Lại những luận điệu sai trái về cuộc đấu tranh chống “giặc nội xâm”

Thứ Hai, 10/04/2023, 08:59

Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lợi dụng việc các cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng, tiêu cực nghiêm trọng để tung ra luận điệu sai trái, xuyên tạc trên các phương tiện truyền thông xã hội.

Đặc biệt gần đây, khi cơ quan tiến hành tố tụng điều tra, làm rõ những vụ án lớn như vụ án xảy ra tại Cục Lãnh sự Bộ Ngoại giao và một số bộ, ngành, địa phương (còn gọi là vụ án “chuyến bay giải cứu”), vụ Việt Á, các đối tượng rêu rao rằng, tham nhũng ở Việt Nam hiện đã trở thành “hệ thống”, bản chất và muốn chống không còn cách nào khác phải thay đổi cơ chế, phải “xóa bỏ chế độ”!

Nhiều bài viết vu cáo rằng, đấu tranh, phòng, chống tham nhũng, xử lý cán bộ, đảng viên là “đấu đá nội bộ, phe cánh”, “thanh trừng phe phái” nên “ai đen thì chết”! Họ cố tình bôi đen việc thực hiện công cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta, cho rằng việc bắt bớ nhiều, xử lý nhiều không làm ai run rợ, không hề có tính cảnh tỉnh, răn đe mà ngược lại, việc xử lý nhiều làm cho “tình hình thêm phức tạp, nghiêm trọng”! 

Lại những luận điệu sai trái về cuộc đấu tranh chống “giặc nội xâm” -0
Ảnh minh họa.

Một số bài viết lại quy kết rằng, cuộc chiến chống tham nhũng của Đảng đang “làm ảnh hưởng xấu đến kinh tế”. Họ cho rằng, cuộc chiến chống tham nhũng rộng khắp của Đảng Cộng sản Việt Nam đang khiến cho nhiều giao dịch kinh tế bị tê liệt, có thể ảnh hưởng đến đầu tư trực tiếp nước ngoài, giảm xuất khẩu. Suy diễn việc chống tham nhũng làm tê liệt hoạt động kinh doanh, đặc biệt “nếu việc thực thi pháp luật bị cho là không rõ ràng và có động cơ chính trị”…

Một số bình luận vu cáo, chiến dịch chống tham nhũng của Việt Nam làm tê liệt chuỗi cung ứng đầu tư, làm “nhà đầu tư nước ngoài lo sợ”!. Họ lập luận rằng, chiến dịch chống tham nhũng ở Việt Nam đã làm tê liệt nhiều giao dịch thông thường trong nước, gây ra tình trạng thiếu hàng hóa thiết yếu và làm giảm niềm tin của nhà đầu tư vào một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất châu Á.

Các cá nhân, tổ chức chống phá Việt Nam đã chia sẻ những bài viết này lên các trang mạng xã hội, từ đó đi đến quy kết, xuyên tạc bản chất cuộc chiến chống tham nhũng, hạ uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, tác động vào tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của người dân, nhất là đối với các doanh nhân, cán bộ trong bộ máy Nhà nước.

Thực tế, với sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt trong cuộc chiến chống tham nhũng của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, trong đó có sự ủng hộ của nhân dân, cuộc chiến này đã có chuyển biến tích cực, rõ rệt và mang lại những thành quả quan trọng.

Đánh giá về nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng, trong cuộc họp của Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ngày 18/11/2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Ban Chỉ đạo đã nhấn mạnh: “Càng đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, Đảng của chúng ta càng mạnh lên, càng củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ, làm cho bộ máy trong sạch, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại, đồng thời bác bỏ luận điệu sai trái của các thế lực xấu, thù địch, chống đối cho rằng đấu tranh phòng, chống tham nhũng, xử lý cán bộ, đảng viên sai phạm là "đấu đá nội bộ", "phe cánh", làm "nhụt chí" những người khác”.

Với luận điệu “chống tham nhũng làm ảnh hưởng xấu đến kinh tế” là hoàn toàn không có cơ sở. Cần phải nhìn nhận, tham nhũng tác động trực tiếp đến sự ổn định và phát triển đối với mọi mặt của đời sống xã hội. Hành vi này gây ra những hậu quả, tác hại to lớn trên các lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội, nhất là đối với kinh tế, tình trạng tham nhũng gây thất thoát nghiêm trọng tài sản công, bào mòn ngân sách nhà nước để làm lợi cho một số cá nhân, nhóm người tham nhũng. Tham nhũng còn đe dọa sự ổn định, an ninh xã hội, xâm hại các thể chế và giá trị dân chủ, các giá trị đạo đức, công lý. Nếu không kịp thời ngăn chặn, tham nhũng sẽ trở thành mối đe dọa đặc biệt nghiêm trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội, đe dọa đến tồn vong của chế độ.

Thực tế, quan điểm trong cuộc chiến chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng, Nhà nước Việt Nam rất rõ ràng, những đối tượng tham nhũng thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Đồng thời, Nhà nước tạo điều kiện, khuyến khích mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội tích cực thúc đẩy các hoạt động sản xuất, kinh doanh, thu hút đầu tư, tạo môi trường lành mạnh, trong sạch trong cả đầu tư công và môi trường đầu tư tư nhân.

Cùng với đó, qua chống tham nhũng, cơ quan chức năng đúc rút những kinh nghiệm, bài học để tham mưu với Đảng, Nhà nước ban hành cơ chế, chính sách pháp luật nhằm từng bước hoàn thiện, bịt lỗ hổng để ngăn ngừa tham nhũng. Do đó, không thể cho rằng vì lý do chống tham nhũng nên nhiều cá nhân sợ không dám làm, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư, tác động đến các chuỗi cung ứng trong kinh tế.

Cần phải nhận thức rằng, tình trạng tham nhũng làm suy giảm các lực lượng cạnh tranh vốn có của thị trường, gây ra sự cản trở sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Tham nhũng làm cạn nguồn đầu tư nội địa, làm giảm đáng kể các dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tham nhũng không chỉ gây trở ngại cho hoạt động kinh tế vĩ mô mà còn kìm hãm hoạt động của các hãng riêng lẻ. Chính cuộc chiến chống tham nhũng tại Việt Nam tạo động lực không ngừng cho đầu tư, phát triển kinh tế, đảm bảo cạnh tranh lành mạnh giữa các nhà đầu tư vào Việt Nam.

Thời gian qua, các thế lực chống phá Việt Nam luôn viện dẫn nhiều lý do để chỉ trích Việt Nam, khi cuộc chiến chống tham nhũng đang cho thấy hiệu quả rất tích cực thì họ cũng không muốn điều đó xảy ra. Những thông tin sai trái từ các cá nhân, tổ chức, trung tâm chống phá Việt Nam về cuộc chiến chống tham nhũng đòi hỏi người dân cần cảnh giác, không phụ họa, chia sẻ trên mạng xã hội. Với âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước, trên diễn đàn mạng xã hội, một số cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí đã lợi dụng công cuộc chống tham nhũng, tiêu cực, chống suy thoái, biến chất của Đảng, Nhà nước ta để xuyên tạc, bóp méo, cho đó là “cuộc đấu tranh thanh trừng nội bộ giữa các phe phái và các nhóm lợi ích”, vu cáo Đảng, Nhà nước ta đang ở thế “lưỡng nan đối nghịch” với hàm ý chống tham nhũng nhưng không muốn thay đổi thể chế chính trị!

