Sự mập mờ của một vị tiến sĩ

27/07/2016 08:22 

Mới đây, trang điện tử BBC tiếng Việt cho đăng tải đoạn phỏng vấn một vị “tiến sĩ, nhà nghiên cứu cao cấp thuộc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á và Viện Chiến lược quốc tế tại Xin-ga-po”. Ông tiến sĩ này trả lời BBC về vấn đề đổi mới chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam là chuyển từ “một đảng lãnh đạo thành đa đảng đối lập”.

Không hiểu vị tiến sĩ này dựa vào đâu mà luận bàn như vậy bởi Đảng ta đã công khai trước dư luận trong nước và quốc tế về công cuộc đổi mới cả về lãnh đạo phát triển kinh tế, cả về chính trị, tư tưởng của Đảng. Về kinh tế, Đảng ta nhất quán duy trì có hiệu quả nền kinh tế nhiều thành phần, không ngừng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Về chính trị, Đảng ta nhất quán và quyết tâm thực hiện quan điểm tự đổi mới, tự chỉnh đốn, làm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu. Sự quyết tâm ấy được thể hiện rõ trong Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” - gọi tắt là Nghị quyết Trung ương 4. Tinh thần, nội dung của Nghị quyết Trung ương 4 đã được công khai trước toàn thể nhân dân Việt Nam và được tổ chức học tập, quán triệt, thực hiện sâu kỹ đối với mọi cán bộ, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Các đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam đều nhận thấy rằng, những nguy cơ mà Nghị quyết Trung ương 4 chỉ ra đã rất rõ, rất thật, vì vậy việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng để làm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh là trách nhiệm, bổn phận của mọi tổ chức Đảng, mọi đảng viên. Với quyết tâm từ Ban Chấp hành Trung ương cho tới từng chi bộ, từng đảng viên, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã thu được những kết quả tích cực và đã được ghi nhận trong Báo cáo chính trị trình Đại hội lần thứ XII của Đảng.
Tuy nhiên, Đảng cũng thừa nhận là trong quá trình xây dựng và chỉnh đốn Đảng, cũng còn những vấn đề cần phải rút kinh nghiệm, trong đó có kết quả về phòng, chống tham nhũng, lãng phí còn hạn chế; tình trạng chạy chức, chạy tội, suy thoái chính trị, tư tưởng vẫn tồn tại trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên v.v.. Đó là những vấn đề mà Đảng sẽ quyết liệt và nghiêm túc khắc phục trong thời gian tới, bảo đảm cho Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là một Đảng cách mạng, luôn là một khối đoàn kết, thống nhất về ý chí và hành động, giữ vững vai trò là lực lượng lãnh đạo xã hội như Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định.
Từ những vấn đề trên có thể hiểu: Đổi mới về chính trị tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam chính là đổi mới về tư duy lãnh đạo, về lề lối làm việc, đổi mới phong cách, tác phong công tác của mọi tổ chức Đảng, mọi đảng viên, nhằm bảo đảm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng. Tuyệt nhiên không thể mập mờ cho rằng công cuộc đổi mới về chính trị, tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là chuyển từ “một đảng lãnh đạo thành đa đảng đối lập” như cách trình bày của vị tiến sĩ nọ với trang điện tử tiếng Việt của BBC.
TRẦN THÔN

Cảnh giác với “đường lưỡi bò văn hóa”

