Việt Nam không “tự mình cô lập mình” trong thực hiện chính sách quốc phòng

Thứ hai, 10/07/2023 - 06:26

Đến nay, Việt Nam đã 4 lần công bố Sách trắng quốc phòng, trong đó công khai chính sách quốc phòng hòa bình và tự vệ, nhằm mục tiêu tạo lập, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Tuy nhiên, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách để xuyên tạc, phủ nhận một cách vô căn cứ.

Vì vậy, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của chúng, bảo vệ chính sách quốc phòng đúng đắn của Việt Nam là nhiệm vụ quan trọng hiện nay.

Việt Nam là đất nước luôn phải đối mặt với nguy cơ bị xâm lược từ bên ngoài và đã phải trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc. Chính vì vậy, khát khao được sống trong hòa bình, độc lập; giải quyết mọi bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp hòa bình là mong muốn, thiện chí và quan điểm nhất quán trong chính sách quốc phòng của Việt Nam.

Tuy nhiên, thời gian qua, các thế lực phản động, phần tử bất mãn, cơ hội chính trị, nhóm người tự xưng là “người yêu nước”, “tâm huyết” với vận mệnh quốc gia-dân tộc đã gửi “thư ngỏ”, “kiến nghị”, viết bài tán phát với những giọng điệu xuyên tạc, bóp méo đường lối đối ngoại và chính sách quốc phòng của Việt Nam. Chúng cho rằng, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, các quốc gia luôn có mối quan hệ ràng buộc, phụ thuộc chặt chẽ lẫn nhau, trong khi đó Việt Nam vẫn theo đuổi chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ và chính sách quốc phòng “4 không” (không liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế) là “bảo thủ, lỗi thời”, “tự mình cô lập mình”, “tự trói tay, chân mình”, tước đi cơ hội hợp tác với các nước lớn để tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019. Ảnh: Tạp chí Tuyên giáo
Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019. Ảnh: Tạp chí Tuyên giáo

Ngang nhiên, trắng trợn hơn, chúng còn vu khống, quy chụp việc Việt Nam tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh là khơi mào cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực, là để chống lại một nước thứ ba. Đặc biệt, các thế lực thù địch cho rằng, với chính sách quốc phòng hiện nay thì Việt Nam không thể giữ vững chủ quyền, quyền chủ quyền, sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Do đó, chỉ có liên minh quân sự với các cường quốc thì Việt Nam mới giữ vững được chủ quyền lãnh thổ, bảo vệ được lợi ích quốc gia-dân tộc.

Có thể thấy mục đích sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch là nhằm dẫn dắt, hướng lái Việt Nam tham gia các liên minh quân sự, dần đi sâu vào quỹ đạo lệ thuộc bên ngoài, đánh mất độc lập, tự chủ trong các hoạt động quân sự, quốc phòng, đối ngoại. Đồng thời, kích động, gieo rắc tâm lý hoài nghi trong xã hội vào khả năng bảo vệ đất nước của quốc phòng Việt Nam, tính đúng đắn của đường lối quân sự, quốc phòng, đối ngoại của Đảng; từ đó gây chia rẽ, mâu thuẫn nội bộ, làm giảm sút lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với lĩnh vực quân sự, quốc phòng, đối ngoại; cấp độ cao hơn là từ chối thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, hoặc tham gia vào các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

Soi rọi vào lý luận và thực tiễn đều cho thấy, những luận điệu trên của các thế lực thù địch là hoàn toàn vô căn cứ, xuyên tạc trắng trợn chính sách quốc phòng của nước ta:

Về lý luận: Quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh là luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, “dựa vào sức mình là chính”, “đem sức ta mà giải phóng cho ta”; kết hợp chặt chẽ sức mạnh nội lực của đất nước với sức mạnh quốc tế để củng cố, tăng cường sức mạnh quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ rõ vai trò, tầm quan trọng của sức mạnh nội lực, của mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, Người nói: “Cố nhiên sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”; “Phải trông ở thực lực. Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”. Đồng thời, Người căn dặn, phải luôn “biết mình, biết người”, “biết thời, biết thế” để “cương nhu kết hợp”; phải đặc biệt coi trọng xử lý khéo léo quan hệ với các nước, nhất là các nước láng giềng và các nước lớn, vì lợi ích tối cao của quốc gia-dân tộc. 

Thấm nhuần sâu sắc tư tưởng của Người, Đảng, Nhà nước ta luôn khẳng định nhất quán quan điểm: “Chúng ta bảo vệ Tổ quốc bằng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại. Trong đó, sức mạnh bên trong của đất nước, của chế độ chính trị, nền kinh tế và tiềm lực quốc gia là nhân tố quyết định”. Đồng thời: Kiên trì chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, thêm bạn, bớt thù, vừa hợp tác, vừa đấu tranh. Tăng cường hợp tác, tạo thế đan xen lợi ích chiến lược giữa nước ta với các nước, nhất là các nước lớn, các đối tác chiến lược, các nước láng giềng và các nước trong khu vực; tránh xung đột, đối đầu, tránh bị cô lập, phụ thuộc.

Chiến lược quốc phòng Việt Nam năm 2018 xác định: Xây dựng, củng cố quan hệ, lòng tin chiến lược với các nước, nhất là các đối tác chiến lược, tạo thế để bảo vệ Tổ quốc; sẵn sàng đánh thắng mọi hình thái chiến tranh xâm lược nếu xảy ra; tham gia tích cực, trách nhiệm, hiệu quả vào các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc (LHQ) và những vấn đề liên quan của cộng đồng quốc tế, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển trong khu vực và trên thế giới.

Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019 chỉ rõ, cùng với chủ trương “4 không”, Việt Nam: “Tăng cường hợp tác quốc phòng với các nước để nâng cao khả năng bảo vệ đất nước và giải quyết các thách thức an ninh chung. Tùy theo diễn biến của tình hình và trong những điều kiện cụ thể, Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng như các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, hợp tác cùng có lợi, vì lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế”.

Đồng thời, Việt Nam chủ trương phát triển quan hệ hợp tác quốc phòng với tất cả các nước, nhất là các nước láng giềng, các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, xây dựng lòng tin, tạo sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế để ngăn ngừa nguy cơ và đối phó với chiến tranh xâm lược; sẵn sàng mở rộng quan hệ hợp tác quốc phòng trên cơ sở không phân biệt sự khác nhau về chế độ chính trị và trình độ phát triển. Việt Nam không chấp nhận quan hệ hợp tác quốc phòng dưới bất kỳ điều kiện áp đặt hoặc sức ép nào. Việt Nam tăng cường hợp tác quốc phòng đa phương nhằm góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền quốc gia.

Đại hội XIII của Đảng xác định rõ: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại...". Đồng thời: “Nỗ lực phấn đấu để ngăn ngừa xung đột, chiến tranh và giải quyết các tranh chấp bằng những biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển của Tổ quốc”. 

Về thực tiễn: Trong những năm qua, Việt Nam luôn nỗ lực thực thi đúng đường lối đối ngoại và chính sách quốc phòng đã đề ra, trở thành quốc gia thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 192 quốc gia (bao gồm 190/193 nước thành viên LHQ); đã thiết lập quan hệ hợp tác quốc phòng với hơn 100 nước trên thế giới, trong đó có đầy đủ 5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an LHQ và tất cả các nước lớn trên nhiều lĩnh vực.

Đặc biệt, gần 10 năm qua, Việt Nam đã triển khai hơn 530 cán bộ, nhân viên tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình LHQ tại các phái bộ và trụ sở LHQ ở New York (Hoa Kỳ). Việc tham gia ngày càng tích cực, hiệu quả vào hoạt động gìn giữ hòa bình thế giới của Việt Nam đã được LHQ ghi nhận và đánh giá cao, để lại những ấn tượng tốt đẹp với chính quyền, người dân nước sở tại và bạn bè quốc tế. Hình ảnh chiến sĩ mũ nồi xanh Việt Nam, phẩm chất cao quý Bộ đội Cụ Hồ thời kỳ mới được lan tỏa rộng rãi, ghi dấu ấn tích cực và đậm nét trong lòng nhân dân, kiều bào Việt Nam ở nước ngoài, được bạn bè quốc tế trân trọng, quý mến.

Mặt khác, trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn diễn ra ngày càng gay gắt, quyết liệt hiện nay, nếu dựa vào nước lớn này làm đồng minh, liên minh thì sẽ trở thành đối tượng chiến lược, đối đầu với nước lớn khác. Vì vậy, Việt Nam kiên định chính sách “4 không”, thêm bạn, bớt thù; tăng đối tác, giảm đối tượng, xử lý hài hòa quan hệ với các nước; thiết lập, củng cố quan hệ với tất cả các nước, nhất là các đối tác chiến lược, hội nhập quốc tế sâu rộng, gia tăng sự đan xen lợi ích chung với nhiều nước, tạo sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế; ngăn ngừa nguy cơ và đối phó thắng lợi với mọi hình thức chiến tranh xâm lược là lựa chọn đúng đắn, phù hợp nhất. Trong bất luận hoàn cảnh nào, Việt Nam cũng không chọn bên mà chọn lẽ phải, chính nghĩa.

