Phòng và chống các biểu hiện tiêu cực theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh

13/01/2022 05:00

Tiêu cực là để chỉ những hiện tượng không lành mạnh, có tác dụng phủ định, cản trở, không tốt đối với quá trình phát triển của xã hội; tiêu cực là trái với tích cực.

Tiêu cực thường được sử dụng dưới dạng: Hiện tượng tiêu cực, không lành mạnh; nảy sinh tiêu cực; đấu tranh chống tiêu cực... Tiêu cực có nguồn gốc sâu xa từ chủ nghĩa cá nhân, là con đẻ của chủ nghĩa cá nhân. Để thiết thực xây dựng và chỉnh đốn Đảng, để Đảng "là đạo đức, là văn minh", xứng đáng với vai trò tiền phong, thì phòng và chống các biểu hiện tiêu cực là một nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa thường xuyên của Đảng cầm quyền.

Những lời cảnh báo của Bác Hồ

 Ngay sau khi nước nhà giành được độc lập không lâu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra những biểu hiện tiêu cực của đội ngũ cán bộ, đảng viên tại các cơ quan công quyền, như: “Óc bè phái. Ai hẩu với mình thì dù nói không đúng cũng nghe, tài không có cũng dùng. Ai không hẩu với mình thì dù có tài cũng dìm họ xuống, họ phải mấy cũng không nghe. Đó là một khuyết điểm rất có hại. Nó làm cho đoàn thể mất cán bộ, kém nhất trí, thường hỏng việc. Đó là một chứng bệnh rất nguy hiểm”; “Óc hẹp hòi-Ở trong Đảng thì không biết cất nhắc những người tốt, sợ người ta hơn mình. Ở ngoài Đảng thì khinh người, cho ai cũng không cách mạng, không khôn khéo bằng mình. Vì thế mà không biết liên lạc hợp tác với những người có đạo đức tài năng ở ngoài Đảng”; "Óc quân phiệt quan liêu. Khi phụ trách ở một vùng nào thì như một ông vua con ở đấy, tha hồ hách dịch, hoạnh họe. Đối với cấp trên thì xem thường, đối với cấp dưới cậy quyền lấn áp"; "Ích kỷ, hủ hóa...".

Phòng và chống các biểu hiện tiêu cực theo chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là tấm gương sáng về lối sống cần, kiệm, liêm, chính. Ảnh tư liệu

Đó còn là những biểu hiện thể hiện rõ tư tưởng cá nhân chủ nghĩa, như: "Bệnh tị nạnh-Cái gì cũng muốn “bình đẳng”... Bệnh này sinh ra vì hiểu lầm hai chữ bình đẳng; “Bệnh kiêu ngạo-Tự cao, tự đại, ham địa vị, hay lên mặt. Ưa người ta tâng bốc mình, khen ngợi mình. Ưa sai khiến người khác. Hễ làm được việc gì hơi thành công thì khoe khoang vênh váo, cho ai cũng không bằng mình. Không thèm học hỏi quần chúng, không muốn cho người ta phê bình. Việc gì cũng muốn làm thầy người khác”; “Bệnh hiếu danh-Tự cho mình là anh hùng, là vĩ đại. Có khi vì cái tham vọng đó mà việc không đáng làm cũng làm. Đến khi bị công kích, bị phê bình thì tinh thần lung lay... Chỉ ham làm chủ tịch này, ủy viên nọ, chớ không ham công tác thiết thực”; "Bệnh cận thị-Không trông xa thấy rộng. Những vấn đề to tát thì không nghĩ đến mà chỉ chăm chú những việc tỉ mỉ... chỉ trông thấy sự lợi hại nhỏ nhen mà không thấy sự lợi hại to lớn"; "Bệnh "cá nhân"... Không theo nguyên tắc sinh hoạt của Đảng... Không phục tùng mệnh lệnh, không tuân theo kỷ luật. Cứ làm theo ý mình..." Bên cạnh đó, "Bệnh xu nịnh, a dua-Lại có những người trước mặt thì ai cũng tốt, sau lưng thì ai cũng xấu. Thấy xôi nói xôi ngọt, thấy thịt nói thịt bùi. Theo gió bẻ buồm, không có khí khái"; “Kéo bè kéo cánh lại là một bệnh rất nguy hiểm nữa. Từ bè phái mà đi đến chia rẽ. Ai hợp với mình thì dù người xấu cũng cho là tốt, việc dở cũng cho là hay, rồi che đậy cho nhau, ủng hộ lẫn nhau. Ai không hợp với mình thì người tốt cũng cho là xấu, việc hay cũng cho là dở, rồi tìm cách gièm pha, nói xấu, tìm cách dìm người đó xuống. Bệnh này rất tai hại cho Đảng”... Những cán bộ, đảng viên mang trong mình các biểu hiện tiêu cực, các tật bệnh xấu này chính là những người suy thoái về phẩm chất đạo đức, lối sống, “hủ hóa, lên mặt làm quan cách mạng, hoặc là độc hành độc đoán, hoặc là dĩ công dinh tư. Thậm chí dùng pháp công để báo thù tư, làm cho dân oán đến Chính phủ và Đoàn thể”.

Có thể nói, những biểu hiện tiêu cực, sự suy thoái mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra ở trên đều là "con đẻ" của chủ nghĩa cá nhân; không chỉ phản ánh sự thiếu tu dưỡng, rèn luyện về mọi mặt của người cán bộ, đảng viên mà còn là "kẻ địch nội xâm", kẻ thù của người cách mạng. Những cán bộ, đảng viên có suy nghĩ và hành động tiêu cực này là những người không chỉ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự cao tự đại, coi thường tập thể, độc đoán, chuyên quyền, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật mà còn coi thường công tác dân vận (không lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, ngày càng rời xa quần chúng, làm trái ngược nguyên tắc phải gắn bó mật thiết với nhân dân...).

Tiến hành đồng bộ, kết hợp chặt chẽ trong phòng, chống tham nhũng và tiêu cực

Theo Từ điển tiếng Việt, tham nhũng là "lợi dụng quyền hành để hạch sách nhũng nhiễu dân", cho nên, tham nhũng là sản phẩm của sự tha hóa, lạm dụng, lợi dụng quyền lực để mưu lợi cho cá nhân và người thân. Theo Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, tham nhũng là hành vi của những người có chức vụ, quyền hạn khi họ lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được trao, được đảm nhiệm nhằm mục đích vụ lợi cho cá nhân, người thân, nhóm lợi ích... Đó là các hành vi: Tham ô tài sản; nhận hối lộ; lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi... và đó cũng chính là các biểu hiện của sự suy thoái.