Tính đa dạng là một trong những đặc điểm phổ quát của văn hóa. Đánh giá giá trị của văn hóa một tộc người, một vùng đất hoặc rộng hơn, một quốc gia, khác với so sánh một thành tựu của văn minh. Giá trị văn hóa không nằm ở chỗ so sánh cao thấp mà nằm ở sự khác biệt.
Trên nền tảng đó, việc bài xích, tẩy chay hoặc phủ nhận văn hóa của một dân tộc, một quốc gia khác, cho dù nền văn hóa đó khác biệt, thậm chí có điểm không phù hợp với nền văn hóa truyền thống của chúng ta đều là việc hết sức nên tránh. Bài xích hay đả kích văn hóa của dân tộc khác, quốc gia khác chỉ ve vuốt tinh thần dân tộc chủ nghĩa một cách cực đoan. Đó là điều nên tránh.
Ngược lại, tiếp nhận, tung hô, thần tượng những sản phẩm hay ý thức văn hóa ngoại lai một cách thái quá, chúng ta cũng dễ bị rơi vào bẫy hồn nhiên chủ nghĩa, dễ làm cho tinh thần dân tộc trở nên suy yếu, bạc nhược, dẫn đến sự lệ thuộc. Một dân tộc thiếu bản sắc văn hóa thì sức đề kháng của dân tộc đó khó tránh khỏi suy yếu. Đó là một hiểm họa.
Ăn sâu vào máu của người Trung Hoa là cảm thức Hoa Hạ tự tôn, coi Trung Hoa là cái rốn vũ trụ. Đối với họ, bốn phương tám hướng xung quanh chỉ là những dân tộc thấp kém, mặc nhiên là “phiên thuộc”, gọi chung là (Nam) man, (Bắc) di, (Tây) nhung, (Đông) địch. Lịch sử Trung Hoa hàng ngàn năm là lịch sử của những cuộc thôn tính đất đai và lãnh thổ của những dân tộc, quốc gia đã bị cảm thức Hoa Hạ mặc nhiên coi là phiên thuộc đó.
Sách vở Trung Quốc, cho đến nay vẫn gọi tất cả những cuộc thôn tính bành trướng ấy bằng một từ mỹ miều là… thu hồi! Cùng với Triều Tiên và Nhật Bản ở hướng “Đông địch” Việt Nam chúng ta, hướng “Nam man”, hoặc Nam Bang (đất nhiệt đới phía nam) là vùng đất hiếm hoi từng bị cảm thức Hoa Hạ nhìn như đất phiên thuộc nhưng vẫn đứng vững hàng ngàn năm, không bị hòa tan vào Trung Quốc. 
Lịch sử đã chứng minh, chính bản sắc văn hóa, sức đề kháng văn hóa kiên cường đã giúp chúng ta trở thành một thiểu số khó nuốt, không bị đồng hóa, tránh được đại họa bị xóa tên trên bản đồ thế giới.
Sự bành trướng cảm thức Hoa Hạ sặc mùi dân tộc cực đoan, hẹp hòi vẫn chưa dừng lại. Hầu như bộ phim cổ sử, giả sử nào của điện ảnh Trung Quốc hoặc Hồng Công cũng là câu chuyện tìm về hoặc bảo tồn, phát huy những giá trị tự tôn của Trung Nguyên, Trung Thổ, với những đe dọa, nguy cơ ảo tưởng đến từ những vùng đất “phiên thuộc” khắp bốn chung quanh.
Sản phẩm văn nghệ lấy đề tài cận đại, hiện đại cũng không quên thêm thắt, xuyên tạc, bóp méo những nguy cơ đó, tự biến dân tộc Trung Hoa thành nạn nhân của những âm mưu, sự công kích, lấn lướt của thế giới quanh họ vốn dĩ là thấp kém, vốn dĩ từng được họ nhường nhịn và giúp đỡ hoặc ban ơn mưa móc (!) Thủ vai hay ngợi ca điều đó, nhiều thế hệ nghệ sĩ Trung Quốc đã bị lệch lạc về nhận thức.
Nghệ sĩ Thành Lộc đã vạch rõ: “Những Phạm Băng Băng, Triệu Vy, Huỳnh Hiểu Minh, Lục Tiểu Linh Đồng v.v... vốn đã xem chúng ta là thần dân của họ, tài nguyên nước ta là tài sản của quốc gia họ từ bao đời nay rồi!”.
Những giá trị văn hoá Việt còn sót lại đang co rúm mình trước sự lấn át và xâm thực của văn hóa Trung Quốc vẫn xuất hiện nhan nhản trên các phương tiện giải trí, trên các trang mạng, các diễn đàn. Cuộc thập tự chinh văn hóa đang diễn ra âm thầm nhưng quyết liệt và rộng khắp, dai dẳng.
Những tranh chấp căng thẳng trên biển Đông đã trở thành một nguyên nhân quan trọng kích hoạt sự trỗi dậy của cảm thức Hoa Hạ trong xã hội Trung Quốc hiện đại, khi mà đa số người dân Trung Quốc hôm nay đều đã được giáo dục lịch sử sai lệch suốt hàng nhiều thập kỷ. Nó thổi bùng lên ngọn lửa dân tộc cực đoan trong phần lớn người dân Trung Hoa.
Các phương tiện truyền thông Trung Quốc đã nhanh chóng tận dụng điều đó để tiếp tục tuyên truyền sai lệch về cái gọi là “quyền lịch sử” đối với đường lưỡi bò 9  đoạn sai trái và phi pháp trên biển Đông.
Ngay sau khi Tòa án Trọng tài quốc tế PCA ở La Haye đưa ra phán quyết bác bỏ “quyền lịch sử” của Trung Quốc, loại tính hợp pháp của đường lưỡi bò trên biển Đông, truyền thông Trung Quốc đã tràn ngập lời tuyên bố của các nghệ sĩ, ngôi sao giải trí phản đối quyết liệt phán quyết này.
Dường như đã được chuẩn bị sẵn, dưới bản đồ Trung Quốc có in hình đường lưỡi bò phi pháp, bên cạnh lời phản đối của từng nghệ sĩ, bao giờ cũng là một dòng chữ rất nhàm tai: “Trung Quốc nhất điểm đô bất năng thiểu” (Trung Quốc, một mảnh cũng không thể thiếu). Tất nhiên, cũng vẫn còn những tiếng nói của lương tri ủng hộ sự đúng đắn.
Diễn viên Hồng Công Châu Nhuận Phát là một ví dụ. Bất chấp nguy cơ bị cấm hoạt động nghệ thuật tại đại lục, ngôi sao lớn của điện ảnh Hoa Ngữ vẫn từ chối tham gia việc phản đối phán quyết  của PCA như số đông đồng nghiệp Trung Quốc khác. Trước tin bị cấm, anh chỉ nhún vai: “Vậy thì kiếm tiền ít hơn thôi”.
Xuất phát từ lòng yêu nước, tình cảm dân tộc, hàng loạt người hâm mộ Việt Nam đã tuyên bố tẩy chay các thần tượng Trung Quốc đã lên tiếng phản đối phán quyết của Tòa PCA. Nhiều nghệ sĩ Việt cũng đã có tiếng nói rõ ràng, dứt khoát trong vấn đề này. 
Nghệ sĩ Thành Lộc trước đó thậm chí còn từ chối nhận vai trong vở Lôi Vũ của Tào Ngu, vì tác giả và câu chuyện đều là sản phẩm văn nghệ của Trung Quốc (dù thật ra nó hoàn toàn không liên quan gì đến vấn đề tranh chấp biển Đông hiện tại).
Bên cạnh, cũng đã từng có người hâm mộ Việt tỏ ra rộng lượng (hay hời hợt?) khi băn khoăn: chẳng qua nghệ sĩ Trung Quốc cũng chỉ thể hiện lòng yêu nước của họ, hoặc giả họ vì miếng cơm manh áo, vì sự phát triển sự nghiệp, đành phải nói theo điều chính phủ họ muốn. Tẩy chay, lên án họ liệu chúng ta có quá hẹp hòi?
Có hai vế khác nhau nhưng không hề đối ngược nhau trong câu trả lời cho vấn đề này. Thứ nhất, chủ nghĩa dân tộc cực đoan và hẹp hòi không bao giờ đồng nghĩa với lòng yêu nước. Lao theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan chỉ đưa quốc gia dân tộc đến vị thế một hung thần, một con ngáo ộp quốc tế, khiến dân tộc đó trở nên xấu xí, tự đánh mất mình, không bao giờ giúp dân tộc trở nên mạnh mẽ và được kính trọng.
Phản ứng quyết liệt, vạch mặt và tẩy chay mầm mống xâm lăng văn hóa ẩn núp trong cảm thức Hoa Hạ đang trỗi lên, ngược lại, không hề là phản ứng cực đoan. Góp sức chống lại sự xâm lăng, tha hóa bản sắc và họa bị đồng hóa không bao giờ là suy nghĩ hay hành động hẹp hòi. Đó là tiếng nói của lương tri và lòng yêu nước mà nghệ sĩ, trí thức và công chúng văn nghệ cần góp sức.
Chúng ta không tẩy chay toàn bộ văn hóa Trung Quốc, không dè bỉu hay thiếu sự học hỏi đối với những sản phẩm văn nghệ đỉnh cao của họ. Tuy nhiên, cần ngừng ngay lập tức việc tung hô, ca ngợi những nghệ sĩ Trung Quốc mang nhận thức méo mó và sai trái, đang tự biến mình thành công cụ truyền bá cho những sản phẩm mang danh văn nghệ để kích động cảm thức Hoa Hạ cực đoan, tuyên truyền những luận điệu sai trái cho tham vọng bành trướng của Trung Quốc trên biển Đông. Đừng nhìn những tên lính tiên phong đang bắn nọc độc văn hóa vào dân tộc mình như những người hùng.
Ở mặt thứ hai, chúng ta cần rạch ròi. Chúng ta chỉ tẩy chay những tác phẩm cụ thể nào bôi nhọ, xuyên tạc dân tộc mình. Còn tất cả những gì thuộc về tinh hoa nghệ thuật của Trung Quốc hay bất kỳ ai, những tinh hoa văn hóa thuộc về nhân loại chúng ta đều trân trọng. Chắc chắn người Việt không hề sai lầm kính trọng, khâm phục đại văn hào Lỗ Tấn, trong khi đại văn hào này toàn chỉ trích, mỉa mai, đau xót cho chính dân tộc của nhà văn.
Ngược lại, chúng ta khó có thể đánh giá cao Mạc Ngôn đầy tự tôn, dù rằng “danh hiệu quốc tế” thì Mạc Ngôn có vẻ như “nhỉnh” hơn một chút. Không  thể nhắm mắt khen, ca ngợi, dịch in tràn lan Ma chiến hữu chỉ vì Mạc Ngôn – tác giả - từng đạt Nobel Văn học bởi tác phẩm đó đã bóp méo lịch sử, ca ngợi kẻ xâm lược, thóa mạ những hy sinh xương máu của hàng vạn người  lính Việt Nam đã ngã xuống trong chiến tranh biên giới phía Bắc.
Tiếp nhận văn hóa cần qua bộ lọc, hay nói cách khác là nâng cao bản lĩnh, khả năng tiếp nhận văn hóa chứ không a dua. Cảm thức Hoa Hạ vẫn tồn tại đến tận hôm nay. 
Nó không khác gì một “đường lưỡi bò” trên lĩnh vực văn hóa văn nghệ đang lăm le liếm vào lòng tự hào dân tộc, tinh thần độc lập, tự chủ và quyết tâm bảo vệ trọn vẹn lãnh thổ của dân tộc Việt Nam. Nó là căn nguyên, là gốc rễ tạo nên tham vọng bành trướng trước hết là trên mặt tư tưởng, văn hóa mà vì nó, Việt Nam chúng ta đang chịu hệ lụy.
Chúng ta không thể tiếp nhận, đồng tình với nó để rồi mất cảnh giác, đến một lúc nào đó sẽ mặc nhiên thừa nhận, yếm thế tự đặt mình vào vị thế nạn nhân trong vấn đề tranh chấp, tranh cãi về chủ quyền, cả trên bộ lẫn trên biển Đông.
Thừa nhận, tung hô sự vĩ đại, chính nghĩa, giá trị của cảm thức Hoa Hạ Trung Quốc, lâu dần chúng  ta sẽ trở nên “nhược” chứ không chỉ đơn thuần là quốc gia “nhỏ”. Việc tự coi mình đồng đẳng với đối trọng, dù là ở tầm cá nhân hay quốc gia sẽ không bao giờ là nhuốm màu dân tộc cực đoan như ai đó từng nghĩ.
Tranh chấp chủ quyền biển Đông, phản đối đường lưỡi bò, phán quyết của Tòa PCA, đó là những sự kiện cụ thể trong thời điểm cụ thể. Trong một vấn đề cụ thể, chúng ta cần tỏ rõ chính kiến cụ thể.
Chúng ta cần thức tỉnh để nhận rõ sự nguy hại của đường lưỡi bò văn hóa, không tiếp tay hay tạo điều kiện cho nó lướt qua văn hóa, văn nghệ của dân tộc mình.
N.H.L. (ANTG CT 179)

Về cái gọi là “Học bổng xã hội dân sự VOICE năm 2016”

