Chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn trường tồn trong thực tiễn

14/12/2020 05:00

Trong thời gian qua, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đã sử dụng nhiều thủ đoạn để hướng tới mục tiêu phủ nhận bản chất cách mạng, khoa học của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Nhất là những ngày gần đây, khi Ban Chấp hành Trung ương Đảng chuẩn bị tiến hành Hội nghị lần thứ 14, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII thì các hoạt động, các chiêu trò xuyên tạc hòng phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin lại càng ráo riết. Với nhiều cách thức tinh vi, xảo quyệt, nhưng tựu trung là họ luôn cho rằng Chủ nghĩa Mác-Lênin không phải là một học thuyết khoa học và cách mạng; họ cũng cho rằng Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ phù hợp với các nước châu Âu ở thế kỷ 19 và đến nay đã "lỗi thời, lạc hậu". Có một số bài viết lại cho rằng: C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin chỉ là những nhà trí thức, không phải là công nhân thực thụ lại sáng lập ra hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và chủ nghĩa này hình thành gần hai thế kỷ nên "không còn phù hợp với thời đại hiện nay". 

Một số lĩnh vực trọng tâm mà các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đang tập trung chống phá là phủ nhận một số lý luận về triết học của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Với quan điểm cho rằng “triết học” chỉ là “trừu tượng hóa” các vấn đề trong xã hội tư bản chủ nghĩa như vấn đề: “tư bản”, “lao động”, “các mâu thuẫn xã hội” và “đấu tranh giai cấp”... nên lý luận về xây dựng xã hội bình đẳng ở xã hội cộng sản chủ nghĩa chỉ là không tưởng. Bởi lẽ, thế giới vật chất bao giờ cũng có các mặt đối lập nhau, thực tế cuộc sống có nhiều bất trắc, rủi ro không thể lường hết được, do đó rất khó có thể xây dựng được xã hội hoàn hảo...

Chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn trường tồn trong thực tiễn
Ảnh minh họa/TTXVN.

Các thế lực thù địch cũng tập trung phủ nhận một số nguyên lý lý luận về kinh tế chính trị của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Họ cho rằng, chủ nghĩa xã hội không có cơ sở kinh tế nên “phải sử dụng kinh tế thị trường của chủ nghĩa tư bản”. Xây dựng “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự che đậy cho “sự thất bại của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”; sự phát triển của Việt Nam như ngày nay là “nhờ có tư bản nước ngoài đầu tư”, chứ không phải do thành tựu lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đổi mới đạt được...

Không những thế họ còn ra sức phủ nhận một số nguyên lý lý luận về chủ nghĩa xã hội của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Họ đưa ra những luận điểm sai trái, tiêu biểu như: “Giai cấp công nhân không còn sứ mệnh lịch sử và sứ mệnh lịch sử thế giới sẽ do tầng lớp trí thức đảm nhiệm”; phủ nhận cách mạng xã hội chủ nghĩa; chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa và lý luận phân kỳ hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa; học thuyết đấu tranh giai cấp; lý luận phân kỳ hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa; chế độ dân chủ XHCN; Nhà nước pháp quyền XHCN, đòi thực hiện “tam quyền phân lập”...

Các quan điểm sai trái, thù địch cũng phủ nhận giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng cho rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã “nhập khẩu” Chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam bỏ qua con đường phát triển chế độ tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội là trái quy luật của lịch sử, vì thế "làm cho nước nghèo, nhân dân khổ cực"! Xuyên tạc, bịa đặt rằng Hồ Chí Minh là con người mang tư tưởng dân tộc chủ nghĩa, truyền bá Chủ nghĩa Mác-Lênin theo kiểu chỉ nhắc lại chứ không có tư tưởng của riêng mình. Chúng vu khống, áp đặt cho rằng Chủ tịch Hồ Chí Minh có tội là truyền bá Chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam nên "đã dẫn đến sai lầm, là căn nguyên gây ra hai cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ làm hao người tốn của nên làm cho đất nước lâm vào cảnh nghèo nàn, cuộc sống nhân dân khổ cực". Chúng còn phủ nhận tư tưởng “không có gì quý hơn độc lập tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đòi hỏi thay thế tư tưởng đó bằng tư tưởng mới là: “Chủ nghĩa dân tộc hài hòa và đại đồng”. Chúng cũng tìm mọi cách để đối lập giữa Chủ nghĩa Mác-Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh...

Thực tiễn có thể thấy, cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận là nội dung cốt lõi trong đấu tranh giai cấp giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản. Mục đích của các thế lực cơ hội chính trị tập trung phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng là nhằm tạo “khoảng trống” cho truyền bá và xác lập hệ tư tưởng tư sản phương Tây. Vì thế, các thế lực thù địch đã sử dụng nhiều thủ đoạn trong chiến lược “diễn biến hòa bình” để kích động, lôi kéo, gây mất niềm tin của quần chúng nhân dân lao động vào nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản nói chung và Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng. Bởi âm mưu của chúng là khi quần chúng nhân dân không còn tin tưởng vào nền tảng tư tưởng của Đảng, thì cũng có nghĩa là không tin vào đường lối, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay.

Từ chống phá về mặt lý luận, các thế lực thù địch tiến lên chống phá về mặt thực tiễn. Hiện nay toàn Đảng, toàn dân ta đang tăng cường thực hiện quyền dân chủ, huy động tối đa trí tuệ của nhân dân để tham gia ý kiến xây dựng các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, đồng thời bảo đảm tốt những lợi ích của nhân dân và sự phát triển của xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thế nhưng, các thế lực thù địch đã lợi dụng việc góp ý vào các văn kiện để tán phát những luận điểm lầm lạc, đưa ra những luận điểm sai trái. Chúng tung tin rằng, dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng là không có gì mới, chỉ "sao chép" lại văn kiện của các kỳ đại hội trước và công tác nhân sự của Đảng không theo quy chế, quy định cụ thể mà chỉ là tùy hứng, chủ quan của cá nhân của người đứng đầu...