Như vậy, cả lý luận và thực tiễn, rõ ràng là những minh chứng đầy đủ, khách quan, thuyết phục nhất, thể hiện rõ mong muốn, thiện chí: Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam mà không một thế lực nào có thể xuyên tạc, phủ nhận. Đồng thời cũng vạch trần âm mưu đen tối của các thế lực thù địch đối với chính sách quốc phòng Việt Nam.

Theo đó, để đấu tranh làm thất bại âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, cần phải tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, làm rõ tính đúng đắn của chính sách quốc phòng Việt Nam ở cả trong nước và quốc tế; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với quốc phòng, an ninh và đối ngoại; huy động tối đa các nguồn lực để tăng cường sức mạnh quốc phòng, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; đẩy mạnh hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, phát huy vai trò “tiên phong” trong kiến tạo môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.

Thượng tá, TS BÙI ĐÌNH TIỆP, Phó chủ nhiệm Khoa Lịch sử nghệ thuật Quân sự, Học viện Chính trị Bộ Quốc phòng

Tổ chức BPSOS lại trắng trợn vu cáo, xuyên tạc sau vụ khủng bố ở Đắk Lắk

Thứ Sáu, 07/07/2023, 18:01

Sau khi vụ khủng bố xảy ra ở Đắk Lắk vào ngày 11/6 vừa qua, tổ chức “Ủy ban cứu người vượt biển”, gọi tắt là BPSOS lại trắng trợn vu cáo, xuyên tạc chính quyền kích động nhân dân đàn áp người Thượng, tổ chức bắt bớ, đánh đập “vô cớ” nhằm mục đích chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc ở Tây Nguyên.

Theo tài liệu Cơ quan An ninh điều tra, “Ủy ban cứu người vượt biển” (BPSOS) do Phan Lạc Tiếp (SN 1933, nguyên sĩ quan hải quân Việt Nam Cộng hòa) và Nguyễn Hữu Xương (nguyên giáo sư Đại học San Diego) đứng ra thành lập năm 1980, có trụ sở tại Sandiego, Carlifornia (Mỹ) với mục đích giúp đỡ người Việt “tị nạn” tại Mỹ.

Đến năm 1990, Phan Lạc Tiếp và Nguyễn Hữu Xương đã chuyển giao cho Nguyễn Đình Thắng (SN 1958, tại TP Hồ Chí Minh, quốc tịch Mỹ) tiếp tục điều hành BPSOS. Sau khi tiếp nhận, Nguyễn Đình Thắng đã dời trụ sở của BPSOS đến Falls, bang Viginia (Mỹ) và hướng lái các hoạt động chuyển sang việc lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” để chống phá Việt Nam.

Tổ chức BPSOS lại trắng trợn vu cáo, xuyên tạc sau vụ khủng bố ở Đắk Lắk -0
Những lời lẽ vu cáo, xuyên tạc của tổ chức BPSOS.

Với sự hậu thuẫn của một số chính khách thiếu thiện chí với Việt Nam, BPSOS đã trở thành một tổ chức phản động lưu vong với phương thức và thủ đoạn chống đối quyết liệt cả ở trong và ngoài nước, xâm phạm trực tiếp đến an ninh quốc gia của Việt Nam.​ Quá trình hoạt động, Nguyễn Đình Thắng đã triệt để lợi dụng danh nghĩa của một tổ chức hoạt động trên lĩnh vực “cứu trợ thuyền viên”, “người tị nạn”, “chống buôn người”... để ngửa tay xin kinh phí hoạt động.

Mặc dù hoạt động với danh nghĩa “hỗ trợ tị nạn”, song thực chất BPSOS đã triệt để lợi dụng vấn đề này để tuyên truyền, chống phá Việt Nam trên các diễn đàn quốc tế cũng như gây phức tạp tình hình ANTT tại một số địa phương trong nước. Các đối tượng lập văn phòng tại Bangkok và thành lập một số “tổ chức dân sự”, “ngoại vi chuyên hoạt động trong lĩnh vực cứu trợ người tị nạn” tại Thái Lan như ACF, PSPF... Sau đó chúng móc nối, liên kết với một số tổ chức hoạt động trong lĩnh vực nhân quyền và tị nạn tại Thái Lan để tiếp tay cho số đối tượng người Việt Nam vượt biên trái phép đối phó với các biện pháp bắt giữ, điều tra, xét xử của chính quyền Thái Lan (và) tác động các tổ chức lên tiếng đòi trả tự do cho số đối tượng trên trong trường hợp bị bắt giữ.

Sau khi vụ tấn công, khủng bố ở Đắk Lắk vào ngày 11/6 diễn ra, lực lượng chức năng cùng người dân tăng cường an ninh, truy bắt các đối tượng phạm tội thì một lần nữa tổ chức này lại vu cáo chính quyền kích động nhân dân đàn áp người Thượng, tổ chức bắt bớ đánh đập “vô cớ”... nhằm mục đích chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc ở Tây Nguyên, qua đó biện minh cho các tổ chức “Người thượng vì công lý”, “Hội thánh tin lành Đấng Christ Tây Nguyên” do một số đối tượng cầm đầu đang sống lưu vong ở Thái Lan.

Ngày 22/6 vừa qua, tại Hội nghị cấp cao những người đứng đầu lực lượng chống khủng bố các nước do Liên hợp quốc tổ chức đang diễn ra tại New York (Mỹ), trong bài phát biểu, Thiếu tướng Phạm Ngọc Việt, Cục trưởng Cục An ninh Nội địa Bộ Công an Việt Nam khẳng định, hoạt động của nhóm tấn công trụ sở chính quyền và người dân tại tỉnh Đắk Lắk ngày 11/6 là hoạt động khủng bố có tổ chức.

Việt Nam kiên quyết lên án, chống lại hành động khủng bố dưới mọi hình thức; ủng hộ các biện pháp chống khủng bố của các nước, các tổ chức quốc tế phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế... Nguyên nhân xảy ra vụ việc là do âm mưu của các thế lực thù địch, một số đối tượng Fulro lưu vong kích động một số người dân tộc thiểu số chia rẽ người Kinh với dân tộc thiểu số gây mất trật tự và gây tiếng vang ở nước ngoài. Hiện lực lượng Công an tỉnh Đắk Lắk đang củng cố tài liệu, chứng cứ để xử lý theo quy định của Pháp luật.

Tổ chức BPSOS lại trắng trợn vu cáo, xuyên tạc sau vụ khủng bố ở Đắk Lắk -0
6 đối tượng tham gia trong vụ khủng bố ngày 11/6 bị Cơ quan An ninh điều tra truy nã đặc biệt.

Giờ đây, khi vụ việc có tính chất dã man, tàn bạo, vô nhân tính bị cộng đồng Quốc tế lên án như vào ngày 16/6, Thủ tướng Campuchia Hun Sen đã yêu cầu các lực lượng vũ trang của nước này ở khu vực ven biên giới Việt Nam - Campuchia “kiểm tra kỹ lưỡng các làng mạc”. Lệnh của nhà lãnh đạo Campuchia nhằm phát hiện, bắt giữ các đối tượng tình nghi liên quan đến vụ tấn công trụ sở 2 xã ở tỉnh Đắk Lắk của Việt Nam lẩn trốn sang Campuchia.

Ngày 20/6, trong buổi tiếp Đoàn đại biểu Tổng cục Trại giam, Bộ Tư pháp Thái Lan do ngài Ayuth Sintoppant, Tổng Cục trưởng làm Trưởng đoàn, Thứ trưởng Bộ Công an Việt Nam Nguyễn Văn Long đề nghị hai bên duy trì cơ chế trao đổi đoàn thường niên để thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa các đơn vị của Bộ Công an Việt Nam và Bộ Tư pháp Thái Lan trong lĩnh vực quản lý trại giam, giáo dục cải tạo phạm nhân; thực hiện hiệu quả “Hiệp định về chuyển giao người bị kết án phạt tù và hợp tác thi hành án hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Vương quốc Thái Lan” đã ký kết năm 2010; tăng cường hơn nữa việc trao đổi kinh nghiệm, học tập thực tế, đặc biệt trong lĩnh vực tương trợ tư pháp về hình sự, trong đó có công tác chuyển giao người bị kết án phạt tù...

Tổ chức BPSOS lại trắng trợn vu cáo, xuyên tạc sau vụ khủng bố ở Đắk Lắk -0
Đối tượng Nguyễn Đình Thắng (khoanh tròn), kẻ cầm đầu tổ chức BPSOS. 

Các đối tượng sợ rằng chính quyền các nước mà các đối tượng đang lưu vong sẽ thẳng tay bắt giữ, trục xuất... nên đã tổ chức vu cáo chính quyền Việt Nam mong hướng dư luận Quốc tế sang vấn đề khác mục đích hơn cả là chứa chấp các đối tượng muốn vượt biên và hơn hết là xin kinh phí, thể hiện ngay tính chất lợi dụng vụ việc để trục lợi chứ không có gì tốt đẹp cả.