Vì tham nhũng là một loại hành vi tiêu cực do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện; là một loại biểu hiện cụ thể của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, cho nên phòng và đấu tranh chống tham nhũng luôn là một nhiệm vụ quan trọng, được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm; được đẩy mạnh trong những nhiệm kỳ gần đây.

Đặc biệt, những biểu hiện tiêu cực mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra lúc sinh thời về cơ bản cũng nằm trong số 27 biểu hiện suy thoái mà Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII đã nêu; trong đó, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống chính là biểu hiện rõ nét nhất của sự tiêu cực đang diễn ra trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức thuộc các cơ quan công quyền.

Thực tiễn chỉ ra rằng, tham nhũng và các biểu hiện tiêu cực đều là "kẻ thù khá nguy hiểm, vì nó không mang gươm mang súng, mà nó nằm trong các tổ chức của ta, để làm hỏng công việc của ta... Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính". Do đó, không phải ngẫu nhiên lần đầu tiên vấn đề phòng, chống tham nhũng lại được ghi rõ tại khoản 2, Điều 8 Hiến pháp năm 2013: "Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải... kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền".

Do đó, phòng và đấu tranh chống tham nhũng, chống các biểu hiện tiêu cực không chỉ cần phải được tiến hành đồng thời, đồng bộ mà còn phải có sự kết hợp, gắn bó chặt chẽ với nhau, để phát huy hiệu quả của từng bộ phận và bảo đảm tính toàn diện của nhiệm vụ quan trọng này. 

Hiện thực hóa Quy định số 32-QĐ/TW của Bộ Chính trị

Để thiết thực đưa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng vào cuộc sống; đồng thời, nhằm nâng cao chất lượng công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng nói chung, phòng và chống tham nhũng, tiêu cực nói riêng, ngày 16-9-2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã ký ban hành Quy định số 32-QĐ/TW của Bộ Chính trị về "Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, chế độ làm việc, quan hệ công tác của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực"; trong đó, nêu rõ việc gắn công tác phòng, chống tham nhũng đồng bộ với công tác phòng, chống tiêu cực, nhất là chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên. Tiếp đó, ngày 25-10-2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Quy định số 37-QĐ/TW về "Những điều đảng viên không được làm" thay thế cho Quy định số 47-QĐ/TW ngày 1-11-2011 về "Những điều đảng viên không được làm".

Gắn đấu tranh phòng, chống tham nhũng với phòng, chống những biểu hiện tiêu cực, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên chính là hiểu đúng, hiểu một cách sâu sắc những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài”; “các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân” và “vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau. Đó là nguyên tắc cao nhất của Đảng. Đó là “tính Đảng”. Hiểu đúng để hành động đúng trên tinh thần "phải làm liên tục, bền bỉ, không ngừng, không nghỉ, không ngại ngần khó khăn; càng khó, càng phải quyết tâm cao, phải phối hợp tốt hơn nữa", chính là góp phần ngăn chặn từ gốc, phát hiện từ sớm và xử lý ngay từ đầu để ngăn chặn những vi phạm nhỏ, không để chúng tích tụ thành những sai phạm lớn, vụ án lớn; không để những cành cây làm hỏng một thân cây, không để một thân cây bệnh lây lan cả rừng cây như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhấn mạnh.

Vì thế, mỗi cấp ủy, mỗi cán bộ, đảng viên trong cả hệ thống chính trị đều phải:

Một là, nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc phải học tập, quán triệt và thực hiện tốt hơn nữa các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng nói chung, về học tập lý luận chính trị nói riêng trên tinh thần gắn lý luận với thực tiễn. Thông qua quá trình đó, mỗi người tự soi, tự sửa, tự rèn luyện mình theo 3 chuẩn mực và nêu gương về đạo đức cách mạng: “Tự mình phải”, “Đối với người phải”, “làm việc phải” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ trong tác phẩm Đường Kách mệnh, năm 1927. Trong triển khai thực hiện, chú trọng nguyên tắc “trên trước, dưới sau”, "trong trước, ngoài sau"; coi đó là việc làm thường xuyên, liên tục, nền nếp, là nhu cầu tự thân của mỗi cán bộ, đảng viên gắn liền với tự phê bình và phê bình, kiểm tra và giám sát.

Hai là, trong công cuộc phòng, đấu tranh chống tham nhũng và các biểu hiện tiêu cực, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" này, cần phải tăng cường vai trò nêu gương trong rèn luyện bản lĩnh chính trị gắn với việc phát huy tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên nói chung, đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt và người đứng đầu nói riêng về mọi mặt. Trong đó, chú trọng yêu cầu sự gương mẫu trong học tập nâng cao trình độ, nghiệp vụ, kỹ năng quản lý; trong rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác... trên tinh thần thấm nhuần cảnh báo của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước... Muốn làm cách mạng, phải cải cách tính nết mình trước tiên”.

Ba là, cùng với việc các cơ quan chức năng tiếp tục xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực, chống tham nhũng hiệu quả; cùng với việc bổ sung, thay thế Quy định số 47-QĐ/TW bằng Quy định số 37-QĐ/TW về "Những điều đảng viên không được làm" và sự phối hợp công tác giữa các cơ quan, ban, ngành chức năng để kịp thời nhận diện rõ hơn, cụ thể hơn các hành vi tiêu cực nghiêm trọng, phức tạp có liên quan đến tham nhũng của cán bộ, đảng viên (biến quyết tâm chính trị thành hành động thực tiễn trong phòng, chống tham nhũng và mở rộng thêm nội hàm đấu tranh gắn với chống tiêu cực bằng văn bản cụ thể), thì mỗi cấp ủy cũng cần phải chú trọng làm tốt công tác tư tưởng, phát huy dân chủ, xây dựng khối đoàn kết, thống nhất trong từng tổ chức cơ sở đảng để làm hạt nhân cho khối đoàn kết của từng địa phương, cơ quan, đơn vị.

TS VĂN THỊ THANH MAI và TS TRẦN THỊ BÌNH

Hiểm họa từ phò tá, tham mưu "rởm"

06/01/2022 05:00

Một trong những nguyên nhân gây ra “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ tổ chức đảng và trong nhân dân là do không ít quyết sách, chỉ thị, quy định, lời phát ngôn... của cán bộ hoặc cơ quan có thẩm quyền không phù hợp với thực tiễn, không “xứng tầm”, thậm chí là vô lý, gây cười.