Lợi dụng một số vụ việc tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên được phát hiện trong thời gian gần đây, đặc biệt là liên quan đến vụ kit test Việt Á, vụ “chuyến bay giải cứu”, các cá nhân, tổ chức thù địch đã lấy hiện tượng làm bản chất, quy chụp rằng toàn bộ đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước “đang rơi vào tình trạng tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, thoái hóa, biến chất”. Họ vu cáo rằng, đó là bản chất, là “căn bệnh nan y, kinh niên” của chế độ độc đảng cầm quyền.

Nhiều bài viết còn phủ nhận những kết quả về công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước ta khi cho rằng, Đảng, Nhà nước đã phát động chống tham nhũng, suy thoái nhưng đều thất bại, tệ nạn ngày càng gia tăng. Từ đó, số này đưa ra quan điểm, chỉ có thể chống được tham nhũng khi thực hiện thể chế “tam quyền phân lập” để kiểm soát quyền lực, kêu gọi phải thay đổi thể chế thì mới có thể chống tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, biến chất.

Như nhiều bài viết chúng tôi đã phân tích rõ, chế độ một đảng lãnh đạo cầm quyền không phải là nguyên nhân sinh ra tệ nạn tham nhũng, suy thoái, biến chất trong đội ngũ cán bộ. Tổ chức Minh bạch quốc tế (AI) đã từng cho rằng tham nhũng là tệ nạn nhức nhối, xảy ra ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong số đó, đa số là các quốc gia thực hiện chế độ đa đảng lãnh đạo, tam quyền phân lập, do giai cấp tư sản lãnh đạo. Một số quốc gia có biểu hiện nguy hiểm khi tình trạng tham nhũng đã leo đến tận các nguyên thủ quốc gia như Hàn Quốc, Brazil Colombia, Malaysia; một số quốc gia thuộc nhóm “nước tham nhũng nghiêm trọng” đều theo thể chế đa đảng, không do Đảng Cộng sản cầm quyền, lãnh đạo.

Do đó, việc cho rằng, tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, biến chất là “căn bệnh nan y”, chỉ xảy ra ở các quốc gia do Đảng Cộng sản lãnh đạo hay ở quốc gia do một đảng lãnh đạo, cầm quyền là hoàn toàn không đúng với thực tế, là sự quy chụp, suy diễn. Âm mưu của chúng là nhằm gây ra tình trạng nghi ngờ, hoang mang, gây lầm tưởng tham nhũng phức tạp là do chế độ một đảng lãnh đạo, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với chế độ. Đồng thời, thông qua đó, các đối tượng nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với xã hội, Nhà nước; gây tâm lý hoài nghi, dao động, thiếu niềm tin, kích động chống phá Đảng, Nhà nước ta.

Để phòng, chống tham nhũng, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, cần phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của Đảng và Chính phủ; cần xây dựng kế hoạch, tổ chức thực hiện rộng rãi trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân; phải làm cho quần chúng nhân dân khinh ghét, xa lánh tham ô, lãng phí; kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”; mỗi cán bộ, đảng viên phải nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “Tham nhũng, lãng phí trên một số lĩnh vực, địa bàn vẫn còn nghiêm trọng, phức tạp với những biểu hiện ngày càng tinh vi, gây bức xúc trong xã hội. Tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đe dọa của Đảng và chế độ ta”.

Do đó, việc kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta, xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng đặt ra. Điều này cũng xuất phát từ vị thế, uy tín của Đảng trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, từ đòi hỏi công tác xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh, đủ sức chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam. Việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực không làm cho nội bộ mất đoàn kết, không phải giữa các “phe cánh”, “đấu đá” mà góp phần quan trọng vào việc thực hiện thắng lợi các Cương lĩnh, Điều lệ của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng; tăng cường đoàn kết, gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân. Chống tham nhũng cũng nhằm thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; giữ vững, củng cốniềm tin vững chắc của cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.

Khánh Ngân

Vì sao nghị quyết thì hay, thực hiện lại "gay trăm bề"? Bài 5: Thay đổi tư duy và phương thức ban hành, vận hành nghị quyết

Thứ hai, 10/04/2023 - 07:23

Để nghị quyết của Đảng sớm đi vào cuộc sống, thực tiễn đang đặt ra những yêu cầu mới, đòi hỏi các cấp ủy, tổ chức đảng và toàn Đảng phải đồng loạt vào cuộc; quyết liệt thay đổi tư duy và phương thức ban hành, vận hành nghị quyết ở các cấp.

Nghị quyết cần ngắn, rõ, đúng

Một con số khá trăn trở thông qua điều tra xã hội học được tiến hành ở 23 đảng bộ xã, phường, thị trấn thuộc 3 tỉnh khu vực Tây Nguyên cho thấy: Khi đặt ra câu hỏi: “Nghị quyết của tổ chức đảng các cấp hiện có quá dài?” thì 72% đảng viên được hỏi chọn phương án “dài”; 21% đảng viên chọn phương án “quá dài”.

Với câu hỏi: “Nghị quyết dài thì gây khó gì cho cơ sở trong quán triệt, triển khai?” thì có hơn 65% đảng viên trả lời: Nghị quyết dài là không cần thiết; gây khó cho học tập, quán triệt; khó xác định các trọng tâm, trọng điểm lãnh đạo. Phần lớn ý kiến cho rằng, cũng một vấn đề, nội dung được nghị quyết đề cập, nhưng nếu đề cao trách nhiệm hơn thì những người xây dựng nghị quyết hoàn toàn có thể thể hiện ngắn gọn và dễ hiểu hơn nhiều. Do đó, hơn 99% đảng viên được khảo sát nêu đề xuất: Nghị quyết của tổ chức đảng hiện nay cấp thiết phải ngắn gọn lại, dung dị, dễ hiểu, dễ triển khai.

 Tranh của Phạm Hà.
 Tranh của Phạm Hà.

Thực tế cho thấy, không ít nghị quyết của tổ chức cơ sở đảng; nhất là ở cấp chi bộ lại dành dung lượng khá lớn để đánh giá tình hình thế giới, khu vực, trong nước và dự báo những vấn đề rất ít liên quan đến chức năng, nhiệm vụ và đặc thù công tác lãnh đạo, chỉ đạo ở cấp mình, tổ chức mình. Có chi bộ ban hành nghị quyết một cách cầu toàn, vấn đề nào cũng đề cập, nội dung nào cũng “đá” một ít, như để khẳng định: Tổ chức đảng phải lãnh đạo toàn diện mọi mặt công tác và điều đó phải được thể hiện trong nội dung nghị quyết. Qua công tác tổng hợp cho thấy, các nghị quyết ở đảng bộ cấp xã, phường, thị trấn thường có dung lượng từ 8 đến 10 trang A4 (có nơi ngắn gọn khoảng 6 trang A4)-dung lượng như vậy là quá dài. Điều đó cho thấy, những người chuẩn bị, xây dựng nghị quyết vốn đã rất vất vả, thế nhưng những người quán triệt, đọc, học càng vất vả hơn.