Chúng ta nhận thấy rằng, hầu hết người dân Việt Nam đã nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, không bao giờ mắc mưu và bị ảnh hưởng bởi luận điểm sai trái mà các thế lực thù địch đang ra sức rêu rao. Chúng ta cần xác định rõ: Chủ động đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam là một nhiệm vụ của mọi cán bộ, đảng viên, là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng đối với hệ thống chính trị, mỗi cấp ủy, tổ chức đảng. Mỗi tổ chức, cá nhân, cần tiếp tục quán triệt sâu sắc Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22-10-2018 của Bộ Chính trị khóa XII: “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Trong đó, Bộ Chính trị khẳng định việc bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch là một nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là bảo vệ Đảng, Cương lĩnh chính trị, đường lối của Đảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Các chủ trương, giải pháp cơ bản cần được triển khai đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, có hệ thống thì mới vô hiệu hóa sự ảnh hưởng và lan truyền của các quan điểm sai trái, thù địch chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, nhất là trên không gian mạng hiện nay.

Cũng cần xác định rõ, việc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là trách nhiệm của mọi lực lượng trong xã hội, trong đó quân đội là một lực lượng tiên phong, nòng cốt. Muốn thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đòi hỏi mỗi cán bộ, chiến sĩ phải nâng cao trình độ, ý chí quyết tâm, có kỹ năng bút chiến. Mỗi chúng ta phải tiếp tục nghiên cứu nắm vững bản chất và khẳng định rằng Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn là hệ thống lý luận và phương pháp luận khoa học cho sự nhận thức xã hội, nhận thức thời đại đúng đắn nhất mà không một học thuyết nào có thể thực hiện được vai trò đó. Hoàn cảnh lịch sử cụ thể luôn luôn thay đổi, song những quy luật phát triển cơ bản, phổ biến của lịch sử loài người mà Chủ nghĩa Mác-Lênin nêu lên là không thay đổi, có giá trị trường tồn và mãi mãi soi sáng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

 Đại tá, PGS, TS LƯU NGỌC KHẢI (*)

(*) Cán bộ Viện Khoa học xã hội nhân văn quân sự

Hiện thực hóa quyền con người bằng những chính sách thiết thực, việc làm nhân văn

07/12/2020 05:00

Mỗi khi đến dịp Ngày Nhân quyền thế giới (10-12) hằng năm, các thế lực thù địch, phản động và đối tượng cơ hội chính trị lại tung ra những luận điệu cũ rích nhằm xuyên tạc, phủ nhận những nỗ lực, thành tựu của Việt Nam trong việc bảo đảm quyền con người.

Những luận điệu bịa đặt đó hoàn toàn vô căn cứ bởi từ khi lập quốc theo chế độ mới đến nay, Việt Nam luôn thực hiện mục tiêu, chính sách nhất quán là tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm tất cả những giá trị tốt đẹp thuộc về quyền lợi cơ bản của con người.

Hiện thực hóa quyền con người bằng những chính sách thiết thực, việc làm nhân văn
Ảnh minh họa: TTXVN

1. Quyền con người là giá trị phổ quát của nhân loại và được hầu hết các quốc gia trên thế giới thừa nhận, trong đó có Việt Nam. Tuy vậy, khi nhìn nhận vấn đề quyền con người, quyền công dân cần phải có quan điểm khách quan, toàn diện gắn với thể chế chính trị, lịch sử, văn hóa truyền thống và điều kiện kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia dân tộc. Không nên xem xét, nhận định quyền con người, quyền công dân theo con mắt “thầy bói xem voi”, chỉ nhìn thấy vài ba hiện tượng bên ngoài rồi đánh giá thành bản chất. Vì cách nhìn nhận hẹp hòi, thiên kiến như vậy có thể tạo ra mâu thuẫn, xung khắc giữa chủ thể nhận định, đánh giá và đối tượng bị nhận định, đánh giá, từ đó gây bất lợi cho việc củng cố mối quan hệ hòa bình, hữu nghị, hợp tác, phát triển giữa các quốc gia trên thế giới.

Là một nước đang phát triển, Việt Nam luôn thiện chí hợp tác với các quốc gia, các tổ chức quốc tế nhằm không ngừng cải thiện, bảo đảm những quyền cơ bản, chính đáng của con người. Nhưng chúng ta không chấp nhận một số tổ chức phi chính phủ ở nước ngoài như: Theo dõi nhân quyền thế giới (HRW), Phóng viên không biên giới (RSF) thường xuyên có cái nhìn sai trái, nhận định rất thiếu khách quan về tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Mặt khác, chúng ta cũng đề cao cảnh giác, kiên quyết vạch trần, lên án những phần tử có tư tưởng thâm thù với chế độ, cũng như các đối tượng đội lốt “đấu tranh vì dân chủ, nhân quyền” nhưng lại có lời lẽ đơm đặt, bôi nhọ những giá trị cơ bản của quyền con người chân chính và rêu rao xuyên tạc Đảng, Nhà nước Việt Nam không tôn trọng, bảo đảm quyền con người nhằm mưu đồ chống phá cách mạng Việt Nam.

2. Khi nói đến một thể chế chính trị tiến bộ, một quốc gia văn minh, thì không thể không nói đến thể chế chính trị, quốc gia đó có quan tâm đến việc bảo đảm những quyền cơ bản của con người hay không. Chế độ chính trị XHCN mà Việt Nam đang nỗ lực xây dựng, thực hiện là một chế độ của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Vì vậy, từ khi lập quốc theo thể chế dân chủ XHCN đến nay, Việt Nam đã kiên trì theo đuổi mục tiêu không ngừng thúc đẩy, bảo vệ và bảo đảm quyền con người cho mọi người dân.

