượng tảng lờ. Nhiều vụ trọng án dư luận đặc biệt quan tâm, lực lượng Công an vào cuộc với quyết tâm cao nhất, không ngại hiểm nguy, gian khó, nhanh chóng bắt giữ thủ phạm, làm rõ vụ án, được nhân dân ngợi khen. Để kịp thời ghi nhận, động viên cán bộ, chiến sĩ tham gia phá án, lãnh đạo Công an các đơn vị, địa phương và cấp ủy, chính quyền có hình thức khen thưởng đột xuất.

Đây là việc làm rất cần thiết và không chỉ với lực lượng CAND mà nhiều ngành, lĩnh vực khác cũng có hình thức biểu dương, khen thưởng tương tự. Hình thức khen thưởng này cũng không phải bây giờ mới có và người dân luôn ủng hộ việc động viên, khen thưởng trong những trường hợp như vậy. Thế nhưng, với ý đồ chống phá, nhiều đối tượng vẫn cố tình xuyên tạc, bôi nhọ, cho rằng phá án là việc của lực lượng Công an, xuất sắc đến đâu cũng không cần khen thưởng!

Các đối tượng đã dùng “miệng lưỡi diều hâu” phớt lờ những thành tích đã đạt được hoặc tìm cách phủ nhận những công lao của các cán bộ, chiến sĩ đã không quản khó khăn, hiểm nguy, ngày đêm đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm, đem lại sự bình an cho đất nước đúng như tinh thần của khẩu hiệu “thức cho dân ngủ ngon, gác cho dân vui chơi, lấy niềm vui, hạnh phúc của nhân dân làm niềm vui, lẽ sống của mình”.

Đất nước ngày nay có được bình yên, an ninh chính trị được ổn định, tội phạm được kiềm chế chính là nhờ công sức của hàng vạn cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng Công an cùng sự quan tâm của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể, sự ủng hộ của nhân dân. Thế nhưng, phía sau sự bình yên, phía sau mỗi chuyên án là sự nỗ lực không ngừng nghỉ của cán bộ, chiến sĩ Công an. Được hưởng thụ thành quả của sự ổn định, yên bình nhưng không phải ai cũng có thể thấu hiểu, sẻ chia những khó khăn, gian khổ, sự hy sinh của “những bàn chân lặng lẽ”, những người tạo nên chiến công thầm lặng nhưng rất đỗi vẻ vang.

Theo thống kê, từ ngày 15/12/2021 đến 14/12/2022 có 7 cán bộ, chiến sĩ Công an hy sinh, 120 cán bộ, chiến sĩ Công an bị thương trong khi thi hành công vụ; có 13 cán bộ Công an bị phơi nhiễm HIV. Con số đó cho thấy tính chất khốc liệt, hiểm nguy hàng ngày mà những cán bộ, chiến sĩ CAND đang đối mặt, nhất là trong bối cảnh hoạt động nhiều loại tội phạm diễn ra manh động, sử dụng vũ khí chống trả nguy hiểm. Để có được sự ổn định về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội là sự nỗ lực, quyết tâm và cả những hy sinh, mất mát trong thời bình của mỗi cán bộ, chiến sĩ CAND. 

Trở lại những sai phạm của một số cán bộ, chiến sĩ Công an thời gian qua, cần phải nghiêm túc, thẳng thắn nhìn nhận những khuyết điểm đang tồn tại của một bộ phận cán bộ, chiến sĩ trong ngành để kịp thời uốn nắn, chấn chỉnh. Quan điểm của lãnh đạo Bộ Công an là việc xử lý nghiêm các sai phạm gắn với công tác tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, tăng cường kỷ cương, kỷ luật.

Thực tế, do ảnh hưởng của nhiều yếu tố nên dù đại đa số cán bộ, chiến sĩ CAND có lập trường tư tưởng vững vàng, chấp hành tốt pháp luật và các nội quy, quy định có liên quan song vẫn xảy ra hiện tượng một số cán bộ, chiến sĩ chấp hành không nghiêm, vi phạm pháp luật, phạm tội.