13:06 18/07/2016
Gần đây, nhiều đối tượng chống đối trên mạng đang tích cực loan truyền và mời gọi thanh niên trong nước tham gia cái gọi là “Học bổng xã hội dân sự VOICE năm 2016” với mục tiêu được họ tung hô là “đóng góp vào sự thay đổi tích cực của xã hội” hay tương lai “trở thành một nhà hoạt động xã hội và lập dự án riêng của mình” sau khi hoàn tất khóa học dài 6 tháng ở Philippines.
VOICE tự quảng cáo “là một NGO của Mỹ”, có chi nhánh tại Philippines và Việt Nam. Để dụ bạn trẻ vào chiêu trò này, VOICE tô vẽ rằng, tham gia khóa học, học viên được hứa hẹn tài trợ miễn phí, nhận học bổng, được tham dự các khoá đào tạo và hội thảo quốc tế trong và ngoài khu vực Đông Nam Á, được tổ chức bởi các tổ chức quốc tế và chính phủ các nước. Lại có cơ hội được tham dự các chương trình thực tập sinh tại các tổ chức quốc tế, văn phòng dân biểu liên bang và tiểu bang ở Canada và Australia cũng như Quốc hội châu Âu ở Bỉ…  
Những viễn cảnh màu hồng này đánh vào thị hiếu lười lao động, thích hưởng thụ, lại đội mác “nhà hoạt động xã hội” của không ít người. Song thực hư về khóa học hấp dẫn” này như thế nào?
Cơ quan chức năng đã nhiều lần cảnh báo về VOICE, báo chí cũng đã vạch trần bản chất của tổ chức đội lốt dưới các lớp áo ngụy trang này. VOICE là một tổ chức phản động, tay sai của tổ chức khủng bố Việt Tân do Trịnh Hội, Hoàng Tứ Duy (phát ngôn viên Việt Tân) và một số thành viên Việt Tân lập ra ở Mỹ dưới vỏ bọc “tổ chức phi chính phủ” từ năm 2007.
Tổ chức này chuyên đưa người Việt Nam đi tị nạn chính trị ở Mỹ, Canada, Úc, thúc đẩy cái gọi là “xã hội dân sự” ở Việt Nam bằng cách huấn luyện, đào tạo nhân sự và tài trợ tiền cho các hội nhóm chống đối trong nước. Để duy trì hoạt động trên, VOICE đã lập ra nhiều dự án xin tiền từ các quỹ dân chủ nước ngoài và quyên góp tiền từ kiều bào hải ngoại.
Sự thật là không những không thể gây thanh thế, đánh bóng tên tuổi như xưng hô ban đầu mà ngày càng có nhiều người Việt hải ngoại tẩy chay, tố cáo hoạt động núp dưới danh nghĩa trên của Trịnh Hội và các thành viên Việt Tân. VOICE bị chính người Việt ở Mỹ vạch trần bản chất trục lợi và chống phá đất nước, vi phạm pháp luật của Mỹ và các nước liên quan. Bản thân Trịnh Hội, Giám đốc điều hành VOICE ở Philippines đã bị điều tra, xử lý, đưa vào diện cấm nhập cảnh.
Về các khóa học “xã hội dân sự VOICE”, thực chất là dự án của Trịnh Hội và các đối tượng cầm đầu Việt Tân được một quỹ dân chủ quốc tế chuyên đạo diễn các cuộc các mạng đường phố trên thế giới cấp tiền duy trì từ nhiều năm nay.
“Sản phẩm” của các khóa huấn luyện này khi được tung về Việt Nam trở thành thành viên cốt cán cho các hội nhóm chống đối trong nước, bị cơ quan an ninh triệu tập, đấu tranh, xử lý bằng nhiều hình thức khác nhau, thậm chí cấm xuất cảnh có thời hạn nhằm ngăn chặn hoạt động núp dưới vỏ bọc “thúc đẩy xã hội dân sự”.
Chúng tìm cách câu kết với VOICE tham gia các diễn đàn, hội thảo ở nước ngoài để tuyên truyền chống Nhà nước Việt Nam về vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo. Vừa qua, một trong số những tay sai đắc lực trong nước chuyên “săn” người cung cấp cho các khóa huấn luyện này của VOICE bị bắt, khởi tố theo Điều 88 BLHS.
Trước việc liên tục bị báo chí, dư luận trong nước và kiều bào hải ngoại vạch trần bản chất, thủ đoạn chống phá, VOICE không còn bí mật “săn” được người duy trì các khóa học này. Khi không làm lén lút được nữa, họ lại giở trò kêu gọi trên mạng xã hội. Đây là lần đầu tiên VOICE công khai mời gọi, lôi kéo người tham gia bằng cách thức này, điều đó cho thấy sự bế tắc của chính VOICE khi bản chất gian trá, phản động bị vạch trần.
Không riêng gì ở Việt Nam và cộng đồng người Việt ở Mỹ, bộ mặt thật của VOICE cũng bị lật tẩy tại nhiều nước mà VOICE tìm cách trung chuyển, huấn luyện. Chẳng hạn, VOICE từng bị Chính phủ Campuchia trục xuất vì các hoạt động trung chuyển người từ Việt Nam trốn sang Thái Lan và các nước khác cho Việt Tân.
Với các bạn trẻ, cần ý thức và cảnh giác trước những chiêu trò tung hỏa mù, dụ vào lòng tham, lợi ích cá nhân của VOICE, không tham gia, không cổ súy, ngăn ngừa và tẩy chay các hành vi, luận điệu mời gọi của tổ chức này.
Đinh Hương

Sự xuyên tạc của “Hội ân xá quốc tế” không phủ nhận được chính sách, pháp luật Việt Nam về nhân quyền

Cách đây không lâu, tổ chức có cái tên rất kêu (và dễ gây ra ngộ nhận cho người đọc là một tổ chức của LHQ), “Hội ân xá quốc tế” (Amnesty Intenational-AXQT) đã đưa ra một bản “báo cáo” về tình trạng tù nhân trong các trại giam ở Việt Nam.