Tuy không phải là quốc gia đầu tiên đề ra các vấn đề về quyền cơ bản của con người, nhưng Việt Nam là một trong số ít quốc gia sớm tiếp cận về quyền con người. Trong bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Như vậy, thông qua khẳng định các giá trị của một dân tộc là quyền bình đẳng, quyền sống, quyền sung sướng, quyền tự do, Chủ tịch Hồ Chí Minh muốn nhấn mạnh quyền con người chỉ thực sự được bảo đảm khi gắn liền với quyền độc lập, tự do của dân tộc.

Quốc hiệu Việt Nam từ khi thành lập chính quyền cách mạng đến nay cũng nhất quán một khẩu hiệu: “Độc lập-Tự do-Hạnh phúc”. Điều đó có nghĩa là, mục tiêu trước sau như một mà cả dân tộc Việt Nam kiên trì thực hiện là bảo đảm dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.

Nếu bản “Tuyên ngôn thế giới về quyền con người” mà Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10-12-1948, trong đó vấn đề hàng đầu mà tuyên ngôn này khuyến nghị cộng đồng quốc tế và các quốc gia dân tộc phải thực hiện là bảo đảm “Tự do, công lý và hòa bình”; thì vấn đề quyền tự do trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được nêu ra trước 3 năm so với bản “Tuyên ngôn thế giới về quyền con người”. Nhắc lại điều đó để thấy, với tầm nhìn vượt thời đại của mình, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã thay mặt nhân dân và dân tộc Việt Nam khẳng định Việt Nam luôn tôn trọng các giá trị quyền con người và cam kết thực hiện quyền con người trước cộng đồng quốc tế ngay từ khi thành lập chính quyền cách mạng công nông đầu tiên ở Đông Nam Á.

Qua nhiều lần xây dựng, sửa đổi Hiến pháp, từ các bản Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 đến Hiến pháp năm 2013 luôn giữ một vấn đề căn cốt là hiến định các quyền con người và quyền công dân. Trong đó, Hiến pháp năm 2013 đã thiết kế một chương về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Ngay sau Điều 1 hiến định về chủ quyền địa lý, Điều 2 Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định nguyên tắc chủ quyền tối cao thuộc về nhân dân, đó là: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. Cũng lần đầu tiên, chữ “Nhân Dân” được viết hoa trong bản Hiến pháp để nhấn mạnh đến vị trí, vai trò quyết định của nhân dân trong tiến trình lịch sử và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Trong giai đoạn 2014-2019, Nhà nước Việt Nam đã ban hành hơn 100 văn bản luật và pháp lệnh liên quan đến việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân.

3. Do trải qua hai cuộc chiến tranh chống thực dân đế quốc kéo dài suốt ba thập niên (1945-1975) và chịu ảnh hưởng, tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội khoảng chục năm sau khi đất nước thống nhất, dù rất quan tâm, song Việt Nam chưa có nhiều điều kiện thuận lợi để bảo đảm thực sự đầy đủ các quyền con người.

Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, Việt Nam ngày càng nhận thức sâu sắc và bảo đảm tốt hơn quyền con người trên tất cả các lĩnh vực chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội.

Thành tựu về quyền con người ở Việt Nam trong hơn 70 năm qua thể hiện trên mọi lĩnh vực, nhất là những bước tiến vượt bậc về phát triển kinh tế trong gần 35 năm đổi mới (1986-2020). Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, quy mô nền kinh tế năm 1985 mới có 14 tỷ USD, thì đến năm 2019 đạt 262 tỷ USD, tăng gấp hơn 18,7 lần. Mới đây, Tạp chí The Economist tháng 8-2020 đã xếp Việt Nam trong tốp 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới. Mặc dù chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của đại dịch Covid-19 trên toàn cầu, trong khi phần lớn các nền kinh tế trên thế giới rơi vào suy thoái, nhưng nhờ sự chỉ đạo đồng bộ, quyết liệt thực hiện “mục tiêu kép” của Chính phủ, năm 2020, Việt Nam vẫn duy trì được tăng trưởng dương ở mức khá. Nhìn theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Thế giới (WB) so sánh mức sống với các nước trên thế giới, thu nhập của người dân Việt Nam năm 2020 tương đương gần 9.000USD (tính theo ngang bằng sức mua).

Sự tăng trưởng kinh tế là cơ sở, tiền đề để Nhà nước chăm lo thực hiện tốt các chính sách an sinh, văn hóa xã hội. Điều đó được thể hiện ở “Chỉ số phát triển con người” (HDI). Theo Báo cáo “Phát triển con người năm 2019” được Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) công bố ngày 9-12-2019, với chỉ số HDI là 0,63, Việt Nam xếp thứ 118 trong tổng số 189 nước. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam tăng 4,8 năm, số năm đi học trung bình tăng 4,3 năm, thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng trên 354%. Điều này giúp Việt Nam nằm trong nhóm các nước có tốc độ tăng trưởng chỉ số HDI cao nhất trên thế giới. Theo nhận định của bà Caitlin Wiesen, Trưởng đại diện thường trú UNDP ở Việt Nam: “Việt Nam đã đạt được tăng trưởng đáng kể trong phát triển con người kể từ năm 1990 đến nay. Điều đó chứng tỏ Việt Nam đã có những bước tiến bộ trong thực hiện chính sách chăm lo phát triển con người toàn diện”.

Một trong những thành tựu về nhân quyền đáng kể là Việt Nam đã quan tâm thúc đẩy, bảo vệ, bảo đảm các quyền cơ bản cho nhóm người dễ bị tổn thương trong xã hội. Đến nay, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã ban hành 118 chính sách liên quan đến việc xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế-xã hội, cải thiện đời sống và bảo đảm an sinh cho đồng bào các dân tộc thiểu số. Nhờ thực hiện đồng bộ các chính sách đó, tỷ lệ nghèo đa chiều ở Việt Nam giảm từ 9,88% (năm 2015) xuống còn 3,73% (năm 2019). Cả nước hiện có gần 3 triệu người nghèo, người yếu thế được cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí. Đặc biệt, Phong trào “Cả nước chung tay vì người nghèo-Không để ai bị bỏ lại phía sau” trong những năm qua đã nhận được sự hưởng ứng sâu rộng, hiệu quả của toàn xã hội. Chỉ tính trong dịp “Ngày vì người nghèo” 17-10-2020 vừa qua, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã kêu gọi, huy động được gần 2.400 tỷ đồng ủng hộ Quỹ Vì người nghèo và an sinh xã hội.