Lực lượng CAND được đào tạo, rèn luyện bài bản, chính quy, tinh nhuệ để trở thành những người “vừa hồng, vừa chuyên” và theo quy luật, những “con sâu làm rầu nồi canh” tất yếu họ bị đào thải và chịu sự trừng phạt của pháp luật về hành vi mình gây ra. Đặc biệt hiện nay, toàn lực lượng CAND đang đẩy mạnh thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 16/3/2022 của Bộ Chính trị về xây dựng lực lượng CAND thực sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại.

Chính vì vậy, đối với những trường hợp cán bộ, chiến sĩ thoái hóa, biến chất “tự diễn biến, tự chuyển hóa”, vi phạm kỷ luật đều bị xử lý theo quy định của ngành Công an và quy định của pháp luật. Điều đó cho thấy rõ quyết tâm của lãnh đạo Bộ Công an trong việc chấn chỉnh những tồn tại, hạn chế, tập trung xây dựng đội ngũ CAND theo tinh thần Nghị quyết 12 của Bộ Chính trị đã đề ra.

Trước những luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ của các thế lực thù địch, phản động, các đối tượng chống phá, mỗi người cần tỉnh táo, nhận diện các thông tin xấu, độc hại, không để bị lừa bịp, lôi kéo theo chiều hướng tiêu cực. Trong thời gian tới, các thế lực thù địch, phản động, các đối tượng cơ hội, các nhà dân chủ giả hiệu sẽ không từ một thủ đoạn nào, tiếp tục công kích, bôi nhọ, hạ uy tín lực lượng vũ trang nói chung, lực lượng Công an nói riêng.

Các đối tượng triệt để sử dụng mạng xã hội phát tán những thông tin xấu, độc hại để gieo rắc, kích động tâm lý hiềm khích trong dư luận. Do đó, mỗi người dân khi tiếp cận các thông tin, bài viết có nội dung tương tự như trên cần thực hiện theo phương châm “5k” đó là: Không tin ngay; không vội bấm like; không thêm thắt; không kích động và không vội chia sẻ. Hành động đó góp phần ngăn chặn từ sớm, từ xa các thông tin xấu, độc hại và đồng thời, cần thể hiện lý trí, sự hiểu biết để phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.

Có như vậy, mỗi người dân sẽ trở thành một người chiến sĩ đấu tranh với những cái sai, cái xấu trên mạng xã hội và đó cũng chính là hành động thể hiện sự trách nhiệm của người công dân Việt Nam trong công cuộc đấu tranh, phòng, chống các loại tội phạm, bảo vệ lẽ phải, bảo vệ danh dự, uy tín của lực lượng vũ trang nhân dân nói chung, CAND nói riêng.

Phạm Duy

Việt Nam nỗ lực đóng góp cho hòa bình, ổn định của khu vực và thế giới

Thứ Hai, 18/09/2023, 06:30

Đại hội đồng Liên hợp quốc (LHQ) ngày 5/9 đã tiến hành các phiên bế mạc Khóa họp lần thứ 77 và khai mạc Khóa họp lần thứ 78 tại New York (Mỹ), trong đó trọng tâm là Tuần lễ cấp cao từ ngày 19-26/9 với sự tham dự của các nguyên thủ quốc gia và người đứng đầu chính phủ 193 nước thành viên của tổ chức đa phương lớn nhất hành tinh.

Đại hội đồng LHQ là một trong 6 cơ quan chính của LHQ, bên cạnh Hội đồng Bảo an, Hội đồng Kinh tế - Xã hội, Hội đồng Quản thác, Tòa án Công lý quốc tế và Ban thư ký LHQ; và là cơ quan có tính đại diện rộng rãi nhất trong hệ thống LHQ, với sự tham gia của tất cả các thành viên.