Từ lâu, Nguyễn Đình Thắng và BPSOS đã vượt qua vai trò của một tổ chức từ thiện, chúng tiến hành chống phá từ nhiều địa phương, lợi dụng vấn đề tự do tôn giáo, dân tộc nhất là khu vực Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, TP Đà Nẵng... Hoạt động của Nguyễn Ðình Thắng thực hiện trong những năm qua cho thấy, đối tượng đã thực hiện không phải vì “dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo” như rao giảng mà tất cả nhằm kích động chống phá Nhà nước Việt Nam dưới nhiều hình thức; vì quyền lợi cá nhân thông qua việc kêu gọi yểm trợ tài chính cho BPSOS. BPSOS cũng từng bị các thành viên kiện ra tòa án Mỹ về các hoạt động không minh bạch về tài chính, tranh giành việc đưa người tị nạn nhằm qua các nước vì mục đích vụ lợi.

Tổ chức BPSOS lại trắng trợn vu cáo, xuyên tạc sau vụ khủng bố ở Đắk Lắk -0
Những tài liệu phát tán của tổ chức BPSOS được thu giữ.

Có thể khẳng định rằng bản chất và phương thức, thủ đoạn hoạt động của Nguyễn Đình Thắng và đồng bọn là rất nguy hiểm, tinh vi và lợi dụng lòng tin của nhiều người trong nước để kích động, chống phá có hệ thống. Do vậy, mỗi người dân tuyệt đối không tin theo các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc vô căn cứ của các đối tượng, không ủng hộ mọi hình thức đối với các buổi vận động, quyên góp tiền dưới chiêu bài “yểm trợ cho các hoạt động đấu tranh bảo vệ dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam” của BPSOS. Mọi hành vi hậu thuẫn, ủng hộ, tham gia BPSOS sẽ bị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.

Văn Thành

“Bệnh xa dân” làm cán bộ dễ hư hỏng

Thứ năm, 06/07/2023 - 06:21

Một thực tế đó là, mỗi khi có đồng chí cán bộ nào bị xử lý sai phạm thì xuất hiện tâm lý hả hê ở một bộ phận dư luận. Phần đa ý kiến không đồng tình với tâm lý hả hê đó, nhưng điều này cần được nhìn nhận thấu đáo để hiểu rõ vì sao? Một trong những nguyên nhân gây nên tâm lý đó chính là “bệnh xa dân” của cán bộ khiến dư luận đã có cái nhìn tiêu cực, thiếu cảm thông mỗi khi có vụ việc.

1. Mới đây, khi cơ quan chức năng thực hiện lệnh bắt tạm giam và khám xét nhà riêng của ông Nguyễn Văn Vịnh, cựu Bí thư Tỉnh ủy Lào Cai, trên mạng xã hội xuất hiện nhiều bình luận thể hiện tâm lý hả hê. Căn biệt thự của gia đình ông cựu Bí thư Tỉnh ủy nằm ở vị trí được xem là đẹp nhất của TP Lào Cai từ lâu đã trở nên xa cách với đời sống của phần đông người dân. Cũng theo kết luận của cơ quan chức năng, ông Nguyễn Văn Vịnh có tới 7 lô đất đều nằm ở các vị trí đắc địa của TP Lào Cai, chưa kể những tài sản khác. Hình ảnh người cán bộ như vậy đã khiến người dân không có cảm tình. 

Tìm hiểu những câu chuyện thực tế ở nhiều địa phương cho thấy, tình trạng cán bộ mắc “bệnh xa dân” khá phổ biến. Có những nơi đã hình thành khu ở của người giàu, của một số “quan chức”, hoặc vợ con họ sống xa xỉ, hưởng lạc. Đó là những khu phố luôn kín cổng cao tường, xa cách với nhân dân lao động. Ngay tại TP Lào Cai, ngày 24-5-2017, Báo Tuổi trẻ đã đăng tải bài điều tra “Đấu giá đất biệt thự “đắc địa” Lào Cai: Toàn quan chức trúng”. Theo bài báo, cả 6 lô biệt thự ở vị trí đắc địa bậc nhất Lào Cai sau đấu giá đều thuộc quyền sở hữu, sử dụng của gia đình quan chức tỉnh này, trong đó có ông Nguyễn Văn Vịnh, khi đó đang đương chức Bí thư Tỉnh ủy.

Chuyện cán bộ mắc “bệnh xa dân” ngày nay thể hiện muôn hình vạn trạng, đó là cán bộ ít đến với dân, ít nghe tâm tư nguyện vọng của người dân; cán bộ tránh, trốn tiếp dân bằng nhiều lý do, nhất là khi có “tình huống điểm nóng”. Người dân không dễ gì gặp được họ dù ý kiến, nguyện vọng muốn trình bày với người có trách nhiệm giải quyết là chính đáng và cần thiết.

Luật pháp có quy định, các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến cơ sở đều phải thực hiện tiếp công dân. Người đứng đầu phải định kỳ tiếp công dân theo quy định của luật. Mục đích của việc tiếp công dân chính là sự gần dân, là để nắm bắt tâm tư nguyện vọng, tiếp nhận ý kiến của công dân để giải quyết, để ban hành chủ trương, chính sách sát thực tiễn. Tuy vậy, kết quả nội dung thanh tra trách nhiệm của các địa phương trong thực hiện việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo những năm qua cho thấy một tình trạng phổ biến đó là việc tiếp công dân định kỳ của người đứng đầu không đầy đủ, không nền nếp, ủy quyền cho người khác tiếp công dân, nhiều người đứng đầu nhiều năm không tiếp công dân. Chính vì người đứng đầu, có thẩm quyền giải quyết những vấn đề bức xúc của nhân dân lại không tiếp dân khiến bức xúc của người dân không những không được giải quyết mà còn bị đẩy lên cao, trở thành điểm nóng.

Ở một góc độ khác, chính vì mắc “bệnh xa dân” nên có những cán bộ chỉ nắm được tình hình qua báo cáo. Mà chất lượng báo cáo thì không phải ở đâu, chỗ nào cũng đúng, cũng thực chất. Tình trạng “tô hồng” báo cáo là một “trọng bệnh” với đa số ưu điểm, thành tích mà lảng tránh khuyết điểm, yếu kém.  

Ảnh minh họa: TTXVN 
Ảnh minh họa: TTXVN 

2. Trở lại với nguyên lý gốc về người cán bộ và nhân dân thì mối quan hệ này như thế nào trong chế độ xã hội chủ nghĩa, hay cụ thể nhất là Nhà nước ta? Cán bộ thực chất là những thủ lĩnh của nhân dân trong mối quan hệ công nhân-nông dân-trí thức và đoàn kết mọi lực lượng yêu nước bền chặt. Nguyên nghĩa đó là những hạt nhân tinh túy trong phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và các giai tầng khác để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, xây dựng chủ nghĩa xã hội tốt đẹp.

Vì là những hạt nhân tinh túy nhất nên dĩ nhiên họ xuất phát từ chính những người dân, từ nhân dân mà ra, qua quá trình lăn lộn trong đấu tranh, lao động mà trưởng thành. Đắm mình trong thực tiễn, họ đã xuất sắc hơn so với đại đa số quần chúng, cả về tài năng, trí tuệ và đặc biệt là phẩm chất đạo đức tốt đẹp (đạo đức cách mạng). Họ trở thành thủ lĩnh để dẫn dắt, lãnh đạo quần chúng. Nhưng mục đích lớn nhất đó là dẫn dắt quần chúng làm cách mạng, phục vụ cách mạng chứ không phải là những người làm quan phát tài, ăn trên ngồi trốc. Cần thiết phải nói rõ ngọn nguồn như vậy để hiểu sâu sắc người cán bộ là ai, họ đứng ở vị trí nào và phải làm gì cho nhân dân.

Soi điều đó vào thực tiễn, trong suốt sự nghiệp cách mạng của dân tộc đã có biết bao thế hệ cán bộ thực sự là của nhân dân, vì nhân dân, được nhân dân đùm bọc, che chở, nuôi dưỡng. Họ lớn lên trong cách mạng, vào sống ra chết vì cách mạng, vì sự ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Chính nhân dân đã rèn luyện, đào tạo cán bộ, từ phẩm chất, bản lĩnh đến ý chí, hành động. Trong suốt quá trình thực tiễn lịch sử đất nước càng thấm thía điều đó. Ai từng một lần đặt chân đến di tích Nhà tù Phú Quốc, Nhà tù Côn Đảo hay nhiều nhà tù khác mới hiểu hết tấm lòng kiên trung vì nước, vì dân của những chiến sĩ cách mạng trong sự nghiệp cao cả của dân tộc. Họ là những cán bộ, đảng viên của dân tộc, của nhân dân. Trong số hàng vạn chiến sĩ cách mạng ấy, đã có nhiều người sau này trở thành cán bộ chủ chốt, giữ các cương vị cấp cao của đất nước nhưng họ vẫn giữ mãi những phẩm chất cao quý, thanh liêm đó. Họ đã được dân tin, dân quý, dân chở che, bảo vệ.

Ngày nay, trên thực tế, rất nhiều cán bộ, từ Trung ương đến cơ sở vẫn nỗ lực để lo cho người dân có cuộc sống tốt đẹp, nhất là lo cho người dân trong thiên tai, dịch bệnh, trong xóa đói, giảm nghèo, thực hiện an sinh xã hội. Hình ảnh những cán bộ luôn hết lòng vì dân, từ suy nghĩ đến việc làm rất đáng trân trọng. Những mô hình như “ngày cuối tuần cùng dân” khởi đầu từ huyện Mù Cang Chải (Yên Bái) qua thực tiễn 4 năm, giờ đã được nhiều địa phương hưởng ứng bởi tính hiệu quả gần dân của nó. Nhiều tấm gương người tốt, việc tốt kể về việc cán bộ gần dân, vì dân, giúp dân, dân giúp, xuất hiện thường xuyên trên mặt báo thật đáng quý.