Từ một nước lạc hậu, không có tên trên bản đồ thế giới, sau hơn 70 năm huy động sức dân, đồng lòng thực hiện sự nghiệp kháng chiến, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Việt Nam đã trở thành một quốc gia hòa bình, độc lập, được cộng đồng quốc tế ghi nhận là một trong những nước tiên phong và là điểm sáng về thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ về xóa đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội. Đặc biệt, năm 2020, Việt Nam được Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và nhiều cơ quan truyền thông uy tín của quốc tế đánh giá là một trong số ít quốc gia đã kiểm soát, khống chế thành công đại dịch Covid-19, do vậy, Việt Nam nằm trong nhóm nước có tỷ lệ người bị lây nhiễm và tử vong vì dịch Covid-19 thấp nhất trên thế giới. Kết quả này thêm một lần chứng tỏ Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn ưu tiên cao nhất để bảo đảm quyền được sống an toàn, khỏe mạnh cho mọi người dân-một trong những giá trị cao cả của quyền con người.

Là một quốc gia đang phát triển, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, hiện nay Việt Nam cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thử thách. Nhưng với bản chất của một chế độ xã hội ưu việt mà cả dân tộc đã tự nguyện lựa chọn và kiên trì thực hiện, thông qua chủ trương, đường lối phát triển kinh tế-xã hội đúng đắn và hợp xu hướng thời đại, Việt Nam ngày càng có điều kiện tạo ra những tiền đề cơ sở vật chất, văn hóa để bảo đảm tốt hơn các quyền cơ bản của con người.

Việc Đảng Cộng sản Việt Nam xác định mục tiêu xây dựng đất nước theo định hướng XHCN “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” với hàm ý nhấn mạnh Việt Nam luôn kiên trì, nỗ lực bảo đảm “quyền sung sướng” (dân giàu) và “quyền tự do” (dân chủ) mà Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nêu ra trong bản Tuyên ngôn Độc lập. Khi quốc gia giàu có về vật chất, văn hóa, tinh thần và bảo đảm tự do, dân chủ về mọi mặt, đó chính là cam kết chính trị của Việt Nam cùng các quốc gia và cộng đồng quốc tế thực hiện hiệu quả những giá trị phổ quát về nhân quyền đã được xác định trong “Tuyên ngôn thế giới về quyền con người”.

BẢO NHƯ

Vô pháp sao gọi là có... "lý tưởng"?!

 08:01 07/12/2020

Theo từ điển thì "lý tưởng là mục đích cao nhất, tốt đẹp nhất mà người ta muốn đạt tới". Như vậy, có thể hiểu "lý tưởng" là mong ước đạt được những điều tốt đẹp nhất cho bản thân, gia đình và xã hội. Với Phạm Đoan Trang, đối tượng vi phạm pháp luật, bị khởi tố, bắt giam vì những hành vi nguy hiểm, chống phá Nhà nước, xã hội mà lại có một số người, thông qua mạng xã hội  muốn tô vẽ Trang thành một người trẻ có "bản lĩnh", có "lý tưởng sống" , như một "người hùng"!

Ngay sau khi Phạm Đoan Trang (42 tuổi, trú tại quận Đống Đa, TP Hà Nội, tạm trú tại quận 3, TP Hồ Chí Minh) bị Cơ quan An ninh điều tra Công an TP Hà Nội khởi tố vụ án, khởi tố bị can và bắt tạm giam về tội "Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam" theo Điều 88, Bộ luật Hình sự 1999 và tội "Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam" theo Điều 117, Bộ luật hình sự 2015, một số đối tượng phản động, bất mãn, cơ hội chính trị trong và ngoài nước đã lên mạng xã hội đăng các dòng trạng thái và bài viết xuyên tạc, đánh "hỏa mù" nhằm gây sự chú ý của dư luận trong và ngoài nước. Các đài nước ngoài phát bằng tiếng Việt cũng có những bài viết, video phỏng vấn một số đối tượng chống đối để xuyên tạc, vu khống Nhà nước ta đàn áp những người bất đồng chính kiến, vi phạm nhân quyền... với mục đích là vận động các tổ chức quốc tế, các chính phủ gây sức ép với Nhà nước Việt Nam thả Phạm Đoan Trang.

Đây là thủ đoạn cũ, đã được các đối tượng chống đối "thuộc bài" sau mỗi lần cơ quan chức năng Việt Nam áp dụng các biện pháp tố tụng đối với những công dân vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, lại có một số người muốn thể hiện bản thân, muốn gây sự chú ý để hút "like" trên mạng xã hội, hoặc vì những lý do khác đã đăng những bình luận thiếu trách nhiệm, lệch lạc về nhận thức, cổ xúy cho những hành vi vi phạm pháp luật, đi ngược lại lợi ích chung của đất nước.

"Với tôi Phạm Đoan Trang là một người sống có lý tưởng... Người có lý tưởng là người nhìn thấy mục đích cao cả trong cuộc sống của mình, vì mục đích ấy mà người ta có thể dám đánh đổi sự an bình, hạnh phúc của bản thân... Ở Việt Nam, những con người sống có lý tưởng cao cả thực sự rất ít... Phạm Đoan Trang đã tạo được một hình ảnh đẹp trong lòng mọi người... Trang không đẹp về hình thức, ít nói, thầm lặng, khiêm tốn nhưng rất kiên định, quả quyết, dũng cảm trên con đường mình đã chọn..." - đó là bình luận rất lệch lạc của Đ.B.C - một võ sư Karate trên trang Facebook của mình. Dĩ nhiên, một bình luận như vậy của một người khá nổi danh như Đ.B.C, có mối quan hệ rộng cả trên "thế giới ảo" lẫn đời thực sẽ tạo ra sự lan truyền khá lớn.