Đại hội đồng LHQ có thẩm quyền rộng rãi trong các lĩnh vực chính trị, an ninh, kinh tế, văn hoá, xã hội; có quyền thảo luận và đưa ra các nghị quyết, quyết định về các vấn đề thuộc phạm vi Hiến chương hoặc bất kỳ vấn đề nào thuộc thẩm quyền của các cơ quan của LHQ, nhằm mục đích thúc đẩy sự hợp tác quốc tế trên phạm vi toàn cầu.

don-vi-mu-noi-xanh-8-1616636811107-2048x1365.jpeg -0
Việt Nam tích cực tham gia sứ mệnh gìn giữ hòa bình LHQ. Ảnh TTXVN.

Với chủ đề “Xây dựng lại niềm tin, khơi dậy tinh thần đoàn kết toàn cầu: Đẩy nhanh hành động Chương trình nghị sự 2030 và Các mục tiêu phát triển bền vững hướng tới hòa bình, thịnh vượng, tiến bộ và bền vững cho tất cả mọi người”, các đại biểu tham dự Khóa họp thứ 78 Đại hội đồng LHQ sẽ tập trung thảo luận về những vấn đề thời sự nhất như: biến đổi khí hậu, phát triển bền vững, ngăn ngừa đại dịch, giải giáp vũ khí hạt nhân...

Theo giới chức LHQ, khóa họp lần này của Đại hội đồng được kỳ vọng sẽ tạo bước ngoặt trên con đường hướng tới việc hoàn thành Chương trình nghị sự 2030 và nhu cầu cấp thiết đưa 17 Mục tiêu phát triển bền vững (SDG) trở lại đúng quỹ đạo. Các nguyên thủ quốc gia và người đứng đầu chính phủ sẽ nhóm họp để thống nhất việc chuyển đổi và tăng tốc hướng tới việc hoàn thành các mục tiêu này vào năm 2030. Theo thông cáo của Bộ Ngoại giao, từ ngày 17-26/9, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính sẽ dẫn đầu đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam tham dự Phiên thảo luận chung cấp cao Khóa 78 Đại hội đồng LHQ.

Tiếp tục khẳng định vị thế, uy tín của Việt Nam

Với việc kết thúc Khoá 77, Việt Nam đã hoàn thành xuất sắc nhiệm kỳ Phó Chủ tịch Đại hội đồng từ tháng 9/2022 tới tháng 9/2023. Trong quá trình đảm nhận cương vị Phó Chủ tịch Khóa 77, Việt Nam đã cùng một số nước đề xuất các sáng kiến, giải pháp trên nhiều vấn đề lớn của LHQ như: đề cao luật pháp quốc tế, đại dương và luật biển; an ninh nguồn nước; trách nhiệm bảo vệ và phòng ngừa tội ác chống lại nhân loại; tiếp cận công lý bình đẳng. Việt Nam cũng tham gia chuẩn bị cho hội nghị cấp cao về phòng chống dịch bệnh, bảo hiểm y tế toàn cầu, bệnh lao, cải tổ hoạt động của Đại hội đồng LHQ, báo cáo của Tổng thư ký LHQ về hoạt động của tổ chức, báo cáo của Tòa án Công lý quốc tế (ICJ), báo cáo của Tòa án Hình sự quốc tế (ICC), theo Bộ Ngoại giao.

Bên cạnh đó, Việt Nam đã chủ trì Đại hội đồng LHQ thảo luận và thông qua nghị quyết yêu cầu ICJ đưa ra ý kiến tư vấn đối với vấn đề biến đổi khí hậu, các nghị quyết liên quan tổ chức phiên họp cấp cao về sẵn sàng phòng chống và ứng phó với dịch bệnh, bao phủ bảo hiểm y tế toàn cầu, bệnh lao, thúc đẩy các nội dung thảo luận tại Hội nghị của LHQ về nước. Việt Nam cũng đã hỗ trợ Chủ tịch Đại hội đồng điều hành các công việc chung của LHQ, trong đó có các sự kiện lớn cấp cao và các phiên họp quan trọng, cũng như trong điều phối và dẫn dắt quá trình thảo luận, thương lượng xây dựng các văn kiện, tiến trình mang tính định hướng chiến lược lâu dài của LHQ cho các năm tiếp theo. Việt Nam là nước được Chủ tịch Đại hội đồng LHQ Khóa 77 tín nhiệm, giao chủ trì điều hành nhiều cuộc họp của Đại hội đồng.