Người cán bộ khi đó không chỉ tạo sự gần gũi, gắn kết giữa người dân với chính quyền, với tổ chức mà điều quan trọng nhất là việc này đã giúp đội ngũ cán bộ được nghe, tiếp nhận được thông tin đúc rút từ thực tiễn để tham mưu, ban hành các chủ trương, chính sách đúng, tháo gỡ được vướng mắc, khó khăn từ cơ sở. Suy cho cùng, việc cán bộ phải vì dân vẫn luôn là bài học lớn và rất sâu sắc, đúng như tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm "dân là gốc"; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng".

3. Đã có rất nhiều cảnh báo, phân tích về hệ lụy ghê gớm của “bệnh xa dân”, một biểu hiện rõ nét nhất của tệ quan liêu nếu mỗi cán bộ, đảng viên không thực tâm rèn luyện. Chính vì xa dân, không được nghe và không chịu nghe những ý kiến từ đời sống khiến cán bộ mắc thói quan liêu, cửa quyền. Chủ nghĩa cá nhân trong mỗi con người cũng lớn lên từ đó, là căn nguyên khiến cán bộ hư hỏng.

Lãnh tụ vĩ đại của phong trào cộng sản và nhân dân thế giới V.I.Lênin đã từng cảnh báo: “Toàn bộ công việc của tất cả cơ quan kinh tế của chúng ta bị khốn khổ trước hết vì bệnh quan liêu. Nếu có cái gì làm tiêu vong chúng ta thì chính là cái đó”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt coi trọng, giáo dục cán bộ công quyền phải trọng dân, gần dân, vì dân mới làm được cách mạng và đó mới là mục đích của cách mạng. Ngay từ những ngày đặt viên gạch đầu tiên để xây dựng nền móng cách mạng, Bác đã nhiều lần nhấn mạnh: “Có dân là có tất cả”. Trong cuộc đời mình, Người đã dành nhiều thời gian đi cơ sở, thăm nhân dân, cán bộ, công nhân, người lao động. Trong những lần đến, Bác rất chú ý thăm đồng bãi, công trường, nhà ăn, nơi ngủ nghỉ của công nhân, người lao động. Theo một thống kê chưa đầy đủ, trong vòng 10 năm, từ năm 1955 đến 1965, Bác đã về địa phương, cơ sở, đến với nhân dân hơn 700 lần. Những chuyến đi của Bác thường không được báo trước, gọn nhẹ, không gây tốn kém, lãng phí cho cơ sở. Nhiều lần Người còn mang cơm nắm đi, ăn cùng cảnh vệ cho đỡ phiền phức địa phương và đặc biệt là tác phong giản dị, không bao giờ quan cách.

Để mỗi cán bộ, đảng viên thấm nhuần tư tưởng và hành động, đặc biệt chống thái độ thờ ơ, vô cảm, quan liêu, “bệnh xa dân”, cùng với từng bước hoàn thiện hệ thống luật pháp của cả hệ thống chính trị, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị trong vấn đề này. Điển hình là Quy định số 11-QĐi/TW “về trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy trong việc tiếp dân, đối thoại trực tiếp với dân và xử lý những phản ánh, kiến nghị của dân” được Bộ Chính trị khóa XII ban hành. Quy định này đã yêu cầu đội ngũ bí thư, cấp ủy và rộng hơn là mỗi cán bộ phải khắc phục biểu hiện thiếu sâu sát thực tế cơ sở, xa dân; cần coi việc gần dân, công tác tiếp dân, giải quyết tâm tư, nguyện vọng của nhân dân là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị.

Đặc biệt, Nghị quyết số 04-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII “về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ” đã thẳng thắn chỉ ra những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" của cán bộ, đảng viên. Trung ương chỉ rõ 1 trong 27 biểu hiện suy thoái đó là “quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm tra, đôn đốc, không nắm chắc tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị mình; thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân”.

Nhìn nhận từ lý luận gốc đến thực tiễn sự vận động phát triển trong xã hội ngày nay, càng thấy vấn đề “gần dân, hiểu dân, trọng dân và vì dân” là cốt tử của mỗi người cán bộ, đảng viên trong cơ quan công quyền. Cán bộ mà quan liêu, xa dân thì chỉ có hại cho dân, cho nước và hại cho chính họ. Đúng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong phát biểu bế mạc Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII chỉ rõ: “Ta làm hợp lòng dân thì dân tin và chế độ ta còn, Đảng ta còn. Ngược lại, nếu làm cái gì trái lòng dân, để mất niềm tin là mất tất cả”.

NGUYỄN HÀ MY

Bóc mẽ cái gọi là giải thưởng dành cho người âm ỉ chống phá Việt Nam

Thứ ba, 04/07/2023 - 08:35

Chúng ta luôn trân trọng quá khứ, trân trọng những người góp phần làm nên giá trị Việt Nam, nhưng chúng ta cũng lên án việc làm sai trái của những ai đi ngược lại tương lai tốt đẹp của dân tộc. Người Việt rất ân nghĩa, ân tình: “Ăn quả nhớ người trồng cây”. Thế hệ đi trước đã “trồng” cây độc lập tự do, thế mà có những kẻ vô lương đi “chặt” cây ấy thì tất nhiên chúng ta phải lên án thì mới phần nào xứng đáng với tiền nhân. Còn nếu cứ dửng dưng, bàng quan thì lại là có lỗi, thậm chí đó cũng là một cách tiếp tay cho kẻ xấu và các thế lực thù địch, phản động chống phá cách mạng Việt Nam.

1. Một “sự kiện” văn học vừa làm xôn xao văn đàn Việt: Viện Hàn lâm Pháp trao giải thưởng văn học Prix Mondial Cino Del Duca cho Dương Thu Hương, một nhà văn Việt Nam nhưng đã rời bỏ Tổ quốc sang sinh sống tại Pháp. “Sự kiện” tạo ra dư luận trái chiều không chỉ trong văn giới mà lan rộng ra xã hội, vì đây là “giải thưởng” của nước Pháp-một quốc gia có nhiều tác gia văn học lại nổi tiếng văn minh. Giá trị “giải thưởng” lại cao (200.000 euro), chỉ sau giải Nobel. Rất nhiều người băn khoăn: Liệu giải có mang màu sắc chính trị? Có kẻ cơ hội còn “tát nước theo mưa” rằng vì “trong nước không có tự do sáng tạo nên những nhà văn tài năng như Dương Thu Hương bị vùi dập”. Lại có người than thở “muốn mở mày mở mặt với thế giới thì nhà văn Việt Nam phải sang phương Tây”... Vậy bản chất của “giải thưởng” này là gì, việc trao giải có công tâm, khách quan, trung thực hay vì một lẽ gì khác?

Là người Việt Nam, chúng ta vui mừng trước những thành tựu của các văn nghệ sĩ Việt Nam trên khắp mọi miền đất nước, kể cả người Việt Nam ở nước ngoài. Đã là người Việt thì ở đâu cũng là đồng bào. Nghĩa “đồng bào” của Việt Nam rất được thế giới chú ý. Dù ở trong nước hay ở ngoài nước, đã là người Việt Nam thì đều coi nhau là người trong một nhà. Thế nên Việt Nam là nước duy nhất trên thế giới có ngày Giỗ Tổ. Do vậy, người mang dòng máu Việt thành công ở đâu cũng thật đáng quý, đáng tự hào. Dĩ nhiên “năm ngón tay cũng có ngón vắn ngón dài”, có người thế này có người thế khác, chắc chỉ có người nào nhạt nghĩa nguồn cội, thờ ơ với lịch sử dân tộc mới đem lòng đố kỵ với thành công của đồng bào mình.

Hội thảo quốc tế: Di sản Hồ Chí Minh đối với nhân loại được tổ chức ngày 6-9-2022. Ảnh minh họa: quocte.vn

Hội thảo quốc tế: Di sản Hồ Chí Minh đối với nhân loại được tổ chức ngày 6-9-2022. Ảnh minh họa: quocte.vn

Trên thế giới có rất nhiều giải thưởng văn học, mỗi nơi có một tiêu chí riêng nên tất yếu sẽ có dư luận đồng tình hay phản đối. Đó là chuyện bình thường. Giải thưởng mang tên Prix Mondial Cino Del Duca của Viện Hàn lâm Pháp không phải là một giải thưởng chuyên về văn học mà còn trao cho nhiều người ở nhiều ngành nghề khác nhau, mà theo họ là có “đóng góp”. Là công dân Việt Nam, chúng ta tôn trọng việc làm ấy của họ, theo tiêu chí, quan niệm của họ. Tất nhiên, chúng ta cũng tiếp nhận những thông tin về giải thưởng, chất lượng và đóng góp cho sự tiến bộ, văn minh chung của giải thưởng theo quan niệm của chúng ta. Đó cũng là lẽ thường tình. Bởi một trong những căn cứ để hội nhập, toàn cầu hóa mà triết học văn hóa đề ra là “tôn trọng sự khác biệt”.