Bất luận là thế nào, một người vi phạm pháp luật thì không thể gọi người đó là có "lý tưởng" được. Chấp hành pháp luật luôn là thước đo về đạo đức, ý thức và nhân cách sống của mỗi con người.

Bàn về chủ đề này, tôi chợt nhớ đến "Hoa hướng dương" Lê Thanh Thúy, cũng là một người trẻ trạc tuổi với Phạm Đoan Trang. Thúy không may mắc bệnh ung thư, nhưng với nghị lực sống, cô đã biến những ngày cuối đời mình trở thành những ngày có ý nghĩa. Chương trình "Ước mơ của Thúy" đã trở thành nhịp cầu nhân ái của xã hội kết nối yêu thương với những người không may mắc bệnh hiểm nghèo. Thúy đã lan tỏa nghị lực sống, lan tỏa ước mơ, lý tưởng của tuổi trẻ cho những người cùng cảnh ngộ và cho những bạn trẻ bằng thông điệp: Hãy sống có ích, đừng để lãng phí thời gian sống của mỗi đời người bằng những việc làm vô nghĩa. Bản thân cô, dù không biết "ra đi" lúc nào, nhưng vẫn quyết tâm tốt nghiệp chương trình trung học phổ thông và ước mơ thi vào đại học...  Như vậy, lý tưởng sống của Lê Thanh Thúy thật đáng ngưỡng mộ mà những người trẻ, có sức khỏe cũng không dễ làm được. Đơn cử một trường hợp của Thúy trong rất nhiều những tấm gương trẻ sống có hoài bão, có lý tưởng. Vậy mà, Đ.B.C lại viết rằng: "Ở Việt Nam, những người sống có lý tưởng cao cả thật sự rất ít"?

Phạm Đoan Trang có được may mắn là xuất phát điểm tốt hơn Thúy rất nhiều. Trang sinh ra trong một gia đình mà bố, mẹ, anh trai đều làm việc trong cơ quan nhà nước. Bản thân Trang được ăn học đến nơi đến chốn. Sau khi tốt nghiệp Đại học Ngoại thương Hà Nội, Trang được tuyển vào làm phóng viên của một số tờ báo điện tử có uy tín, rồi chuyển sang làm báo hình... Tuy nhiên, sau khi tự ý xuất cảnh ra nước ngoài không được cơ quan chủ quản cho phép, trở về, Trang bắt đầu "tự diễn biến", lập trang web, thông qua đó để cấu kết với một số tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài xuyên tạc, chống phá các chủ trương, chính sách của Nhà nước; kích động, cổ xúy các hành vi chống đối, kêu gọi biểu tình... Gần đây, Trang viết và tán phát một số cuốn sách có nội dung tuyên truyền xuyên tạc thực trạng dân chủ, nhân quyền tại Việt Nam; bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, kích động lật đổ chính quyền.

Kết cục của cái gọi là "lý tưởng sống" đó của Phạm Đoan Trang là gì? Là đánh mất sự nghiệp, đánh mất tương lai, gây sự thất vọng cho gia đình. Đồng thời, Trang còn phải bị trả giá bởi sự trừng phạt của pháp luật. Vậy kết cục đó đâu có tốt cho Trang và xã hội?

Nếu ai đó gọi mục đích chống phá Nhà nước của Phạm Đoan Trang là "lý tưởng" thì cái "lý tưởng" đó cũng đâu có đúng với nội hàm của hai từ "lý tưởng" là hướng tới mục đích tốt nhất, cao đẹp nhất đối với bản thân, gia đình và xã hội.

Chúng ta đang sống trong một xã hội an bình, đất nước ngày một phát triển. Vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày một được cải thiện và nâng cao. Thế hệ trẻ đang có một môi trường tốt để phát triển khả năng và trí tuệ của mình. Vậy nên, mong rằng, trước khi gõ bàn phím để đưa ra những bình luận, nhận xét trên mạng xã hội, Đ.B.C hay một ai đó muốn thể hiện "tư duy", "ý tưởng" khác người của mình cũng cần suy nghĩ một cách thấu đáo, có trách nhiệm. Đừng cổ xúy cho những hành vi vi phạm pháp luật chỉ để thể hiện bản thân mình. Đừng cố "tung hô" một nhân vật, mà nhân vật đó không bao giờ được giới trẻ lựa chọn là hình mẫu để noi theo.

Đào Minh Khoa

“Sói đơn độc” - Cảnh giác âm mưu truyền bá tư tưởng khủng bố trên Internet

 06:59 11/12/2020

Trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, không gian mạng đã và đang trở thành vùng lãnh thổ mới có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của mỗi quốc gia.

Do đặc thù thông tin trên không gian mạng có tốc độ truyền thông tin nhanh chóng, không gian, thời gian rộng mở nên những thông tin trên mạng có khả năng tác động nhanh chóng, mạnh mẽ đến nhận thức của con người ở mọi đối tượng, nhất là trong một thời điểm nhất định có thể tạo làn sóng tích cực hay tiêu cực tác động vào đời sống kinh tế - xã hội và tình hình an ninh, trật tự của một khu vực hay một quốc gia.

Thực tiễn trong những năm qua, các tổ chức khủng bố triệt để lợi dụng các hình thái mạng xã hội để tuyên truyền về chủ nghĩa khủng bố, đồng thời cũng coi đây là phương thức liên lạc an toàn hiệu quả cho các thành viên trên thế giới thực hiện các hành vi khủng bố theo kiểu “sói đơn độc”. Phương thức sử dụng không gian mạng để thực hiện các hoạt động khủng bố đã và đang đặt ra những thách thức không nhỏ về công tác an ninh cho các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

Vậy hình thức khủng bố “sói đơn độc” là gì?