Nhiều cán bộ cơ sở dẫn lại câu chuyện viết nghị quyết và các văn kiện Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh-Người sáng lập và rèn luyện Đảng ta. Theo đó, khi trực tiếp biên soạn các văn kiện, văn bản, nghị quyết quan trọng, có tính chiến lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện hết sức ngắn gọn, súc tích. Ví như, Chánh cương vắn tắt của Đảng chỉ có 265 từ; Sách lược vắn tắt của Đảng: 251 từ; Tuyên ngôn Độc lập: 1.085 từ; Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến: 205 từ; Di chúc hơn 1.000 từ... Ngắn và gọn là thế nhưng văn bản nào của Người khi ban hành cũng đều được đông đảo quần chúng tiếp nhận, quyết tâm thực hiện, tạo nên các cao trào cách mạng mạnh mẽ trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết ngắn gọn, súc tích là bởi Người luôn bám sát mục đích cao nhất là nhằm tuyên truyền, lãnh đạo, giáo dục, giác ngộ cán bộ, quần chúng. Người chỉ rõ: “Mình viết ra cốt là để giáo dục, cổ động; nếu người xem mà không nhớ được, không hiểu được, là viết không đúng, nhằm không đúng mục đích...”. Chủ tịch Hồ Chí Minh phê phán: “Nhiều anh em hay viết dài. Viết dòng này qua dòng khác, trang này qua trang khác. Nhưng không có ích cho người xem. Chỉ làm tốn giấy, tốn mực, mất công người xem”.

Trong nhiều năm qua, các cơ quan chức năng của Trung ương luôn quyết liệt chỉ đạo, hướng dẫn việc xây dựng, ban hành nghị quyết ở tất cả các cấp; tập trung vào đổi mới việc xây dựng nghị quyết ở cấp cơ sở theo hướng ngày càng đi vào thực chất, ngắn gọn, dễ đọc, dễ hiểu, dễ triển khai. Thế nhưng, tinh thần đó qua các cấp chưa được quán triệt đầy đủ; trong khi công tác kiểm tra, bồi dưỡng, chỉnh huấn... còn nhiều yếu kém, có nơi còn “bỏ ngỏ”. Đây chính là một trong nhiều nguyên nhân khiến cán bộ, đảng viên và quần chúng ngại học nghị quyết, sinh ra tắc trách, khó triển khai thực hiện nghị quyết đạt hiệu quả.

Để nghị quyết đi vào cuộc sống thì khâu đầu tiên, cấp thiết hiện nay là phải đổi mới phương thức xây dựng nghị quyết, nhất là ở cấp cơ sở. Các cấp cần đặc biệt quan tâm lãnh đạo, quyết liệt đổi mới một cách căn bản việc xây dựng nghị quyết theo hướng ngắn gọn, thực chất, sát thực tế; quyết liệt chống “bệnh ôm đồm”, dài dòng trong thể hiện văn phong nghị quyết. Việc làm đó cần được tiến hành đồng bộ, mạnh mẽ, kết hợp giữa hướng dẫn với kiểm tra, uốn nắn; tạo một đợt sinh hoạt chính trị rộng khắp trong hệ thống tổ chức đảng. Từng cấp ủy nêu cao trách nhiệm trong thảo luận, quyết nghị các chủ trương, giải pháp lãnh đạo; nhưng cũng đồng thời đặt ra những yêu cầu cao về dung lượng nghị quyết, tất yếu phải “gọt bỏ”, “gọt bớt” những nội dung, câu từ dài dòng, hoa mỹ, sáo rỗng. Để làm được phần việc này, 22/22 chuyên gia khoa học (nhóm phóng viên Báo Quân đội nhân dân tiếp cận, phỏng vấn phục vụ tổ chức tuyến bài này) có chung mong muốn: Trung ương phải có trách nhiệm làm trước, làm gương và đề ra các quy tắc, quy định bắt buộc về thể thức, dung lượng nghị quyết để tổ chức đảng các cấp học tập, làm theo và nghiêm túc thực hiện đồng bộ trong toàn Đảng.

Với những người có trách nhiệm trực tiếp soạn thảo nghị quyết, phải luôn khắc nhớ sâu sắc lời phê bình của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Viết làm gì dài dòng và rỗng tuếch như thế? Chỉ có một cách trả lời: Là quyết không muốn cho quần chúng xem. Vì đã dài lại rỗng, quần chúng trông thấy đã lắc đầu, ai còn dám xem nữa? Kết quả chỉ để cho những ai vô công rồi nghề xem, và người xem cũng mắc phải thói xấu như người viết”.

Đổi mới cách xây dựng nghị quyết của tổ chức đảng ở cơ sở không chỉ là việc cải cách hành chính trong Đảng mà cao hơn là một giải pháp quan trọng để Đảng ta mạnh lên từ cơ sở, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của Đảng trong tình hình mới. Cũng bởi thế mà phần việc này thuộc sứ mệnh, trách nhiệm của các cơ quan Trung ương, nhất là việc ban hành các hướng dẫn về thể thức, bố cục, dung lượng nghị quyết.

Quyết liệt tinh giản nghị quyết

Khảo sát tại Đảng bộ tỉnh Yên Bái cho thấy, địa phương này đã, đang và tiếp tục tập trung lãnh đạo đổi mới việc ban hành nghị quyết theo hướng sát, đúng với cơ sở và nghị quyết chỉ được ban hành khi thực tiễn đòi hỏi phải có chủ trương lãnh đạo thì hoạt động của hệ thống chính trị mới đạt hiệu quả.

Lãnh đạo Tỉnh ủy Yên Bái cho biết, để có những nghị quyết cấp thiết, cần kíp thì khâu xác định nội dung, xây dựng, ban hành phải chuẩn bị hết sức chu đáo. Tinh thần chung của các cấp ủy thuộc Đảng bộ tỉnh Yên Bái là nghị quyết được ban hành phải có nội dung thật sát, đúng với thực tiễn. Khảo sát 4 đảng bộ địa phương và 3 đảng bộ cơ quan (ban, sở, ngành) trực thuộc Đảng bộ tỉnh Yên Bái cho thấy, bài học thấm thía là: Để có nghị quyết đúng, trúng thì cấp ủy đảng phải nắm, hiểu và biết rõ thực tiễn (nhất là cơ sở) đang thiếu gì, đang cần gì, muốn có gì; lòng dân có thuận không; điều kiện hiện thực nghị quyết có bảo đảm không. Vì vậy, cần nhất quán kết hợp chặt chẽ giữa cặp phạm trù “ý Đảng, lòng dân” với “lòng dân, ý Đảng” trong hoạch định đường lối, chủ trương lãnh đạo. Thậm chí, trong nhiều trường hợp phải đặt “lòng dân” lên trên “ý Đảng”, lấy “lòng dân” làm căn cứ xác lập “ý Đảng”.

Lý giải về vấn đề này, đồng chí Hoàng Việt, Phó bí thư Thường trực Huyện ủy Văn Chấn (Yên Bái) cho rằng, hiện nay vẫn còn rất nhiều nghị quyết, văn bản có nội dung khá chung chung, chỉ là sự cộng gộp của những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo có tính chất logic (văn bản) mà thiếu chất liệu thực tiễn, do đó khi triển khai, tổ chức cơ sở đảng gặp không ít khó khăn vì giữa nội dung nghị quyết với thực tế cuộc sống còn một khoảng cách quá lớn, quá xa!

Tại Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc, tổ chức đảng các cấp nơi đây đang nhất quán tinh thần “ban hành càng ít nghị quyết càng tốt”. Kết quả khảo sát cho thấy, ở cấp đảng bộ huyện, thành phố, ban chấp hành, ban thường vụ huyện ủy chỉ ban hành từ 2 đến 4 nghị quyết nhiệm kỳ có tính chất chuyên đề. Đối với các nghị quyết do Trung ương Đảng, Bộ Chính trị ban hành, các đảng bộ từ cấp huyện, thành phố trở xuống chỉ xây dựng chương trình, kế hoạch lãnh đạo tổ chức thực hiện; triệt để khắc phục tình trạng “nghị quyết mẹ đẻ ra nghị quyết con”, hoặc ban hành "nghị quyết chồng lên nghị quyết". Ở cấp đảng bộ xã, phường, thị trấn hạn chế tối đa việc ban hành nghị quyết; cấp chi bộ thôn, xóm, khu dân cư chỉ có kết luận hoặc kế hoạch thực hiện nghị quyết cấp trên...