Nguy hiểm hơn, khá nhiều người giữ cương vị lãnh đạo bị xử lý kỷ luật, thành tội phạm vì ký những văn bản có nội dung trái pháp luật. Dư luận thường chỉ phê phán, “ném đá” những cán bộ lãnh đạo này. Nhưng thực tế cũng có những sai sót, vi phạm do cán bộ, nhân viên làm công tác tham mưu, giúp việc trực tiếp gây ra mà người lãnh đạo không thể kiểm soát hết và phải chịu trách nhiệm.

1. Những năm qua, đặc biệt trong thời gian cao điểm, cấp bách phòng, chống dịch Covid-19, dư luận rất bức xúc trước việc một số địa phương, bộ, ngành thi thoảng lại ban hành các quy định “trên trời” vì không khoa học, kém hiệu quả, thiếu tính khả thi, thậm chí trái với văn bản của cấp trên...

Tình trạng các văn bản “đá nhau”, “sáng ban hành, chiều bãi bỏ” không chỉ làm mất uy tín của người ký ban hành và cơ quan ban hành, mà còn ảnh hưởng không nhỏ tới uy tín của Đảng, Nhà nước; trở thành cái cớ, cơ hội để các thế lực thù địch lợi dụng thổi phồng, kích động nhằm thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, chống phá cách mạng nước ta.

Hiểm họa từ phò tá, tham mưu "rởm"
Ảnh minh họa: Tuyengiao.vn 

Bên cạnh đó là một số cán bộ lãnh đạo có lời phát biểu hoặc bài viết đăng trên sách, báo, tạp chí chưa thực sự “xứng tầm”, thậm chí có chỗ copy nguyên xi của người khác, nói hớ, viết sơ hở. Một vài cán bộ đã giải thích “lỗi từ nhân viên đánh máy”, nhưng càng khiến dư luận bức xúc vì cho rằng, cán bộ đổ lỗi cho nhân viên để trốn tránh trách nhiệm.

Tuy nhiên, thực tế đúng là có tình trạng cán bộ, nhân viên làm công tác tham mưu, giúp thủ trưởng soạn văn bản, chuẩn bị dự thảo văn bản, bài viết, bài phát biểu thiếu chặt chẽ, không đủ tầm để chuẩn bị tốt nội dung; thủ trưởng thì không đủ thời gian hoặc không thể hiểu sâu về tất cả lĩnh vực nghiệp vụ để phát hiện, chỉnh sửa hết những chỗ sai sót.

Đó là chưa kể còn có hiện tượng một số trợ lý được thủ trưởng giao góp ý dự thảo bài viết, bài phát biểu do cơ quan chuyên môn chuẩn bị nhưng lại không đọc kỹ, không hiểu sâu mà lại "thích chỉnh sửa để thể hiện mình giỏi", dẫn đến sửa không phù hợp, đúng thành sai, làm hỏng cả bài viết mà thủ trưởng cũng không thể kiểm soát hết được. Ngôn từ phát ra thì người ta chỉ khen-chê người đăng đàn phát biểu, người đứng tên tác giả, đâu cần biết ai là người giúp chuẩn bị, chỉnh sửa nội dung! 

2. Bên cạnh một số cán bộ, nhân viên làm công tác tham mưu, giúp việc do hạn chế về trình độ, năng lực dẫn đến sai sót khi soạn thảo văn bản, chuẩn bị bài viết, bài phát biểu cho thủ trưởng, thì còn có hiện tượng tham mưu nhưng “mưu ít, tham nhiều”, rỉ rả ngày này qua ngày khác hướng lái thủ trưởng nhận thức thiếu chuẩn mực về một số vấn đề xã hội hoặc ngay chính công việc, con người mình phụ trách.

Người phò tá, tham mưu phẩm chất không trong sáng, vụ lợi thường dễ bị mua chuộc, lôi kéo, cố tình gài lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm vào các văn bản liên quan đến chế độ, chính sách, quyết định các vấn đề về tài chính, ngân sách như mua bán tài sản công, đấu thầu...

Đây là vấn đề nhức nhối, rất đáng báo động. Bởi thực tế không nhiều thủ trưởng, người chủ tài khoản nắm chắc, hiểu sâu về quản lý kinh tế, ngân sách, nhất là các nguyên tắc, thủ tục, danh mục thu-chi tài chính (do không được đào tạo chuyên sâu). Ngay cả những thủ trưởng nắm chắc nội dung này thì cũng không đủ thời gian để nghiên cứu kỹ hàng chục, hàng trăm văn bản dày cộp mỗi ngày bởi còn phải làm rất nhiều việc khác. Nên có tình trạng cán bộ, cơ quan tham mưu, trợ lý trình gì thì thủ trưởng chỉ xem lướt rồi tin tưởng ký vào, trừ những văn bản quan trọng. 

Lại cũng có không ít trợ lý, người giúp việc mượn danh, núp bóng thủ trưởng để gạ gẫm cơ sở và cán bộ, nhân viên cấp dưới. Thường những người này trước thủ trưởng thì "đi nhẹ, nói khẽ, cười duyên", tỏ ra ngoan ngoãn, lễ phép, nhưng sau lưng thủ trưởng thì ngược lại. Dù thủ trưởng không chỉ đạo gì nhưng có trợ lý, người giúp việc lại cố tình “gây khó để có phong bì”, mượn uy thủ trưởng để vụ lợi, sách nhiễu. Kiểu “cáo mượn oai hùm” này vô cùng nguy hại vì nó làm cho cấp cơ sở và quần chúng nhân dân mất niềm tin vào cán bộ lãnh đạo, sâu xa hơn là mất niềm tin vào Đảng, Nhà nước vì nhiều người tưởng các thủ trưởng chỉ đạo làm như vậy!

3. Theo từ điển tiếng Việt, tham mưu nghĩa là hiến kế, kiến nghị, đề xuất, đưa ra các ý tưởng độc đáo, sáng tạo, có cơ sở khoa học, các sáng kiến, các phương án tối ưu, những chiến lược, sách lược và các giải pháp hữu hiệu cho thủ trưởng trong việc đặt ra và tổ chức thực hiện kế hoạch công tác của cơ quan, đơn vị nhằm đạt kết quả cao nhất; còn trợ lý là người giúp việc trực tiếp cho một người ở chức vụ cao hoặc trong một lĩnh vực chuyên môn nào đó.

Như vậy, vai trò của cán bộ, nhân viên làm công tác tham mưu, trợ lý giúp việc là vô cùng quan trọng, không thể thiếu trong hoạt động lãnh đạo, quản lý và điều hành công việc của tất cả các tổ chức. Những người làm nhiệm vụ này rất gần gũi với thủ trưởng và được thủ trưởng tin cậy, giao cho các công việc quan trọng, liên quan tới cả tổ chức, nhiều người.