Thời gian gần đây, nhiều quốc gia châu Âu đã trở thành mục tiêu của các cuộc tấn công khủng bố đơn lẻ vào những khu vực đông người ở các nước như Anh, Pháp, Bỉ... và gần đây nhất là nước Áo. Các vụ tấn công liên tiếp này đang tạo ra tâm lý bất an khắp châu Âu.

Trên mạng xã hội các nước tràn ngập việc tìm kiếm từ khóa như Satoshi Uematsu (Nhật); Mohamed Lahouaiej Bouhlel (Pháp) Omar Mateen (Mỹ)… đã và đang là những từ khóa gây kinh hãi nhất qua hình thái mạng xã hội. Dù được gọi bằng những từ ngữ khác nhau nhưng tựu chung lại, họ gọi chúng là những "sói đơn độc" hay đơn giản là phương thức khủng bố “sói đơn độc”, một phương thức mới khác xa so với phương thức khủng bố theo nhóm trước đây, gây ra những bất ổn trong xã hội của một quốc gia.

Phương thức khủng bố "sói đơn độc" nguy hiểm vì tính chất đơn lẻ, hành động một mình nên manh mối về âm mưu tấn công của những kẻ khủng bố rất khó bị phát hiện.

Theo các nhà phân tích, có thể số lượng "sói đơn độc" tại châu Âu ngày càng tăng vì sự chênh lệch quá lớn về thu nhập và mức sống khiến nhiều người rơi vào bế tắc. Một nguyên nhân khác là do sự phổ biến của Internet và mạng xã hội đã lan truyền các tư tưởng cực đoan một cách nhanh chóng và mạnh mẽ hơn.

Sự truyền bá tư tưởng khủng bố, cực đoan qua mạng Internet, các web chìm hoặc mạng xã hội mã hóa đầu cuối đang được xem như là công cụ hỗ trợ đắc lực cho các tổ chức khủng bố gieo rắc và kích động tư tưởng cực đoan tới những cá nhân vốn đã mang sẵn sự thù ghét, bất mãn xã hội trong mình. Như trong vụ tấn công tại Anh tháng 6/2017, có đối tượng thậm chí còn chưa bao giờ ra khỏi biên giới nước Anh lại bị cực đoan hóa ngay trong lòng nước Anh.

Thực tế đối mặt với phương thức khủng bố mới “sói đơn độc” đã khiến cho các nước châu Âu bên cạnh việc tăng cường an ninh, theo dõi các đối tượng cực đoan kể cả trên môi trường không gian mạng và đồng thời ban hành các đạo luật mới giúp cho lực lượng an ninh có thể xâm nhập vào tài khoản nghi vấn trên không gian mạng với lí do an ninh trong công cuộc chống khủng bố.

Tuy nhiên, để tiêu diệt và ngăn chặn những phần tử cực đoan hành động như những con “sói đơn độc”, những việc làm này là chưa đủ, lực lượng an ninh các nước châu Âu cần nhiều hơn nữa về sự phối hợp ở cấp liên quốc gia và khu vực, sự đánh giá đúng mức mối liên hệ giữa các mạng lưới khủng bố qua không gian mạng ở bên ngoài biên giới mỗi quốc gia và tội phạm quy mô nhỏ ở trong lòng châu Âu, nhất là trong cộng đồng người nhập cư, nhằm ngăn chặn nguy cơ bị cực đoan hóa trong lòng châu Âu.

Nguy cơ khủng bố “sói đơn độc” đối với Việt Nam

Không gian mạng là hệ thống của những mối quan hệ trên nền tảng internet; Việt Nam là nước có số người dùng Internet trên không gian mạng thuộc tốp đầu trên thế giới. Năm 2019, dân số Việt Nam đạt mốc xấp xỉ 97 triệu dân, với tỷ lệ dân thành thị là 36%.Cùng trong năm, có 64 triệu người sử dụng Internet, tăng đến 28% so với năm 2017; hơn 55 triệu người sử dụng các mạng xã hội (chiếm 57% dân số) và 436 mạng xã hội đang hoạt động, đứng thứ 7 trong 10 nước có số người sử dụng mạng xã hội nhiều nhất thế giới. Cùng với những giá trị tích cực không gian mạng cũng bộc lộ những mặt trái và hệ lụy của nó, không gian mạng “được ví như con dao 2 lưỡi ẩn chứa nhiều vấn đề bất cập và hiểm họa khó lường, nhất là những đối tượng sử dụng không đúng mục đích”.

Trong những năm qua kể từ khi các hình thái mạng xã hội trên không gian mạng xâm nhập và phát triển vào Việt Nam các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị trong và ngoài nước càng gia tăng hoạt động tuyên truyền, chống phá Đảng, Nhà nước ta.

Thông qua các trung tâm phá hoại tư tưởng, các tổ chức khủng bố lưu vong (như “Việt Tân”, “Quỹ người Thượng”, “Khối 8406”, Ủy ban Cứu người vượt biển”, “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời”, “Triều đại Việt”) và số đối tượng phản động, chống đối, bất mãn chế độ, cơ hội chính trị trong nước đã tiến hành nhiều phương thức khác nhau, đặc biệt là lợi dụng hình thái mạng xã hội trên không gian mạng để thực hiện các hoạt động truyền bá tư tưởng cực đoan nhằm kích động người dân thực hiện các hành vi như tụ tập đông người gây rối an ninh, trật tự; sử dụng bom xăng tấn công lực lượng chức năng; thậm chí tuyển thành viên để tiến hành các hoạt động khủng bố ở trong nước mà đối tượng đó không cần phải xuất cảnh ra nước ngoài.

Điển hình từ cuối năm 2016, các đối tượng Đào Minh Quân, Phạm Lisa và một số đối tượng phản động trong và ngoài nước là thành viên của tổ chức “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời”, thông qua mạng xã hội đã lôi kéo nhiều đối tượng không nghề nghiệp, bất mãn chế độ nhưng có chung một điểm là hám lợi thành lập các “nhóm hành động” để tiến hành khủng bố, phá hoại tại Việt Nam.