Ban tổ chức trao giải cho Dương Thu Hương với căn cứ đó là “một nhà văn lớn mà tác phẩm và nhân cách độc đáo chứa đựng thông điệp của chủ nghĩa nhân văn hiện đại”. Chúng ta thấy ngay cách dùng các khái niệm là thiếu chính xác, dễ gây ngộ nhận, dễ đánh lừa người đọc. Dương Thu Hương là nhà văn có thể có năng khiếu viết văn nhưng chưa phải là “nhà văn lớn”. Thế nào là nhà văn lớn? Xin phép không định nghĩa ở đây mà chỉ xin nói những điều được thế giới khẳng định. Dương Thu Hương có thể có nhiều “tác phẩm” nhưng rõ ràng bà ta chưa tương xứng với những nhà văn cùng thời, như: Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Đỗ Chu...; càng chưa thể so sánh với Nam Cao, Vũ Trọng Phụng... Thế giới, và chính nước Pháp cũng khẳng định, những nhà văn lớn phải là những nhà tư tưởng, thì chỉ có là những Victor Hugo, Balzac... Nói Dương Thu Hương là “nhà văn lớn” thì vô hình trung lại hạ thấp những bậc đại văn hào ấy sao (?). Bà ta có thể có “cá tính” chứ chưa thể là “nhân cách độc đáo”.

Cũng không thể nói tác phẩm của Dương Thu Hương “chứa đựng thông điệp của chủ nghĩa nhân văn hiện đại”. Chủ nghĩa nhân văn nào thì cũng hướng con người tới chân-thiện-mỹ. Trong khi đó, một số “tác phẩm” đã công bố của Dương Thu Hương thì không như vậy. Thậm chí với thái độ bất mãn, hằn học, cực đoan, bà ta thể hiện rõ sự khinh bỉ, rẻ rúng, hạ thấp con người. Những cuốn sách (chứ không thể gọi là tác phẩm) như “Bên kia bờ ảo vọng”, “Những thiên đường mù”, "Đỉnh cao chói lọi", “Chốn vắng”... của bà ta chứng minh rất rõ điều đó. Nguy hiểm hơn, những cuốn sách này còn hàm chứa nội dung công kích, hạ bệ, phủ nhận thành tựu cách mạng, thể hiện ý đồ chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam rất tinh vi, nham hiểm.

Xin nói về trường hợp “Đỉnh cao chói lọi” của Dương Thu Hương. Là người có nghiên cứu về tiểu sử, cuộc đời và trước tác Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau khi đọc cuốn này, chúng tôi khẳng định đây là cuốn sách xuyên tạc rất ác ý về Bác Hồ. Nhân đây xin cập nhật những đánh giá mới nhất của thế giới về Bác. Cuộc Hội thảo quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh gần đây nhất vào ngày 18-4-2023 tại thủ đô Roma (Italia) có tên “Quãng đời làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Italia”. Trước đó, ngày 14-5-2022 tại Ấn Độ có Hội thảo “Hồ Chí Minh và Ấn Độ” (Ho Chi Minh and India) tổ chức ở Kolkata. Trước nữa, tháng 10-2019, Hội thảo “Hồ Chí Minh toàn cầu” (Global Ho Chi Minh) được tổ chức tại thành phố New York (Mỹ). Các hội thảo đều khẳng định ở Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh là sự hội tụ tuyệt đẹp ba luồng văn hóa: Văn hóa yêu nước Việt Nam; văn hóa hòa bình, bình đẳng, bác ái của nhân loại tiến bộ và văn hóa giải phóng con người của Chủ nghĩa Mác. Các nhà nghiên cứu quốc tế đều khách quan nhấn mạnh Hồ Chí Minh không chỉ là anh hùng giải phóng dân tộc mà còn là cầu nối giữa Việt Nam với thế giới và nhân cách của Người mang tầm ảnh hưởng toàn cầu. Điều này khẳng định sự tôn trọng của giới học giả thế giới đương đại với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng và những giá trị văn hóa cao đẹp của Người đang được cả nhân loại đón nhận. Thế mà có một người Việt Nam đã đi ngược lại thế giới thì thử hỏi người đó có lương tâm Việt Nam không?

Nhân “sự kiện” về Dương Thu Hương, có người “kêu gọi” cần “cởi trói” cho “tự do sáng tạo” của văn nghệ sĩ. Xin được nói rõ cần hiểu khái niệm “tự do” trong mối quan hệ rộng rãi ở bất kỳ chế độ xã hội nào sẽ đều thấy không có một “tự do tuyệt đối” mà chỉ có tự do trong khuôn khổ pháp luật. Nhà văn cũng là một công dân. Dù nhà văn có tài năng đến đâu, khi sáng tạo tác phẩm cũng chịu sự quy chiếu quyền lợi chung của quốc gia, dân tộc, con người. Không thể có chuyện lấy “quyền” nhà văn đi công kích, phủ nhận, chối bỏ dân tộc mình, đất nước mình. Có người còn kêu gọi “tự do tư tưởng” cho văn nghệ sĩ (!). Mục đích của “tự do tư tưởng” chẳng phải là để tìm ra chân lý sao? Ngày hôm nay thế giới càng khẳng định chân lý chẳng phải là cái gì trừu tượng, xa xôi mà chính là lợi ích của quốc gia, dân tộc và nhân dân. Điều này Bác Hồ đã nói 67 năm trước (năm 1956): “Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là không phải chân lý. Ra sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân-tức là phục tùng chân lý”. Hãy viết về nhân dân, vì nhân dân, vì đất nước, dân tộc. Đó là tự do của văn nghệ sĩ. Trên thực tế đã có ai cấm hay ngăn cản văn nghệ sĩ quyền tự do sáng tạo theo chân lý ấy đâu?

2. Hôm nay thế giới đã vượt qua quan niệm nhà văn là “thư ký của thời đại” vì cho rằng thư ký là ghi chép thôi nên nhà văn phải là người góp phần “kiến tạo hiện thực”, tức là phải tạo ra một mô hình thế giới riêng. Mô hình này luôn thoát thai từ đời sống nên là mô hình của đời sống chứ không phải bản thân đời sống. Do vậy, chất lượng tác phẩm phụ thuộc chủ yếu vào chủ thể sáng tạo nhà văn. Gọi tác phẩm là “con đẻ tinh thần” của nhà văn là vì thế. Nhà văn sống với đời sống thế nào thì có tác phẩm như vậy. Cho nên “tự do sáng tạo” là khái niệm chỉ mối quan hệ tác giả với đời sống. Chỉ có “tự do” ngụp lặn xuống tận đáy dòng chảy cuộc đời, phải lam lũ sống cùng đời sống nhân dân, vui cái vui, đau cùng nỗi đau của người lao động mới có “vật liệu” để xây dựng tác phẩm. Lịch sử văn chương thế giới cho thấy chưa có nhà văn lớn nào thành công mà thoát ly thực tế đời sống lao động của nhân dân, tách ra khỏi số phận của đất nước họ.

Đạo lý Việt Nam là “Uống nước nhớ nguồn”, “Chim có tổ người có tông”... Người Việt trân trọng những anh hùng liệt sĩ và bao người con ưu tú đã hy sinh cuộc sống vì hạnh phúc của nhân dân, tương lai của đất nước, nhưng cũng khinh bỉ những kẻ vô ơn bất nghĩa. Chúng ta ghi nhớ công ơn những người đã làm nên chiến thắng năm 1975. Họ đã hy sinh một phần tuổi trẻ, có người hy sinh một phần thân thể, có người mãi mãi ngã xuống để mang lại độc lập tự do cho Tổ quốc, mở ra tương lai rạng rỡ cho dân tộc. Nhưng với riêng Dương Thu Hương, trong một lần trả lời phỏng vấn về ngày Giải phóng miền Nam 30-4-1975, thì ngay cách nói của bà ta đã cho thấy bà sớm đi ngược lại dân tộc mình, nhân dân mình: “Mọi người trong đội quân chúng tôi đều hớn hở cười thì tôi lại khóc”. Như vậy bà ta đã nhận thức sai từ rất sớm, ngay sau ngày giải phóng miền Nam.

Chúng ta trân trọng quá khứ, trân trọng những người góp phần làm nên giá trị Việt Nam, nhưng chúng ta cũng lên án việc làm sai trái của những ai đi ngược lại tương lai tốt đẹp của dân tộc. Trong số đó có bà Dương Thu Hương. Tất nhiên, chúng ta không chấp nhận việc tung hô, cổ xúy những con người như bà Hương. Người Việt rất ân nghĩa, ân tình: “Ăn quả nhớ người trồng cây”. Thế hệ đi trước đã “trồng” cây độc lập tự do, thế mà có những kẻ vô lương đi “chặt” cây ấy thì tất nhiên chúng ta phải lên án thì mới phần nào xứng đáng với tiền nhân. Còn nếu cứ dửng dưng bàng quan thì lại là có lỗi, thậm chí đó cũng là một cách tiếp tay cho kẻ xấu và các thế lực thù địch, phản động chống phá cách mạng Việt Nam.