Để giải bài toán cùng lúc cơ sở phải quán triệt, triển khai nhiều nghị quyết, văn bản khác nhau, một số đảng bộ cấp huyện, thị xã, thành phố có cách làm khá mới là tiến hành “lược hóa” nghị quyết. Theo đó, những người có trách nhiệm sẽ lựa chọn nội dung cần thiết gắn với địa phương rồi “lược hóa” nghị quyết thành những nội dung dễ nhớ, dễ thuộc, dễ thực hiện; hoặc kết hợp tinh thần của một số nghị quyết vào một “nghị quyết dùng chung” (hay văn bản cụ thể) để tổ chức đảng cấp xã, phường, thị trấn... dễ quán triệt, triển khai, vận dụng. Tất nhiên, phần việc này đòi hỏi công sức, trí tuệ và sự dấn thân của cán bộ cấp huyện, thị xã, thành phố... nếu không muốn tinh thần nghị quyết bị méo mó, nội dung bị rơi rớt, thiếu toàn diện.

Để lượng hóa nghị quyết các cấp, đảng bộ nhiều huyện, thành phố, xã, phường, thị trấn có xu hướng quy con số phần trăm (%) về con số cụ thể trên thực tế gắn với địa bàn. Ví dụ như nghị quyết Trung ương hoặc cấp tỉnh xác định phải giảm 5% hộ nghèo/năm thì về đến cấp huyện, cấp xã phải cụ thể 5% ấy tương ứng với bao nhiêu hộ trên địa bàn; thực hiện số lượng ấy bằng cách nào; giao những người nào phụ trách, đầu mối nào thực hiện để bảo đảm mọi chỉ tiêu được hoàn thành. Thực tế cho thấy, đây là cách làm sáng tạo, mang lại hiệu quả thiết thực, giúp các cấp dễ quán triệt, vận dụng, biết rõ đầu việc cần tập trung sức lãnh đạo. Đây cũng là lời giải khắc phục tình trạng “trăm chủ trương đổ đầu cơ sở”, gây lúng túng và làm giảm hiệu lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng.

Từ kết quả khảo sát ở nhiều đảng bộ địa phương cho thấy, đội ngũ cán bộ cơ sở kiến nghị các cấp chỉ nên ban hành nghị quyết khi thật sự cấp thiết, cấp bách; cần quyết liệt đấu tranh, khắc phục triệt để hiện tượng “nghị quyết chồng lên nghị quyết”, “nghị quyết mẹ đẻ ra nghị quyết con”, ban hành “nghị quyết 0 đồng”; đẩy lùi các hiện tượng học tập nghị quyết thiếu thực chất, đối phó, học vẹt... Cùng với đó, việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng thời gian tới cần được cơ quan chức năng Trung ương, nhất là các ban đảng tập trung tháo gỡ cho bằng được “điểm nghẽn” khi có quá nhiều nghị quyết cùng lúc triển khai về cơ sở, gây ách tắc, chồng lấn hoặc phân tán sự tập trung sức lãnh đạo của tổ chức đảng.

Tất cả những vấn đề đó cần được chuẩn hóa, triển khai thống nhất trong toàn Đảng mới có thể tạo bước chuyển biến thực chất, hiệu quả trong việc ban hành, triển khai thực hiện nghị quyết. Đây cũng là giải pháp đúng đắn để tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, theo tinh thần Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17-11-2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, khóa XIII.

THAY LỜI KẾT

Để nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống một cách thiết thực, hiệu quả thì còn rất nhiều phần việc phải được tiến hành đồng bộ, căn cơ, theo đúng quy trình, các khâu, các bước. Thế nhưng, thực tiễn đang nảy sinh nhiều vấn đề bất cập, cấp bách, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của Đảng bằng nghị quyết, mà sâu xa hơn là làm giảm vị thế, sứ mệnh, năng lực lãnh đạo của Đảng cầm quyền.

Do đó, mỗi tổ chức đảng và toàn Đảng phải nghiêm khắc nhìn nhận, đánh giá đầy đủ, toàn diện, sớm khắc phục hạn chế, vướng mắc, tạo sự đồng thuận quyết tâm cao trong triển khai nghị quyết của Đảng ở các cấp theo tinh thần “chủ trương 1, giải pháp 10, quyết tâm phải 20” như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần chỉ rõ.

“Khi đã có nghị quyết thì phải lập tức đốc thúc sự thực hành nghị quyết ấy, phải biết rõ sự sinh hoạt và cách làm việc của cán bộ và nhân dân địa phương ấy. Có như thế mới kịp thời thấy rõ những khuyết điểm và những khó khăn, để sửa đổi các khuyết điểm và tìm cách giúp đỡ để vượt qua mọi khó khăn”. (Chủ tịch Hồ Chí Minh)

 

“Đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành văn bản của Đảng theo hướng đồng bộ, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, tính dự báo cao, bám sát thực tiễn. Chỉ ban hành văn bản mới khi thật sự cần thiết. Tiếp tục hoàn thiện quy định về ban hành văn bản của Đảng; khắc phục tình trạng ban hành văn bản không sát với thực tiễn, nội dung chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu tính khả thi, không rõ trách nhiệm, thiếu nguồn lực tổ chức thực hiện”. (Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17-11-2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng “Về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới”) 
Nhóm PV Báo QĐND    

Vì sao nghị quyết thì hay, thực hiện lại "gay trăm bề"? Bài 4: Nhiều chồng chéo, “thất thoát”, sai lệch khi vận hành chủ trương

Chủ nhật, 09/04/2023 - 06:13

Trong vận hành đưa nghị quyết vào cuộc sống cần có đồng bộ các giải pháp tổ chức thực hiện. Nguyên nhân khiến không ít nghị quyết của tổ chức đảng các cấp chậm hoặc không đi vào thực tiễn có lỗi từ sự “rơi rụng” chủ trương đến chồng chéo nghị quyết, từ những chỉ tiêu, giải pháp “trên trời” đến triển khai không thống nhất...

Chữ “quan liêu” và những căn bệnh nan giải

Nói đến việc thực hiện nghị quyết của Đảng, chúng ta nhớ tới câu chuyện của Bác Hồ khi Người đề cập đến “chữ quan liêu viết như thế nào” in trong cuốn “Bác Hồ với chiến sĩ” do Nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành năm 1994.

Câu chuyện đã hơn 70 năm mà vẫn sâu sắc và thời sự. Đại ý: Vào năm 1952, trong một lần đến thăm lớp chỉnh huấn chính trị cán bộ trung, cao cấp, Bác cầm cái que vẽ trên mặt đất để đố chữ mọi người. Một vạch thì anh em đoán là chữ “nhất”, hai vạch là “nhị”, ba vạch là “tam” nhưng khi Bác thêm vạch nữa thì “các vị” lúng túng, không hiểu thế nào.

Điều đáng nói khi nhìn lại thì thấy vạch đầu tiên còn vừa phải, vạch thứ hai dài hơn đã có hơi lệch một chút, vạch thứ ba dài hơn chút nữa và không “song song” cho lắm, vạch thứ tư thì dài nhất và đã “cong” lắm rồi. Bác lại cầm que vạch một vạch, rồi hai vạch dọc từ trên xuống dưới, ban đầu thì thẳng đứng, xuống đến vạch ngang thứ hai thì đã “queo”, vạch thứ ba thì “quẹo”, vạch bốn như con giun. Bác hỏi:

- Chịu hết à? Có thế mà không đoán ra... Các chú biết cả đấy...