Cổ nhân đã đúc rút “Thần thiêng nhờ bộ hạ”, nghĩa là đội ngũ làm công tác tham mưu, giúp việc vừa giỏi vừa tâm đức là nhân tố rất quan trọng, quyết định đến thành công của người lãnh đạo. Bất kể thủ trưởng nào, dù tài giỏi đến mấy cũng không thể hiểu sâu kỹ được tất cả lĩnh vực, không thể tự làm hết được mọi công việc.

Do đó, mỗi cơ quan, đơn vị muốn thành công, ngoài tâm và tầm của người lãnh đạo thì phải có đội ngũ làm công tác tham mưu, giúp việc đủ phẩm chất, năng lực đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ, giúp người lãnh đạo đưa ra những chủ trương, quyết định đúng đắn, hạn chế tối đa sai sót, khuyết điểm. Chính vì vậy, việc lựa chọn, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, nhân viên làm công tác tham mưu, giúp việc là đặc biệt quan trọng.

Song, đáng tiếc là vẫn có những thủ trưởng và cơ quan, đơn vị chưa thực sự coi trọng việc này, vẫn còn tình trạng ưu tiên người thân quen, chọn người cùng phe nhóm, “cánh hẩu”, biết chiều ý thủ trưởng theo kiểu tuyệt đối phục tùng, sẵn sàng cung phụng, phục vụ mọi nhu cầu cá nhân mà không cần biết đúng-sai. Chính vì thế mới dẫn đến những hậu quả vô cùng tai hại. "Thần suy cũng vì bộ hạ" và sử sách đã "bêu gương" không ít bậc vua chúa vì chọn dùng gian thần mà thân bại, danh liệt.

Cần nhận thức đúng đắn rằng, cán bộ, nhân viên làm công tác tham mưu, giúp việc cũng là phục vụ thủ trưởng, nhưng là dùng tri thức, chất xám và toàn tâm toàn ý phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành của thủ trưởng, hoàn toàn khác với việc phục vụ nhu cầu sinh hoạt thường ngày; do đó, phải chú trọng lựa chọn những người có đủ tâm và tầm, nhất là người dám nói, dám phản biện như Đảng ta đang khuyến khích. Nhất là, trong thời đại công nghệ số, thế giới “phẳng” như hiện nay, chỉ cần một sai lầm, sơ hở nhỏ của tổ chức, của người lãnh đạo cũng sẽ lan nhanh khắp nơi, làm ảnh hưởng lớn tới uy tín của tổ chức, cá nhân mắc sai lầm, khuyết điểm.

Thiết nghĩ, việc tuyển chọn và sử dụng người phò tá, tham mưu rất cần ghi nhớ bài học của người xưa "Quân tử chi giao đạm nhược thủy. Tiểu nhân chi giao cam như di", với ý nghĩa là: Người quân tử đối đãi với nhau như nước trắng, không mặn, không ngọt; rất thật lòng, không vì yêu mà nói thành tốt, không vì ghét mà nói thành xấu, không nói những lời bạn thích nghe mà phải nói những lời bạn cần nghe. Kẻ tiểu nhân đối xử lúc nào cũng ngọt ngào như rượu nồng. Nước tuy nhạt nhưng cần thiết để sống bền vững; còn rượu ngọt uống sẽ say, dễ lầm đường lạc lối, dẫn tới tuyệt giao, tai họa…

HUY QUANG

Luận điệu sai trái về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam

 08:07 10/01/2022

Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị...”, đồng thời xác định tầm nhìn, định hướng chiến lược, trong đó “nghiên cứu, ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến 2045”.

Đây là vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức quan trọng được Đảng ta chỉ đạo khẩn trương nghiên cứu, xây dựng, tạo cơ sở hiện thực hóa mục tiêu lý tưởng, con đường cách mạng mà Đảng, Bác Hồ và Nhân dân ta lựa chọn.

Lợi dụng vấn đề này, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đưa ra nhiều quan điểm, luận điệu nhằm phê phán, bác bỏ, phủ nhận vai trò, tính chất pháp quyền của Nhà nước XHCN Việt Nam. Họ cho rằng, nhà nước pháp quyền là giá trị tiến bộ đã được các nước tư bản vận dụng, xây dựng, thực hiện từ lâu, bây giờ Việt Nam đặt lại vấn đề xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền là đi theo con đường tư bản chủ nghĩa (TBCN).

Họ ra sức xuyên tạc Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam chỉ có “đảng trị” chứ không có tính pháp quyền “pháp trị”, xã hội không có tự do, dân chủ, nhân quyền. Cho rằng chỉ có nhà nước pháp quyền tư bản, không có khái niệm Nhà nước pháp quyền XHCN, từ đó phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đồng thời rêu rao rằng, thoát li vai trò lãnh đạo của Đảng, nhà nước phải xây dựng theo mô hình nhà nước “tam quyền phân lập”, như vậy thì những giá trị tiến bộ về quyền cơ bản của con người mới được thừa nhận, tôn trọng và thực hiện…                       

Tung ra các luận điệu sai trái, công kích vào bản chất, vai trò của nhà nước pháp quyền XHCN là một trong những mũi nhọn mà các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị tập trung chống phá trong suốt quá trình cách mạng, xây dựng, hoàn thiện nhà nước XHCN Việt Nam. Vậy bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN có đồng nhất nhà nước pháp quyền TBCN? Mục đích, âm mưu mà các đối tượng hướng tới là gì?

Trước hết có thể thấy, tư tưởng về nhà nước pháp quyền được các nhà chính trị, pháp lý như J.Locke (1632-1704), C.Montesquieu (1698-1755), J. Rousseau (1712 – 1778) đặt nền móng đầu tiên, sáng lập, phát triển như một thế giới quan pháp lý mới, phát triển các tư tưởng về nhà nước pháp quyền, làm cơ sở lý luận xây dựng nhà nước tư sản cho đến ngày nay. So với nhà nước phong kiến “ngàn năm trung cổ”, đây là những tư tưởng tiến bộ của nhân loại trong hoàn cảnh lịch sử khi đó. Tuy nhiên, tư tưởng này bị hạn chế bởi thế giới quan, bản chất giai cấp nên nhà nước tư sản vẫn là công cụ thuộc về thiểu số là giai cấp tư sản, dân chủ tư sản chưa phải là nền dân chủ của đa số, quảng đại quần chúng nhân dân lao động.