Thông tin từ Đài châu Á tự do (RFA) cho rằng, đây là “một công trình nghiên cứu của ông John Coughlan” (nhân viên, đặc trách nghiên cứu về Việt Nam) được thực hiện bằng "phỏng vấn qua điện thoại, email". Trong báo cáo này ông John Coughlan viết: Các “tù nhân lương tâm” tại Việt Nam luôn “bị tra tấn và ngược đãi” với những chứng cứ như: “Bị cách ly” khi giam giữ hoặc bị “cưỡng bức mất tích”. “Quyền về sức khỏe” của họ luôn bị  “từ chối”, một số trường hợp các “tù nhân lương tâm chỉ nhận được thuốc kém phẩm chất”...
Phần cuối bản báo cáo, ông John Coughlan (được AXQT đồng ý) “kiến nghị”: “Chấm dứt việc bắt bớ và lập tức trả tự do cho các tù nhân lương tâm”; “Chấm dứt việc tra tấn và đối xử tàn bạo tại các đồn công an, trại giam”; “Sửa đổi các bộ luật hình sự, luật tố tụng hình sự và luật về thi hành tạm giữ và tạm giam”...
Trước hết, như mọi người đều biết, quyền tự quyết của các dân tộc đã được ghi trong Hiến chương Liên hợp quốc, 1945 và Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, 1948. Quyền này bao gồm quyền lựa chọn chế độ chính trị, thiết lập thể chế quốc gia, trong đó bao hàm pháp luật nhằm bảo vệ quyền công dân, quyền con người. Đây là quyền của mọi quốc gia, dân tộc mà không có ai có quyền can thiệp, kể cả Liên hợp quốc. Hiến pháp và pháp luật Việt Nam do nhân dân Việt Nam quyết định. Hơn nữa các quy định trong Hiến pháp và pháp luật của Việt Nam cho đến nay đã tương thích với luật pháp quốc tế, trong đó có quyền con người. Thế nhưng, dưới danh nghĩa “bảo vệ nhân quyền”, AXQT đưa ra báo cáo với những nội dung sai trái và “kiến nghị” không thể chấp nhận được. Có thể nói, những chứng cứ và “kiến nghị” của AXQT thực chất là can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Chẳng hạn AXQT bao che, bảo vệ cho các hành vi vi phạm “Tội xâm phạm an ninh quốc gia” (như “Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” (Điều 79-Bộ luật Hình sự, 1999; “Tội tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam” hoặc vi phạm “Tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính” (chẳng hạn như “Tội lợi dụng các quyền tự do, dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” (Điều 258-Bộ luật Hình sự 1999).
Những cáo buộc trong báo cáo của AXQT nêu trên, chẳng những sai sự thật, mà còn thể hiện những quan điểm chính trị, nhân quyền trái với các nguyên tắc của luật pháp quốc tế. Đó là chưa nói đến báo cáo của AXQT được soạn thảo một cách phiến diện, cẩu thả, vô căn cứ. Chẳng hạn báo cáo chỉ “bảo vệ” quyền cho các “tù nhân lương tâm” (đây là khái niệm mơ hồ, không có trong ngôn ngữ pháp luật Việt Nam cũng như ngôn ngữ pháp luật của các quốc gia khác). Tư liệu của báo cáo dựa trên các cuộc “phỏng vấn qua điện thoại, email”. Trong khi báo cáo lại đưa ra những chứng cứ như: Tù nhân “Bị tra tấn đánh đập dã man”, “bị cách ly” hoặc bị “cưỡng bức mất tích”… Tại sao AXQT không nghĩ rằng, những kẻ kỳ thị, chống phá chế độ xã hội Việt Nam có thể cung cấp cho ông John Coughlan những thông tin giả tạo? Tại sao ông John Coughlan và AXQT không lấy thông tin từ những chính sách, pháp luật hiện hành của Việt Nam, qua những cán bộ công chức của nhà nước, là những người có trách nhiệm pháp lý đối với việc thực hiện pháp luật quốc gia? Điều này chỉ có thể giải thích, vì AXQT là một tổ chức có cùng quan điểm với những kẻ kỳ thị, chống phá chế độ xã hội Việt Nam!
Xin được bình luận thêm về việc biên tập báo cáo rằng, AXQT đã thông qua báo cáo này một cách cẩu thả. Chẳng hạn, trong văn bản nói trên họ còn nói đến hành vi phạm tội của chính những “tù nhân lương tâm”. Báo cáo có đoạn viết: “Tù nhân lương tâm còn bị đánh đập bởi các tù nhân khác dưới sự xúi giục hoặc với sự đồng thuận của quản giáo nhà tù”...(!) Thiết nghĩ nếu là một tổ chức nhân quyền thật sự, có trách nhiệm với mình và với các đối tác, thì AXQT không thể lấy báo cáo “điều tra”của cá nhân ông John Coughlan phỏng vấn “qua điện thoại, email” làm chứng cứ cho báo cáo chính thức của AXQT.
Như mọi người đã biết, tổ chức AXQT, cũng như tổ chức theo dõi nhân quyền-Human Right Watch (HRW) là những tổ chức sân sau cho các “Báo cáo tình hình nhân quyền” và “Báo cáo về tình hình tôn giáo thế giới” hằng năm của Bộ Ngoại giao Mỹ. Những tổ chức này là công cụ của lực lượng cực hữu Hoa Kỳ trong việc khuyến khích các hoạt động chống phá chế độ, chống phá Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Cái gọi là báo cáo thường niên của họ đã bị các quốc gia trên thế giới bác bỏ.
Vậy chính sách, pháp luật và thực tế việc bảo đảm nhân quyền ở Việt Nam như thế nào? Quy định pháp luật của Việt Nam về trại giam và đối với những người đang chấp hành hình phạt tù như thế nào?
Cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta luôn lấy dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là phương hướng, mục tiêu phấn đấu. Cương lĩnh (năm 2011) của Đảng Cộng sản Việt Nam ghi: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”. Thực hiện các cương lĩnh, văn kiện của Đảng, cho đến nay Nhà nước Việt Nam đã gia nhập, ký kết hầu hết các công ước quốc tế cơ bản về quyền con người.
Ngay trong thời kỳ đất nước ta còn bị chia cắt, năm 1957 Việt Nam đã gia nhập 4 công ước (Geneve) về Luật Nhân đạo “bảo hộ nạn nhân chiến tranh, đối xử nhân đạo với tù nhân chiến tranh”. Trước khi trở thành thành viên của Liên hợp quốc, trong thế bị bao vây, cấm vận của Mỹ, Việt Nam đã gia nhập “Công ước quốc tế về xóa bỏ các hình thức phân biệt chủng tộc” (năm 1981); ký kết “Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ” và gia nhập hai công ước quốc tế cơ bản về quyền con người: “Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội” và “Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị” (năm 1982). Năm 1990, Việt Nam ký Công ước về quyền trẻ em.
Thực hiện Chương II, Hiến pháp 2013 về “quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân”, đồng thời nội luật hóa các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã phê chuẩn, năm 2014 Việt Nam đã phê chuẩn hai công ước nhân quyền nhạy cảm, đòi hỏi Nhà nước phải đầu tư nguồn lực lớn (như để cải tạo các trại giam, nâng cao tiêu chuẩn ăn ở cho các phạm nhân, mở lớp đào tạo cho người khuyết tật…) đó là “Công ước chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người” (gọi tắt là Công ước chống tra tấn) và “Công ước về quyền của người khuyết tật”.
Đối với việc bảo đảm quyền con người của các phạm nhân, Chính phủ Việt Nam đã ra Nghị định số 60-CP (16-9-1993) “Ban hành quy chế trại giam” và Nghị định số 98/2002/NĐ-CP ngày 27 -11-2002 về “Sửa đổi, bổ sung một số điều của quy chế về tạm giam, tạm giữ năm 1988 của Chính phủ”. Nghị định trên đã bảo đảm các nguyên tắc pháp quyền đối với người đang chấp hành hình phạt giam giữ. Chẳng hạn về chế độ quản lý phạm nhân, Nghị định quy định: “Trại giam phải tổ chức giam phạm nhân theo từng loại riêng... Phạm nhân là nữ hoặc là người chưa thành niên phải được giam ở khu vực riêng trong từng trại (Điều 7), “Trừ những phạm nhân bị phạt giam ở buồng kỷ luật, còn các phạm nhân khác được ở theo buồng tập thể” (Điều 15); “Trại giam phải được bảo vệ nghiêm ngặt… có đủ ánh sáng, bảo đảm vệ sinh, môi trường” (Điều 10); “Phạm nhân được hoạt động thể dục thể thao, văn hóa, văn nghệ”…; “được đọc sách, nghe Đài Tiếng nói Việt Nam, xem truyền hình” (Điều 18); “Trong thời gian ở trại, phạm nhân được khám sức khỏe định kỳ ít nhất một năm một lần” (Điều 19).
Khác với quan điểm của một số quốc gia, Việt Nam cho rằng, phạm nhân phải lao động. Đây vừa là nghĩa vụ, vừa là một hình thức cơ bản, quan trọng để phạm nhân cải tạo trở thành công dân tốt. Điều 21 quy định: “Phạm nhân lao động ngày 8 giờ”, “Nữ phạm nhân có thai được nghỉ trước và sau khi đẻ theo quy định chung của Nhà nước”. Điều 23, quy định: “Kết quả lao động do phạm nhân dùng để đầu tư trở lại mở rộng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất của trại, thưởng cho cán bộ, chiến sĩ của trại có thành tích trong việc tổ chức và quản lý sản xuất; thưởng cho phạm nhân vượt chỉ tiêu”, nếu không đủ, “Nhà nước sẽ cấp bổ sung số kinh phí còn thiếu”.
Về việc bảo đảm sức khỏe và nhân phẩm của phạm nhân, Bộ luật Hình sự năm 1999 đã quy định: “Người nào trong khi thi hành công vụ mà làm chết người do dùng vũ lực…” thì bị phạt tù “từ 2 năm đến 7 năm” (Điều 97); “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” có hình phạt lên đến 7 năm tù (Điều 104)… Bởi vậy những điều mà AXQT nêu ra trong “Báo cáo” nói trên là không có cơ sở pháp lý. Nếu có chỉ là những trường hợp cá biệt nào đó của quản giáo chưa được phát hiện và xử lý mà thôi. Nói cách khác, Báo cáo của AXQT là sai trái, xuyên tạc đường lối, chính sách, pháp luật Việt Nam.
Nhân đây cũng cần nói đến chính sách nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, được thể hiện trong chính sách và Luật Đặc xá. Chính sách đặc xá hằng năm của xã hội ta tuân thủ nguyên tắc bảo đảm công khai, minh bạch, dân chủ trong việc lựa chọn người được đặc xá. Trước mỗi đợt đặc xá phạm nhân được bình bầu dân chủ, chọn ra những người cải tạo tốt, chấp hành nội quy trại giam tốt sẽ được đặc xá trước. Nếu như các “tù nhân lương tâm” (theo cách gọi của AXQT) cải tạo tốt, chắc chắn họ sẽ được trả tự do sớm như những phạm nhân khác. Trong trường hợp họ “dũng cảm, kiên cường” bảo vệ quan điểm của mình, đối đầu với chế độ, với Nhà nước Việt Nam, không thừa nhận những sai phạm của mình thì họ phải chờ đến hết thời hạn trong tù theo quyết định của bản án đã tuyên.
Theo báo cáo của Chính phủ, từ năm 2009 đến 2015, triển khai Luật Đặc xá, Chủ tịch nước đã quyết định thực hiện 5 đợt đặc xá tha tù trước thời hạn cho 63.499 phạm nhân và 678 người. Trong những năm gần đây cùng với việc thi hành Luật Đặc xá, Nhà nước ta đã thực hiện nhiều chính sách cho người đang thi hành án, trong đó có chính sách dạy nghề. Phần lớn những người được đặc xá năm 2015 đã có trong tay những nghề đơn giản để hội nhập cộng đồng.
Thiết nghĩ AXQT có thể hiểu rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam không có lợi ích gì khi đưa những người “bất đồng chính kiến”, những “tù nhân lương tâm” vào tù vì điều này không chỉ tổn hại về tiền bạc, công sức mà còn mang tiếng không tốt đối với cộng đồng quốc tế.
Như vậy có thể nói, xét về chính trị, pháp lý cũng như thực tế, Báo cáo của AXQT là hoàn toàn sai trái, là can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Cho dù AXQT có vu cáo, xuyên tạc tình hình chính trị, xã hội Việt Nam nói chung, tình trạng nhà tù Việt Nam nói riêng đến đâu cũng không thể phủ nhận được chính sách, pháp luật và thành quả của Nhà nước Việt Nam trên lĩnh vực quyền con người. 
BẮC HÀ

Cảnh giác với hoạt động thu thập bí mật Nhà nước

08:50 11/07/2016
Để thực hiện mục tiêu thu thập tin tức tình báo, các cơ quan đặc biệt nước ngoài sử dụng nhiều thủ đoạn tinh vi, kết hợp chặt chẽ giữa các phương thức cổ điển với sử dụng phương tiện hiện đại, công nghệ cao; cải cách tổ chức, phương thức hoạt động với mục tiêu trở thành nguồn cung cấp thông tin tình báo duy nhất, hiệu quả nhất.