Rồi Người nói:

- Chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng đúng đắn... Đến tỉnh đã hơi cong, đến huyện đã “tả hữu”, đến xã đã sai lệch. Vì sao? Vì cán bộ không làm đúng, không nắm chắc chủ trương, đường lối, không gần gũi dân, không chịu làm “đầy tớ nhân dân” mà chỉ muốn làm “quan cách mạng”. Cho nên chữ ấy là chữ “quan liêu”. Các chú không học nhưng biết và vẫn làm. Còn cái các chú học, thì các chú lại ít làm...

Tranh của THÁI AN 
Tranh của THÁI AN 

Câu chuyện trên cho chúng ta nhiều suy nghĩ, trong đó có sự nhắc nhở nghiêm khắc của Người với đội ngũ cán bộ khi để “rơi rụng” chủ trương, đường lối trong các nghị quyết của Đảng. Trong triển khai thực hiện, mỗi cấp làm sai lệch một ít, đến cơ sở thì nghị quyết trở nên méo mó. Hậu quả là nghị quyết chậm đi vào cuộc sống hoặc được thực thi một cách lệch lạc, dẫn tới những sai lầm trong nhận thức và hành động.

Giá trị đích thực của một nghị quyết là để giải quyết các vấn đề, nhất là những bức xúc của cuộc sống, tạo chuyển động tích cực, thậm chí là bước ngoặt trong thực tiễn. Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nhấn mạnh: Thành công của đại hội đảng không phải chỉ ở việc thông qua được nghị quyết, bầu được ban chấp hành mới, quan trọng hơn là có biến được nghị quyết thành hiện thực sinh động hay không, có ra được của cải vật chất mang lại giàu có và hạnh phúc cho nhân dân hay không, đấy mới là thành công thực tế của đại hội.

Bên cạnh tình trạng làm “rơi vãi”, “thất thoát”, sai lệch nghị quyết như cảnh tỉnh của Bác Hồ qua câu chuyện kể trên thì hạn chế khá phổ biến trong triển khai thực hiện nghị quyết hiện nay là việc “sao y” nghị quyết của trên mà không có sự quán triệt và vận dụng sáng tạo, phù hợp vào cấp mình. Có đồng chí bí thư “lý luận” rằng: Nghị quyết của Trung ương, của trên chắc chắn đã được đầu tư kỹ lưỡng, là sản phẩm trí tuệ chung rồi thì không thể “chế biến” khác được. Cho nên, chỉ cần “thay tên đổi họ”, xử lý một số kỹ thuật câu chữ là thành nghị quyết của tổ chức đảng cấp mình...

“Bản sao” nghị quyết sẽ làm cho quá trình thực hiện dễ trở nên hình thức, tựa như là sự quán triệt, học tập nghị quyết của trên, chứ không phải nghị quyết thực sự ở cấp mình, không có thực tiễn sống động ở chi bộ, đảng bộ cấp mình và do đó khó có thể giải quyết được những vấn đề bức xúc của cơ sở. Thế nên, mới có tình trạng, nghị quyết của một số chi bộ ở nông thôn, miền núi nhưng cũng phân tích đặc điểm tình hình thế giới, trong nước, tác động của cuộc cách mạng 4.0, trí tuệ nhân tạo, đề ra những đột phá chiến lược, giải pháp vĩ mô...

Với quan điểm thẳng thắn, PGS, TS Nguyễn Danh Tiên, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh cho rằng, việc “sao chép”, “nhân bản” và nghị quyết chồng nghị quyết là tình trạng phổ biến trong các tổ chức đảng hiện nay, nhất là ở cơ sở. Nguyên nhân trước hết là do các cấp ủy chưa phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm.

Nói về thực trạng này, đồng chí Nguyễn Đức Hà, nguyên Vụ trưởng Vụ Cơ sở đảng (Ban Tổ chức Trung ương) chỉ rõ, chính việc sao chép nghị quyết cấp trên là một trong những nguyên nhân khiến nhiều nghị quyết ở các cấp ủy địa phương chưa đi vào cuộc sống vì đây không phải là cách “cụ thể hóa, hiện thực hóa” nghị quyết. Nói cách khác, cơ sở mà áp chủ trương của Trung ương vào vận hành thì chẳng khác nào “ếch ngồi đáy giếng”.

Nghị quyết Trung ương 5 (khóa XIII) về “tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới” thẳng thắn chỉ rõ: Nhận thức của một số cấp ủy, một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa sâu sắc, toàn diện về vai trò, vị trí, yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ đảng viên; năng lực lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ...

“Bội thực nghị quyết” - thực tế đáng báo động

Bên cạnh văn bản dài dòng, số lượng nghị quyết trong một kỳ đại hội, hội nghị từ Trung ương đến địa phương cũng rất nhiều. Có thời điểm, các tổ chức đảng, nhất là cấp cơ sở phải chịu cảnh “bội thực nghị quyết".

Tìm hiểu tại một tỉnh miền núi phía Bắc, thấy rằng, riêng ở cấp tỉnh: Chỉ sau hơn một năm triển khai nghị quyết đại hội đảng bộ tỉnh, tỉnh ủy đã ban hành 11 nghị quyết chuyên đề, ban thường vụ ban hành 47 nghị quyết, chỉ thị, đề án; hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân ban hành 41 nghị quyết, 18 đề án... Ngoài ra còn các nghị quyết, kết luận thường xuyên hoặc triển khai thực hiện các nghị quyết của Trung ương, Quốc hội, Chính phủ, các tổ chức chính trị-xã hội.

Đây là con số ở một tỉnh nhỏ, nếu ở địa bàn thành phố, tỉnh có quy mô lớn hơn, con số các nghị quyết có thể còn cao hơn nhiều. Trên cơ sở các nghị quyết, chỉ thị, đề án này, đến cấp huyện, xã... sẽ được tiếp tục cụ thể hóa thành nghị quyết ở cấp mình. Cấp cơ sở thì mật độ nghị quyết càng dày, ngành nào, lĩnh vực cơ bản nào cũng có nghị quyết dẫn đến tình trạng chồng chéo, nghị quyết chồng nghị quyết khiến cấp ủy không còn nhiều thời gian để nghiên cứu, cụ thể hóa và thực hiện. Đó cũng là nguyên nhân “nhân bản” nghị quyết, nội dung của dưới na ná trên, ở cơ sở nhưng toàn bàn những vấn đề vĩ mô, đao to búa lớn...

Kết quả điều tra xã hội học với đối tượng là bí thư đảng ủy, phó bí thư đảng ủy xã, phường, thị trấn ở 23 xã trên địa bàn 3 tỉnh khu vực Tây Nguyên cho thấy, phần lớn cán bộ còn không ít băn khoăn, trăn trở khi trong cùng một thời điểm lại có quá nhiều nghị quyết (các cấp, các ngành) được ra đời và triển khai trên địa bàn. Thực tế đó gây nên sự dồn tắc, chậm trễ, hoặc chồng lấn, hoặc phân tán sự tập trung sức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng.

Không khó để thấy, cơ sở đang hiện hữu tình trạng nghị quyết này vừa được ban hành chưa ráo mực, đang tổ chức học tập, thì nghị quyết khác đã ra đời và tiếp tục triển khai. Có nghĩa, nghị quyết cứ thế gối lên nghị quyết, khi ở cấp Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã... đều ban hành nghị quyết thường kỳ; cùng với đó là hàng loạt nghị quyết chuyên đề; cộng thêm một số lượng không nhỏ kết luận, quy định, quy chế, đề án, chuyên đề, chương trình... về các lĩnh vực lãnh đạo, nhiệm vụ đặc thù.