3. Quay trở lại vấn đề trên thì giải thưởng nói chung ở bất kỳ đâu vì luôn đặt ra tiêu chí, mục đích riêng nên tự giới hạn không gian, thời gian. Do vậy có những giải thưởng không thể tồn tại ý nghĩa lâu dài. Chưa nói tới việc giải thưởng bị lạm dụng ý nghĩa. Ví như giải Nobel tầm quốc tế thế mà có thời điểm còn bị điều chỉnh để thiên về mục đích chính trị. Chúng ta nhớ lại Giải Nobel Hòa bình năm 1973 từng được Ủy ban Nobel trao cho đồng chí Lê Đức Thọ và cho cả ông Henry Kissinger, tức họ “đánh đồng” kẻ đi xâm lược và người bị xâm lược, để thế giới hiểu rằng người Mỹ “đem lại hòa bình cho Việt Nam” chứ không hề xâm lược. Sự phi lý này, đã qua nửa thế kỷ mà cho đến hôm nay vẫn còn dư luận bàn tán chế giễu, chê bai. Là bạn của nước Pháp, chúng ta tôn trọng họ, ủng hộ những việc làm của họ vì hòa bình, vì tương lai tốt đẹp của nhân loại. Chúng ta coi việc họ trao giải cho Dương Thu Hương là quyền của họ và họ chịu trách nhiệm trước việc làm ấy. Nhưng chúng ta không coi việc đó là có giá trị đối với dân tộc, đất nước Việt Nam chúng ta.

Đại tá, PGS, TS NGUYỄN THANH TÚ

Phát huy truyền thống “sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau” (Bài cuối)

Thứ Năm, 06/07/2023, 05:31

Sự thực lịch sử, hai tiếng “đồng bào” thiêng liêng đã thành cốt cách và niềm tự hào trong văn hoá dân tộc Việt Nam. Hoàn toàn không phải như luận điệu bôi nhọ rằng “việc gọi các sắc tộc Tây Nguyên bằng từ “đồng bào” không che giấu được toan tính chính trị”, đả kích thành “đây là cách áp đặt văn hoá và mị dân”!

Đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt

Sự thực lịch sử, hai tiếng “đồng bào” thiêng liêng đã thành cốt cách và niềm tự hào trong văn hoá dân tộc Việt Nam. Hoàn toàn không phải như luận điệu bôi nhọ rằng “việc gọi các sắc tộc Tây Nguyên bằng từ “đồng bào” không che giấu được toan tính chính trị”, đả kích thành “đây là cách áp đặt văn hoá và mị dân”!

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho đồng bào các dân tộc Tây Nguyên tình cảm đặc biệt. Cách đây 77 năm, trong bức thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Pleiku, tỉnh Gia Lai, ngày 19/4/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Êđê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt.

Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau”. Ngày 30/11/1968, trong Điện gửi đồng bào, chiến sĩ và cán bộ Tây Nguyên, Bác khen ngợi: “Quân và dân Tây Nguyên, già trẻ, gái trai, Kinh, Thượng đoàn kết một lòng, luôn luôn nêu cao truyền thống anh hùng, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, thi đua diệt giặc, lập công, giữ gìn buôn rẫy, thu được những thành tích to lớn, cùng đồng bào cả nước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.

bai cuoi (2).jpg -0
Cuộc sống thanh bình của bà con ở Đắk Lắk.

Người căn dặn: “Đồng bào và chiến sĩ Tây Nguyên đã đoàn kết càng phải đoàn kết chặt chẽ hơn nữa, cố gắng không ngừng, phát huy mạnh mẽ thắng lợi đã giành được, luôn luôn nêu cao cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi âm mưu của địch, ra sức củng cố và phát triển vùng giải phóng và phục vụ tiền tuyến”.

Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển

Kế thừa giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, chủ trương nhất quán của Đảng ta là phát huy, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển. Đây là luận điểm quan trọng, xuyên suốt, thể hiện tầm nhìn chiến lược.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ: “Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam”. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển... Có cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện giảm nghèo đa chiều, bền vững. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, người có uy tín tiêu biểu trong vùng dân tộc thiểu số. Nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc”.

Khu vực Tây Nguyên là địa bàn có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh và đối ngoại. Do vậy, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết các dân tộc ở Tây Nguyên được xác định là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của Đảng, Nhà nước ta trong mọi thời kỳ cách mạng. Các chính sách phát triển kinh tế, xã hội được cụ thể hoá tại địa phương nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số.

Những năm qua, tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk triển khai thực hiện Cuộc vận động “Làm thay đổi nếp nghĩ, cách làm của đồng bào dân tộc thiểu số, làm cho đồng bào dân tộc thiểu số vươn lên thoát nghèo bền vững”; tỉnh Lâm Đồng ban hành Nghị quyết số 14-NQ/TU, ngày 8/10/2018 về phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2018 - 2025, định hướng đến năm 2030; tỉnh Kon Tum ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TU, ngày 16/2/2022 về bảo tồn và phát huy giá trị nghề truyền thống của các dân tộc thiểu số tại chỗ đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế các tỉnh Tây Nguyên ở mức khá, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Giai đoạn 2015 - 2020, tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình của tỉnh Đắk Lắk là 9,13%/năm, tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 2,87%/năm; tỷ lệ này ở tỉnh Kon Tum lần lượt là 9,7% và 4,05%.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình của tỉnh Gia Lai là 7,93%/năm, tỷ lệ hộ nghèo từ 19,71% (năm 2015) giảm còn dưới 4,5% (năm 2020), tỷ lệ hộ nghèo trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số từ 40,1% giảm còn dưới 6,25%. Tại tỉnh Đắk Nông, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân đạt 8,02%/năm, tỷ lệ hộ nghèo (năm 2020) giảm 12,28% so với năm 2016; tỉnh Lâm Đồng, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân tăng 8,0%/năm, tỷ lệ hộ nghèo giảm sâu, toàn tỉnh hiện còn 1,75%.

Các địa phương chủ động ban hành và triển khai thực hiện nhiều chương trình, dự án đặc thù đối với đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn như chương trình hành động thực hiện công tác dân tộc; chính sách đầu tư phát triển bền vững bon, buôn có đông đồng bào dân tộc thiểu số; xây dựng đề án về nâng cao chất lượng học sinh dân tộc thiểu số; chính sách hỗ trợ kinh phí cho học sinh, sinh viên là người dân tộc thiểu số; chính sách hỗ trợ lãi suất vay vốn sản xuất, kinh doanh; triển khai xây dựng đội ngũ cán bộ là người dân tộc thiểu số. Thực hiện tốt chính sách người có uy tín trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện dân chủ ở cơ sở theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

Những thập niên gần đây, tôn giáo du nhập và phát triển mạnh trong các cộng đồng dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Các giá trị văn hóa, đạo đức có những tác động tích cực, làm phong phú đời sống văn hóa ở Tây Nguyên. Các tôn giáo tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội, khôi phục không gian văn hóa truyền thống, bảo tồn ngôn ngữ, chữ viết của đồng bào Tây Nguyên.

Những giá trị văn hóa tôn giáo được một bộ phận đồng bào ở Tây Nguyên tiếp nhận và thực hành trong cuộc sống, từ đó góp phần đẩy lùi những hủ tục, tập quán lạc hậu. Cùng với quá trình mở rộng ảnh hưởng, các tổ chức tôn giáo cũng từng bước hội nhập, tiếp nhận trở lại những giá trị, bản sắc văn hóa dân tộc.

Xu thế hội nhập văn hóa dân tộc đã mang lại cho tôn giáo ở Tây Nguyên một diện mạo riêng, góp phần bảo tồn, gìn giữ giá trị văn hóa Tây Nguyên, làm phong phú văn hóa - nghệ thuật Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, đời sống tôn giáo ở Tây Nguyên cũng có những tác động bị các thế lực thù địch lợi dụng gây biến động phức tạp về chính trị, xã hội. Vì thế, việc thực hiện hiệu quả chính sách tôn giáo, dân tộc ở Tây Nguyên góp phần khơi dậy và nâng cao ý thức đoàn kết của đồng bào, từ đó làm thất bại âm mưu chia rẽ, kích động của các thế lực thù địch.

Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 6/10/2022 của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Tây Nguyên đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 nêu rõ những thành tựu nổi bật của các tỉnh Tây Nguyên, trong đó quy mô kinh tế của vùng tăng nhanh, năm 2020 gấp hơn 14 lần năm 2002 và 3,1 lần năm 2010.

Tốc độ tăng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân giai đoạn 2002 - 2020 đạt gần 8%/năm, tốc độ tăng trưởng của các khu vực kinh tế đều cao nhất so với các vùng. GRDP bình quân đầu người năm 2020 đạt trên 48 triệu đồng, gấp 10,6 lần năm 2002. Giá trị văn hóa các dân tộc được bảo tồn, kế thừa và phát huy, một số di tích văn hóa lịch sử được tu bổ, tôn tạo…

Nghị quyết cũng nêu rõ những hạn chế, tồn tại, phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế. Tăng trưởng kinh tế thiếu bền vững, có xu hướng chậm lại; thu nhập bình quân đầu người tuy cải thiện song vẫn ở mức thấp; giảm nghèo chưa bền vững… Nghị quyết đề ra mục tiêu, tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân giai đoạn 2021 - 2030 đạt khoảng 7 - 7,5%.