Ngày nay, họ còn chú trọng sử dụng đội ngũ chuyên gia, kỹ thuật viên lành nghề, đội ngũ tin tặc đánh cắp, thu thập thông tin, tài liệu mật; tối ưu hóa tính năng của các phương tiện khoa học công nghệ hiện đại để tiến hành các hoạt động đánh cắp thông tin, tài liệu mật.
Tháng 6 - 2013, Edward Snowden, cựu nhận viên Cơ quan Tình báo Mỹ (CIA) đã công bố trên phương tiện thông tin đại chúng về những bí mật trong hoạt động theo dõi người dân, nghe lén điện thoại các tòa đại sứ, kiểm soát và đánh cắp thông tin trên internet của Cơ quan An ninh quốc gia Mỹ (NSA).
Đây là một trong những sự kiện nổi bật, gây sốc đối với nhiều quốc gia, tổ chức và cá nhân trên toàn thế giới. Thủ đoạn sử dụng phương tiện thông tin hiện đại thu thập, đánh cắp thông tin, tài liệu được coi là một trong những biện pháp tích cực nhất trong hoạt động tình báo hiện nay.
Một số cơ quan đặc biệt nước ngoài còn lợi dụng đường lối đối ngoại mở rộng của Đảng, Nhà nước ta để tiến hành các hoạt động tình báo, gián điệp, đánh cắp bí mật Nhà nước, bí mật quân sự, phá hoại ta từ bên trong. Chúng đẩy mạnh hoạt động khai thác, thu thập thông tin tình báo bằng nhiều thủ đoạn, kể cả “mỹ nhân kế”, vật chất, tiền bạc… để tiếp cận, móc nối, lôi kéo, mua chuộc và khống chế người có vị trí quan trọng, hoặc những người thường xuyên tiếp xúc, sử dụng, xử lý những thông tin, tài liệu mật.
Ngoài ra, chúng còn sử dụng nhân viên đội lốt phóng viên báo chí, nhân viên các tổ chức phi chính phủ, đoàn đàm phán, quan hệ hợp tác với nước ta để thu thập tin tức tình báo, phục vụ những mục đích khác nhau.
Có thể khẳng định rằng, âm mưu, thủ đoạn hoạt động thu thập bí mật Nhà nước, bí mật quân sự của các thế lực thù địch, phản động diễn ra thường xuyên, rất quyết liệt bằng nhiều thủ đoạn khác nhau.
Để đấu tranh có hiệu quả với các âm mưu, thủ đoạn hoạt động đó, không để lộ, lọt bí mật Nhà nước trong bối cảnh nước ta tiếp tục hội nhập, quan hệ quốc tế ngày càng sâu rộng, cần chú trọng những giải pháp căn bản.
Một là, cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, thực hiện các chỉ thị, quy định của Đảng, Nhà nước về quản lý, giữ bí mật Nhà nước, bí mật quân sự, an ninh, trọng tâm là: Chỉ thị 48-CT/TW, ngày 14-2-2005 của Bộ Chính trị về “Bảo vệ bí mật của Đảng trong phát ngôn và sử dụng, bảo quản thông tin, tài liệu trong tình hình mới”; Pháp lệnh 30/2000/PL-UBTVQH10 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (khóa X) về “Bảo vệ bí mật Nhà nước”; Chỉ thị 13/2008/CT-TTg, ngày 11-4-2008 của Thủ tướng Chính phủ về “Tăng cường bảo vệ bí mật Nhà nước trong tình hình mới”...
Qua đó, làm cho mọi cán bộ, chiến sĩ và nhân dân nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực phản động, thù địch trong lĩnh vực này; không mơ hồ, mất cảnh giác, vô tình tiếp tay cho địch. Chủ động phát hiện, đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả những hoạt động câu móc, cài cắm người vào nội bộ các cơ quan, tổ chức của ta để thu thập tin tức bí mật.
Hai là, làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ đơn vị an toàn tuyệt đối. Cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị, nhất là các cơ quan cơ mật, trọng yếu phải chấp hành nghiêm quy định, quy trình về tuyển dụng, bố trí, bổ nhiệm, bảo đảm cán bộ, nhân viên có lý lịch trong sạch, quan điểm chính trị vững vàng và có trình độ chuyên môn cao.
Đồng thời, thường xuyên quản lý, nắm chắc tình hình chính trị, tư tưởng, các mối quan hệ của cán bộ, nhân viên cả trong đơn vị, gia đình và địa phương, địa bàn, nhất là đội ngũ cán bộ, nhân viên thường xuyên làm việc, tiếp xúc với người nước ngoài, kịp thời phát hiện, xử lý các trường hợp vi phạm quy định, vô tình hay cố ý làm lọt, lộ thông tin bí mật.
Cùng với đó, lãnh đạo, chỉ huy các cơ quan, đơn vị cần chủ động phối hợp với chính quyền và các cơ quan chức năng địa phương nơi đóng quân, nhất là phối hợp với lực lượng an ninh Quân đội, Công an theo Nghị định 77/2010/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ, nắm chắc tình hình hoạt động của các đối tượng trên địa bàn, có biện pháp chủ động phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả các hoạt động thu thập bí mật quân sự, câu móc vào nội bộ ta hoặc những sơ hở, thiếu sót của ta trong công tác giữ gìn bí mật nói chung và quản lý công văn, tài liệu, quản lý, khai thác sử dụng mạng, các vật mang tin điện tử... nhằm hạn chế tối đa các thiệt hại do kẻ địch tác động thu thập đánh cắp thông tin, tài liệu mật.
Ba là, các cơ quan, đơn vị tăng cường công tác kiểm tra, hướng dẫn và có biện pháp ngăn ngừa, chấn chỉnh, khắc phục kịp thời những hạn chế, sai sót trong công tác bảo mật. Định kỳ tổ chức sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm về công tác bảo vệ bí mật Nhà nước, bí mật quân sự, an ninh, bổ sung hoàn thiện các quy chế, quy định của cơ quan về công tác bảo vệ bí mật quân sự cho phù hợp với thực tiễn cơ quan, đơn vị. Làm tốt công tác biểu dương, khen thưởng những tập thể, cá nhân có thành tích trong thực hiện tốt công tác bảo vệ bí mật Nhà nước.
Bốn là, quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, cũng như các phương tiện bảo mật phù hợp, đáp ứng yêu cầu phục vụ cho công tác bảo vệ bí mật Nhà nước, bí mật quân sự. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về công tác bảo vệ bí mật Nhà nước, nhất là các cơ quan Đảng, chính quyền, các ngành cơ yếu, viễn thông, công nghệ thông tin, công nghệ cao…
Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn về nghiệp vụ quản lý, trang thiết bị kỹ thuật, bảo đảm tốt kinh phí nghiệp vụ và có chế độ, chính sách phù hợp cho cán bộ, nhân viên, những người trực tiếp làm công tác cơ mật. Ngoài ra, cơ quan quản lý nhà nước cần chú trọng quản lý đội ngũ phóng viên, báo chí trong việc thực hiện Nghị định 72/2013/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ về “Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng”; chấp hành quy chế quản lý, sử dụng tài liệu mật, đưa tin, không để lộ, lọt bí mật Nhà nước, bí mật quân sự, đưa thông tin sai lệch, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới.
Quang Hợp

Chủ động ngăn chặn, đẩy lùi thông tin xấu độc trên internet và mạng xã hội

Công cuộc đổi mới đất nước hơn 30 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đạt được những thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực; đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao. Nhu cầu được thông tin và tiếp cận thông tin của người dân luôn được chính quyền các cấp từ Trung ương đến địa phương chú trọng. Đặc biệt, sự phát triển của internet đem lại những lợi ích to lớn cho người dân và góp phần quan trọng thúc đẩy xã hội phát triển.