Bản chất nhà nước luôn là vấn đề trung tâm của mỗi chế độ chính trị, quyết định bản chất xã hội, biểu hiện ý chí, nguyện vọng của thiểu số hoặc đa số và tính chất, nội dung của một xã hội tiến bộ, dân chủ. Mặt khác, đây cũng là đề tài luôn được học giả, nhà nghiên cứu, chính trị gia không ngừng nghiên cứu, tranh luận trên cơ sở lập trường tư tưởng, khuynh hướng chính trị khác nhau. Các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lấy lý do này để tăng cường các hoạt động công kích, xuyên tạc, chống phá.

Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN giữ một vị trí đặc biệt quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Người nhấn mạnh: “Nước ta là một nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”; “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là chủ”. Toàn bộ quyền lực nhà nước là từ nhân dân, do nhân dân, phụng sự lợi ích của nhân dân. Người quan niệm, pháp luật không phải là để trừng trị con người, mà là công cụ bảo vệ, thực hiện lợi ích của con người. Tư tưởng pháp quyền đó thấm đượm bản chất nhân văn, chăm lo ấm no, hạnh phúc của nhân dân, lòng nhân ái, nghĩa đồng bào, truyền thống đạo lý quý báu của dân tộc. Đó thật sự là giá trị dân chủ sâu sắc và triệt để của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.

Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ra đời, đó là nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Kể từ đó, tiếp thu, kế thừa những tư tưởng tiến bộ của nhân loại, quá trình nhận thức tư duy lý luận của Đảng qua các nhiệm kỳ đại hội, nhất là thời kỳ đổi mới, không ngừng được phát triển và hoàn thiện. Những quan điểm, đường lối đó được Nhà nước cụ thể hóa trong các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991 (bổ sung năm 2011) hay Hiến pháp (2013), Đảng, Nhà nước ta khẳng định một trong những đặc trưng của chế độ là “xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”.

Cương lĩnh chỉ rõ: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”; “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.

Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam khác nhà nước pháp quyền tư sản ở chỗ, pháp quyền dưới chế độ tư bản về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản. Trong khi bản chất nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định, đó là Nhà nước “hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do đó cần và có điều kiện để xây dựng và đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối kháng xã hội. Trong chế độ chính trị XHCN, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích, mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của nhà nước đều vì lợi ích của Nhân dân, lấy hạnh phúc của Nhân dân làm mục tiêu phấn đấu.

Mô hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ. Dân chủ là bản chất của chế độ XHCN, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng CNXH; xây dựng nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của các mạng Việt Nam”.

Từ khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa được thành lập, việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN là vấn đề lý luận và thực tiễn hết sức mới mẻ, chưa có tiền lệ, đòi hỏi phải có sự nhận thức lý luận khoa học, cách mạng, giữ vững định hướng XHCN trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, đáp ứng yêu cầu đưa đất nước vào giai đoạn phát triển mới. Do đó việc lãnh đạo, tổ chức nghiên cứu, xây dựng, thực hiện đề án chiến lược này là khách quan, khoa học, vừa kế thừa, phát huy những thành tựu đạt được, vừa phát triển, hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước vào giai đoạn phát triển mới.

Như vậy, không thể lập luận rằng “xây dựng Nhà nước pháp quyền là đi theo con đường TBCN”, không thể xuyên tạc ở Việt Nam “chỉ có đảng trị, không pháp quyền”, rêu rao “pháp trị thì xã hội không thể có tự do, dân chủ, nhân quyền”... Mô hình nhà nước “tam quyền phân lập” không phải là khuôn mẫu, tiến bộ về tự do, dân chủ nhân quyền. Đây là luận điệu hết sức nguy hiểm. Đưa ra luận điệu này, các đối tượng nhằm cố tình phê phán thể chế chính trị, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước; ca ngợi, cổ súy, hướng lái, thúc đẩy mô hình nhà nước tam quyền phân lập, những cái gọi là giá trị “tự do, dân chủ, nhân quyền” phương Tây; dẫn dắt, gieo rắc nhận thức lệch lạc, xuyên tạc bản chất, vị trí, vai trò của nhà nước pháp quyền XHCN; chia rẽ khối đại đoàn kết, mối quan hệ, thể chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Mặt khác, việc tung ra luận điệu trên làm méo mó bản chất, tính ưu việt của chế độ xã hội, làm giảm uy tín, vị thế Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trên trường quốc tế.

Lê Thế Cương (Học viện Chính trị CAND)

Hại thân vì những lời tung hô, kích động

 08:32 03/01/2022

Đúng kịch bản như với bất kỳ đối tượng có hành vi chống phá Nhà nước phải ra toà, những thành phần cổ suý chỉ chờ có vậy để tung hô, coi bị cáo trước toà như con diều để giật lên hay đẩy xuống tuỳ thuộc chính động cơ, thủ đoạn của kẻ chống phá.

Phiên toà xét xử bị cáo Lê Trọng Hùng diễn ra ngày cuối cùng của năm 2021 cũng vậy, khi mà cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện theo trình tự tố tụng thì số cơ hội bên ngoài chờ sẵn để “ném đá” tạo sóng dư luận, lấy cớ đẩy vụ án sang hướng khác để chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam. Trang Việt Tân dẫn lời nói sau cùng của Lê Trọng Hùng trước toà, nội dung lời nói cho thấy bị cáo không ăn năn, hối cải, mà vẫn ngoan cố chối tội, thậm chí còn mang tính kích động để những kẻ chống phá lấy cớ vu cáo.

Bị cáo Lê Trọng Hùng ngô nghê nói rằng, lẽ ra đã “trở thành đại biểu Quốc hội”, việc bị phạt tù là “ngăn cản sứ mệnh của tôi trong 5 đến 10 năm” và “tôi ở trại giam tôi vẫn gào ra, tôi buộc các anh quản giáo cắt tóc thật đẹp để hôm sau tôi đi bầu cử, thể hiện tôi đang bảo vệ tính chính danh của Nhà nước”…

Những lời nói này cho thấy kiểu giả bộ tâm lý có vấn đề để nhạo báng trước công đường. Tuy nhiên, bị cáo hẳn đã quá ảo vọng, đến lời nói sau cùng là cơ hội để trấn tĩnh, cần biết hối lỗi nhìn ra sự thật thì vẫn tìm cách nói ngông để bấu víu sự can thiệp mơ hồ từ bên ngoài. Cần nhớ rằng, luật pháp nghiêm minh nhưng cũng khoan dung, xử lý nghiêm kẻ phạm tội nhưng cũng khoan hồng cho những ai biết hối lỗi, biết nhận rõ sai lầm để tìm lại đường về. Toà cho nói lời sau cùng, không biết hối lỗi, sám hối, mà vẫn còn ảo vọng kiểu đó là đã tự tay mình chuốc thêm ngày rộng tháng dài trong trại cải tạo mà thôi.