Thậm chí, ở một số thời điểm, các chủ trương ban hành được ví như “bão lũ” ùa về gây choáng ngợp, lúng túng cho cơ sở. Thế nhưng, vẫn có một số nơi lại sinh ra bệnh tự mãn, tự cho rằng việc ban hành được nhiều nghị quyết là hay; xem đó là căn cứ để đánh giá về năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng cấp mình.

PGS, TS Vũ Văn Phúc, Phó chủ tịch Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương, nguyên Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản trăn trở: “Khi mà nghị quyết trước chưa kịp thấm vào cán bộ, đảng viên thì nghị quyết sau lại ra đời khiến việc nhớ tên nghị quyết đã khó, nói gì đến việc triển khai hiệu quả”.

Cơ sở càng thêm lúng túng khi có nhiều nghị quyết cứ thế ra đời, nhưng cấp trung gian thường chỉ triển khai theo lối “sao y bản chính” rồi "giao" về cơ sở quán triệt, tổ chức thực hiện. Thành thử, khi có quá nhiều nghị quyết, văn bản hành chính... đổ dồn về cơ sở thì người quán triệt, tổ chức thực hiện sẽ gặp lúng túng là chuyện hết sức bình thường, nhất là ở khâu xác định đâu là nghị quyết trọng yếu, cấp thiết đối với địa phương để tổ chức thực hiện.

Thậm chí, vì có quá nhiều văn bản, nghị quyết nên ở một số nơi, cán bộ còn nảy sinh biểu hiện "phương phưởng luận" trong quán triệt, triển khai; không nắm rõ các nội dung, tinh thần nghị quyết, số nghị quyết; có nơi, việc học tập nghị quyết buộc phải vận hành theo lối đối phó, nặng hình thức, “đầu voi đuôi chuột”, “đánh trống bỏ dùi”...

PGS, TS Phan Xuân Biên, Phó chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, nguyên Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy TP Hồ Chí Minh cho biết, ông đã nhiều lần tham gia các đoàn công tác sang Trung Quốc. Nước bạn dân số rất đông, diện tích rất lớn; phạm vi của các tỉnh, thành phố rất rộng, chẳng hạn tỉnh Vân Nam của bạn có diện tích còn lớn hơn cả nước ta. 

Sự nghiệp phát triển đất nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhưng so với ta, nghị quyết của bạn ít hơn hẳn. Dẫn một góc nhìn tham chiếu, so sánh để thấy, chúng ta cần suy nghĩ để có giải pháp điều chỉnh, đổi mới trong nghiên cứu ban hành và triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng. Nghị quyết không cần nhiều, chỉ cần tinh gọn, sát thực và phải thực sự là những tư tưởng, nội dung “từ cuộc sống đi ra” để sau đó mới “đưa nghị quyết vào cuộc sống”...

Mặt khác, cơ sở cũng đang bị bội thực vì chính văn phong, câu từ nặng tính tung hô, mỹ từ sáo ngữ trong nhiều nghị quyết của đảng bộ cấp tỉnh, cấp huyện thường sử dụng, như: “Nỗ lực thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng tỉnh (huyện) vững về chính trị, giàu về kinh tế, đẹp về văn hóa, mạnh về quốc phòng, an ninh”; “Thực hiện tốt phương châm phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, xây dựng văn hóa là nền tảng, bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu”...

Phần đánh giá hạn chế, khuyết điểm trong nghị quyết của đảng bộ cấp dưới cũng có nội dung y hệt nghị quyết của đảng bộ cấp trên, như: “Sự phát triển kinh tế-xã hội của huyện (xã) chưa tương xứng với tiềm năng; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức đảng chưa ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ”... Đó thật sự là cách lập ngôn sáo ngữ, đao to búa lớn, “đơm đó ngọn tre”, gây khó cho cấp quán triệt, triển khai. Cho nên, vốn chủ trương đã không rõ ràng, cụ thể, thì làm sao cấp dưới và quần chúng có thể vận hành, triển khai sát đúng, hiệu quả cho được.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị còn chậm đổi mới, có mặt còn lúng túng... Nhận thức về một số chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước còn chưa sâu sắc, thiếu thống nhất, do vậy một số công việc triển khai thiếu kiên quyết, còn lúng túng...

Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra, một trong những giải pháp quan trọng là phải tích cực, kiên quyết đổi mới, nâng cao hiệu quả triển khai thực hiện nghị quyết; khắc phục những vấn đề còn “gay trăm bề” trong triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng trên thực tế.

“Khi thi hành, kềnh kềnh càng càng, không hoạt bát nhanh chóng. Hoặc thi hành một cách miễn cưỡng, không sốt sắng, không đến nơi đến chốn. Kết quả nhỏ là: Nghị quyết đầy túi áo, thông cáo đầy túi quần. Kết quả nặng là: Phá hoại tổ chức của Đảng, giảm bớt kỷ luật của Đảng, bỏ mất thời cơ tốt, lúc nên làm thì không làm, khi làm thì trễ rồi” (Chủ tịch Hồ Chí Minh).

 

“Chỉ đạo và tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu, chậm được khắc phục; năng lực cụ thể hóa, thể chế hóa chủ trương, nghị quyết còn hạn chế, năng lực tổ chức thực hiện của cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, làm cho pháp luật, nghị quyết chậm được thực hiện và hiệu quả thấp”... “Tư tưởng trông chờ, thụ động, ỷ lại vào cấp trên, tình trạng nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít, kỷ cương phép nước không nghiêm còn khá phổ biến; chưa tạo được nhiều cơ chế, chính sách, giải pháp có tính đột phá, đồng bộ để tháo gỡ khó khăn”... (Văn kiện Đại hội XIII của Đảng). 

(còn nữa)

Nhóm phóng viên Báo QĐND

Vì sao nghị quyết thì hay thực hiện lại gay trăm bề? Bài 3: “Buông lỏng lãnh đạo”, “đánh trống bỏ dùi” trong triển khai thực hiện

Thứ bảy, 08/04/2023 - 06:28

Nghị quyết dù hay đến mấy, nhưng nếu công tác lãnh đạo tổ chức thực hiện bị xem nhẹ, hoặc thiếu tính kế hoạch, thiếu quyết tâm, thì cái “hay” ấy cũng chẳng để làm gì. Trong khi đó, thời gian qua, nhiều tổ chức đảng vẫn chưa thật coi trọng công việc hệ trọng này.

Nặng việc ban hành, nhẹ việc triển khai

Trong không ít chuyến công tác về cơ sở, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ ý đặt câu hỏi với đồng chí bí thư cấp ủy ở một số địa phương: "Kết quả thực hiện nghị quyết nhiệm kỳ ở đảng bộ ta đạt đến đâu rồi? Có hoàn thành chỉ tiêu nghị quyết theo đúng lộ trình, tiến độ không?". Trả lời những câu hỏi ấy, nhiều đồng chí bí thư cấp ủy hồn nhiên: “Đảng bộ địa phương chưa tiến hành công tác tổng kết nên cũng chưa nắm được cụ thể!”.

Nghe vậy, Tổng Bí thư nghiêm túc phê bình và nhắc nhở, việc ban hành nghị quyết là quan trọng, nhưng lãnh đạo triển khai còn quan trọng hơn. Nghị quyết chỉ có giá trị khi và chỉ khi các chủ trương, giải pháp được xác định trong nghị quyết trở thành hành động cách mạng của cán bộ, đảng viên, nhân dân và đi vào thực tiễn đời sống xã hội.