Theo thống kê của Trung tâm Số liệu internet quốc tế (Internetworldstats), tính đến hết tháng 6-2015, Việt Nam đã có 45,5 triệu người dùng internet, đạt mức thâm nhập/dân số là 48%; đứng thứ 6 khu vực châu Á và thứ 3 khu vực Đông Nam Á. Trung bình mỗi ngày người Việt Nam lên mạng hơn 5 giờ (đối với người dùng máy tính) và gần 3 giờ (đối với người dùng điện thoại); thời gian sử dụng mạng xã hội bằng nhiều hình thức với thời gian trung bình hơn 3 giờ. “We are Social” là một công ty toàn cầu đã đưa ra bản thống kê chi tiết về xu hướng sử dụng internet, thiết bị di động, mạng xã hội của các nước, trong đó có Việt Nam. Tính đến thời điểm 1-1-2015, dân số nước ta là 90,7 triệu, song có tới 28 triệu người sở hữu tài khoản mạng xã hội (gần 31%); 128,3 triệu người có kết nối mạng di động (tương đương 141%), tức trung bình mỗi người sở hữu 1,4 thuê bao di động, trong đó sử dụng mạng xã hội qua điện thoại là 24 triệu người (chiếm 26%). Điều đó cho thấy các mạng xã hội và công cụ nhắn tin qua mạng xã hội (trong đó có facebook) được nhiều người quan tâm, sử dụng. Nếu sử dụng internet cũng như các mạng xã hội đúng mục đích và phù hợp sẽ là công cụ hữu hiệu góp phần quan trọng phục vụ công tác tuyên truyền, giáo dục đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với mỗi người dân.
 Ảnh minh họa. Nguồn: dangcongsan.vn
Tuy nhiên, bên cạnh những tiện ích internet mang lại thì mặt trái của nó không hề nhỏ. Bản chất internet là môi trường mở cho phép người sử dụng được tự do cung cấp, tìm kiếm và sử dụng thông tin, tính truyền tải nhanh, diện tham chiếu rộng, thông tin gần như tức thì, dễ tạo hiệu ứng xã hội theo chiều rộng nên rất khó quản lý và kiểm soát. Tính ưu trội của mạng xã hội còn tạo ra khả năng giao lưu, chia sẻ, kết nối cộng đồng rất thuận lợi. Đây là tính năng đặc biệt hấp dẫn đối với giới trẻ của internet. Cho nên, internet được ví như con dao 2 lưỡi chứa nhiều hiểm họa khó lường đối với người sử dụng không đúng mục đích. Thực tế, bên cạnh các thông tin bổ ích, có giá trị đối với xã hội thì còn vô số thông tin, hình ảnh có nội dung xấu độc, trái với truyền thống văn hóa dân tộc cũng được tán phát lên các trang thông tin điện tử (website), blog, mạng xã hội, trên phần phản hồi (comment) của các báo điện tử… Vì vậy, các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng internet và lập nhiều trang facebook để truyền bá những thông tin xấu độc, đăng tải những status trên trang facebook cá nhân với ngôn ngữ, luận điệu đầy tính kích động, phản động, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, phủ nhận thành tựu của công cuộc đổi mới, tìm mọi cách thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta trên mọi lĩnh vực.
Thông tin xấu độc tán phát trên internet và mạng xã hội là những thông tin bịa đặt, sai sự thật, bóp méo sự thật, xuyên tạc vấn đề, “đổi trắng, thay đen”, làm lẫn lộn đúng sai, thật giả; hoặc có một phần sự thật nhưng được đưa tin với dụng ý xấu, phân tích và định hướng dư luận bằng luận điệu sai trái, thù địch. Đó là các dạng thông tin có nội dung không phù hợp về chuẩn mực đạo đức, văn hóa, thuần phong mỹ tục như: Kích động đồi trụy, bạo lực, bôi nhọ đời tư, vu khống…; thông tin sai trái, độc hại có tính chất tội phạm tin học như: Lừa đảo trên mạng, đánh cắp thông tin, mật khẩu,tán phát vi-rút…; thông tin sai trái có tính chất chính trị như: Xuyên tạc sự thật lịch sử, phủ nhận Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chống phá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, bịa đặt, vu cáo, nói xấu các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, quân đội, công an và gây chia rẽ đoàn kết nội bộ, đe dọa an ninh quốc gia...
Tác hại của những thông tin xấu độc trên internet và mạng xã hội do các thế lực “mạng đen” tung ra có tác động tiêu cực đến tình hình tư tưởng, dư luận xã hội, gây nghi ngờ, gieo rắc sự hoang mang, dao động, làm giảm sút lòng tin của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa. Hệ lụy của thông tin xấu độc ảnh hưởng rất lớn đến đạo đức, lối sống, nhân cách của cá nhân và cộng đồng xã hội. Nếu đạo đức xã hội bị băng hoại, văn hóa dân tộc bị tầm thường hóa, đánh mất bản sắc, an toàn xã hội bị đổ vỡ, thì sẽ tác động mạnh đến chính trị, kinh tế, an ninh, quốc phòng; có nguy cơ dẫn đến mất phương hướng lựa chọn các giá trị, lối sống và niềm tin của một bộ phận không nhỏ trong giới trẻ là đối tượng thường xuyên tiếp cận với facebook.
Để chủ động ngăn chặn, đẩy lùi thông tin xấu độc trên internet và mạng xã hội, đòi hỏi trước hết mỗi cấp ủy, tổ chức Đảng, chính quyền các cấp cần đẩy mạnh tuyên tuyền, giáo dục để mỗi cán bộ, người dân thấy rõ tính hai mặt của internet và mạng xã hội; nhận diện các thủ đoạn, nội dung thông tin xấu độc, tính chất nguy hại của nó đối với cá nhân và xã hội. Qua đó trang bị kiến thức cần thiết để mỗi người có thể tự sàng lọc, tiếp nhận thông tin hữu ích, chính thống, đồng thời “miễn dịch” với những thông tin xấu độc làm nhiễu loạn môi trường xã hội. Trong quá trình tuyên truyền, giáo dục nâng cao sức đề kháng cho mỗi người trước thông tin xấu độc trên internet và mạng xã hội, cần tiếp tục gắn chặt chẽ với tuyên truyền, thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 27-7-2010 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) về “Chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại gây hủy hoại đạo đức xã hội”; Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9-6-2014 của Hội nghị Trung ương 9 (khóa XI) “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”.
Nghị quyết Đại hội XII của Đảng nêu rõ: “Chú trọng công tác quản lý các loại hình thông tin trên internet để định hướng tư tưởng và thẩm mỹ cho nhân dân, nhất là cho thanh niên, thiếu niên”. Trên thực tế, internet đang thể hiện ngày càng rõ nét đặc trưng của một xã hội ảo, song lại phản ánh ngày càng toàn diện mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội hiện tại. Cho nên công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này nói chung và của các cơ quan, đơn vị nói riêng gặp nhiều khó khăn, phức tạp. Để thực hiện tốt quan điểm của Đảng, công tác quản lý các loại hình thông tin trên internet, cấp ủy, tổ chức Đảng các cấp cần chú trọng nâng cao năng lực bộ máy quản lý; tăng cường đội ngũ chuyên gia về công nghệ thông tin giỏi, đầu tư cơ sở vật chất và trang thiết bị kỹ thuật hiện đại, bảo đảm triển khai có hiệu quả các biện pháp quản lý cả về hành chính và kỹ thuật.