Sự kiện Việt Nam hoàn thành nhiệm kỳ Phó Chủ tịch Đại hội đồng LHQ với nhiều đóng góp thiết thực một lần nữa khẳng định vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, đồng thời cho thấy, sự ghi nhận xứng đáng của cộng đồng quốc tế đối với những thành tựu và nỗ lực của Việt Nam trong việc thúc đẩy bảo vệ quyền con người trên tất cả các lĩnh vực. Đây là minh chứng sinh động, đầy sức thuyết phục để phản bác những luận điệu xuyên tạc, cố tình phủ nhận những tiến bộ và thành tựu kinh tế, xã hội, đối ngoại nước ta.

Nhân tố cho hòa bình ổn định của khu vực và thế giới

LHQ là tổ chức đa phương lớn nhất thế giới với sứ mệnh duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, thúc đẩy hợp tác hữu nghị và phát triển của các quốc gia trên thế giới. Chuyến thăm của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đến Mỹ, tham dự Phiên thảo luận chung cấp cao Khóa 78 Đại hội đồng LHQ, diễn ra đúng dịp kỷ niệm Việt Nam gia nhập LHQ. Ngày 20/9/1977, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 149 của LHQ và kể từ đó, Việt Nam luôn là một đối tác tin cậy, là thành viên tích cực và có nhiều đóng góp quan trọng vào thực hiện các sứ mệnh của LHQ.

Trong gần 5 thập kỷ qua, các chương trình, dự án của LHQ đã đóng góp quan trọng vào quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam, nhất là phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội, giáo dục, y tế, xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường, chia sẻ kinh nghiệm phát triển trong nhiều lĩnh vực. Với những đóng góp tích cực vào nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế, Việt Nam đã được tín nhiệm bầu vào nhiều tổ chức quan trọng của LHQ như Hội đồng Bảo an (2008-2009, 2020-2021), Hội đồng Kinh tế - Xã hội (1998-2000, 2016-2018), Hội đồng Nhân quyền (2014-2016), Ủy ban Luật pháp quốc tế (2017-2021, 2023-2027), Hội đồng Chấp hành Chương trình Phát triển LHQ (UNDP)...

Theo Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu phát triển quan trọng, được LHQ và cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Theo Phó Tổng Thư ký LHQ Amina Mohammed, Việt Nam đã có những đóng góp tích cực đối với công việc chung của LHQ, đồng thời, đề cao việc Việt Nam tham gia có trách nhiệm vào lực lượng gìn giữ hòa bình LHQ, triển khai hiệu quả các mục tiêu SDG và nỗ lực thực hiện các cam kết chống biến đổi khí hậu, thúc đẩy hợp tác phát triển vì lợi ích chung của cộng đồng.

Cùng chung nhận định này, Chủ tịch Đại Hội đồng LHQ Khóa 76 Abdulla Shahid và Tổng Giám đốc UNDP Achim Steiner nhấn mạnh, Việt Nam là một trong những quốc gia hình mẫu của LHQ, có nhiều đóng góp quan trọng củng cố chủ nghĩa đa phương và tham gia công việc của LHQ, đặc biệt là tích cực thúc đẩy thực hiện các cam kết toàn cầu như triển khai các SDG và ứng phó với biến đổi khí hậu, mang lại nhiều kinh nghiệm thực tiễn quý báu cho LHQ và cộng đồng quốc tế.

Trong chuyến thăm đến Hà Nội tháng 8/2022, Trợ lý Tổng Thư ký LHQ, Cố vấn đặc biệt của Tổng Thư ký về hành động vì khí hậu Selwin Hart cho biết, ông đã tận mắt chứng kiến sự nghiêm túc và nỗ lực của Việt Nam trong việc thực hiện các cam kết đưa ra tại Hội nghị COP 26. Việt Nam còn thể hiện vai trò một thành viên trách nhiệm tại Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2014-2016. Trong 3 năm thực hiện nhiệm vụ, Việt Nam đã đưa ra nhiều sáng kiến được bạn bè quốc tế ủng hộ, trong đó có thúc đẩy quyền của các nhóm yếu thế, chống biến đổi khí hậu, được hơn 100 quốc gia đồng tình.