Câu chuyện xem nhẹ, buông lỏng việc lãnh đạo thực hiện nghị quyết xem ra đang là vấn đề rất nghiêm trọng. Đó là việc người đứng đầu tổ chức đảng không biết rõ nghị quyết đã triển khai thực hiện đạt kết quả đến mức nào. Có nghĩa, các tổ chức cơ sở đảng cứ mặc nhiên triển khai nghị quyết mà chưa thật quan tâm đến công tác lãnh đạo tổ chức thực hiện nghị quyết. Nhiều nơi có lối nghĩ rằng, nghị quyết lãnh đạo năm thì đến cuối năm tổng kết, nghị quyết nhiệm kỳ thì đến cuối nhiệm kỳ mới soi lại, đánh giá tổng quan; có hướng dẫn thì mới sơ kết nửa nhiệm kỳ hoặc làm theo yêu cầu của cấp trên.

Nhóm phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã thực hiện điều tra xã hội học ở 23 đảng bộ cấp xã, phường, thị trấn của 3 tỉnh khu vực Tây Bắc. Kết quả khảo sát mang đến những băn khoăn, lo ngại. Theo đó, người đứng đầu và cấp ủy khẳng định là có triển khai nghị quyết, nhưng phần đa đảng viên chỉ biết và nắm mơ hồ về nội dung; thậm chí không rõ tên nghị quyết. Hơn 92% số lượng đảng viên được khảo sát cho rằng, vì cấp trên yêu cầu học quá nhiều nghị quyết nên chỉ để tâm tới những nghị quyết liên quan đến thực tế địa phương và cương vị, chức trách công tác. 96% cho rằng, không nên để tình trạng nghị quyết lãnh đạo về phát triển kinh tế biển lại yêu cầu cán bộ ở khu vực miền núi tổ chức học tập... Như vậy, nguyên nhân của việc “thả trôi” nghị quyết có tác động từ nhiều yếu tố, chứ không đơn thuần thuộc trách nhiệm của tổ chức đảng ở cơ sở.

Việc không quan tâm đến công tác lãnh đạo triển khai nghị quyết là một thực tế rất đáng báo động. Đó chẳng khác nào tổ chức đảng “vứt” hàng loạt chủ trương, giải pháp, chỉ tiêu vào thực tiễn, rồi để nó tự vận động, tự trôi dạt, mà thiếu theo dõi, kiểm tra, điều chỉnh, bổ sung. Thành thử, qua năm tháng, các chỉ tiêu nghị quyết đạt được đến đâu, chỉ tiêu nào đã hoàn thành sớm, kinh nghiệm lãnh đạo hoàn thành; chỉ tiêu nào khó đạt được, cần tập trung sức lãnh đạo; hay những vấn đề cần điều chỉnh, bổ sung, thay đổi trong quá trình thực hiện nghị quyết... thì chính tổ chức đảng triển khai lại không nắm bắt được. Cũng vì thế mà sinh ra tắc trách, mất thời cơ lãnh đạo hoàn thành các chỉ tiêu nghị quyết; tạo sự ngắt quãng trong công tác vận hành lãnh đạo của hệ thống tổ chức đảng, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “... Mệnh lệnh và nghị quyết cũng như mạch máu. Mạch máu chạy đều khắp thân thể thì người mạnh khỏe. Mạch máu dừng lại đâu, không chạy thì chỗ đó sẽ tê liệt, sinh bệnh. Mệnh lệnh và nghị quyết đi mau, đi suốt từ trên đến dưới, công tác mau chóng, việc gì cũng xong xuôi. Nó ngừng lại cấp nào, từ cấp đó trở xuống là tê liệt”.

Minh họa: MẠNH TIẾN 
Minh họa: MẠNH TIẾN 

 

Thực trạng trên khiến không ít nghị quyết với nhiều chỉ tiêu “đẹp” và mỹ từ, có cả những nghị quyết rất đúng và hay nhưng chậm đi vào cuộc sống, ít trở thành hiện thực sinh động, chưa tạo ra được nhiều của cải vật chất và văn hóa, mang lại hạnh phúc và giàu có cho nhân dân... PGS, TS Đỗ Duy Môn, Học viện Chính trị nêu nhận định: “Đây chính là một nguyên nhân quan trọng khiến nghị quyết của Đảng khó đi vào cuộc sống, khó dẫn dắt, soi đường cho thực tiễn. Và đây cũng chính là lý do dẫn đến thực tế, dù rằng nghị quyết rất hay, nhưng triển khai thực hiện lại gay trăm bề”.

Một cách làm có thể tham khảo ở Đảng bộ tỉnh Yên Bái là Ban Thường vụ Tỉnh ủy yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc phải luôn làm tốt công tác đánh giá mức độ hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ được nghị quyết xác định qua từng giai đoạn. Theo đó, dù nghị quyết nhiệm kỳ, nghị quyết chuyên đề hay nghị quyết hằng năm thì vào bất kỳ thời điểm nào, những người có trách nhiệm buộc phải nắm chắc thực trạng, kết quả thực hiện cả định tính và định lượng. Đồng chí Đỗ Đức Duy, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái khẳng định: “Nếu không chủ động chỉ đạo, yêu cầu các cơ quan chức năng báo cáo tiến độ, kết quả hoàn thành qua từng tháng, quý, thì việc đánh giá kết quả triển khai nghị quyết rất khó lượng hóa. Vì có nhiều nghị quyết, mà cứ để nó trôi đi, thì không tài nào hình dung được chủ trương đang ở đâu, đạt đến mức nào, kết quả ra sao”.

Như vậy, triển khai nghị quyết phải đi liền với lãnh đạo tổ chức thực hiện một cách tích cực, khẩn trương, thường xuyên, liên tục trên thực tế. Cũng qua đó mà có thêm điều kiện phát hiện hạn chế, yếu kém, kịp thời điều chỉnh, bổ sung phương thức, phương pháp lãnh đạo. Còn nếu “bỏ ngỏ”, thiếu quan tâm đến công tác lãnh đạo tổ chức thực hiện nghị quyết thì dễ dẫn đến tình trạng “sai một ly, đi một dặm”, thậm chí bị mất phương hướng lãnh đạo, xa rời chủ trương và giải pháp căn bản; sinh ra sự tự phát, thiếu tính khoa học, thiếu bài bản ở tổ chức đảng cấp dưới, rồi manh nha tình trạng “trên nóng, dưới lạnh”, “trên trải thảm, dưới rải đinh”, hoặc biểu hiện “đánh trống bỏ dùi”...

Băn khoăn những “nghị quyết 0 đồng”

 “Nghị quyết 0 đồng” là cách nói vui của nhiều cán bộ địa phương để phản ánh tình trạng: Có nghị quyết nhưng không có nguồn lực, nhân lực triển khai, nên dù nội dung nghị quyết có hay, có đúng thì việc triển khai rất ì ạch, thậm chí kết quả thu về chỉ là con số không. Đây cũng là thực trạng chung đối với hệ thống nghị quyết các cấp, kể cả ở cấp Trung ương; cả nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và mặt trận đoàn thể. Bởi thế, trong tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện nghị quyết thì phần nguyên nhân của hạn chế bao giờ cũng đưa ra một nhận định quen thuộc: Còn thiếu nguồn lực tổ chức thực hiện nghị quyết; do đó, giải pháp kế tiếp luôn vạch rõ: Tập trung mọi nguồn lực để triển khai kịp thời, hiệu quả các chủ trương của nghị quyết trong thời gian tới. Vì thế mới đây, Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17-11-2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng “Về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới” chỉ rõ: Khắc phục tình trạng ban hành văn bản không sát với thực tiễn, thiếu nguồn lực tổ chức thực hiện.