Trong đó có vụ đặt bom xăng ở sân bay Tân Sơn Nhất năm 2016, vụ ném bom xăng bãi giữ xe vi phạm Công an thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai năm 2017 và gần đây nhất là vụ ném bom tại trụ sở Công an phường 12, quận Tân Bình năm.

Các vụ khủng bố trên dù chưa gây ra thiệt hại lớn về người nhưng đã đặt ra những thách thức trong công tác đảm bảo an ninh của Việt Nam. Qua quá trình điều tra, xét xử, các đối tượng đều thành khẩn khai nhận trong quá trình sử dụng mạng xã hội đã tiếp xúc liên lạc với những đối tượng khủng bố lưu vong ở nước ngoài và nhận hướng dẫn, chỉ đạo và nhận tiền từ các đối tượng bên ngoài để thực hiện các hành vi khủng bố.

Từ những phân tích nêu trên cho thấy, hoạt động truyền bá tư tưởng khủng bố trong thời gian qua đã được các tổ chức khủng bố lưu vong người Việt ở nước ngoài đẩy mạnh trên không gian mạng. Vì vậy, để phòng ngừa nguy cơ truyền bá tư tưởng khủng bố trên không gian mạng, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục qua các trang tin chính thống và các phương tiện thông tin đại chúng đểngười dân, nhất là những người thường xuyên xử dụng mạng nhận thức đúng đắn, đầy đủ về nguyên nhân, sự nguy hiểm cùng tác hại, ảnh hưởng to lớn do hoạt động khủng bố gây ra không chỉ đối với sống của mình và người thân mà đối với an ninh, an toàn xã hội.

Đồng thời công khai các địa chỉ trang tin trên mạng xã hội của các tổ chức khủng bố lưu vong và các đối tượng khủng bố người Việt ở nước ngoài để người dân nhìn nhận rõ nét về bản chất, âm mưu, thủ đoạn của chúng để cảnh giác, ngăn chặn.

Bình Nguyên

Lại tiếp diễn kịch bản “giải thưởng nhân quyền”

 08:29 14/12/2020

Theo thông tin được các hội nhóm đăng tải, vừa qua, tổ chức Mạng lưới nhân quyền Việt Nam đã tiến hành trao cái gọi là “giải thưởng nhân quyền Việt Nam” cho Nguyễn Năng Tĩnh, Nguyễn Văn Hóa, Hội Nhà báo độc lập Việt Nam.

Ở một diễn biến khác, Việt Tân cũng tích cực truyền bá về cái gọi là “giải thưởng nhân quyền Lê Đình Lượng”. Có lẽ, chưa bao giờ chúng ta lại được chứng kiến một sự “nở rộ” của các giải thưởng núp bóng nhân quyền như hiện nay.

“Giải thưởng nhân quyền”: Một kịch bản vụng về

Về câu chuyện giải thưởng liên quan đến nhân quyền, những năm gần đây, các tổ chức núp bóng “dân chủ”, “nhân quyền” rầm rộ trao giải cho các cá nhân người Việt Nam. Các giải thưởng có thể kể đến như: “Công dân mạng”, “Tự do báo chí” của tổ chức RSF, “Phụ nữ tiêu biểu về bảo vệ quyền tự do ngôn luận” của tổ chức Tự do ngôn luận quốc tế (IFEX), giải “Phụ nữ can đảm nhất thế giới” của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, giải thưởng “nhân quyền Việt Nam” của Mạng lưới nhân quyền Việt Nam, giải thưởng nhân quyền Lê Đình Lượng của Việt Tân v.v…                         

Không rõ quy trình xét duyệt giải thưởng ra sao, tiêu chuẩn nhận giải thưởng là gì. Vậy nhưng khi nhìn vào những cá nhân được nhận giải, không khó để chúng ta thấy được một điểm chung là những cá nhân đó đều có hành động chống phá Đảng, Nhà nước, chống phá chế độ hết sức quyết liệt. Như thông tin được tuyên bố, hôm 21/11, tại California, tổ chức Mạng lưới nhân quyền Việt Nam đã trao “giải thưởng nhân quyền Việt Nam” năm 2020 cho Nguyễn Năng Tĩnh, Nguyễn Văn Hóa và Hội Nhà báo Việt Nam độc lập. Tất cả những đối tượng được trao thưởng đều có hoạt động chống phá đất nước dưới vỏ bọc “dân chủ”, “nhân quyền”.

Với trường hợp Nguyễn Năng Tĩnh, đây là đối tượng bị kết án về hành vi làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu nhằm chống phá Nhà nước CHXHCN Việt Nam. Nguyễn Năng Tĩnh có mối quan hệ móc nối với nhiều phần tử cực đoan, phản động trong và ngoài tỉnh Nghệ An, đặc biệt là số thành viên tổ chức Việt Tân tại các tỉnh, thành: Vũng Tàu, Hà Nam, Hà Nội... Thông qua mạng xã hội, Nguyễn Năng Tĩnh đã đăng tải, chia sẻ các bài viết, hình ảnh, video có nội dung tuyên truyền, xuyên tạc nhằm mục đích chống Nhà nước, xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; bôi nhọ vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nước; kích động người dân biểu tình, chống chính quyền…

Đối tượng Nguyễn Văn Hóa, người được trao “giải thưởng nhân quyền” cùng với Nguyễn Năng Tĩnh cũng là một đối tượng có hành động chống đối quyết liệt. Nhận được sự hỗ trợ về tài chính từ các cá nhân, tổ chức phản động nước ngoài, Nguyễn Văn Hóa đã sử dụng mạng xã hội tuyên truyền, phát tán các tài liệu có nội dung xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân; tuyên truyền luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin, bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân. Qua đó, truyền bá những tư tưởng phản động, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính quyền; gieo rắc sự nghi ngờ, bất mãn, chống phá Nhà nước Việt Nam. Dù bị kết án và phải chấp hành án phạt tù nhưng Nguyễn Văn Hóa vẫn tiếp diễn nhiều hoạt động chống đối, đặc biệt là sử dụng chiêu trò tuyệt thực trong trại giam để gây sức ép với chính quyền.