Đối tượng cuồng vọng như vậy, còn bên ngoài cũng đã có những chân rết sẵn sàng “đổ dầu đốt lửa”. Một thành phần cổ suý đưa lên trang cá nhân, viết “có những người đi đấu tranh chưa về”; tôn sùng bị cáo Lê Trọng Hùng là “một công dân gương mẫu, người khát khao xây dựng một xã hội dân chủ công bằng văn minh thượng tôn pháp luật”; biến tấu hành động tội lỗi của bị cáo thành “Lê Trọng Hùng vô tội, những việc làm của Hùng chỉ giúp ích cho đất nước và nhân dân”.

Rồi liệt kê những kẻ bất hảo chống phá nhân dân “Hùng, Trang, chị Tâm, chị Thêu, chị Hạnh, Phương, Tư, những người bạn thân thiết của tôi, họ là những người công chính đi đấu tranh cho quyền lợi chung của tất cả chúng ta. Họ chưa về. Tất cả chúng ta đều đang mất tự do”!

Trong khi đó, tổ chức Nhà báo Không biên giới (Reporters Sans Frontière) như thường lệ, lại lên án bản án và “kêu gọi nhà cầm quyền Việt Nam trả tự do cho ông Hùng ngay lập tức”. Ông Daniel Bastard, người phụ trách châu Á-Thái Bình Dương của RSF sau khi đánh lận bản chất vụ án thì giả bộ: “Bản án gây sốc 5 năm tù của Lê Trọng Hùng một lần nữa cho thấy hệ thống tư pháp Việt Nam hoàn toàn thiếu độc lập”. Cùng việc “lên án” thì RSF cũng tìm cách ngợi ca, vẽ nên một “người hùng” Lê Trọng Hùng khi “thường xuyên đưa tin về các vụ việc tham nhũng và trưng dụng bất hợp pháp và cung cấp thông tin pháp lý để giúp đỡ các nạn nhân. Ông Hùng là nhà đồng sáng lập kênh CHTV thứ hai trở thành nạn nhân bị đàn áp ở Việt Nam”.

Cũng bởi trò đánh tráo bản chất, tô vẽ kẻ phạm tội chống phá Nhà nước, chống phá nhân dân thành người hoạt động cho dân chủ, nhân quyền nên RSF tập hợp danh sách những thành phần như Lê Trọng Hùng để xếp Việt Nam đứng thứ 175 trong số 180 quốc gia trong “chỉ số tự do báo chí thế giới năm 2021”. RSF đưa ra bản danh sách với tổng cộng 44 người “hiện đang bị giam giữ”.

Trước đó, ngày 31/12/2021,TAND TP Hà Nội đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm và tuyên án phạt 5 năm tù đối với bị cáo Lê Trọng Hùng (tức Hùng “gàn”, SN 1979, trú tại phường Thanh Lương, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) về tội “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam” theo quy định tại Điều 117, khoản 1, điểm a, b, c, Bộ luật Hình sự. Ngoài hình phạt tù, tòa còn tuyên phạt quản chế Lê Trọng Hùng 5 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.

Theo cáo trạng của VKSND Hà Nội, ngày 27/1/2021, Phòng An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao (Công an TP Hà Nội) đã chuyển đến Cơ quan An ninh điều tra hồ sơ vụ việc để điều tra làm rõ Lê Trọng Hùng, thông qua fanpage Facebook “CHTV Vietnam”, đăng tải các video clip có nội dung xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân, phao tin, bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân; xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Qua xác minh, cơ quan điều tra đã kết luận từ tháng 4/2020 đến tháng 9/2020, Lê Trọng Hùng đã tự làm, đăng tải phát trực tiếp 7 video clip lên mạng xã hội Facebook. Trong số đó, có 4 video clip chứa nội dung tuyên truyền thông tin xuyên tạc đường lối, chính sách của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, phỉ báng chính quyền nhân dân; tuyên truyền luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân; bao gồm: “Đào tạo dân biểu 4.0”,“Bài 8: Tại sao công dân trưởng thành có bổn phận tranh cử”; “Trưa không ngủ 17/5/2020”: “Khi nền tư pháp đóng vai trò phá hủy pháp luật thì phải ứng xử như thế nào với nó?”; “Thư khẩn gửi Quốc hội yêu cầu khẩn cấp mở Tòa Bảo hiến để xử về vụ Đồng Tâm”; “Tại sao có quá nhiều công dân bị oan sai? Làm gì để giải quyết dứt điểm vấn nạn này?”.

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Trọng Hùng thừa nhận bản thân đã thực hiện các hành vi nêu trên nhưng cho rằng đó là những hành vi không phạm tội. Sau khi xem xét vụ án, Hội đồng xét xử kết luận hành vi của Hùng là rất nghiêm trọng, trực tiếp xâm phạm an ninh quốc gia, phỉ báng chính quyền nhân dân và chế độ XHCN, gây mất ổn định trên lĩnh vực tư tưởng-văn hóa và sự thống nhất về nền tảng chính trị tư tưởng của quốc gia, ảnh hưởng đến lòng tin của quần chúng nhân dân vào thể chế chính trị của Nhà nước… Do vậy, cần phải xử phạt nghiêm bị cáo để cảnh cáo, răn đe và phòng ngừa chung.

Như vậy, bản chất, hành vi phạm tội của bị cáo là rõ ràng. Tuy nhiên, lấy cớ bị cáo không nhận tội, các thế lực chống phá Việt Nam tô vẽ, tung hô đối tượng, giống như từng tung hô cho “ứng viên giải thưởng nhân quyền”. Bằng việc tung hô các đối tượng với danh hão như “nhà báo tự do”, “nhà hoạt động dân chủ, nhân quyền”, “tù nhân lương tâm”, “công dân yêu nước”..., thực chất là thủ đoạn để các thế lực thù địch hợp thức hóa việc cung cấp tiền bạc cho những kẻ được họ tiếp tay hoạt động chống Đảng, Nhà nước, nhân dân Việt Nam. Đồng thời, thông qua đó nhằm tiếp tục cổ súy, lôi kéo các đối tượng khác hoạt động phục vụ âm mưu chống phá Việt Nam. Cùng với việc rêu rao vi phạm nhân quyền, các đối tượng nhằm tạo sóng dư luận, gây sự chú ý từ quốc tế để bôi nhọ, xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, qua đó lấy cớ để gây sức ép, can thiệp vào tình hình trong nước.