Đến năm 2030, GRDP bình quân đầu người đạt khoảng 130 triệu đồng, tương đương 5.000 USD. Xây dựng nền văn hóa Tây Nguyên tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng, tôn trọng các giá trị văn hóa khác biệt giữa các dân tộc, coi đây là động lực, nền tảng cho phát triển và hội nhập quốc tế của vùng. Ưu tiên bảo vệ, phát huy giá trị di sản văn hóa, giá trị truyền thống, bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số…

Lan tỏa về sức mạnh đoàn kết, chung sức đồng lòng

Không chỉ thể hiện sự quan tâm đặc biệt qua các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, xã hội mà trong các thời kỳ cách mạng, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta đều dành thời gian đến thăm, kiểm tra thực tế và động viên bà con Tây Nguyên chăm lo sản xuất, ổn định đời sống.

Trong dịp kỷ niệm 88 năm Ngày truyền thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (18/11/1930 - 18/11/2018), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã về dự Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc tại xã Dur Kmăl, huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk. Tổng Bí thư chia sẻ niềm vui mừng, phấn khởi về thăm và dự Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc với bà con các dân tộc xã Dur Kmăl, vùng đất anh hùng, có truyền thống đấu tranh cách mạng lâu đời.

Tổng Bí thư mong muốn bà con các dân tộc ở Dur Kmăl, Krông Ana nói riêng cũng như đồng bào Tây Nguyên nói chung tiếp tục triển khai có hiệu quả các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; khẳng định Trung ương luôn tạo điều kiện để các địa phương xây dựng phát triển, kể cả cung cấp nguồn lực vật chất, kinh nghiệm, đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học kỹ thuật…

Làm việc với lãnh đạo tỉnh Đắk Lắk, Tổng Bí thư ghi nhận những thành quả đạt được và lưu ý, cần quan tâm nhiều hơn đến đời sống dân sinh, đồng bào dân tộc thiểu số, cả những đồng bào các tỉnh miền núi phía Bắc đến đây sinh sống… “Những kết quả đạt được cần phát huy mạnh mẽ, không được chủ quan… Có những đánh giá tổng kết sâu sắc để đề ra những chương trình chiến lược nhằm xây dựng tỉnh Đắk Lắk thành trung tâm về kinh tế - chính trị - văn hóa xã hội của vùng Tây Nguyên” – Tổng Bí thư nêu rõ.

Trước đó, trong chuyến thăm Gia Lai vào tháng 4/2017, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trực tiếp xuống thăm cơ sở, gặp gỡ, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của bà con. Tổng Bí thư đến thăm nhân dân xã Ayun, nơi có gần 100% dân số là đồng bào dân tộc thiểu số thuộc huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai.

Tổng Bí thư vào thăm gia đình thương binh Đinh Phi, hộ gia đình chính sách có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn ở làng Tung Ke 2, xã Ayun. Trong chuyến thăm này, nhà báo Lê Trí Dũng, phóng viên ảnh TTXVN đã ghi lại những bức ảnh chân thực, xúc động về người lãnh đạo cao nhất của Đảng giản dị ngồi trên bậc cửa của căn nhà lợp mái tôn, trò chuyện, tặng quà và ân cần thăm hỏi cuộc sống của thương binh Đinh Phi.

“Ngồi đối diện, người thương binh dân tộc thiểu số với ánh mắt tươi vui như muốn gửi trọn niềm tin của đồng bào dân tộc thiểu số Tây Nguyên với Đảng, thể hiện lòng Đảng, lòng dân gắn bó, mãi mãi đi theo con đường mà Đảng, Bác Hồ kính yêu và nhân dân ta đã lựa chọn. Những hình ảnh chân thực, giản dị đó có sức lan tỏa về sức mạnh đoàn kết, đồng lòng và sẽ còn mãi với thời gian” – nhà báo Lê Trí Dũng chia sẻ.

Từ chủ trương, đường lối, các quyết sách quan trọng trong phát triển kinh tế, xã hội đến những hình ảnh chân thực, sinh động thể hiện tình cảm, sự quan tâm, gắn bó sâu sắc của lãnh đạo Đảng, Nhà nước với bà con các dân tộc Tây Nguyên cũng như niềm tin yêu của bà con với Đảng, Nhà nước, với các đồng chí lãnh đạo. Hiện thực đó bác bỏ những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực xấu, vu cáo Đảng, Nhà nước “bỏ mặc đồng bào”, “phân biệt đối xử”, “đẩy vào đường cùng, buộc phải vùng lên”…

Do đó, chúng ta cần nâng cao nhận thức, nhận diện để tẩy chay, đấu tranh với âm mưu, hoạt động chống phá của kẻ xấu, để đồng bào các dân tộc Tây Nguyên đoàn kết, xây dựng cuộc sống ấm no ngay trên buôn làng mình, như lời Bác Hồ dạy năm xưa: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê, Xê Đăng hay Ba Na và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau”.

Đăng Minh - Văn Thành

Về Tây Nguyên, lắng nghe tiếng nói từ các buôn làng (Bài 3)

Thứ Tư, 05/07/2023, 05:24 

Để hiểu cuộc sống đồng bào Tây Nguyên thì phải do chính người Tây Nguyên cảm nhận. Tháng 7, ít tuần sau vụ khủng bố xảy ra, nhóm phóng viên chúng tôi đã trở lại xã Ea Ktur và Ea Tiêu, huyện Cư Kuin cũng như nhiều buôn làng khác ở Tây Nguyên để ghi nhận thực tiễn, trò chuyện, tìm hiểu tâm tư, tình cảm của các già làng, chức sắc, bà con nơi đây…

Tại sao quê hương đang yên bình lại đi nghe kẻ xấu, gây tội ác?

Trước sự thay đổi to lớn của quê hương mình, già làng Y Bâm Ksơr, buôn Đliê Ya B, xã Đliê Ya, huyện Krông Năng (Đắk Lắk) nói với chúng tôi rằng, đời sống bây giờ khác trước nhiều, “bọn nhỏ đứa nào cũng được tới trường, đường sá đều được bê tông hóa, đèn điện đến từng nhà...”.

image001.png -0
Già làng Y Pri Niê.

Theo già làng Y Bâm Ksơr, mấy chục năm trước, bà con địa phương còn nghèo khó lắm. Có gia đình làm tới 2, 3ha rẫy mà quanh năm vẫn đói ăn. Nay nhờ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, đồng bào được hỗ trợ vay vốn làm ăn, được hướng dẫn kỹ thuật, hỗ trợ chuyển đổi cây trồng, vật nuôi nên các hộ trong buôn đã khá lên nhanh chóng. Nay bà con thi đua làm giàu, nhiều gia đình xây được biệt thự khang trang, cuộc sống dư dả.

“Nghe tin bọn xấu đập phá trụ sở UBND xã, sát hại cán bộ, chúng tôi hết sức bất ngờ, căm phẫn. Bà con đều tự hỏi, tại sao quê hương đang yên bình, đất nước đang phát triển, buôn làng giàu đẹp từng ngày mà họ lại gây tội ác, hành động man rợ, mất nhân tính như vậy? Đảng, Nhà nước luôn có nhiều chính sách, chủ trương ưu đãi cho đồng bào, chăm lo cuộc sống cho bà con rất tốt.

Hành động của những kẻ khủng bố kia khiến bà con chúng tôi hết sức căm phẫn” - già làng Y Bâm Ksơr bức xúc.

Khi nói về nhóm người dùng vũ khí tấn công trụ sở cơ quan nhà nước ở huyện Cư Kuin (Đắk Lắk), sát hại cán bộ, chiến sĩ Công an và người dân, ông Y Mơi Chinh, nguyên Trưởng phòng Dân tộc Tôn giáo, Ban Dân vận Tỉnh ủy Đắk Nông đã bật khóc vì quá đau lòng.

Ông Y Mơi Chinh cho biết, trong kháng chiến chống quân xâm lược, các dân tộc đã đoàn kết chiến đấu, biết bao người đã hy sinh để giành được độc lập, trong đó có bà con vùng đất Tây Nguyên. Sau ngày đất nước thống nhất, đời sống đồng bào được chính quyền chăm lo, ưu đãi hơn người Kinh. Nhiều thầy cô giáo bỏ quê hương, bản quán vào vùng rừng thiêng nước độc này mang ánh sáng con chữ tới cho đồng bào. Cơ sở hạ tầng, điện, đường, trường, trạm… chỗ nào cũng được Nhà nước quan tâm đầu tư, người dân được hỗ trợ vốn làm ăn, trẻ con được đi học, không ai bị phân biệt đối xử, không ai bị bỏ lại phía sau.

“Tôi khuyên đồng bào không nghe, không theo lời dụ dỗ của bọn phản động để phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, vi phạm pháp luật” - ông Y Mơi Chinh bày tỏ.

Dẫn chúng tôi đi trên con đường bê tông sạch đẹp nối liền các buôn làng Ê Đê, già làng Y Pri Niê (SN 1940, trú tại buôn Sút Mđưng, xã Cư Suê, huyện Cư Mgar, tỉnh Đắk Lắk) vui mừng cho biết, xã có 11 thôn, buôn, với dân số hơn 11.800 người, trong đó đồng bào dân tộc thiểu số chiếm gần 60%.

Từ nguồn lực đầu tư của Nhà nước, cùng với sự chung tay của người dân, đến nay, xã Cư Suê là một trong những xã đầu tiên đạt chuẩn xã nông thôn mới của huyện và là một trong sáu xã nông thôn mới tốp đầu của tỉnh. “Cốt lõi là sự đoàn kết, chung tay góp sức của nhân dân, sự quan tâm đầu tư của Đảng, Nhà nước và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, xã Cư Suê mới được bộ mặt tươi mới như hôm nay” - ông Y Pri Niê khẳng định.