Rõ ràng, những “giải thưởng nhân quyền” được trao chẳng phải nhằm mục đích thúc đẩy sự phát triển của nền “dân chủ”, “nhân quyền” tại Việt Nam, mà nó chỉ là một màn kịch để hợp thức hóa hoạt động chống phá chính quyền.

Vậy bản chất thực sự của các giải thưởng trên là gì?

Một giải thưởng muốn có vị thế, có uy tín, được công nhận thì trước hết, các cơ quan chủ trì tổ chức giải phải là đơn vị có uy tín. Vậy nhưng các tổ chức đang tiến hành trao các giải thưởng dưới vỏ bọc “nhân quyền” lại không hề có tính chính danh.

Đơn cử như tổ chức Mạng lưới nhân quyền Việt Nam, thực chất chỉ là một tổ chức bất hợp pháp do các đối tượng chống phá Nhà nước Việt Nam lập ra. Núp dưới chiêu bài tự do, dân chủ, nhân quyền, tổ chức này đã đạo diễn không ít hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam, như: Lập website, mạng xã hội để tuyên truyền thông tin chống phá Việt Nam; tích cực vận động một số dân biểu, nghị sĩ Mỹ không có thiện cảm với Việt Nam thực hiện các hoạt động bảo trợ; gửi “thư ngỏ” cho một số quan chức nước ngoài nhằm kêu gọi sự can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam; núp dưới danh nghĩa đấu tranh cho các “tù nhân tôn giáo”, “tù nhân chính trị” hoặc “tù nhân lương tâm” để tiến hành chống phá v.v…

Thực tế, việc trao giải thưởng chỉ là một vở kịch để đánh bóng tên tuổi và giúp sức về mặt tinh thần cũng như vật chất cho các đối tượng chống đối trong nước. Hiện nay, các phần tử chống đối Đảng, Nhà nước chỉ là phần thiểu số trong xã hội. Vì vậy, để tăng cường “uy tín”, phục vụ cho việc tập hợp lực lượng, các đối tượng chống đối trong nước luôn tìm cách móc ngoặc, hợp tác với các phần tử phản động lưu vong ở bên ngoài. Trong đó, việc trao giải thưởng là một cách thức hữu hiệu đang được lựa chọn nhằm khuếch trương hình ảnh và đánh bóng tên tuổi cho các đối tượng.

Dưới danh nghĩa các giải thưởng quốc tế, các đối tượng lừa bịp những người nhẹ dạ, cả tin, từ đó lôi kéo người dân vào hoạt động chống đối. Các đối tượng triệt để sử dụng các vỏ bọc “nhà báo tự do”, “nhà hoạt động nhân quyền”, “nhà hoạt động xã hội” v.v… để bao che cho hoạt động chống phá.

Ở một khía cạnh khác, việc trao các giải thưởng như hành động khích lệ, “lên dây cót” tinh thần cho các đối tượng phản động, chống đối được nhận giải. Dù ít hay nhiều, các giải thưởng này đều góp phần thoả mãn sự hư vinh của các đối tượng. Đồng thời, việc trao giải thưởng “nhân quyền” cũng là một phương thức để cổ suý tư tưởng chống đối, kích thích hoạt động chống phá của các đối tượng núp bóng “nhân quyền”.

Hiện nay, các đối tượng phản động trong nước muốn hoạt động được cần phải có sự hỗ trợ về vật chất của các thế lực thù địch, chống đối và các đối tượng phản động ở bên ngoài. Nếu theo dõi các hội nhóm núp bóng “dân chủ”, “nhân quyền”, không khó để chúng ta bắt gặp trường hợp các “nhà dân chủ” đấu đá nhau vì không được “ăn chia” đồng đều.

Vậy nhưng chuyển tiền từ bên ngoài vào trong nước ra sao, phân chia như thế nào thì không hề đơn giản. Vì vậy, việc trao giải cho các đối tượng có hành vi chống phá trong nước như một con đường “hợp thức hoá” việc hỗ trợ vật chất. Và cũng cần nói thêm, thông qua cách trao giải thưởng (đi liền với đó là những khoản vật chất không hề nhỏ), các cá nhân, tổ chức trao giải đã tạo ra sự cạnh tranh giữa các đối tượng phản động trong nước, từ đó thúc đẩy hoạt động chống phá của các đối tượng.

Không để mắc bẫy

Khi các đối tượng chống đối được trao giải, kênh truyền thông của các tổ chức phản động ngay lập tức lên bài tuyên truyền, ca ngợi các đối tượng được nhận giải. Các tổ chức này cố tình hướng lái thông tin, biến những đối tượng được nhận giải trở thành người hùng. Đi liền với đó, các tổ chức này cũng không ngừng rêu rao việc chính quyền đàn áp các “nhà dân chủ” trong nước. Không ít người dân đã bị đánh lừa và lầm tưởng vào những thông tin được các đối tượng rêu rao. Việc này gây ra những hệ luỵ vô cùng xấu.

Những năm qua, nhiều người Việt Nam đã được nhận các giải thưởng quốc tế. Tuy nhiên, giải thưởng quốc tế cũng có nhiều loại và giá trị của nó cũng không hề giống nhau. Vì vậy, chúng ta không thể để cụm từ “giải thưởng quốc tế” đánh lừa, khiến trắng – đen, thật – giả lẫn lộn. Đặc biệt, cần phải xác định rõ: Những giải thưởng liên quan đến dân chủ, nhân quyền mà các cá nhân phản động, chống đối được trao thời gian vừa qua chỉ là một màn kịch được tính toán để phục vụ cho các mưu đồ về chính trị, thể hiện rõ bộ mặt chống phá Đảng, Nhà nước ta của các thế lực thù địch trong và ngoài nước.

Trần Anh Tú