Với những cá nhân như Lê Trọng Hùng, được các đối tượng rêu rao, cổ suý thì thực chất chỉ như những con rối, quân cờ, ra toà lĩnh án nhưng bị kẻ địch bên ngoài mượn tên để điều khiển, vì động cơ chống phá đất nước. Bởi vậy, những bị cáo như vậy chớ nên nghe xúi bẩy từ đâu mà nghĩ khác, làm khác để tự cho mình là “tù nhân lương tâm”, kiếm tìm ảo vọng ở trời Tây. Chẳng có “thiên đường” nào từ các thế lực chống phá bên ngoài giúp phạm nhân “đến với tự do, dân chủ”. Muốn trở về với tự do, dân chủ như công dân bình thường, điều trước mắt và quan trọng nhất là trót bước lạc đường thì nay chấp hành án trong trại giam, hãy ăn năn hối cải, biết nhận ra lỗi lầm để cải tạo tiến bộ, sớm tìm lại con đường về với gia đình, sống có ý nghĩa trên đất nước, quê hương mình.

Nguyễn Thành

Phê phán luận điệu phủ nhận “không có thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội”

03/01/2022 05:00

Sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch lợi dụng sự kiện này để công kích, xuyên tạc Chủ nghĩa Mác-Lênin, bài bác những luận điểm cơ bản nhất về thời đại.

Luận điệu sai trái về thời đại ngày nay

Nhận thức rõ đặc điểm và xu hướng phát triển của thời đại cũng như cục diện và tình hình thế giới là một việc rất cần thiết. Hiểu biết sâu sắc về thời đại giúp ta tìm thấy xu hướng tất yếu trong vô vàn những hiện tượng phức tạp, mang tính ngẫu nhiên của đời sống xã hội, giúp ta nhìn xa trông rộng, nắm bắt khuynh hướng và quy luật phát triển của nhân loại để vừa có thể lựa chọn được hướng đi phù hợp với sự phát triển của lịch sử; lường trước được những thách thức phức tạp, tránh được những vấp váp sai lệch trên đường đi; từ đó sẽ không bị chao đảo hoặc bị cuốn trôi trước phong ba bão táp của thời cuộc và đời sống chính trị quốc tế.

V.I.Lenin từng chỉ rõ: Khi phân tích bất cứ vấn đề xã hội nào, phải đặt trong bối cảnh lịch sử nhất định, vì chỉ có dựa trên cơ sở hiểu biết những đặc điểm cơ bản của một thời đại, người ta mới có thể tính đến những đặc điểm chi tiết của nước này hay nước khác. Nói cách khác, vấn đề thời đại là căn cứ khách quan và tiền đề cần thiết để các chính đảng đi theo Chủ nghĩa Mác phân tích tình hình, xác định nhiệm vụ, phân chia trận tuyến, xây dựng chiến lược, hoạch định chính sách, triển khai thực hiện một cách khoa học.

Chính vì lẽ đó, khi bàn về những vấn đề lớn của cách mạng, trước đây cũng như hiện nay, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta bao giờ cũng bắt đầu bằng việc phân tích đặc điểm, nội dung, xu thế phát triển của thời đại và nhận định các mặt của tình hình thế giới để xác định đúng con đường đi của cách mạng Việt Nam và đề ra đường lối đối nội, đối ngoại đúng đắn, sáng tạo.

Phê phán luận điệu phủ nhận “không có thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội”
Ảnh minh họa. Nguồn: bantuyengiao.vn 

Cả trên phương diện lý luận và thực tiễn là như vậy, nhưng hiện nay, một số luận điệu sai trái cho rằng: Thật không tưởng khi nói thời đại ngày nay là quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vì vậy, từ Đại hội XIII trở đi, không nên nói đến chủ nghĩa xã hội nữa. Cụ thể hơn, họ cho rằng làm gì có thời đại quá độ; nội hàm, đặc điểm, xu thế của thời đại là sự mơ hồ; hai nội dung cốt yếu của thời đại đã bị lịch sử phủ định. Bởi thế, khi không còn Liên Xô và hệ thống XHCN nữa thì Việt Nam làm sao có thể đi lên chủ nghĩa xã hội được.

Đây là luận điệu sai trái cần phải phê phán, vì những lý do cơ bản sau:

Thời đại mới do Cách mạng Tháng Mười Nga khai sáng

Theo nghĩa chung nhất, thời đại lịch sử được hiểu là toàn bộ thời kỳ phát triển của một hình thái kinh tế-xã hội hoặc những giai đoạn chủ yếu trong hình thái ấy.

Tuyên bố tại Hội nghị đại biểu các đảng cộng sản và công nhân các nước XHCN tháng 11-1957 tại Moscow (Liên Xô) đã khẳng định: “Nội dung cơ bản của thời đại chúng ta là sự quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mở đầu bằng Cách mạng Tháng Mười vĩ đại ở nước Nga”.

Thực tế cho thấy, Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi và nhà nước XHCN đầu tiên ra đời năm 1917 đã đánh dấu chấm hết thời đại độc tôn của chủ nghĩa tư bản, mở ra thời đại mới, thời đại của sự quá độ lớn lao nhất trong lịch sử loài người, tiến tới một xã hội hiện thực không còn người bóc lột người, không còn nô dịch giữa người và người. Chế độ XHCN non trẻ đã vượt qua hàng loạt thử thách khắc nghiệt nhất của lịch sử, hiện diện cả ở châu Âu, châu Á, châu Mỹ, phát triển mạnh mẽ với nhiều ưu việt về chính trị, kinh tế, xã hội.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn xác định nhận thức rõ bản chất, nội dung của thời đại cũng như cục diện và tình hình thế giới là một nhiệm vụ hết sức quan trọng. Trong khi khẳng định thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta nhận rõ tình hình phức tạp, quanh co và rất lâu dài của quá trình chuyển biến xã hội nên đã hướng vào đánh giá trực tiếp những động thái, đặc trưng, xu hướng và tính chất trong giai đoạn hiện nay của thời đại.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng năm 1991 đã nêu rõ: “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc gay go, phức tạp của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử”.

Tiếp đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ: “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với các chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”.

Thế giới có nhiều biến động nhưng khuynh hướng phát triển thời đại không thay đổi

Xem xét trên cơ sở lý luận và thực tiễn lịch sử xã hội loài người đều cho thấy, mỗi bước chuyển từ một hình thái kinh tế-xã hội này đến hình thái cao hơn đều diễn biến trong thời gian rất dài, có khi vài trăm năm hoặc vài nghìn năm. Vậy nên việc Đảng ta phân định giai đoạn hiện nay của thời đại “quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới” là tư duy sáng tạo, có tính khoa học xác thực và cần thiết. Theo đó, việc nghiên cứu đặc điểm và xu hướng phát triển của thời đại cũng được thực hiện trong khung khổ giai đoạn hiện nay của thời đại.