Việc chủ động đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi thông tin xấu độc trên internet và mạng xã hội trong từng cơ quan, đơn vị cần có sự phối hợp chặt chẽ của các tổ chức, các lực lượng thực sự “vào cuộc”, trước hết là cấp ủy và người đứng đầu các cơ quan, đơn vị. Phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng, các tổ chức chính trị-xã hội tạo thành phong trào mang tính cộng đồng hướng tới một văn hóa internet lành mạnh, sẵn sàng tổ chức đấu tranh trực diện với những thông tin xấu độc trên internet và mạng xã hội.
Đại tá, Thạc sĩ NGUYỄN ĐỨC THẮNG (Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự)

Minh bạch để hoá giải những ngờ vực

09:18 04/07/2016
Nhìn lại 3 tháng kể từ khi xảy ra thảm họa môi trường làm hải sản chết hàng loạt tại 4 tỉnh miền Trung, “bão” dư luận với sự ngờ vực và nhiều luồng thông tin trái chiều đã làm ảnh hưởng lớn tới tư tưởng, tâm lý người dân.

Đáng nói, bên cạnh những thông tin mang tính kích động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, trực tiếp là của tổ chức khủng bố, phản động Việt Tân thì luồng tư tưởng a dua, cổ suý cho những quan điểm này cũng hình thành trên mạng xã hội với tốc độ lan truyền chóng mặt.
Trong khi các nhà khoa học thật đang làm việc cật lực để tìm ra giải đáp thì hàng vạn “nhà khoa học mạng” đã đưa ra các quan điểm mang tính suy diễn cá nhân chủ quan, nhận định, phê phán quy chụp làm rối loạn thông tin.
Một số luồng ý kiến viện dẫn, ngay từ khi xảy ra thảm họa cá chết, dư luận đã nghi vấn thủ phạm là Công ty Formosa Hà Tĩnh, trong đó chính người dân địa phương dò tìm ở bờ biển, phát hiện ống xả thải của công ty này chôn dưới lòng đất, xả ngay ra biển.
Dân thường còn dễ dàng phát hiện, còn biết đó là thủ phạm làm cá chết, vì sao nhà khoa học lại phải “dây dưa” nhiều tháng? Khi đó, có quan điểm đưa ra so sánh: Nước ta có hơn 24 nghìn tiến sĩ, tức ít nhất có 24 nghìn luận án khoa học đã bảo vệ thành công nhưng lại bó tay với thảm họa cá chết, trong khi người dân không luận án, không khoa học nhưng chỉ cần lặn ít phút dưới biển là biết được thủ phạm xả thải!
Sang tháng 5, đầu tháng 6, khi kết luận vụ việc vẫn chưa được đưa ra, các ý kiến theo luồng này tiếp tục suy diễn, cho rằng Đảng, Nhà nước cố tình bưng bít thông tin, “thoả hiệp” với Formosa, từ đó rêu rao rằng “đã đến lúc người dân phải tự đi tìm kết luận, bảo vệ lấy mình”.
Được sự hậu thuẫn, dẫn dắt của Việt Tân, không ít người còn tự huyễn hoặc mình thành nhà “khoa học”, kích động người dân xuống đường.
Nếu xét về cảm quan, việc sau 3 tháng Nhà nước mới đưa ra kết luận mà thủ phạm vẫn chính là Formosa như dư luận đã nói lâu nay thì có vẻ thời gian đó là quá dài, là chậm chạp, cũng như nghi ngờ kiểu dân thường biết từ lâu, sao đến giờ Nhà nước mới... biết.
Tuy nhiên, khoa học không phải là việc làm cảm quan, cảm tính. Người dân có thể nghi ngờ, có thể xác định theo những gì họ biết, họ thu nhận được và nghi ngờ của người dân về Formosa xả thải ngay từ đầu cũng là điều dễ hiểu. Còn khoa học là phải dựa trên chứng lý, cơ sở hết sức chặt chẽ, khách quan. Kết luận khoa học không phải là việc nghi ngờ ai thì đưa vài lý do rồi quy kết cho họ.
Trước vấn đề đặc biệt nghiêm trọng, liên quan đời sống của hàng triệu người dân, đến vấn đề chính trị, kinh tế, tư tưởng, tâm lý và an ninh xã hội, đến vấn đề đầu tư nước ngoài thì việc đưa ra kết luận để công bố trước toàn dân càng phải đảm bảo tính chặt chẽ, đầy đủ cơ sở vững chắc. Cho nên, để kết luận được vụ việc, các bộ ngành liên quan đã huy động trên 100 chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành từ 30 cơ quan trong và ngoài nước đã tổ chức thu thập, phân tích dữ liệu, có sự phản biện độc lập của các chuyên gia quốc tế.
Từ các căn cứ cụ thể, các bộ ngành, cơ quan chức năng có liên quan đã thẩm định kỹ lưỡng, tham vấn các nhà khoa học trong, ngoài nước và kết luận: Những vi phạm và sự cố trong quá trình thi công, vận hành thử nghiệm tổ hợp nhà máy của Công ty Formosa Hà Tĩnh là nguyên nhân gây ô nhiêm môi trường biển nghiêm trọng, làm hải sản chết bất thường tại 4 tỉnh từ Hà Tĩnh đến Thừa Thiên - Huế trong tháng 4 vừa qua.
Rõ ràng, có được kết quả cuối cùng về việc công bố nguyên nhân gây ra sự cố cá chết miền Trung là nhờ một quá trình đấu tranh kiên quyết của các cơ quan chức năng với một thái độ bình tĩnh, khách quan, khoa học, được thảo luận và xem xét rất kỹ lưỡng. Không vì sức ép dư luận, không vì những thông tin quy chụp, làm nhiễu loạn tình hình mà vội vàng đưa ra kết luận.
Điều đó cũng thể hiện bản lĩnh vì yêu cầu cao nhất: Tính chính xác trong kết luận khoa học. “Chính phủ không quyết liệt, không bản lĩnh thì không đạt được kết quả như thế” - Phó Thủ tướng Trương Hoà Bình nhấn mạnh tại phiên họp Chính phủ thường kỳ, ngày 1-7-2016.
Từ vụ việc đặc biệt nghiêm trọng này đặt ra những vấn đề lớn trong quản lý Nhà nước về các dự án đầu tư, đó là không thể vì bất kỳ lý do gì mà xem nhẹ tác động tới môi trường. An ninh môi trường biện chứng với an ninh chính trị, xã hội, từ sự cố vừa qua cho thấy hậu quả của nó rất ghê gớm và tác động dây chuyền.
Do đó, như Phó Thủ tướng Trương Hoà Bình đã yêu cầu, vấn đề tới đây là cần thanh tra, kiểm tra xem trong quá trình thẩm định, cấp phép, phê duyệt cho Formosa có tiêu cực không, nếu có phải xử lý nghiêm.
Thực tế, sau khi Chính phủ có kết luận, hiện đang nảy sinh những luồng dư luận như: Việc cấp phép xây đường ống xả thải ra biển, Bộ Tài nguyên Môi trường có lường trước được hay không những tác hại có thể xảy ra? Chúng ta đã duyệt quy trình xử lý nước thải và quy trình súc rửa đường ống chưa, trách nhiệm cá nhân, tổ chức nào? Cơ quan chức trách có biết hay không một số lượng lớn hoá chất được nhập về gần đây và liệu đã dùng hết bao nhiêu để phục vụ cho việc súc rửa đường ống? Có tiêu cực trong vấn đề cấp phép và giám sát xử lý hay không? Trách nhiệm của UBND tỉnh Hà Tĩnh trong vấn đề này?
Những vấn đề đó cần phải làm rõ và trên cơ sở tính chất, mức độ để xử lý trách nhiệm cá nhân, đó là vấn đề nhân dân mong mỏi và cũng để xoá đi những nghi ngờ, những luận điệu chống phá đất nước. Minh bạch và xử lý nghiêm, đó là cách tốt nhất để loại bỏ sự ngờ vực về việc bao che, dung túng sai phạm.
Đăng Minh