Cao ủy Nhân quyền LHQ Michelle Bachelet đánh giá cao các thành tựu kinh tế, xã hội, tạo nền tảng cho việc nâng cao đời sống, bảo đảm các quyền cho người dân Việt Nam trong thời gian qua, đặc biệt là trong thời gian đại dịch và phục hồi sau dịch. Bà nhất trí với các ưu tiên của Việt Nam về bình đẳng giới, chống phân biệt đối xử, bảo vệ nhóm dễ bị tổn thương trước tác động biến đổi khí hậu. Chính việc luôn nỗ lực thúc đẩy các chương trình nghị sự nhằm bảo vệ các nhóm yếu thế tại LHQ, cũng như đặt ưu tiên thúc đẩy bình đẳng giới, trao quyền cho phụ nữ và bảo vệ các nhóm dễ bị tổn thương, chống bạo lực và phân biệt đối xử về giới khi triển khai chiến lược phát triển kinh tế-xã hội đã giúp Việt Nam tích lũy đủ về lượng, tạo thành động lực để Việt Nam trúng cử làm thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2023-2025.

Tổng Thư ký LHQ Antonio Guterres từng đánh giá, Việt Nam là nhân tố quan trọng đóng góp cho hòa bình, ổn định của khu vực và thế giới. Năm ngoái, Tổng Thư ký LHQ thăm chính thức Việt Nam đúng dịp kỷ niệm 45 năm hợp tác Việt Nam-LHQ, sau khi Việt Nam hoàn thành xuất sắc nhiệm kỳ Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an nhiệm kỳ 2020-2021 và vừa trúng cử làm thành viên Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2023-2025.

Chuyến thăm thể hiện LHQ coi trọng hợp tác với Việt Nam, vai trò của Việt Nam tại LHQ và các diễn đàn đa phương, ghi nhận những thành tựu quan trọng về đổi mới, phát triển cũng như vị thế của Việt Nam là thành viên tích cực, có trách nhiệm, đóng góp có hiệu quả vào hoạt động của LHQ và cộng đồng quốc tế.

Cũng trong chuyến thăm này, Tổng Thư ký LHQ Antonio Guterres đánh giá cao hệ thống cảnh báo sớm trong giảm thiểu rủi ro thiên tai cũng như công tác dự báo thời tiết, thủy văn của Việt Nam. “Tôi thấy rất vui vì các sản phẩm dự báo của Việt Nam không những phục vụ người dân trong nước mà còn chia sẻ với các cơ quan khí tượng của các nước trong khu vực và trên thế giới. Rõ ràng, trong bối cảnh biến đổi khí hậu, chúng ta không thể sống thiếu dự báo, đặc biệt là dự báo sớm…Tôi hy vọng sau này, khi cháu tôi đến Việt Nam, sẽ thấy đây là một khu vực xanh tươi, năng động với những hoạt động kinh tế phát triển và cuộc sống thịnh vượng”, Tổng Thư ký LHQ nói.

Chuyến thăm tháng 10/2022 của Tổng Thư ký LHQ Antonio Guterres là chuyến thăm thứ tư của một Tổng Thư ký LHQ đến Việt Nam (trước đó là các chuyến thăm của ông Boutros Ghali vào năm 1993, ông Kofi Annan vào tháng 5/2006 và ông Ban Ki-moon vào tháng 5/2015).

Đón tiếp Tổng Thư ký LHQ thăm chính thức, Việt Nam tiếp tục khẳng định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng và có hiệu quả. Đây là bước tiếp tục triển khai đường lối đối ngoại của Đại hội Đảng lần thứ XIII và Chỉ thị 25 của Ban Bí thư về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương, phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương, nhất là tại LHQ.

Duy Tiến