Về Tây Nguyên, lắng nghe tiếng nói từ các buôn làng (Bài 3) -0
Già làng Ka Să Ha Tang (phải).

Lên án vụ việc vào ngày 11/6 vừa qua, già Y Pri Niê mong muốn Nhà nước sớm trừng trị các đối tượng này nghiêm khắc theo quy định của pháp luật.

“Trong những năm qua, bản thân mình thường xuyên dạy bảo con cháu, người thân trong gia đình và người dân trong buôn làng tuyệt đối không nghe, không tin những lời dụ dỗ, kích động, lừa bịp lôi kéo của kẻ xấu. Hãy sinh sống, lao động theo Hiến pháp, pháp luật, yên tâm lao động sản xuất, học tập để mai này góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu mạnh” - già Y Pri Niê nói.

Những ai đang bị kẻ xấu xúi giục, lôi kéo cần sớm tỉnh ngộ

Trong căn nhà đối diện với trụ sở UBND xã Ea Tiêu, huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk - nơi xảy ra vụ khủng bố vào rạng sáng 11/6, ông Y Luyện Niê Kđăm, nguyên Bí thư Tỉnh uỷ Đắk Lắk ngồi lặng im nhìn xa xăm, rưng rưng nước mắt. Ông đau xót vì chính những người gây ra tội ác vào cái đêm định mệnh ấy hầu hết là người đồng bào dân tộc của mình, vì nghe theo kẻ xấu mà hành động mất nhân tính.

Ông tâm sự, cách đây hơn 20 năm, tại Đắk Lắk cũng từng xảy vụ việc một bộ phận người đồng bào dân tộc thiểu số bị bọn phản động FULRO lưu vong và các thế lực thù địch xúi giục, lôi kéo tham gia gây rối, biểu tình, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự.

 “Khi đó, đang là Bí thư Tỉnh uỷ, chứng kiến bà con mình nghe theo lời kẻ xấu xúi giục, mình buồn lắm. Đảng, Nhà nước ta luôn chăm lo đời sống cho người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số nhưng một số ít người vì lợi ích cá nhân, nghe theo lời dụ dỗ của kẻ xấu mà làm điều trái với lương tâm, trái với chính truyền thống tốt đẹp của đồng bào mình” - ông Y Luyện Niê Kđăm lên án và cho rằng, nhiều người vì kém hiểu biết, nghe theo lời dụ dỗ rồi cửa mất nhà tan, vợ chồng, con cái ly tán, bản thân dính vào tù tội.

Những năm qua, cuộc sống của đồng bào ngày càng khá lên, rất nhiều người vươn lên làm giàu, cớ sao lại nghe theo những lời xúi giục rồi đi gây rối, giết người, làm những việc nhẫn tâm như vậy?  Ông Y Luyện Niê Kđăm cũng khuyên bà con hãy tập trung chăm lo làm ăn, phát triển kinh tế.

“Xuất phát từ truyền thống nhân ái của dân tộc Việt Nam, Đảng, Nhà nước ta có chính sách nhân đạo, khoan hồng với những người lầm đường, lạc lối. Do đó, những ai đang bị kẻ xấu xúi giục, lôi kéo cần sớm tỉnh ngộ, hối cải, kiên quyết không nghe theo, sớm dứt bỏ để trở thành người có ích cho xã hội” - nguyên Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk chia sẻ.

Trò chuyện với chúng tôi, nhiều bà con dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên cho biết, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm chăm lo phát triển kinh tế - xã hội cho vùng Tây Nguyên, nhờ đó cuộc sống người dân vùng cao ngày càng phát triển, no ấm.

“Chưa bao giờ quê hương lại giàu đẹp, khang trang, sạch sẽ như lúc này. Bà con đồng bào Kho mình bây giờ không còn gia đình nào phải chạy vạy từng bữa ăn. Cuộc sống ấm no, đầy đủ. Bây giờ chỉ lo lao động sản xuất cho giỏi mà làm giàu thôi” - ông Lơ Mu Ha Djô (sinh năm 1960, trú tại thôn 6, xã Đạ Sar, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng) tự hào khi nói về sự đổi thay mạnh mẽ của quê hương.

Ông kể rằng, thời kỳ mới giải phóng, đất nước vừa thống nhất, hầu hết bà con còn thiếu đói, mù chữ, bệnh tật không có thuốc chữa, không được chăm sóc y tế đầy đủ. Đã vậy, các thế lực thù địch còn thường xuyên kích động, xuyên tạc chính sách của Đảng, Nhà nước, dụ dỗ bà con đi theo chúng, làm những việc xấu, vi phạm pháp luật, gây tổn hại tới khối đại đoàn kết dân tộc. Ngày nay, đất nước, quê hương, buôn làng đã khởi sắc từng ngày, đời sống người dân nâng cao...

Để chứng minh cho sự đổi thay to lớn trên quê hương mình, ông Lơ Mu Ha Djô vẫy tay, ra hiệu cho tôi rời khỏi căn nhà khang trang của gia đình để bước ra con đường lớn. Ông chỉ về bên phải và nói: “Đó là hội trường văn hóa của thôn. Dưới nữa là nhà thờ Tin lành vừa được xây dựng. Trên kia có cái nhà thờ lớn nữa. Con đường này Nhà nước mới mở rộng gấp đôi, bà con hiến đất, Nhà nước bỏ vốn đầu tư. Con gái mình làm ở trạm y tế xã, con rể vừa lên rẫy chăm cây cà phê. Vợ chồng mình già rồi, ở nhà trông cháu, lo việc nhà”.

Thấu hiểu giá trị của cuộc sống an lành, yên ổn

Đến thăm già Ka Să Ha Tang (sinh năm 1949, già làng thôn 1, xã Đạ Sar, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng) khi ông đang đăm chiêu ngồi trước cửa. Ông lộ rõ sự đau xót, hụt hẫng khi nói về việc một nhóm người có vũ trang tấn công, sát hại các chiến sĩ Công an, cán bộ UBND xã và dân thường ở Ea Tiêu và Ea Ktur, huyện Cư Kuin. “Quá tàn ác! Không thể chấp nhận được” - già làng Ka Să Ha Tang bắt đầu câu chuyện bằng việc kịch liệt lên án hành động khủng bố, giết người dã man của nhóm đối tượng trên.

Là người nặng lòng với bà con đồng bào dân tộc thiểu số và có nhiều đóng góp cho sự phát triển ở địa phương từ ngày đất nước thống nhất tới nay, hơn ai hết, già làng Ha Tang thấu hiểu được sự quý giá không gì có thể so sánh được với nền độc lập, tự do, hạnh phúc, cuộc sống an lành, đồng bào yên ổn làm ăn.

Già làng Ka Să Ha Tang là người đã đồng hành cùng chính quyền địa phương thu phục, kêu gọi, giáo dục nhiều người lầm đường lạc lối đi theo kẻ xấu trở về hướng thiện sau năm 1975. Được sự che chở của già làng Ha Tang, sự khoan hồng của Đảng và Nhà nước, những người nhẹ dạ, trót đi theo kẻ xấu trở về làng nay đã có cuộc sống no đủ, con cháu sum vầy, gia đình hạnh phúc, chấp hành tốt các quy định của pháp luật...

Theo thống kê, trong tổng số 7.800 thôn, buôn, tổ dân phố toàn vùng Tây Nguyên thì đã có tới 2.800 thôn, buôn, tổ dân phố có đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Có đi suốt chiều dài Tây Nguyên hôm nay, từ triền núi Ngọc Linh phía Bắc đến thung lũng đầu nguồn sông Đồng Nai phía Nam, đâu đâu chúng tôi cũng bắt gặp hình ảnh tươi mới, khởi sắc của những buôn làng…

Chỉ có tận mắt chứng kiến và dõi theo qua nhiều giai đoạn mới có thể cảm nhận hết sự đổi thay trên các buôn làng một thời chưa xa còn tập quán du canh du cư, cuộc sống vô cùng đói nghèo, cơ cực như thế nào. Đương nhiên, trong sự phát triển vẫn còn đó những tồn tại, nhất là những yếu tố khách quan khiến tiềm lực Tây Nguyên chưa thể phát huy đúng mức và vẫn còn những cán bộ, đảng viên chưa làm trọn bổn phận, để người dân bức xúc. Tuy nhiên, những tồn tại, hiện tượng tiêu cực đang được chấn chỉnh để xây dựng Tây Nguyên ổn định, phát triển.

 Chúng ta thấy rằng, trong kháng chiến, cán bộ, đảng viên đã sống chung với đời sống hạt muối, củ khoai của đồng bào để cùng dân bám buôn, bám làng, bám núi rừng đánh giặc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Ngày nay, tổ chức Đảng, chính quyền và cả hệ thống chính trị cùng vào cuộc để xây dựng một Tây Nguyên phát triển bền vững, xây dựng những buôn làng kiên cường, bất khuất trong chiến tranh trở thành những vùng quê no ấm, hạnh phúc như hôm nay. Đó là sự thật, là minh chứng thực tiễn sống động qua những chuyến đi. (Còn nữa)

Đăng Minh - Văn Thành