Những điều rút ra từ việc xử lý sự cố môi trường

Việc Chính phủ chiều 30-6-2016 vừa qua công bố nguyên nhân và những biện pháp xử lý hiện tượng hải sản chết hàng loạt tại biển miền Trung đã bước đầu làm sáng tỏ vụ việc và khẳng định quan điểm kiên quyết của Đảng, Nhà nước ta trong đấu tranh với những hành vi xâm hại môi trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân.

Nhân dân cả nước đồng tình, hoan nghênh và tin tưởng ở chủ trương, biện pháp của Đảng, Nhà nước ta trước sự cố lần đầu xuất hiện, có nhiều phức tạp, khó lường. Tuy nhiên, sự việc cũng để lại cho chúng ta nhiều bài học quý giá về sự cảnh giác, không để những “lỗ hổng” cho kẻ xấu lợi dụng phá hoại sự ổn định, phát triển của đất nước.
Bình tĩnh, tỉnh táo
Suốt 3 tháng qua, sự việc hải sản chết bất thường đã làm nóng dư luận. Một sự cố môi trường nghiêm trọng khiến người dân cả nước lo lắng, bức xúc là điều dễ hiểu. Nhưng lợi dụng vụ việc, một số đối tượng đã công kích, chống phá. Chúng dựng chuyện, xuyên tạc Đảng, Nhà nước ta “nhận tiền bảo kê”, bưng bít thông tin, bao che, đồng lõa cho sai phạm của Công ty Formosa Hà Tĩnh nên để sự việc bị chậm trễ, “chìm xuồng”.
Trước hết, cần khẳng định, nước nóng không chữa được bỏng nặng. Để vừa điều tra, làm rõ nguyên nhân, thủ phạm gây ra sự cố, vừa có giải pháp khắc phục, ổn định tình hình, hỗ trợ người dân gặp khó khăn, vừa buộc đối tượng vi phạm thừa nhận sai phạm, cam kết bồi thường, khắc phục… đòi hỏi mất nhiều công sức và thời gian, không thể nóng vội.
Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty TNHH Gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh Trần Nguyên Thành và các thành viên công ty đọc lời thừa nhận trách nhiệm gây ra sự cố môi trường biển tại 4 tỉnh miền Trung thời gian vừa qua; xin lỗi Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam cùng các cam kết bồi thường thiệt hại, khắc phục sự cố môi trường và các cam kết liên quan khác. Ảnh: TTXVN  
Tìm hiểu thông tin từ báo chí quốc tế, ngay cả ở nhiều quốc gia trên thế giới, để tìm ra nguyên nhân và thủ phạm các vụ gây cá chết quy mô lớn đều rất khó khăn. Nhiều nơi còn không tìm ra thủ phạm hoặc bị nghi phạm “phản pháo”, làm sự việc tranh cãi kéo dài. Với sự cố môi trường ở miền Trung, báo cáo của cơ quan chức năng cho biết, Tập đoàn Formosa đã từng gây ra một số vụ việc ô nhiễm môi trường nghiêm trọng cả ở Đài Loan và một số nước như: Cam-pu-chia, Mỹ, Nhật Bản... và đã nhiều lần lợi dụng kẽ hở pháp lý của nhiều nước để né tránh bồi thường. Báo chí quốc tế cho biết, năm 1999, Tập đoàn Formosa Plastics bị phát hiện xả 3.000 tấn chất độc hại ra một thị trấn ven biển của Cam-pu-chia nhưng phải qua nhiều đấu tranh, Formosa mới công khai xin lỗi và bị buộc phải dọn dẹp đống chất thải, đưa tới xử lý tại Mỹ. Ngay tại Mỹ, Formosa cũng từng gây ô nhiễm nước ngầm xung quanh một nhà máy, sau nhiều đấu tranh pháp lý, đối tượng sai phạm phải nộp phạt 1 triệu USD.
Từ các thông tin trên cho thấy, Đảng, Nhà nước ta xác định: “Tích cực, khẩn trương, thận trọng, khách quan, khoa học, chính xác, chặt chẽ, đúng pháp luật” trong điều tra vụ việc là chủ trương đúng đắn. “Xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật, không bao che bất kỳ một tổ chức và cá nhân nào”-Đó cũng là quan điểm của Đảng, Nhà nước ta và là cụm từ được Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc nhiều lần khẳng định trong các chỉ đạo của Chính phủ.
Để điều tra, một Hội đồng chuyên gia khoa học và công nghệ quốc gia gồm 3 tổ, hội tụ hơn 100 chuyên gia của hơn 30 viện nghiên cứu, trường đại học của nhiều nước có uy tín trên thế giới như: Nhật Bản, Pháp, Đức, Mỹ, I-xra-en cùng Hội đồng phản biện đã được thành lập. Nhờ điều tra công phu, trên diện rộng, đối chiếu, loại trừ nhiều nguyên nhân, tìm ra những bằng chứng không thể chối cãi đã khiến đối tượng vi phạm phải “cúi đầu nhận sai phạm” một cách tâm phục khẩu phục.
Câu trả lời báo chí của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà đã cho thấy rất rõ vai trò chỉ đạo, xử lý của lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta; hoàn toàn không có việc chậm trễ, “bảo kê” như thông tin xuyên tạc. Bộ trưởng khẳng định: “Ban đầu khi xác minh, nổi lên ba cơ sở là: Formosa Hà Tĩnh, Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng và Khu công nghiệp Hà Tĩnh. Phải kiểm tra, rà soát tất cả cơ sở công nghiệp trong vùng vì khi chưa kiểm tra, chưa có cơ sở pháp lý đầy đủ thì không cho phép "kết tội một ai". Tôi khẳng định, Chính phủ không bao che mà làm theo trình tự một cách khoa học, đúng quy định pháp luật trong nước và quốc tế. Bộ Chính trị, Thủ tướng, các Phó thủ tướng, Bộ trưởng nhiều bộ và chính quyền địa phương đã chỉ đạo vào cuộc rất quyết liệt. Các nhà khoa học trong và ngoài nước đã làm việc hết mình bất kể ngày đêm…”.
Vụ việc một lần nữa cho thấy, bài học tỉnh táo trong những tình huống phức tạp vẫn nguyên giá trị. Nguyên Phó thủ tướng Vũ Khoan trong một bài viết gần đây đã đưa ra hình ảnh khuyến nghị người dân cần có “trái tim nóng và cái đầu lạnh” trong nhìn nhận các vấn đề xã hội bức xúc. Cách xử lý nhiều vụ việc đối với lãnh đạo Đảng, Nhà nước phải luôn bình tĩnh, tỉnh táo, trên tầm cao chiến lược, không thể nóng nảy, vội vàng. Có nhiều sự việc phải qua độ lùi thời gian mọi người mới hiểu hết tính đúng đắn của những chủ trương, quyết sách. Cho nên, sự bình tĩnh, đồng thuận của xã hội là chất xúc tác rất cần thiết.
“An dân”, xây đi đôi với chống
Thực tế cũng phủ định hoàn toàn luận điệu của những kẻ xấu cáo buộc Đảng, Chính phủ “vô cảm” trước cuộc sống của người dân, bị thao túng bởi nước ngoài.
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà đã khẳng định: Bộ Chính trị đã vào cuộc rất quyết liệt và đưa chủ trương chỉ đạo sát sao theo từng diễn biến sự việc. Trên thực tế, trong những tình huống phức tạp, chưa bao giờ thiếu vắng vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý, điều hành của Chính phủ. Ngay sau phiên họp đầu tiên của Chính phủ liên quan đến vụ việc cá chết, Thủ tướng Chính phủ đã có ý kiến chỉ đạo quyết liệt các ban, bộ, ngành, địa phương giải quyết 9 nội dung liên quan sự việc, hơn 30 bộ, ngành tham gia thu thập chứng cứ, xác minh. Không thể nói Đảng, Nhà nước ta “vô cảm”, “chậm trễ” khi mà đến nay, Chính phủ đã ban hành tới 28 văn bản chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương xử lý các vấn đề liên quan tới vụ việc. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công Thương phối hợp với Bộ Y tế công bố ngư trường và danh mục hải sản an toàn, công bố vùng biển đánh bắt an toàn; giải pháp thu mua hải sản an toàn, hỗ trợ thu mua hải sản… Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 722/QĐ-TTg ngày 9-5-2016 hỗ trợ khẩn cấp cho người dân vùng bị thiệt hại với nhiều chính sách hỗ trợ gạo, tiền ra khơi, vay vốn, khắc phục hậu quả môi trường...
Chính phủ họp báo công bố nguyên nhân sự cố môi trường tại 4 tỉnh miền Trung. Ảnh: Quang Phương. 
Phát biểu tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân cho biết, đã thành lập 4 Đoàn giám sát của Trung ương tại 4 tỉnh về công tác hỗ trợ của Chính phủ đối với nhân dân bị thiệt hại, bảo đảm kịp thời, đúng đối tượng, ít sai sót. Các địa phương đã hỗ trợ 4.309 tấn gạo đến 40.043 hộ dân; hỗ trợ các hộ nuôi trồng thủy sản bị thiệt hại hơn 9,825 tỷ đồng; hỗ trợ cho 8.111 chủ tàu, thuyền ngừng khai thác.
Đặc biệt, trong sự việc này, chúng ta đã triển khai hiệu quả các biện pháp chủ động ngăn chặn các hoạt động lợi dụng sự cố để kích động, chống phá. Công an các tỉnh: Hà Tĩnh, Quảng Bình, TP Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và các địa phương đã sớm phát hiện, đấu tranh, xử lý các đối tượng có hành vi kích động người dân tuần hành, gây rối. Dù các thế lực chống phá bằng những khẩu hiệu kích động “cá cần nước sạch, dân cần minh bạch”, lôi kéo người dân thực hiện hơn 10 cuộc tụ tập, tuần hành nhưng âm mưu tạo ra các cuộc “biểu tình” quy mô lớn, tạo phong trào “cả nước xuống đường”, “cách mạng cá” và các cuộc “bạo động”, đập phá nhà máy nước ngoài của chúng đã thất bại. Dù nhiều tổ chức “xã hội dân sự” lập nhóm “Cứu môi trường”, gửi thỉnh nguyện thư kêu gọi nước ngoài can thiệp, thổi phồng nguy cơ “mất nước”, “mất đất” nhưng tuyệt đại đa số nhân dân vẫn tin tưởng, ủng hộ chủ trương, biện pháp giải quyết của Đảng, Nhà nước ta, không bị mắc mưu kẻ xấu.
Bằng sự vào cuộc chủ động, tích cực, kiên quyết và tỉnh táo, chúng ta đã không để xảy ra các vụ việc gây rối, giữ vững được môi trường đầu tư, ổn định sản xuất. Tuy nhiên, để giữ nghiêm kỷ cương phép nước, không để tái diễn âm mưu lợi dụng các sự cố kinh tế để phá hoại, rất cần các cơ quan pháp luật sớm điều tra, xử lý nghiêm minh những đối tượng phá hoại, công khai để răn đe.
Thận trọng trong xử lý thông tin
Sự cố còn để lại nhiều bài học quý giá về xử lý thông tin. Phó trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Trương Minh Tuấn, cho biết: “Thời gian vừa qua, dư luận trên các trang mạng xã hội có nhiều ý kiến phản ứng về sự chậm trễ công bố nguyên nhân cá chết. Tôi cho rằng bức xúc đó là chính đáng, dễ hiểu bởi sự cố này liên quan tới sự an lành của đất nước, đời sống của người dân, đặc biệt là đời sống của hàng chục nghìn ngư dân các tỉnh miền Trung. Tuy nhiên, sự phản ứng thái quá, sự suy diễn không dựa trên kết quả điều tra đã làm nhiễu loạn thông tin, gây bất lợi cho quá trình điều tra… Đảng và Nhà nước không hề có chủ trương che giấu thông tin. Tuy nhiên, đã có một thời gian, để tạo thuận lợi cho quá trình điều tra, chúng tôi đề nghị các cơ quan truyền thông hoạt động theo đúng Luật Báo chí và giảm liều lượng, tạm ngừng thông tin, không suy diễn, quy chụp. Trong một sự cố phức tạp và nghiêm trọng như vụ cá chết vừa rồi, các nhà báo không đủ khả năng để tìm ra thủ phạm. Sự điều tra của báo chí cũng không thể thay thế sự điều tra của các cơ quan bảo vệ pháp luật, cơ quan chuyên môn và các nhà khoa học”.
Đây là quan điểm phù hợp với các quy định của Luật Báo chí và các đạo luật khác hiện hành. Với một sự việc rất phức tạp, chỉ đấu tranh trên báo chí có lẽ là chưa đủ. Nếu không có sự kết hợp chặt chẽ, tổng hợp giữa đấu tranh khoa học và đấu tranh pháp lý cùng với đấu tranh ngoại giao, sẽ rất khó đạt kết quả là làm sáng tỏ sự việc và đạt các yêu cầu đề ra.
Đảng, Nhà nước ta luôn đánh giá cao vai trò của “binh chủng” báo chí trong đấu tranh với tiêu cực, tham nhũng. Song trong mọi cuộc đấu tranh, luôn cần những biện pháp, hình thức, bước đi linh hoạt. Kết quả làm sáng tỏ sự cố môi trường ở miền Trung có vai trò rất lớn của báo chí, truyền thông nhưng cũng có thông tin được đưa vội vàng, thiếu kiểm chứng; không chỉ bị kẻ xấu lợi dụng xuyên tạc mà còn gây hoang mang cho chính cộng đồng. Chẳng hạn như thông tin ngao chết, sứa chết ở Cồn Vành (Thái Bình) được một thanh niên tung lên trang tin điện tử cá nhân nhưng lại được một số báo dẫn lại, lan truyền đúng lúc sự cố cá chết đang gây lo lắng ở biển miền Trung dễ làm người dân ở Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng cũng hoang mang theo. Nhưng từ đây, có thêm bài học về sự vào cuộc, xử lý kịp thời. Đồng chí Nguyễn Hồng Diên, Chủ tịch UBND tỉnh Thái Bình đã trực tiếp đi kiểm tra, thị sát thông tin trong ngày và chỉ đạo cơ quan công an điều tra, bắt được thủ phạm đưa tin sai sự thật, công bố công khai, giúp nhanh chóng ổn định tình hình.
Tin tưởng rằng, với quan điểm nhất quán và sự chỉ đạo quyết liệt của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các cơ quan quản lý và chính quyền địa phương sẽ rút ra được những bài học để có giải pháp mạnh mẽ, hiệu quả, kịp thời hơn trong công tác quản lý kinh tế, quản lý đầu tư, quản lý môi trường; khắc phục sự cố và không để tái diễn những sai phạm tương tự. Trên cơ sở đó, kết hợp chặt chẽ giữa bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội với an ninh kinh tế, an ninh môi trường. Thường xuyên chăm lo, giải quyết hài hòa bài toán về các mâu thuẫn giữa phát triển nhanh và bền vững, giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường, giữa trải thảm đỏ thu hút đầu tư và bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng.
CÔNG MINH - NGUYÊN MINH