Rõ ràng, Trung ương và các cấp đã nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của nguồn lực trong tổ chức triển khai thực hiện nghị quyết. Thế nhưng, đến thời điểm hiện tại, lời giải cho bài toán: Bố trí, cân đối, phát huy nguồn lực triển khai thực hiện nghị quyết vẫn là “một ẩn số” và chưa có định khuôn về chế tài, pháp lý để hiện thực hóa. Thành thử, ở nhiều tổ chức đảng, cơ quan, ban, ngành, địa phương khác nhau thì việc bố trí nguồn lực khác nhau đối với việc triển khai thực hiện một nghị quyết cụ thể.

Kết quả khảo sát 23 đảng bộ xã, phường, thị trấn trên địa bàn 3 tỉnh khu vực Tây Nguyên cho thấy: Các tổ chức đảng chưa xác định rõ nguồn lực thực hiện nghị quyết bao gồm những nhân tố, yếu tố, thành tố nào? Chưa phân biệt đầy đủ sự khác nhau giữa nghị quyết của Đảng với nghị quyết của Quốc hội, nghị quyết của Chính phủ...; giữa nghị quyết lãnh đạo với các kết luận, chỉ thị, văn bản khác của Đảng. Nhiều nơi chỉ mường tượng nhân lực thực hiện nghị quyết là sự lãnh đạo của cấp ủy, phân công cấp ủy viên phụ trách, rồi kêu gọi toàn thể đảng viên nêu cao trách nhiệm tổ chức thực hiện.

Đây là tư duy, cách nghĩ hoàn toàn sai lệch. Nguồn nhân lực để nghị quyết lãnh đạo không chỉ đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu, tập thể cấp ủy, người được phân công phụ trách, mà đó còn là việc gắn trách nhiệm đối với từng cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị. Triển khai thực hiện nghị quyết hoàn toàn không phải là nhiệm vụ của riêng tổ chức đảng, mà cần sự tham gia, phát huy đầy đủ vai trò, chức năng của từng tổ chức trong hệ thống chính trị.

Một nguồn lực quan trọng nữa là kinh phí phục vụ việc xây dựng, lãnh đạo thực hiện nghị quyết. Thực tế cho thấy, ở nhiều nơi, cơ quan chức năng chưa thật quan tâm đến vấn đề này, cứ triển khai nghị quyết, dồn mọi chủ trương đổ về cơ sở, “khoán” cho cơ sở thực hiện mà chưa tính toán kỹ các nguồn lực tài chính bảo đảm cho cơ sở hoàn thành nhiệm vụ. Thế mới có chuyện, cơ sở rất ngại, rất lo phải lãnh đạo thực hiện các “nghị quyết 0 đồng”, vì không có, không đủ nguồn lực để hiện thực hóa các chủ trương, mục tiêu của nghị quyết. Đồng chí Lê Anh Tân, Phó chủ tịch UBND TP Vĩnh Yên (Vĩnh Phúc) thẳng thắn: “Không có kinh phí thì không thể làm được gì cả, chứ nói gì đến việc triển khai nghị quyết bằng “hai bàn tay trắng” và sự kêu gọi, hô hào chung chung”.

Thực tế này được các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước thẳng thắn nhận diện, đề cập ở nhiều diễn đàn chính trị. Có ý kiến cho rằng, việc phân bổ nguồn lực cho lĩnh vực xây dựng Đảng còn quá khiêm tốn so với lĩnh vực kinh tế và các lĩnh vực khác. Một khi thiếu nguồn lực, không bảo đảm nguồn lực thì không thể hô hào suông, rằng: Công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, là việc gốc của Đảng được.

Tương tự, nguồn lực cho việc thực hiện nghị quyết của một số tổ chức đảng hiện nay vẫn chỉ mới vận hành theo lối “cầu may”. Có nơi đề cao trách nhiệm thì chủ động phân bổ, cân đối nguồn lực; có nơi lại “cấu véo” kinh phí từ những lĩnh vực khác để “nhường” cho phần việc hệ trọng của Đảng; có nơi lại “lực bất tòng tâm”, vì không thể hoặc không biết huy động nguồn lực từ đâu, ở đâu và bằng cách nào.

Để không còn những “nghị quyết 0 đồng”, cùng với việc làm tốt công tác tổ chức học tập, quán triệt, thì mỗi cấp ủy, tổ chức đảng phải chủ động làm tốt việc xác định nguồn lực trong thực hiện nghị quyết. Một cách làm khá sáng tạo, nhằm góp phần “đong, đo, đếm” được nguồn lực để nghị quyết đi vào cuộc sống tại Đảng bộ TP Vĩnh Yên (Vĩnh Phúc) là chủ động, kiên quyết vận hành tròn khâu trong quy trình ban hành nghị quyết. Ví như, trước khi ban hành nghị quyết lãnh đạo xây dựng đô thị văn minh, hiện đại, Ban Thường vụ Thành ủy giao UBND thành phố xây dựng dự thảo đề án, trong đó xác định rõ nguồn lực lãnh đạo tổ chức thực hiện. Khi dự thảo đề án hoàn thành, Ban Thường vụ Thành ủy nghe UBND thành phố báo cáo, trên cơ sở đó chỉ đạo các cơ quan chức năng tiếp tục bổ sung, hoàn thiện; tiếp đó mới tiến hành họp, quyết nghị ban hành nghị quyết. Làm như vậy sẽ giúp nghị quyết khi được xây dựng có tính khả thi rất cao, vừa xác định đúng vấn đề lãnh đạo, vừa có nguồn lực thực hiện. Mặt khác, khi nghị quyết ra đời, UBND thành phố lại đảm nhiệm trọng trách là cơ quan trung tâm tổ chức thực hiện. Trên cơ sở dự thảo đề án đã có, UBND thành phố tiếp tục bổ sung, hoàn thiện, ban hành đề án. Đây là căn cứ, cơ sở vững chắc để cụ thể hóa, hiện thực hóa nghị quyết lãnh đạo của tổ chức đảng.

Đồng chí Nguyễn Hoài Nam, Phó bí thư Thường trực Thành ủy Vĩnh Yên, khẳng định: “Cách vận hành giao nhiệm vụ cụ thể như vậy bảo đảm nghị quyết được xây dựng tròn khâu, bài bản, sát thực tế. Đó cũng là cách tạo nguồn lực cho nghị quyết; bảo đảm mọi chủ trương khi được ban hành tất yếu sẽ đi vào cuộc sống”.

“Muốn biết các nghị quyết có được thi hành không, thi hành có đúng không; muốn biết ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có một cách, là khéo kiểm soát. Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm tra khéo, về sau khuyết điểm nhất định bớt đi” (Chủ tịch Hồ Chí Minh).

 
“Tổ chức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nghiên cứu, học tập quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng; xây dựng chương trình, kế hoạch để triển khai thực hiện phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và điều kiện cụ thể của cơ quan, đơn vị, địa phương; tập trung nghiên cứu, thể chế thành luật và các văn bản dưới luật; xây dựng các quy định, quy chế của Đảng; tăng cường kiểm tra, giám sát quá trình tổ chức thực hiện” (Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17-11-2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng “Về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới”).

(còn nữa)

Nhóm phóng viên Báo QĐND