Khi đã xác định thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, mở đầu bằng Cách mạng XHCN Tháng Mười vĩ đại ở nước Nga, thì rõ ràng nội dung của thời đại ngày nay có hai vấn đề chính: Một là, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội; hai là, mở đầu bằng Cách mạng XHCN Tháng Mười vĩ đại ở nước Nga. Nhận định về nội dung thời đại như vậy là sự khái quát mang tính lý luận và thực tiễn sâu sắc, đầy tính thuyết phục.

Tuy nhiên, sau khi chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, các thế lực thù địch lợi dụng sự kiện này để công kích, xuyên tạc Chủ nghĩa Mác-Lênin, bài bác những luận điểm cơ bản nhất về thời đại. Lập luận của luận điệu sai trái là, nếu nói thời đại hiện nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội thì nay chủ nghĩa xã hội sụp đổ rồi, thời đại này đương nhiên là của chủ nghĩa tư bản; rằng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản đã tàn lụi thì dù có trăm năm sau cũng không thể gượng dậy được nữa.

Cách nhìn nhận như vậy rõ ràng là thiếu kiến thức lịch sử và thiển cận. Quá trình chuyển biến và thay thế một thời đại này bằng thời đại khác không thể diễn ra nhanh chóng được mà phải qua một chặng đường dài. Quá trình đó là một xu thế tất yếu của xã hội loài người, nhưng diễn ra quanh co, phức tạp, chứa đựng nhiều biến cố, có cả bước tiến mạnh mẽ và cũng có cả những bước thụt lùi.

Sự đổ vỡ của XHCN ở Đông Âu và Liên Xô đương nhiên là tổn thất nặng nề đối với phong trào cộng sản. Sự sụp đổ ấy có nhiều nguyên nhân, nhưng nó không thuộc về bản chất của chế độ XHCN, càng không phải vì thế mà làm mất đi nội dung thời đại. Lịch sử đã cho thấy thời đại tư bản chủ nghĩa thay thế thời đại phong kiến đâu phải dễ dàng.

Quá trình chuyển biến đó diễn ra hàng mấy trăm năm, trải qua biết bao phức tạp bởi sự chống trả quyết liệt của các thế lực phong kiến. Tình hình hiện nay cũng tương tự như vậy. Thế lực đế quốc không từ một thủ đoạn nào để mưu toan chặn đứng phong trào cộng sản. Điều đó càng thể hiện tính chất phức tạp của thời đại ngày nay.

Kẻ thù tư tưởng của chúng ta công khai tuyên bố rằng, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô đã sụp đổ thì giá trị của Cách mạng Tháng Mười Nga cũng chấm hết. Đây là kết luận vội vã và hồ đồ. Đành rằng thành quả mà Cách mạng Tháng Mười Nga đem lại đã bị đổ vỡ tại ngay quê hương của nó, nhưng đó không phải là sự chấm dứt lý tưởng cao đẹp của Cách mạng Tháng Mười Nga.

Vả chăng, lịch sử đã chứng minh, không có một cuộc cách mạng nào, kể cả các cuộc cách mạng vĩ đại nhất, lại đủ khả năng kết thúc ngay công việc xóa bỏ xã hội cũ và xây dựng xong ngay xã hội mới. Quá trình chuyển từ xã hội phong kiến lên xã hội tư bản chủ nghĩa đã phải trải qua hàng trăm năm với nhiều cuộc cách mạng tư sản: Cách mạng Anh năm 1688, các cuộc cách mạng tư sản Pháp vào các năm 1830, 1848, 1871.

Sự đột phá của Cách mạng Tháng Mười Nga làm cho chủ nghĩa tư bản bị đổ vỡ một mảng lớn. Thế giới bừng tỉnh, bung ra với sức mạnh mới của sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa xã hội làm sụp đổ hoàn toàn hệ thống thuộc địa, giải phóng xã hội, giải phóng con người.

Thành quả của Cách mạng Tháng Mười Nga đã tạo cho loài người có khả năng kìm giữ sự lộng hành của chủ nghĩa tư bản, làm thay đổi cả những yếu tố bên trong của chủ nghĩa tư bản. Những thay đổi trong chiến lược kinh tế, chính trị để thích nghi, những thay đổi trong các chính sách phúc lợi xã hội ở các nước tư bản phát triển hiện nay đều bắt nguồn từ kết quả của xã hội đấu tranh của những người lao động và sâu xa hơn là được ảnh hưởng những yếu tố tích cực của Cách mạng Tháng Mười Nga.

Từ những phân tích trên đây, chúng ta càng thống nhất với nhận định của Đảng ta rằng, tình hình cụ thể trong từng thời kỳ của thế giới có những biến động nhưng điều đó không làm thay đổi nội dung của thời đại; loài người vẫn đang trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới vẫn tồn tại và phát triển, có mặt sâu sắc hơn, nội dung và hình thức biểu hiện có nhiều nét mới.

Chặng đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội tuy không còn có sự giúp đỡ của Liên Xô và các nước XHCN như trước nhưng trong giai đoạn mới của thời đại, khi cách mạng khoa học-công nghệ và toàn cầu hóa đời sống thế giới, tất cả các nước đều ở trong mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, không một nước nào sống biệt lập mà có thể phát triển được.

Sự hợp tác kinh tế với các nước bằng nhiều hình thức sinh động trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau dưới bất kỳ hình thức nào, sẽ tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý, phục vụ cho việc phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đó cũng là một khả năng thực tế mà chúng ta đã và đang cố gắng tận dụng, đưa nước ta hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.

Như vậy, từ một nước kinh tế kém phát triển, nếu chúng ta biết tranh thủ những thời cơ, thuận lợi và biết vượt qua những thách thức, nguy cơ, chúng ta có thể “phát triển rút ngắn” lên XHCN bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa theo quan điểm của V.I.Lenin-người đã có đóng góp to lớn vào lý luận về sự “phát triển rút ngắn” và Chính sách kinh tế mới (NEP). Nó đã được thực tiễn khảo nghiệm mà ngày nay Đảng ta đang vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với thực tiễn cách mạng nước ta.

Xuất phát từ tình hình như thế, chúng ta có thể tin tưởng vững chắc rằng Việt Nam đang trong tư thế vươn tầm, kiên định con đường đã lựa chọn, đã có đủ sức lực và trí tuệ để tiến bước cùng thế giới, tiến cùng thời đại; phấn đấu hiện thực hóa mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

GS, TS VŨ VĂN HIỀN, Nguyên Phó chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương