Cái nhìn thiếu thiện chí của RSF về tự do báo chí ở Việt Nam

QĐND - Dựa trên những thông tin thiếu khách quan, không trung thực, bóp méo sự thật, Bản phúc trình mang tên Chỉ số tự do báo chí 2014, của cái gọi là Tổ chức Phóng viên không biên giới (Reporteurs Sans Frontieres - RSF) đã xếp Việt Nam đứng gần chót trên tổng số 180 nước trên thế giới. Lý do mà họ đưa ra không có gì khác là Việt Nam kiểm soát và ngăn chặn internet, bắt giữ, giam cầm các bloggers có tiếng nói đối lập, v.v…
Đây không phải lần đầu tiên RSF đưa ra cái nhìn thiếu thiện chí, nhận xét sai lệch về tình hình tự do báo chí ở Việt Nam. Hành động của những người đang nắm quyền điều hành RSF lộ rõ ý đồ, động cơ chính trị không tốt đối với Việt Nam. Cần phải khẳng định, sự thật về tự do báo chí ở Việt Nam trái ngược hẳn với những gì mà RSF đưa ra.
Chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam là khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để người dân khai thác, sử dụng internet phục vụ phát triển kinh tế-văn hóa-xã hội, hỗ trợ cải cách hành chính, nâng cao chất lượng cuộc sống và thực hiện các quyền tự do cơ bản của nhân dân. Theo tinh thần ấy, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu về tự do báo chí, tự do internet. Kết quả khảo sát của WeAreSocial - một tổ chức nghiên cứu độc lập về truyền thông xã hội toàn cầu đã cho thấy, tính đến tháng 12-2012, số người dùng internet ở Việt Nam là 30,8 triệu người (tăng 10,8 triệu người so với năm 2008), chiếm 34% dân số (cao hơn mức trung bình của thế giới là 33%). Việt Nam hiện có hơn 3 triệu người dùng blog cá nhân để bày tỏ chính kiến trên mạng xã hội, tổ chức các diễn đàn thảo luận, phản biện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, gửi các góp ý, kiến nghị đến các cơ quan chức năng... Tổ chức Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) xếp hạng Việt Nam đứng thứ ba trong khu vực Đông Nam Á và thứ 8 châu Á về số lượng người sử dụng internet. Sự phát triển nhanh của các phương tiện thông tin đại chúng và internet cho thấy, quyền tự do ngôn luận, tự do thông tin ở Việt Nam đã có bước cải thiện và phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, cũng như mọi quốc gia trên thế giới, luật pháp Việt Nam quy định hạn chế quyền tự do ngôn luận trong một số trường hợp, phù hợp với Công ước về các quyền dân sự và chính trị, nhằm tôn trọng các quyền hợp pháp và chính đáng, uy tín, danh dự của người khác; nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn công cộng, sức khỏe cộng đồng và đạo đức của xã hội.
Những trường hợp mà RSF gọi là “các bloggers có tiếng nói đối lập” thực chất, họ đã vi phạm pháp luật Việt Nam. Lợi dụng đặc tính lan truyền nhanh, rộng và khó kiểm soát của thông tin trên mạng, những đối tượng đó đã xem internet là một trong những công cụ để tuyên truyền xuyên tạc các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời, truyền bá những luận điệu phản động gây hoang mang trong xã hội... nhằm chống phá công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của nhân dân Việt Nam. Các cơ quan bảo vệ pháp luật Việt Nam bắt giữ, xử lý họ là vì họ vi phạm pháp luật.
Những thành tựu về tự do báo chí nói chung, tự do internet nói riêng của Việt Nam là không thể phủ nhận. Những tiến bộ đó được sự ghi nhận, đánh giá cao của dư luận quốc tế. Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam có quyền tự hào về những thành quả của mình và kiên quyết đấu tranh, phản bác mọi suy nghĩ, hành động xuyên tạc, bóp méo sự thật về tình hình tự do báo chí nói chung, tự do internet nói riêng ở Việt Nam.

KIM NGỌC

Không thể suy diễn chủ quan về tự do báo chí ở Việt Nam

QĐND - Mới đây, Báo Sài Gòn tiếp thị (SGTT) thuộc cơ quan chủ quản là Trung tâm Xúc tiến - Thương mại - Đầu tư TP Hồ Chí Minh, chính thức bị Bộ Thông tin và Truyền thông thu hồi giấy phép hoạt động do thua lỗ, nợ đọng quá nhiều trong thời gian kéo dài, không đủ điều kiện về tài chính. Điều này ai cũng biết. Ấy vậy mà, một số báo, đài nước ngoài (RFA, BBC, VOA…) và nhiều trang blog lại cố tình tung tin sai sự thật rằng Báo SGTT bị “bức tử” do có nhiều bài viết đụng chạm đến vấn đề “nhạy cảm”, đồng thời cho rằng, vấn đề tự do báo chí ở Việt Nam đang bị xâm phạm và đây là sự mở đầu cho chiến dịch thu hẹp hệ thống báo chí Việt Nam đến năm 2020 theo đề án của Bộ Thông tin và Truyền thông đề xuất.
Phải nói ngay rằng, Báo SGTT bị thu hồi giấy phép hoạt động là do đề nghị của chính cơ quan chủ quản khi báo này thua lỗ, chứ hoàn toàn không vì bất cứ lý do “nhạy cảm” nào khác. Cho đến thời điểm trước khi bị thu hồi giấy phép, với khoản nợ đọng về tài chính lên tới 50 tỷ đồng, doanh thu hằng tháng của Báo SGTT vẫn không đủ để trả lãi suất ngân hàng. Trên thực tế, không chỉ ở Việt Nam mà ngay cả nước ngoài, tờ báo nào không đủ sức cạnh tranh, không đủ khả năng về tài chính thì hiển nhiên phải chấp nhận đình bản. Điều này chẳng có gì phải bàn cãi. Không có ai "bức tử" tờ báo này cả. Nói tờ báo bị "bức tử" là suy diễn chủ quan, vô căn cứ !
Ảnh minh họa: Tuổi trẻ
Ở Việt Nam, mỗi tờ báo có công chúng, mục tiêu riêng, hoạt động trong những lĩnh vực mà mình đăng ký. Báo SGTT cũng như tất cả các cơ quan báo chí khác đều phải hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích ghi trong giấy cấp phép. Đi ngược lại tôn chỉ, mục đích là trái pháp luật. Không thể vì sự cạnh tranh thông tin hay thứ “danh tiếng” mơ hồ nào đó mà đưa tin, bài trái với đường lối, quan điểm của Đảng, làm phương hại tới an ninh quốc gia và lợi ích dân tộc… Đó là điều mà mọi tờ báo đều phải hiểu và tuân thủ.
Mặt khác, trước thông tin về Đề án quy hoạch hệ thống báo chí toàn quốc đến năm 2020, một số người đã vội vàng suy diễn chủ quan về tự do báo chí ở Việt Nam là hoàn toàn không có cơ sở. Thực tế phát triển báo chí thời gian qua cho thấy, bên cạnh những thành tựu quan trọng và đóng góp to lớn của báo chí đối với công cuộc đổi mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao của nhân dân, báo chí cũng bộc lộ một số bất cập. Không ít các trang điện tử và báo, tạp chí in giảm sút cả về chất lượng chính trị, chất lượng văn hoá, chất lượng khoa học và chất lượng nghiệp vụ của thông tin. Nhiều tờ báo có biểu hiện xa rời tôn chỉ, mục đích, có khuynh hướng thông tin giật gân, câu khách, nội dung thông tin các báo na ná nhau, dẫn đến nhàm chán và lãng phí tiền của. Hệ thống báo chí Việt Nam có bước phát triển mạnh về số lượng nhưng chất lượng chưa tương xứng, còn chồng chéo về tôn chỉ, mục đích, nội dung, đối tượng phục vụ… Bởi thế, việc điều chỉnh, quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống báo chí là một đòi hỏi cấp thiết, phù hợp với tình hình thực tiễn đất nước, bảo đảm cho báo chí hoạt động tốt hơn, đúng tôn chỉ, mục đích, trong khuôn khổ pháp luật. Đây là việc làm cần thiết, nhằm hướng tới sự hợp lý về số lượng cơ quan báo chí và ấn phẩm báo chí, nâng cao chất lượng, phục vụ tốt hơn nhu cầu thông tin của độc giả và của toàn xã hội. Ít mà tinh, gọn mà hiệu quả, quy hoạch, sắp xếp gọn lại để báo chí có điều kiện đầu tư, phát triển theo chiều sâu, phát huy ưu điểm, khắc phục thiếu sót, khuyết điểm, thực hiện ngày càng tốt hơn chức năng, nhiệm vụ là việc làm hữu ích được xã hội đồng thuận, báo giới tán thành. Bởi vậy, nói tự do báo chí ở Việt Nam bị kìm hãm hoàn toàn là sự suy diễn, áp đặt chủ quan. 
Sự việc của Báo SGTT càng chứng tỏ các thế lực thù địch và những phần tử cơ hội có thể lợi dụng bất cứ vấn đề gì, hiện tượng gì trong đời sống xã hội của đất nước để xuyên tạc tình hình, kích động dư luận, đả phá chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Tuy nhiên, sự thật luôn là sự thật, không thể ai "đổi trắng thành đen". Có điều, bất cứ ai khi tiếp nhận những thông tin suy diễn kiểu này, cần rất tỉnh táo và cảnh giác.

YẾN LONG

Không nên cố tình hiểu sai về quyền dân sự và chính trị

QĐND - Trước việc Việt Nam áp dụng các biện pháp xử lý đối với một số đối tượng phạm tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Điều 88 Bộ luật Hình sự, thời gian gần đây một số người tiếp tục bày tỏ quan điểm cho rằng mọi người đều có quyền tự do phát biểu, bày tỏ quan điểm của mình không ai được cấm đoán... Họ đã dựa vào Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị để bảo vệ cho luận điểm của mình và cho rằng, Việt Nam đã vi phạm quyền tự do ngôn luận. 
Cần phải nói ngay rằng, những người có quan điểm như trên đã cố tình hiểu sai Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị. Để bảo đảm quyền con người, các công ước quốc tế, trong đó có Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị đặc biệt coi trọng lợi ích thiết yếu của mọi quốc gia là giữ vững hòa bình ổn định, an ninh và trật tự xã hội, chống khủng bố... Khoản 3 Điều 19 của Công ước Quốc tế về các quyền dân sự, chính trị đã quy định rất rõ việc thực hiện quyền tự do phát biểu quan điểm. Theo đó, khi thực hiện quyền này mọi người phải có những bổn phận và trách nhiệm đặc biệt. Quyền này chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật vì nhu cầu: "Tôn trọng những quyền tự do và thanh danh người khác; Bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe công cộng hay đạo lý".
Như vậy, mặc dù quyền tự do ngôn luận có tính cách hòa bình... được thế giới thừa nhận nhưng một khi các quyền này ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự công cộng của quốc gia nào thì quốc gia đó có quyền giới hạn các quyền tự do ngôn luận có tính cách hòa bình nêu trên. Bên cạnh đó, Điều 20 của Công ước Quốc tế về các quyền dân sự, chính trị cũng nghiêm cấm mọi hình thức tuyên truyền, cổ vũ chiến tranh, cũng như mọi hình thức gieo rắc căm hờn, xúi giục kỳ thị, hiềm khích, kích thích bạo động giữa các quốc gia, các chủng tộc, tôn giáo.
Như vậy Điều 88 Bộ luật Hình sự 1999 của Việt Nam quy định: “Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” là hoàn toàn phù hợp với Công ước Quốc tế về các quyền dân sự, chính trị. Mặt khác, nội dung của Điều 88 Bộ luật Hình sự là cần thiết và phù hợp với tình hình thực tế Việt Nam - một quốc gia đã phải trải qua biết bao năm chiến tranh chống giặc ngoại xâm mới giành lại được hòa bình, độc lập và tự do dân tộc. Mặc dù vậy, các lực lượng thù địch chưa từ bỏ tham vọng chính trị, đặc biệt những năm gần đây họ gia tăng nuôi dưỡng, sử dụng các phần tử, các tổ chức nước ngoài để cấu kết, móc nối với các phần tử phản động ở trong nước, ra sức tuyên truyền, kích động chống phá nhằm lật đổ Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

AN QUỐC

Việt Nam ủng hộ cách tiếp cận toàn diện nhằm giải quyết các vấn đề về hận thù tôn giáo và khủng bố

QĐND - Ngày 12-3, Đại sứ Nguyễn Trung Thành, Đại diện Thường trực của Việt Nam bên cạnh Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới và các tổ chức quốc tế khác tại Geneva, Thụy Sĩ, đã có phát biểu tại phiên Đối thoại với các Báo cáo viên đặc biệt của Liên hợp quốc về "Tự do tôn giáo và tín ngưỡng" và về "Bảo vệ, thúc đẩy quyền con người trong chống khủng bố" nhân dịp Kỳ họp lần thứ 25 của Hội đồng Nhân quyền.
Phát biểu của Đại sứ hoan nghênh các nỗ lực của Hội đồng Nhân quyền và các Báo cáo viên Liên hợp quốc về tinh thần hợp tác, đối thoại xây dựng và tăng cường hiểu biết giữa các quốc gia cũng như nỗ lực của cộng đồng quốc tế về thúc đẩy, phát triển hài hòa các tôn giáo trên thế giới, góp phần bảo đảm và thúc đẩy các quyền con người, trong đó có tự do tôn giáo và tín ngưỡng.
Ảnh minh hoạ.
 Việt Nam chia sẻ nhận xét, khủng bố và hận thù tôn giáo không chỉ gây tổn thất về người và kinh tế, đảo lộn cuộc sống bình yên của người dân mà còn phá hoại các giá trị văn hóa, tôn giáo tốt đẹp cũng như nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế về xây dựng một thế giới hòa bình, an ninh và thịnh vượng. Những kẻ khủng bố, các tổ chức bảo trợ và hành động lôi kéo, kích động các hoạt động khủng bố cần phải được pháp luật xử lý. Đại sứ nhấn mạnh các biện pháp chống khủng bố phải phù hợp, tuân thủ các nguyên tắc, chuẩn mực của luật pháp quốc tế, trong đó có Hiến chương Liên hợp quốc, luật nhân đạo và nhân quyền quốc tế, đặc biệt quyền được sống, quyền bảo mật thông tin cá nhân và bình đẳng trước pháp luật.
Đồng thời, Việt Nam ủng hộ các nỗ lực của Hội đồng Nhân quyền và cộng đồng quốc tế về cách tiếp cận toàn diện nhằm giải quyết các vấn đề về hận thù tôn giáo và khủng bố, trong đó có các nguyên nhân sâu xa từ nghèo đói, thất nghiệp, bất bình đẳng, phân biệt sắc tộc và tôn giáo.
Đại sứ Nguyễn Trung Thành cũng tái khẳng định các cam kết của Việt Nam về thúc đẩy và bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người dân, trong đó có các quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo. Phát biểu của Đại sứ cũng giới thiệu tình hình tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam; trong đó, 95% người dân Việt Nam theo các tín ngưỡng, tôn giáo phổ biến trên thế giới như đạo Phật, Thiên Chúa giáo, Tin lành và Hồi giáo với số lượng lớn các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau diễn ra hàng năm.
Nhân dịp này, Đại sứ Nguyễn Trung Thành thông báo, Việt Nam đang phối hợp chặt chẽ với Liên hợp quốc tích cực chuẩn bị để bảo đảm thành công chuyến thăm, làm việc của Báo cáo viên đặc biệt về tôn giáo tại Việt Nam vào cuối năm nay.

ĐOÀN CA

Không mơ hồ trước kiến nghị “quân đội chỉ bảo vệ Tổ quốc”

QĐND - Trong khi quân đội một số nước ra tuyên bố “trung lập về chính trị” trước thực trạng bất ổn chính trị của đất nước họ, một số đối tượng đã phát tán các bài viết trên mạng xã hội đòi “trả quân đội về phục vụ nhân dân, không chính trị hóa quân đội”, “quân đội chỉ bảo vệ Tổ quốc, không phải phục tùng và bảo vệ đảng cầm quyền”… Vậy thực chất của những “lời kêu gọi” trên là gì?
PGS, TS Phan Trọng Hào, Thư ký chuyên trách Hội đồng Lý luận Trung ương khẳng định: Những đòi hỏi “quân đội chỉ bảo vệ Tổ quốc, không phải phục tùng và bảo vệ đảng cầm quyền”, “trả quân đội về phục vụ nhân dân”… thực chất vẫn là để thực hiện ý đồ “phi chính trị hóa quân đội”. Hiến pháp 2013 đã chính thức có hiệu lực từ ngày 1-1-2014, trong đó, Điều 65 ghi rõ: “Lực lượng vũ trang (LLVT) nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Nhân dân, Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa; cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế”.
Ảnh minh hoạ.
 Theo PGS, TS Phan Trọng Hào, hiện nay trên thế giới có nhiều nước khẳng định tính trung lập về chính trị của LLVT. Tuy nhiên, chúng ta cần nhận rõ, trong cấu trúc đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập của các nước nói trên thì việc quy định LLVT trung lập về chính trị là giải pháp bắt buộc với các nước đó. Bởi vì, ở các nước có chế độ đa đảng đối lập, cuộc đấu đá, tranh giành quyền kiểm soát cơ quan quyền lực nhà nước giữa các đảng phái chính trị diễn ra hết sức quyết liệt, phức tạp. Quan điểm “LLVT phải trung lập, đứng ngoài chính trị” được các đảng phái chính trị ra sức tán dương, cổ súy. Thực chất các đảng phái muốn LLVT đứng ngoài cuộc đấu tranh tranh giành quyền kiểm soát quyền lực nhà nước. Còn trong thực tế, ở các nước thực hiện chế độ đa đảng, LLVT chỉ “trung lập chính trị” với các đảng, giữ một khoảng cách với các đảng, không nghiêng về một đảng nào. Tuy vậy, bản thân các đảng chính trị đều ra sức vận động, “mua chuộc”, tìm sự hậu thuẫn từ LLVT. Và khi một đảng giành được quyền lãnh đạo chính quyền nhà nước (thông qua bầu cử) thì đương nhiên đảng đó cũng lãnh đạo LLVT, thậm chí LLVT nhiều nước còn phải làm lễ tuyên thệ trung thành với tổng thống, thủ tướng, vốn cũng là người đứng đầu, hoặc có thực quyền chi phối đảng cầm quyền.
Ở các nước có chế độ đa đảng, lời tuyên bố LLVT chỉ trung thành với nhà nước, về thực chất cũng là trung thành với đảng cầm quyền, khi đảng đó đã chiến thắng qua bầu cử. Hơn nữa, những đảng đối lập trong các nước có chế độ đa đảng này thực chất chỉ là đối lập về hình thức bề ngoài. Bởi vì, về căn bản các đảng này vẫn chung nền tảng ý thức hệ, đa đảng đối lập, nhưng nguyên tắc cơ bản của tổ chức đảng, mục đích hoạt động, và về bản chất vẫn là các đảng của giai cấp tư sản. Các đảng này chỉ khác nhau ở những điểm chi tiết, không cơ bản về những mục tiêu cụ thể, phương cách cụ thể để đạt mục đích chung. Do đó, dù hiến định hay không hiến định vấn đề LLVT trong Hiến pháp ở các nước, thì cũng không có nghĩa LLVT của các nước đó trung lập, đứng ngoài chính trị như các đảng phái chính trị thường tuyên truyền. Thiếu tướng, GS Bùi Phan Kỳ, chuyên viên cao cấp Viện Chiến lược (Bộ Quốc phòng), trong các công trình nghiên cứu của mình đã nhấn mạnh: Nguyên lý “chiến tranh là kế tục của chính trị” không phải do những người cộng sản đặt ra, mà do nhà lý luận quân sự người Phổ Clausewitz khái quát thành quy luật. Vì vậy, thực tiễn lịch sử thế giới chưa từng ghi nhận một quân đội nào đứng ngoài chính trị.
Tại cuộc tọa đàm “Đấu tranh bảo vệ, phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện hiện nay” do Cục Tuyên huấn (Tổng cục Chính trị) tổ chức ngày 26-2-2014, nhiều nhà khoa học trong quân đội đã tham luận làm rõ về lời kêu gọi “quân đội chỉ bảo vệ Tổ quốc”. Các ý kiến chỉ rõ, thực chất của những kêu gọi trên vẫn là âm mưu diễn biến hòa bình, hòng thực hiện “phi chính trị hóa LLVT”, mục đích làm thay đổi bản chất, chức năng, nhiệm vụ của LLVT. Đây chính là âm mưu phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với LLVT, từng bước vô hiệu hóa LLVT, tiến tới thúc đẩy đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập tại Việt Nam, tạo cơ hội để các thế lực thù địch lật đổ thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Âm mưu, thủ đoạn này nằm trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực chống phá chủ nghĩa xã hội.
 Các thế lực thù địch ra sức truyền bá quan điểm “quân đội trung lập”, nhằm lôi kéo quân đội xa rời hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa, tách LLVT ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; làm cho LLVT bị tha hóa, biến chất về chính trị và bị vô hiệu hóa; làm cho Đảng Cộng sản, Nhà nước và nhân dân mất chỗ dựa vững chắc để bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Lời kêu gọi “quân đội chỉ bảo vệ Tổ quốc” đưa ra không chỉ do phương pháp nhận thức mang tính tư biện, suy diễn một cách chủ quan, phiến diện, mà còn xuất phát từ những toan tính cơ hội, thực dụng, ngộ nhận mình là “người có tài, am hiểu thời thế”. Sự kiện Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam thông qua Hiến pháp 2013 với tỷ lệ gần như tuyệt đối, khẳng định nhân dân ta không chấp nhận quan điểm lập lờ, mị dân đó, bởi đó sẽ là nguyên nhân làm suy yếu sức mạnh bảo vệ Tổ quốc của LLVT, dẫn đến mất ổn định chính trị - xã hội.
Sinh thời, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhiều lần nhận được câu hỏi của các tướng lĩnh và giới nghiên cứu quân sự thế giới: “Vì sao Quân đội nhân dân Việt Nam, từ không một tấc sắt trong tay lại đánh thắng hai đế quốc to trong những cuộc chiến tranh không cân sức?”. Đại tướng đã khẳng định: “Sẽ không tìm được câu trả lời cho câu hỏi này nếu không nhìn vào chiều dày lịch sử dân tộc và đường lối cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”. Quân đội ta do Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập, giáo dục, rèn luyện; quá trình chiến đấu, xây dựng và trưởng thành của Quân đội ta luôn gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng. Mục tiêu chiến đấu của Quân đội ta là nhằm thực hiện thắng lợi mục đích của Đảng nêu ra trong Điều lệ Đảng: “Xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Bản chất cách mạng luôn thống nhất với tính nhân dân, tính dân tộc của Quân đội nhân dân Việt Nam. Nhiệm vụ bảo vệ Đảng Cộng sản Việt Nam là tất yếu, bắt nguồn từ nhu cầu tự thân của Quân đội và nguyện vọng chính đáng trên nền tảng nhận thức khoa học đã được thực tiễn lịch sử kiểm nghiệm của nhân dân Việt Nam.

HỒNG HẢI

Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ cần thay đổi cách tiếp cận nhân quyền

QĐND - Cũng như mọi năm, vừa qua Bộ Ngoại giao Hoa kỳ lại công bố bản “Phúc trình thường niên về tình hình nhân quyền thế giới”. Những ai đã từng nghiên cứu thể chế Hoa Kỳ thì đều có thể nhận thấy: Nếu như “Dự luật nhân quyền” thường là do nhánh lập pháp đưa ra nhằm hạn chế nhánh Hành pháp (Chính phủ, Tổng thống) trong nội bộ Nhà nước Hoa Kỳ, quan hệ giữa Hoa Kỳ với nước khác, thì Phúc trình thường niên là văn bản của nhánh Hành pháp đưa ra những nhận định, đánh giá, thường là sự chỉ trích đối với hàng trăm quốc gia khác. Văn bản này, không chỉ là những nhận định đánh giá nói chung mà còn phê phán thể chế, chính sách, pháp luật thậm chí còn liệt kê những vụ việc cụ thể mà thường thì chỉ có báo chí mới đưa đăng tải… và theo họ tất cả là vi phạm nhân quyền! 
Trong bản phúc trình năm nay, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nhận định rằng: Việt Nam là một quốc gia theo “chế độ toàn trị, độc đảng, đó là Đảng Cộng sản Việt Nam…; “Những vòng bầu cử Quốc hội gần đây nhất, năm 2011, là những cuộc đầu phiếu không tự do mà cũng chẳng công bằng”…; “Quyền chính trị của công dân Việt Nam, đặc biệt quyền đòi hỏi phải có sự thay đổi thể chế tiếp tục bị kiểm soát và bị cấm đoán gắt gao…”; “ Nhà cầm quyền Việt Nam… bắt bớ tùy tiện và giam giữ oan ức những nhà hoạt động dân chủ, các blogger và những người trẻ yêu nước” .
Trước hết, Hiến chương Liên hợp quốc (LHQ) cũng như luật pháp quốc tế nói chung, không quy định các quốc gia phải xây dựng xã hội theo một mô hình, một thể chế như thế nào, TBCN hay XHCN, “đa đảng” hay “độc đảng”, cũng như chưa quy định như thế nào là bầu cử “tự do và công bằng”. Tất cả những điều mà bản phúc trình của Hoa Kỳ vừa công bố chỉ là những nhận xét mang tính chủ quan, áp đặt, dựa trên quan điểm của Hoa Kỳ. Trong khi các nước đã có những quy định cụ thể về bầu cử, ứng cử theo Hiến pháp của mình.
Chế độ Cộng hòa XHCN cùng với các quyền công dân và quyền con người của nhân dân Việt Nam là do nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đứng lên đấu tranh giành lại và bảo vệ mà có. Vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam là do Quốc hội Việt Nam thừa nhận và được ghi vào Hiến pháp. Đến nay, chế độ xã hội Việt Nam là chế độ Cộng hòa XHCN; thể chế Nhà nước Việt Nam là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Ở Việt Nam, từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời (1946) đến nay, các cuộc bầu cử Quốc hội được thực hiện theo đúng quy định của Hiến pháp. Quyền bầu cử, ứng cử tự do của công dân được bảo đảm nghiêm túc. Chế độ nhiệm kỳ của Quốc hội và các chức danh quan trọng của Nhà nước (Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ) được thực hiện theo đúng quy định của Hiến pháp. 
Pháp luật Việt Nam cũng như các quốc gia khác, không có cái gọi là “quyền đòi hỏi phải có sự thay đổi thể chế”. Thể chế của một chế độ xã hội nếu có sự thay đổi thì phải diễn ra theo quy định của Hiến pháp, đó thường là quyền của cơ quan lập pháp chứ không phải là quyền của cá nhân, của tổ chức, kể cả những đòi hỏi của đám đông trên đường phố!
Thứ hai, phúc trình năm 2013 đã thiếu khách quan, công bằng khi đưa ra những chứng cứ gọi là vi phạm các quyền con người. Những vụ việc vụ án mà Tòa án Việt Nam xét xử, cho dù là về tội vi phạm an ninh Quốc gia hay tội phạm kinh tế đều dựa trên các chứng cứ và theo quy định của pháp luật. Một số vụ án về tội vi phạm an ninh Quốc gia, các bị cáo đã thừa nhận họ đã cấu kết với tổ chức Việt Tân âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân. Hoặc bị can về tội trốn lậu thuế thì các luật sư cũng chỉ có thể đưa ra những con số khác nhau để bảo vệ thân chủ của mình, chứ không thể phủ nhận được cáo trạng về tội trốn thuế. Còn người đó có vi phạm những tội khác hay không thì đó lại là chuyện khác. Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, đa dân tộc. Sự tồn tại và phát triển của Việt Nam trước hết nhờ chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng Cộng sản và Nhà nước. Đáng tiếc, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã cố ý đưa ra những thông tin khêu gợi những vấn đề chính trị nhạy cảm, chẳng hạn họ là “thanh niên Công giáo”, hoặc ông ta là nhà “bất đồng chính kiến”… để kích động dư luận chống chế độ xã hội hiện hữu. Việc làm đó là thiếu thiện chí, không minh bạch, khách quan, công bằng và nhằm dụng ý xấu.
Cũng trong phúc trình 2013, người ta không khỏi ngạc nhiên khi Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ nhận định hồ đồ, vô căn cứ rằng Việt Nam “bắt bớ tùy tiện và giam giữ oan ức những nhà hoạt động dân chủ, các blogger và những người trẻ tuổi yêu nước”. Nhận định này đã gây ra những phản cảm đối với tuyệt đại đa số người Việt Nam, nhất là những chiến sĩ đang cầm súng bảo vệ từng tấc đất, vùng trời, vùng  đảo của Việt Nam. Nói cách khác, PTTN đã đánh đồng thậm chí còn xem những kẻ lợi dụng dân chủ, nhân quyền để vi phạm pháp luật cao hơn những chiến sĩ đang chịu đựng mọi khó khăn, gian khổ nơi đảo xa để giữ gìn lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc. 
Thứ ba, đưa ra nhận xét, đánh giá, mà thực chất là chỉ trích, phủ nhận hàng trăm chế độ xã hội, thể chế quốc gia, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã mặc nhiên đặt mình lên trên các thể chế quốc tế song phương và đa phương có quan hệ chính thức với Hoa Kỳ, trong đó có Việt Nam. Có thể nói, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã lặp lại những khiếm khuyết của Ủy ban Nhân quyền trước đây - tổ chức tiền thân của Hội đồng Nhân quyền ngày nay là lạm dụng vai trò là một cường quốc để áp đặt quan điểm, thậm chí là bày tỏ thái độ kỳ thị với nhiều chế độ xã hội, thể chế quốc gia mà Hoa Kỳ không ưa thích. Một trong những thay đổi quan trọng trong hoạt động của Hội đồng Nhân quyền LHQ là thực hiện cơ chế kiểm điểm định kỳ phổ quát (UPR). Đây là quy trình đánh giá định kỳ về tình hình nhân quyền của tất cả các thành viên LHQ. Quy trình này dựa trên nguyên tắc đối xử bình đẳng với tất cả các quốc gia, đồng thời nhằm chia sẻ kinh nghiệm, cải thiện tình trạng nhân quyền ở mỗi quốc gia và với cộng đồng quốc tế. Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ chỉ trích tùy tiện hàng trăm quốc gia, đã đi ngược lại mục tiêu, nguyên tắc của cơ chế UPR. 
Hiện nay, LHQ có tới hơn 190 quốc gia thành viên với với 8 thể chế khác nhau: (1) Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân, (2) Nhà nước Cộng hòa XHCN, (3) Nhà nước quân chủ, (4) Nhà nước quân chủ nghị viện,(5) Nhà nước Cộng hòa tổng thống, (6) Nhà nước Cộng hòa đại nghị, (7) Nhà nước Cộng hòa lưỡng thể, (8) Nhà nước Tôn giáo. Tất cả các quốc gia này đều là thành viên của LHQ. Kỳ thị, phân biệt đối xử với thể chế chính trị của một quốc gia không chỉ là một sai lầm về tư duy chính trị - pháp lý quốc tế mà còn là một sai lầm về chính sách đối ngoại có thể dẫn đến những tổn thất về nhiều mặt không thể lường hết. Tôn trọng và đối xử công bằng với tất cả các thể chế chính trị là bài học lớn nhất đối với nền ngoại giao thế giới trong thời đại toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Không phủ nhận rằng, Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác đang còn những khiếm khuyết nhất định trên lĩnh vực quyền con người. Chẳng hạn như tình trạng phân hóa giàu nghèo, lợi ích nhóm, sự vi phạm nào đó quyền công dân, quyền con người do hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh, do nhận thức của cán bộ, công chức và người dân còn hạn chế..., song không thể phủ nhận được những nỗ lực to lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam trên lĩnh vực này. 
Năm 2013, trên bình diện pháp lý, sự kiện quan trọng nhất về nhân quyền là Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (Hiến pháp 2013), trong đó các quyền và tự do cơ bản của con người đã được nhận thức và ghi nhận đầy đủ. Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam lần đầu tiên đã dành riêng một chương (Chương II) quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân. Nhiều chuyên gia cho rằng, Hiến pháp mới đã thể hiện bước tiến nhảy vọt về tư duy lập pháp nói chung, về quyền con người nói riêng. Trong đó những nguyên tắc cơ bản của pháp luật nói chung của quyền con người nói riêng được ghi nhận. Chẳng hạn Điều 14 quy định trách nhiệm của Nhà nước phải tôn trọng và bảo vệ các quyền con người: “Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm…”. Nguyên tắc “hạn chế quyền” cũng được quy định tại Khoản 2 Điều 14: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Nguyên tắc suy luận vô tội cũng được ghi nhận. Khoản 1, Điều 31 quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.
Về đối ngoại, trong những năm qua, Việt Nam đã có những đóng góp tích cực trong việc thành lập “Ủy ban liên Chính phủ ASEAN về nhân quyền (AICHR)” và ra “Tuyên bố Nhân quyền ASEAN”. Năm 2013, Việt Nam đã trúng cử thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ với số phiếu cao nhất trong số 14 nước thành viên mới nhiệm kỳ 2014-2016. Sự kiện này thêm một bằng chứng khách quan về những nỗ lực của Việt Nam trong việc tôn trọng và bảo đảm quyền con người theo những chuẩn mực chung của cộng đồng quốc tế.
Cũng như các phúc trình thường niên về quyền con người những năm trước, phúc trình năm nay vẫn bám giữ những quan điểm cổ hủ, với những thông tin thiếu tin cậy, không cập nhật và đặc biệt vẫn tự đặt mình lên trên các cơ chế song phương và đa phương, trong đó có cơ chế kiểm điểm định kỳ phổ quát. Bản phúc trình mà Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vừa đưa ra đã làm cho nhiều người thất vọng đối với một siêu cường lẽ ra có thể có những đóng góp tích cực vào sự nghiệp bảo vệ hòa bình, ổn định và xây dựng tình hữu nghị, hợp tác tốt đẹp giữa các quốc gia, dân tộc. Hy vọng, Hoa Kỳ sớm thay đổi cách tiếp cận đối vấn đề nhân quyền phù hợp với xu thế của thời đại.

HÀ NAM

Ở Việt Nam, mọi tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật

QĐND - Trong buổi điều trần về việc các cộng đồng Thiên chúa giáo thiểu số bị đàn áp trên thế giới được tổ chức mới đây tại Quốc hội Hoa Kỳ, với vai trò chủ trì, ông dân biểu Christ Smith đã nêu vấn đề: Nhà nước Việt Nam có sự phân biệt đối xử giữa các tôn giáo, không công nhận quyền tự do thờ cúng của các giáo hội khác nhau... Sau đó, khi trả lời một số phóng viên, ông ta còn nói rằng: Việt Nam đang đi những bước lùi về tự do tôn giáo…
Ông Christ Smith đã xuyên tạc một cách trắng trợn về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Tại các diễn đàn quốc tế, Việt Nam đã nhiều lần công bố trước thế giới quan điểm, chính sách về tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đảng và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện bình đẳng, đoàn kết lương giáo và giữa các tôn giáo. Khắc phục mọi thái độ hẹp hòi, thành kiến, phân biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống những hành động vi phạm tự do tín ngưỡng; đồng thời nghiêm cấm và ngăn chặn mọi hành vi lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập và đoàn kết dân tộc, chống phá chủ nghĩa xã hội, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân” (1).
 
Ảnh minh họa. Trung tướng Nguyễn Trọng Nghĩa và Trung tướng Trần Đơn tặng hoa, động viên thanh niên xứ đạo Trảng Bom (Đồng Nai) lên đường nhập ngũ. Nguồn: QĐND Online. 

Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng Cộng sản Việt Nam một lần nữa khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo phù hợp với quan điểm của Đảng. Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo; động viên các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống tốt đời, đẹp đạo, tham gia đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quan tâm và tạo mọi điều kiện cho các tổ chức tôn giáo sinh hoạt theo hiến chương, điều lệ của các tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, đúng quy định của pháp luật…” (2).
Trong Hiến pháp và các văn bản luật của Việt Nam, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân luôn được ghi nhận. Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong việc tôn trọng, bảo đảm các quyền con người, quyền công dân, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Điều 24 (Chương II) của Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật. 2. Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. 3. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”.
Thực tế ở Việt Nam, các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, không một tôn giáo nào hoạt động đúng pháp luật mà bị ngăn cấm. Mọi người dân Việt Nam hoàn toàn tự nguyện, tự do lựa chọn theo hoặc không theo một tín ngưỡng, tôn giáo nào, không bị ép buộc, cấm đoán. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân luôn được Nhà nước Việt Nam tôn trọng và đảm bảo. Ở Việt Nam ngày càng có thêm nhiều tổ chức tôn giáo được công nhận và hoạt động. Số lượng các tín đồ tôn giáo tăng nhanh. Các cơ sở thờ tự liên tục được xây dựng, mở mang, tạo điều kiện cho sinh hoạt tôn giáo. Hoạt động in ấn, phát hành kinh sách được xuất bản tự do theo nhu cầu của các tôn giáo. Công tác giáo dục, đào tạo về tôn giáo được thúc đẩy. Các hoạt động đối ngoại về tôn giáo ngày càng được đẩy mạnh… Có thể nói, đời sống tôn giáo ở Việt Nam chưa bao giờ sôi động như hiện nay.
Các tổ chức nhân quyền và tôn giáo quốc tế đã nhiều lần đến thăm, làm việc, khảo sát thực tế và thừa nhận việc đảm bảo quyền con người, trong đó có quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam đạt được nhiều tiến bộ. Đoàn Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ do Phó chủ tịch Ủy ban Michael Lewis Cromartie  đã nhận xét: “Tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam đã được mở rộng và có nhiều tiến bộ, nhiều điểm đáng khích lệ…”. Thượng nghị sĩ Mỹ Jim Webb trong chuyến thăm và làm việc tại Việt Nam cũng đánh giá: “Cho dù vẫn còn những quan điểm cá nhân về một vài vụ việc cụ thể liên quan đến tự do tôn giáo tại Việt Nam, nhưng không thể phủ nhận những tiến bộ về tự do tôn giáo tại Việt Nam…”. Đặc biệt, việc Việt Nam trúng cử với số phiếu cao nhất vào Hội đồng Nhân quyền của Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014-2016) một lần nữa thể hiện sự ghi nhận, đánh giá cao của cộng đồng quốc tế đối với chính sách, nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong đảm bảo các quyền con người, trong đó có quyền tự do tôn giáo.
Trong phát biểu của mình, ông Christ Smith có dẫn lại câu chuyện xảy ra năm 2010 ở giáo sứ Cồn Dầu (TP Đà Nẵng) - sự việc mà ông ta gọi là “vụ đàn áp tôn giáo”, đồng thời ông nhắc đến trường hợp linh mục Nguyễn Văn Lý - người mà ông cho là “đang bị cầm tù vì thực thi quyền tự do tín ngưỡng”, hay mục sư Nguyễn Trung Tôn và giáo hội Tin lành Mennonite.... Cần nói ngay rằng, đó là những hành vi lợi dụng, đội lốt tôn giáo để chống phá Nhà nước, xúi giục nhân dân gây rối trật tự an ninh, chia rẽ đoàn kết dân tộc. Một số phần tử cơ hội chính trị đã lợi dụng lòng tin của nhân dân để làm băng hoại đạo đức xã hội, thực hiện các động cơ chính trị đi ngược lại lợi ích của quốc gia, dân tộc, bị các thế lực thù địch bên ngoài xúi giục, kích động chống phá nhà nước… Những hành vi đó đã vi phạm pháp luật Việt Nam và đương nhiên phải bị xử lý theo pháp luật. Đó là việc làm hoàn toàn chính đáng, hợp pháp nhằm bảo vệ an ninh trật tự, kỷ cương phép nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, trong đó có giáo dân.
Đi đôi với tôn trọng, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, pháp luật của Việt Nam cũng nghiêm cấm và ngăn chặn mọi hành vi lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập và đoàn kết dân tộc, chống phá CNXH, ngăn cản các tín đồ thực hiện nghĩa vụ công dân; đấu tranh và xử lý nghiêm đối với mọi hành động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo làm tổn hại đến lợi ích của quốc gia, dân tộc và nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh với những hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để mê hoặc, chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết dân tộc…” (3).
Cũng như mọi quốc gia trên thế giới, Nhà nước Việt Nam không cho phép bất kỳ tôn giáo nào được phép đứng ngoài luật pháp, đứng ngoài dân tộc, đứng trên lợi ích quốc gia. Một yêu cầu khách quan đặt ra trong đời sống tôn giáo ở Việt Nam là dù nội sinh hay ngoại sinh, các tôn giáo muốn phát triển đều phải hòa đồng với dòng chảy văn hóa của dân tộc và phải chịu sự quản lý của Nhà nước. Khi xem xét, giải quyết các vấn đề có liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo, một trong những yêu cầu cơ bản mà Nhà nước Việt Nam đặt ra là trong sáng vô tư, không có sự phân biệt hay đối xử thiên vị giữa các tôn giáo. Mục tiêu trong thực hiện chính sách tôn giáo của Việt Nam là đoàn kết dân tộc, phát huy lòng yêu nước, trách nhiệm của đồng bào có đạo và đồng bào không có đạo đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Nhân dân Việt Nam quá hiểu những âm mưu và hành động của các thế lực thù địch nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, lật đổ chế độ chính trị tại Việt Nam. Để thực hiện mưu đồ đó, họ thường lợi dụng những vấn đề nhạy cảm, trong đó có vấn đề dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo... để xuyên tạc, bôi nhọ. Bằng mọi cách, họ tiến hành các hoạt động xuyên tạc, bôi nhọ, bóp méo sự thật nhằm làm cho Việt Nam bị giảm sút uy tín, mất dần vị thế trong khu vực và trên thế giới, tạo cớ để tiến hành can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Nhưng có một thực tế hiển nhiên họ không thể phủ nhận được là: Ở Việt Nam quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo luôn được tôn trọng và đảm bảo, mọi tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Điều này không chỉ được thể hiện trong hệ thống đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước mà còn được thể hiện sinh động trong thực tiễn.
Mong ông Christ Smith sớm nhận ra sự hồ đồ, vô căn cứ trong lời phát biểu của mình.
PHÙNG KIM LÂN
__________

(1). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Nxb Sự thật, 1991, tr.78.
(2), (3). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, 2011, tr.245.

Người cộng sản chân chính không bao giờ bỏ cuộc

QĐND - “Bất mãn với Đảng là hỏng. Đảng là tất cả chúng ta chứ không phải là một vài đồng chí lãnh đạo. Đấu tranh với cái xấu để làm Đảng mạnh lên là cách tốt nhất để bảo vệ Đảng”. Đó là chia sẻ gan ruột của vị tướng 88 tuổi đời, 67 tuổi Đảng - Trung tướng Nguyễn Quốc Thước, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Tư lệnh Quân khu 4, từng là Đại biểu Quốc hội các khóa VIII, IX, X - khi trao đổi với phóng viên Báo Quân đội nhân dân về hiện tượng một vài đảng viên “xin ra khỏi Đảng” gần đây…
Trung tướng Nguyễn Quốc Thước.
Không nhiều, nhưng đáng tiếc
- Là đảng viên lão thành, là người lính dạn dày trận mạc, Trung tướng có suy nghĩ gì trước hiện tượng một vài đảng viên viết đơn xin ra khỏi Đảng và làm “ồn ào” chuyện này trên mạng xã hội?
- Tôi có nghe nói đến hiện tượng này và có nhờ các con tổng hợp thông tin trên internet xem những người đó là ai. Tổng hợp lại thì số này không nhiều, chỉ có một vài người thôi. Tôi cho rằng, nếu về quan điểm, đường lối của Đảng mà họ không thừa nhận rồi viết đơn xin ra khỏi Đảng thì mừng cho Đảng. Như thế là không đủ tiêu chuẩn đảng viên, phải ra khỏi Đảng là đương nhiên, miễn phải bàn. Một vài đảng viên trẻ, mới có vài ba năm tuổi Đảng, lại bị kích động, bản lĩnh chính trị chưa vững vàng thì ra khỏi Đảng cũng là điều đáng tiếc. Nhưng còn một vài người đã là cán bộ cấp cao, mấy chục năm tuổi Đảng thì tôi rất quan tâm, đây là những trường hợp rất đáng suy nghĩ.
- Vì sao lại là đáng suy nghĩ với những trường hợp này, thưa Trung tướng?
- Càng khó khăn thì càng cần vai trò lãnh đạo của Đảng, cần vai trò người đảng viên đứng mũi chịu sào. Nghiên cứu kỹ thì thấy hầu hết các đồng chí ấy có vấn đề bất mãn cá nhân. Lâu nay, có một số đảng viên già dặn đã trải qua mấy chục năm chiến đấu thấy khuyết điểm của Đảng chưa được khắc phục trọn vẹn đâm ra bất bình vì cho rằng Đảng không tiếp thu ý kiến của đảng viên…
Bản lĩnh chính trị và bài học lịch sử
- Vậy bản lĩnh người đảng viên trong các giai đoạn khó khăn của Đảng cần được nhìn nhận như thế nào?
- Chúng ta vừa kỷ niệm 84 năm Ngày thành lập Đảng. Chặng đường gần một thế kỷ là một chặng đường cực kỳ khó khăn ác liệt nhưng cũng cực kỳ oanh liệt của Đảng ta, cũng không phải không trải qua những bước thăng trầm nhất định. Không phải cái gì cũng đúng cả, cũng đã có những sai lầm, khuyết điểm. Tình hình bây giờ có khó khăn nhưng cũng chưa thấm gì với các giai đoạn cách mạng trước đây. Không có bản lĩnh thì Đảng ta không tồn tại được, cũng không có Nhà nước ngày nay. Nhưng bản lĩnh của Đảng không phải là cái gì đó chung chung mà được thể hiện chính từ bản lĩnh của mỗi đảng viên, trước khó khăn không lùi bước, nguy nan không cúi đầu. Tôi còn nhớ, trước Cách mạng Tháng Tám, những năm đầu Đảng ra đời đã gặp cuộc tổng khủng bố của thực dân Pháp, Ban Chấp hành Trung ương Đảng hầu như bị bắt và bị xử tử gần hết. Trước mũi súng, trước kìm kẹp, trước tù đầy, những đảng viên kiên trung vẫn tìm cách khôi phục Đảng, đưa Đảng về vị trí lãnh đạo của mình. Mà lúc đó đảng viên trình độ lý luận chính trị có gì đâu, sao lại có thể vượt qua cửa ải ghê gớm như vậy. Ngọn cờ tiên phong vẫn là những người đảng viên. Sự kiên định của người đảng viên là nhân tố hàng đầu để đi tới thành công của cách mạng.
- Chứng kiến nhiều giai đoạn thăng trầm của lịch sử Đảng, đã bao giờ Trung tướng thấy hiện tượng một số ít đảng viên dao động, xin ra khỏi Đảng như hiện nay?
 - Tôi sinh năm 1926, vào Đảng năm 1947 nên có lần tôi từng nói đùa với một đồng chí trong chi bộ rằng, tôi hơn Đảng… 4 tuổi. Cả cuộc đời theo Đảng, chiến đấu vì lý tưởng của Đảng, tôi cũng đã chứng kiến nhiều giai đoạn thăng trầm của đất nước, của Đảng ta. Sau khi Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu tan rã, Đảng ta từng có lúc có hiện tượng một bộ phận đảng viên hoang mang, dao động, thậm chí trả thẻ Đảng chứ không phải chỉ một vài người cá biệt làm đơn xin ra khỏi Đảng như hiện nay.
Lúc đó, tôi là Ủy viên Trung ương Đảng khóa VI. Tư  tưởng đa nguyên, đa đảng thâm nhập vào ngay cả cơ quan lãnh đạo cao nhất. Một đồng chí là thường trực Bộ Chính trị lại có tư tưởng đa nguyên, đa đảng. Tình hình ấy bây giờ dùng hình ảnh “ngàn cân treo sợi tóc” cũng không sai. Bởi vì như ở Liên Xô, chỉ một đêm Goóc-ba-chốp tuyên bố giải tán Đảng Cộng sản, thế là Đảng tan rã.  Nguy cơ của ta không khác gì. Đồng chí Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư lại bị tai biến mạch máu não. Nếu Tổng Bí thư đi vắng thì thường trực Bộ Chính trị đương nhiên là người phụ trách công việc. Tổng Bí thư nói “đổi mới nhưng không đổi màu” song họ muốn phải đổi màu, phải đa nguyên, đa đảng. Hiện tượng đảng viên dao động, trả thẻ Đảng, bỏ sinh hoạt Đảng nảy sinh.
Trong bối cảnh nguy nan như vậy, chính những người đảng viên kiên cường trong Trung ương Đảng đã đấu tranh quyết liệt, đánh bại chủ nghĩa xét lại. Tôi còn nhớ là vào các kỳ họp thứ 7, thứ 8, một phong trào đấu tranh quyết liệt với chủ nghĩa xét lại đã được hình thành từ các tổ chức cơ sở Đảng, tạo thành tiếng nói mạnh mẽ tác động tới Trung ương.
- Ở trên, Trung tướng có nói đến một số người xin ra khỏi Đảng vì lý do bất mãn cá nhân. Rộng hơn, có cả cán bộ cấp cao khi nghỉ hưu, thôi chức vụ lãnh đạo bỗng “có ý kiến khác” chỉ vì những bức xúc riêng. Điều này nên được cảm thông hay phê phán?
- Có người vì quá bức xúc mà bất mãn. Nhưng theo tôi, bất mãn với Đảng là hỏng. Đảng là tất cả chúng ta chứ không phải chỉ là một vài đồng chí lãnh đạo. Phê bình để Đảng mạnh lên chứ không phải để chống Đảng. Đó mới là thái độ của người cách mạng như Bác Hồ từng căn dặn.
Gần như sống trong tổ chức thì ai ít nhiều cũng có những điều không hài lòng với tổ chức. Vấn đề là anh nhận thức và hành xử thế nào. Ngày trước, sau nhiều công việc, tôi và đồng chí Chính ủy Quân khu không trúng danh sách dự Đại hội Đảng toàn quốc, đồng nghĩa với việc không được tham gia Trung ương khóa tiếp. Có đồng chí bị tương tự như tôi đã suy sụp tinh thần, nhưng tôi thấy bình thường.  Mình là đảng viên, tổ chức giao gì cho mình thì mình làm, ở đâu cũng là nhiệm vụ.
- Nhưng khách quan mà nói, có một bộ phận không nhỏ đảng viên suy thoái, biến chất làm xói mòn lòng tin vào Đảng. Cho nên, việc đảng viên ra khỏi Đảng dù là cá biệt nhưng cũng cần cảnh báo, nhìn nhận?
- Ngay cả khi trong Đảng khiếm khuyết, kẻ địch đang lợi dụng khoét sâu vào thì lẽ ra mình phải một mặt lên “dây cót” cao hơn nữa, một mặt phải kiên quyết đấu tranh.
Nếu “bệnh” không nặng, sửa được ngay thì chưa cần Nghị quyết  Trung ương 4, cần nhận thức rõ điều đó. Nghị quyết Trung ương 4 không phải là để thanh trừng trong Đảng mà là để đưa đảng viên có khuyết điểm sai lầm sửa sai, trở về chân chính, là trị bệnh cứu người, nhẹ thì phê bình, nhắc nhở, nặng thì kỷ luật, nặng quá thì cho ra khỏi Đảng, xử lý theo pháp luật. Tôi cho rằng, ngay cả trong mỗi cán bộ vi phạm cũng có mặt xấu và mặt tốt. Đảng có hạn chế, sai lầm thì mặt tốt vẫn là cơ bản. Ngay cả một số người vi phạm cũng không phải hư hỏng cả, nên đấu tranh, phê bình để đưa người ta trở lại chân lý chứ không phải đấu tranh để loại bỏ người ta. Nên nhớ ngay cả thời kỳ đảng viên dao động sau khi Liên Xô sụp đổ, có đảng viên trẻ hoảng loạn xin ra khỏi Đảng, nhưng sau đó thì một số người chính họ lại tự nhận thức lại.
Tỉnh táo trước âm mưu lôi kéo
- Vậy với một vài người làm ồn ào việc ra khỏi Đảng vừa qua, động cơ là đấu tranh phê phán hay còn vì vấn đề gì khác?
- Nếu chỉ vì làm cho Đảng mạnh lên hoặc vì dân vì nước thì người ta cũng chẳng nhất thiết phải ra đường hô lên thật to rằng “tôi ra khỏi Đảng”, chẳng cần phải tuyên bố nọ, tuyên bố kia. Xem xét cái cách anh nọ, anh kia thảo tuyên bố rồi tung lên mạng thì quả là không bình thường. Động cơ gì phía sau thì phải xem xét kỹ tùy trường hợp nhưng tôi thấy mấy trường hợp này cũng không gây được tiếng vang, ảnh hưởng gì đáng kể tới đội ngũ đảng viên của ta cả.
- Gần đây, có hiện tượng kẻ xấu lôi kéo, kích động cán bộ lão thành, thậm chí cả một vài tướng lĩnh. Trung tướng đã có trải nghiệm và suy nghĩ gì về vấn đề này?
- Tôi cũng từng bị lôi kéo. Họ thấy tôi thường thẳng thắn đấu tranh quyết liệt nên có người từng gặp tôi đề nghị: “Bác phải “chiến đấu” với cái Đảng này”. “Bác phải đứng ra làm “ngọn cờ”. Nhưng tôi nói thẳng, tôi chỉ chiến đấu với cái xấu, cái tiêu cực trong Đảng chứ không bao giờ đấu tranh với Đảng. Đúng là ban đầu tôi có tham gia nhóm đấu tranh chống tiêu cực. Nhưng sau tôi thấy trong nhóm này có một số người không phải là cán bộ quân đội và lời nói, hành vi có người không nhất quán, minh bạch… nên tôi không tham gia nữa. Tôi cũng không tham gia ký các bản kiến nghị, tâm thư tập thể nên có lần kẻ xấu lấy tên tôi đưa cả vào bản ký kết ủng hộ Cù Huy Hà Vũ rồi tung lên mạng dù tôi không liên quan gì tới Cù Huy Hà Vũ cả. 
- Nhưng không phải ai cũng có được cái nhìn tỉnh táo như Trung tướng. Vậy cần phải có cách gì để cô lập kẻ xấu và bảo vệ, nhìn nhận đúng những người tranh đấu kiên trung?
- Theo tôi phải tăng cường lắng nghe, nắm bắt thông tin và tăng cường đối thoại. Trước đây, chính bản thân tôi cũng có nhiều bức xúc và đây đó, có lúc, có nơi người ta còn quy kết tôi. Nhưng một số đồng chí lãnh đạo cấp cao trong Bộ Chính trị đã lắng nghe và trực tiếp đối thoại với tôi. Không chỉ nghe tôi phát biểu trên hội trường mà còn dành riêng một buổi để nghe tôi nói.
Giữ vững niềm tin, kiên định con đường đã chọn
- Như vậy, xét cho cùng, mấu chốt giải quyết vẫn là nắm bắt và xử lý thông tin sao cho đúng?
- Nói đúng hơn là phải xử lý thông tin hai chiều. Việc này cần được chú trọng không chỉ với cán bộ hưu trí, lão thành cách mạng mà cần làm cả với giới trẻ, nhất là thanh niên, sinh viên. Ngoài kênh chính thức nên có kênh xã hội rất quan trọng. Phải đi vào phong trào, đi vào cuộc sống để giáo dục chứ không phải là chỉ ngồi trên hội trường hội họp thì chưa đủ.
- Theo Trung tướng, mỗi đảng viên trong giai đoạn hiện nay nên làm gì trước những hạn chế, khuyết điểm trong Đảng?
- Xét một cách toàn diện, Đảng ta không hề thoái hóa, biến chất đến mức phải mất niềm tin như kẻ xấu kích động mà vẫn là một Đảng cách mạng với đường lối đúng đắn, với số đông kiên trung, tiến bộ, vẫn là Đảng của Bác Hồ, của nhân dân. Chỉ có một nhóm nhỏ, một bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hóa biến chất làm mất uy tín của Đảng như Nghị quyết Trung ương 4 đã thẳng thắn chỉ ra. Giữ vững niềm tin vào đường lối của Đảng, kiên quyết, chủ động đấu tranh với những biểu hiện sai trái, đó mới chính là cách tốt nhất để bảo vệ Đảng ta.
Trước những sai lầm, khuyết điểm, hạn chế, chúng ta cũng phải nhìn nhận thật khách quan, không nên cực đoan. Ở đây, ngay cả những người xin ra khỏi Đảng, tôi nghĩ có thể họ cũng có mặt tốt là muốn Đảng phải khắc phục khuyết điểm để đi lên chứ không phải ai cũng hoàn toàn chỉ muốn phá bỏ. Nhưng muốn cho Đảng tiến lên thì phải tiếp tục con đường, chứ từ bỏ con đường là không nên.
Ai vào Đảng cũng thề, cũng nói suốt đời hy sinh cho chủ nghĩa cộng sản. Thế thì lúc Đảng khó khăn không thể ngồi để phê phán rồi bỏ chạy ra khỏi Đảng, khác gì ngoài mặt trận lại thoái lui. Đảng có khó khăn thì chúng ta phải ghé vai vào. Đó mới là cách tốt nhất để xây dựng Đảng.
- Xin cám ơn Trung tướng!

NGUYÊN MINH - TRƯỜNG GIANG (thực hiện)

Sự “quan ngại” không đáng có

QĐND - Báo cáo kiểm điểm định kỳ phổ quát của Việt Nam đã thành công tốt đẹp, được Hội đồng Nhân quyền và dư luận đánh giá cao. Thế nhưng, ngay sau sự kiện ấy, Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam đã ra tuyên bố bày tỏ sự “quan ngại” một số vấn đề về nhân quyền ở Việt Nam. Đại sứ quán Hoa Kỳ cho rằng: “Việt Nam vẫn sách nhiễu và bắt giữ những người thực hiện các quyền hạn và các quyền tự do phổ quát, như tự do ngôn luận và lập hội. Việt Nam cũng hạn chế tự do tôn giáo và việc sách nhiễu các nhà thờ không đăng ký…”.
Cần nói ngay rằng, trong tuyên bố này, Đại sứ quán Hoa Kỳ vẫn mang thái độ kỳ thị, thiếu thiện chí với Việt Nam. Thực tiễn những năm qua chứng tỏ, Việt Nam luôn tôn trọng tự do ngôn luận, tự do báo chí. Số lượng, loại hình, ấn phẩm, đội ngũ những người làm báo đã có sự phát triển nhanh. Cùng với đó, số lượng công chúng, cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ, năng lực tài chính tăng đáng kể. Sự tác động và ảnh hưởng xã hội tích cực của các cơ quan báo chí, truyền thông ngày càng lớn. Hầu hết các bộ, ban, ngành, đoàn thể từ Trung ương đến địa phương, các giai cấp, giai tầng, các hội nghề nghiệp, các giới, các tôn giáo lớn, các thành phần trong xã hội đều có tờ báo của mình. Đội ngũ những người làm báo thực hiện đúng pháp luật, nêu cao trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân của người cầm bút trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đời sống tôn giáo ở Việt Nam không ngừng được cải thiện. Có thể nói rằng, chưa bao giờ tôn giáo ở Việt Nam lại phát triển mạnh như hiện nay. Sự phong phú, sôi động của các hoạt động tôn giáo là bằng chứng thuyết phục cho thấy Nhà nước Việt Nam đã có chính sách tôn giáo đúng đắn, cởi mở, thực sự tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân... Những thành tựu nhân quyền, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tôn giáo ở Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận.
Một số người mà Đại sứ quán Hoa Kỳ cho rằng, "bị sách nhiễu" về tự do ngôn luận, tự do báo chí, thực chất những trường hợp vi phạm pháp luật Việt Nam, những hoạt động tôn giáo chưa được Nhà nước cấp phép. Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do của công dân, nhưng không phải là thứ tự do vô chính phủ. Nếu ai đó cố tình lợi dụng dân chủ, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tôn giáo... để chống lại Đảng, Nhà nước Việt Nam, đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc đều bị xử lý bình đẳng, nghiêm minh bằng pháp luật. Điều này thì không chỉ có ở Việt Nam mà bất cứ một quốc gia độc lập có chủ quyền nào cũng làm như vậy.

KIM NGỌC

Một việc làm bất thường và lạc lõng!

Ngày 5-2, với tinh thần đối thoại thẳng thắn và xây dựng, Việt Nam đã thực hiện thành công Báo cáo quốc gia theo Cơ chế kiểm điểm định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ 2 tại Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (UNHRC). Ngày 7-2, nhóm làm việc về UPR của UNHRC đã thông qua Báo cáo của Việt Nam với sự nhất trí cao.
Thế nhưng ngày 7-2, website Ðại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội lại công bố Tuyên bố chính thức về Kiểm điểm định kỳ phổ quát (UPR) của Việt Nam. Ðây là một việc làm bất thường và lạc lõng...
Ngày 21-1, website của Ðại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà Nội công bố video clip và phát biểu chúc Tết của Ðại sứ Hoa Kỳ ở Việt Nam. Trong bài phát biểu, ngài David Shear nói: "Năm nay tôi ăn Tết lần thứ ba ở Việt Nam, và mỗi năm tôi đều thích thú ngắm nhìn thành phố "chuyển mình khi Tết đến" trong những tuần trước Tết. Một lần nữa, phố xá Hà Nội lại tràn ngập âm thanh và hình ảnh mọi người chuẩn bị Tết. Các chợ Tết đã mọc lên khắp thành phố, với đủ mọi loại thực phẩm của dịp lễ tết để các gia đình và bạn bè đón Tết. Các đình, chùa của Hà Nội, như chùa Trấn Quốc hay chùa Quán Sứ đông nghịt người đến cầu tài lộc trong Năm Mới. Ở mọi nơi bạn đều thấy hoa đào và cây quất - ở các cửa hàng, văn phòng, ở nhà, và cả ở đằng sau xe máy". Bằng câu chữ ngắn gọn nhưng Ðại sứ David Shear đã mô tả rất sinh động khung cảnh yên bình, vui tươi của ngày Tết ở Hà Nội, cho thấy nhân dân Việt Nam đang được hưởng một cái Tết an lành, vì nếu một xã hội thiếu nhân quyền thì chắc chắn không có cuộc sống như vậy. Nhưng trong khi lời chúc Tết của Ðại sứ David Shear còn trên trang nhất, và hơn 100 nước không công khai ý kiến phát biểu, thì ngày 7-2, website của Ðại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam lại đăng Tuyên bố chính thức về Kiểm điểm định kỳ phổ quát (UPR) của Việt Nam do ngài Peter Mulrean - Ðại biện lâm thời Phái bộ Hoa Kỳ, trình bày tại buổi thảo luận Báo cáo UPR chu kỳ 2 của Việt Nam ở UNHRC. Văn bản với các "tuy nhiên, quan ngại, thất vọng, đề xuất" không phản ánh đúng đắn về tình hình nhân quyền ở Việt Nam được diễn đàn của các thế lực thù địch, các tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí triệt để khai thác, coi đó như là chỗ dựa để tiếp tục vu cáo. Thậm chí, vì quá vội vã nên không xác minh xuất xứ văn bản hay muốn nhập nhằng, hoặc chỉ thấy thông tin nói xấu Việt Nam là chộp ngay lấy, trong một bản tin ngày 7-2, trang tiếng Việt BBC viết: "Ðại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam đã ra tuyên bố về sự kiện kiểm điểm định kỳ phổ quát (UPR) của Việt Nam tại Geneva, hôm 5-2-2014 từ Hà Nội", còn trang nguoiviet thì xưng xưng viết: "Ðại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam vừa phát hành một thông cáo, chính thức bày tỏ sự thất vọng của Hoa Kỳ về việc Việt Nam ngăn cản các cá nhân và tổ chức dân sự tham dự UPR"!?
Sau khi Việt Nam thực hiện Báo cáo UPR chu kỳ 2 tại UNHRC, một blogger cho rằng: "Việt Nam đã thành công khi thuyết phục cộng đồng quốc tế về một khái niệm nhân quyền gắn liền với đời sống dân sinh và dân trí, phù hợp với văn hóa truyền thống của Việt Nam". Ðây là đánh giá chính xác, bởi chỉ từ quan niệm nhân quyền như thế, Ðại sứ David Shear được chứng kiến cảnh ngày Tết sinh động, đầm ấm của người Việt Nam. Thử hỏi, một chế độ xã hội "vẫn sách nhiễu, bắt giữ những người thực hiện các quyền hạn và các quyền tự do phổ quát, như tự do ngôn luận và lập hội... hạn chế tự do tôn giáo, việc sách nhiễu các nhà thờ không đăng ký vẫn diễn ra", "hạn chế đối với việc thành lập nghiệp đoàn độc lập, sử dụng lao động trẻ em và lao động cưỡng bức, chính phủ sử dụng lao động bắt buộc" liệu có một khung cảnh tết nhộn nhịp như Ðại sứ David Shear mô tả?
Khi quan hệ giữa Việt Nam với thế giới ngày càng mở rộng, ở Việt Nam, mọi người được tiếp xúc với thực tế hoàn toàn trái ngược với luận điệu kẻ xấu vẫn truyền bá. Chứng kiến Việt Nam "thay da, đổi thịt" phát triển vượt bậc so với trước đây, rất nhiều người đã nhận ra sự thật. Trong hàng triệu người gốc Việt trở về quê hương, có nhà báo của kbchn.net, vietweekly.com, viethaingoai.net đang tác nghiệp theo phương châm trực tiếp, khách quan, trung thực. Qua thông tin phong phú, hình ảnh sinh động, bình luận sắc sảo, có thể thấy nhà báo của các cơ quan truyền thông này đã đi khắp ba miền, từ biên giới đến hải đảo, từ thành phố lớn đến vùng sâu vùng xa, đã gặp gỡ, tìm hiểu nhiều số phận, nhiều con người thuộc thành phần xã hội khác nhau,... mà không bị cản trở. Và từ đó, nhà báo Nguyễn Phương Hùng - người từng có "36 năm chống cộng" mới viết các dòng chân tình: "Tôi thấy người Việt trong nước thật bình dị, thanh bình và rất hiếu khách. Anh Nguyễn Bôn, Giám đốc Tập đoàn Mai Linh ở Quảng Trị, là một cựu chiến binh còn sống sau trận chiến khốc liệt tại Thành cổ Quảng Trị, không có một chút phản ứng gọi là thù hận tôi, một người lính của binh chủng Biệt động quân. Chúng tôi đã ôm nhau và khóc trên bức đài tưởng niệm các tử sĩ bộ đội miền Bắc. Có cơ hội về Việt Nam, tôi mới gặp những người bộ đội hay cựu chiến binh như anh Phạm Nguyên Khánh, Ðại tá về hưu Trần Duy Ngọc. Tất cả chúng tôi hoàn toàn như anh em một nhà, không còn thù hận, cũng chẳng hề nghĩ mình từng là những người thù địch". Hoặc sau khi tiếp xúc, tìm hiểu cuộc sống và lễ hội của người Mông ở Sơn La, nhà báo ở vietweekly viết: "Cảm nhận nổi bật nhất là thái độ sống rất hòa đồng của người dân tộc đối với tất cả mọi người, không phân biệt nguồn gốc, hay khác biệt văn hóa. Họ an nhiên tự tại, tự hào với những giá trị văn hóa của mình. Và sẵn sàng tiếp thu những cái mới một cách thoải mái trong khi vẫn kết hợp với cái truyền thống... Sự đa dạng của các dân tộc trên đất nước Việt Nam là một tài sản chung, và là một sức mạnh văn hóa. Những nền văn hóa này chung sống được với nhau khi cùng chia sẻ một ước vọng hòa bình, ấm no, và hạnh phúc".
Có thể nói, đa số nội dung trong tuyên bố do ngài Peter Mulrean trình bày tại Geneva không phản ánh trung thực về các vấn đề đề cập. Lẽ ra trước đó, ngài Peter Mulrean cần cẩn trọng xem xét, tìm hiểu, đặc biệt là khảo sát toàn diện ý kiến của người Việt ở nước ngoài. Cách đây không lâu, bình luận về báo cáo hằng năm của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ về tình hình nhân quyền ở Việt Nam, karenphung - blogger người Ðức gốc Việt, viết: "Tại sao quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ đã nồng ấm nhưng báo cáo của Bộ Ngoại giao Mỹ vẫn luôn kèm theo câu mở đầu "Việt Nam là một nước độc tài do một đảng thống trị"? Báo cáo của người Mỹ còn cho rằng "Việt Nam không tôn trọng nhân quyền" thông qua việc bắt giữ một số người với cái tên "bất đồng chính kiến" hay "cảnh sát đánh đập người dân vô tội". Nhưng chính nước Mỹ cũng có rất nhiều vấn đề phải đối mặt, đặc biệt việc lạm dụng quyền lực của cảnh sát, sự kỳ thị chủng tộc với người da màu, một việc có truyền thống tại nước Mỹ. Là một người dân bình thường ai đó sẽ ngạc nhiên khi thấy các nhân vật "bất đồng chính kiến" ấy sau khi ra tù thông lệ có vé sang Mỹ định cư. Nhưng nếu nhìn lại cả một thời gian dài, từ lúc chế độ VNCH sụp đổ cho tới ngày nay, đại đa số những người ở phía đối đầu với chính quyền đều được Mỹ đón chào thì chúng ta sẽ hiểu ngay ra vấn đề vì sao người Mỹ lại viết ra những điều đó trong báo cáo nhân quyền của họ"; còn Thư tòa soạn (7-2013), vietweekly viết: "Có thể nói chính quyền Việt Nam đang cố gắng ngày càng mở rộng mức độ tự do người dân mà không đánh mất khả năng kiểm soát an ninh xã hội. Phần lớn những nỗ lực đánh phá Việt Nam về mặt nhân quyền bắt nguồn từ những đoàn thể chính trị ở nước ngoài mang động cơ muốn giành một chỗ đứng trong hệ thống quyền lực chính trị ở Việt Nam. Có nghĩa rằng, nhân quyền chỉ là một chiêu bài chính trị, hơn là một quan tâm có thực chất. Cải tổ chính trị có vẻ là một cách đặt vấn đề xác đáng hơn. Nhưng những đoàn thể chính trị này đã không có đủ sự thành thật gọi tên vấn đề cho đúng bản chất của nó, mà ngụy trang dưới vỏ bọc nhân quyền để hy vọng lôi kéo được sự đồng tình của quần chúng. Sự gượng ép này giải thích lý do tại sao chiêu bài nhân quyền đã không đạt được hiệu quả chính trị như mong muốn"...
Thực tế đã và đang cung cấp rất nhiều bằng chứng minh chứng nhân quyền ở Việt Nam có bước phát triển vượt bậc; thực tế cũng đã và đang cho thấy bộ mặt của một số kẻ cố tình lừa dối dư luận qua các thông tin, luận điệu bóp méo, xuyên tạc. Nếu thật sự thiện chí khi góp ý với Việt Nam, mọi chính phủ, tổ chức, cá nhân cần dựa trên thông tin chính xác để đưa ra ý kiến trung thực và hơn hết, phải hướng tới nhân quyền cho hàng chục triệu người Việt Nam, không vì lợi ích hẹp hòi của cái nhóm người hầu như không công ăn việc làm, hoạt động dựa vào sự hà hơi tiếp sức từ bên ngoài (mà bằng chứng gần đây là việc sau khi định cư ở Hoa Kỳ, Trần Khải Thanh Thủy công bố cụ thể về nguồn tài chính khi còn ở trong nước người này đã nhận từ tổ chức khủng bố "Việt Tân"). Bởi thế, dựa trên thông tin thất thiệt để góp ý, có thể ảnh hưởng tiêu cực tới thiện chí mà chính phủ, tổ chức hoặc cá nhân nào đó muốn thể hiện. Ðể đất nước có nhân quyền ngày càng hoàn thiện, để cuộc sống mọi mặt ngày càng phát triển, để mỗi người dân luôn được hưởng các quyền và tự do của mình, Nhà nước và nhân dân Việt Nam cần phải tiếp tục nỗ lực. Chúng ta luôn ghi nhận, tiếp thu những ý kiến đóng góp thiện chí, như Thứ trưởng Ngoại giao Hà Kim Ngọc phát biểu tại UNHRC vừa qua: "Bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người phải là một tiến trình liên tục, bền bỉ và có tầm nhìn xa. Trong tiến trình đó, sự nỗ lực của mỗi quốc gia riêng lẻ khó có thể đạt hiệu quả cao nhất nếu thiếu sự ủng hộ, giúp đỡ của cộng đồng quốc tế trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và đối thoại mang tính xây dựng".

HỒNG QUANG

Kiên quyết chống tự diễn biến, tự chuyển hóa

QĐND - V.I. Lê-nin, vị thầy của cách mạng vô sản từng nói: “Không có ai đánh đổ được chúng ta, trừ chúng ta”. Ở hoàn cảnh hôm nay của cách mạng nước ta, câu nói này càng phải được coi là chân lý bằng vàng đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải ý thức một cách sâu sắc, triệt để. Bài học về sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, trước hết là bài học về sự thiếu kiên quyết, không tỉnh táo trong việc chống tự diễn biến, tự chuyển hóa dẫn đến tan rã mang tính hệ thống.
“Tự diễn biến” là quá trình biến đổi bên trong tư tưởng, từ đúng sang sai, từ tích cực sang tiêu cực, từ tiến bộ sang phản tiến bộ. Biểu hiện rõ nhất là sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Ví dụ có cán bộ cả đời phấn đấu vì lý tưởng cách mạng, nghiêm túc, mẫu mực, trong sáng nhưng đến khi về hưu thì hoàn toàn ngược lại, phủ nhận thành tựu của cách mạng, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng, phủ nhận chính mình… “Tự chuyển hóa” là sự thay đổi về chất của tư tưởng chính trị làm cho người cán bộ đánh mất mình, đánh mất vai trò tiên phong, gương mẫu, tha hóa rồi trở thành kẻ chiết trung, có khi trở thành kẻ phản bội, chống lại Đảng, cách mạng. Goóc-ba-chốp, nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô có thể coi là một ví dụ điển hình về vấn đề này.
Đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là biện pháp hiệu quả phòng, chống "tự diễn biến". Ảnh: Đảng bộ khối các cơ quan Trung ương tuyên dương 500 bí thư chi bộ tiêu biểu. Nguồn: Congan.com.vn
Từ “tự diễn biến” đến “tự chuyển hóa” là một quá trình phát triển của một căn bệnh nặng. Phòng bệnh bao giờ cũng tốt hơn chữa bệnh, nhất là phòng từ khi chưa có bệnh hoặc phát hiện sớm thì cơ thể mới luôn được khỏe mạnh. Cuộc đấu tranh chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là cuộc đấu tranh không tiếng súng nhưng cực kỳ căng thẳng, gay gắt, âm thầm, bởi nó vô hình và diễn ra bên trong con người.
Lê-nin và Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy tầm cực kỳ quan trọng của vấn đề, nên trong nhiều bài viết, bài nói chuyện đã nhấn mạnh, coi đó như là một trong những vấn đề then chốt của nhiệm vụ cách mạng. Một nhiệm vụ mà Bác Hồ yêu cầu cán bộ, đảng viên phải thường xuyên quan tâm là “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”.
Đi tìm nguyên nhân của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, thì vấn đề căn cốt của nó không hề xa lạ. Đó là điều mà Bác Hồ đã nhiều lần nhắc nhở phải cảnh giác: “Chủ nghĩa cá nhân”. Người đã chỉ ra những căn bệnh mà nếu không chữa trị kịp thời thì sớm muộn sẽ nguy hiểm tới tính mạng. Đó là bệnh công thần: “Một số ít cán bộ già mắc bệnh công thần, cho mình là người có công lao, hay có thái độ "cha chú" với cán bộ trẻ, đảng viên trẻ nói gì cũng gạt đi, cho là "trứng khôn hơn vịt"…” (Hồ Chí Minh toàn tập, 1996, 2004, tập 12, tr.211). Đó là tư tưởng “nạnh kẹ” bảo thủ của những người cán bộ lớp trước: “Các đồng chí già đánh Tây. Đánh Tây là dọn đường. Nhưng không thể nạnh kẹ: Chúng tôi vác cuốc, vác cào làm đường, già rồi mà chưa được đi xe, các anh mới lớn lên đã được đi xe. Thế là nạnh người đi xe. Có đúng không? Sau này đến chủ nghĩa Cộng sản, bọn trẻ còn đi xe sướng hơn nữa kia. Già có việc già, trẻ có việc trẻ. Tục ngữ có câu “măng mọc quá pheo”. Măng mọc sau, mà tốt hơn tre đấy. Không lẽ ta ngồi nói: “Măng, sao mày mọc quá tao?” (Sđd, tập 10, tr.465). Đó là căn bệnh xa rời thực tiễn, giáo điều, sách vở: “… hiểu chủ nghĩa Mác - Lê-nin tức là cách mạng phân công cho việc gì, làm Chủ tịch nước hay nấu ăn, đều phải làm tròn nhiệm vụ. Không nên đào tạo ra những con người thuộc sách làu làu, cụ Mác nói thế này, cụ Lê-nin nói thế kia, nhưng nhiệm vụ của mình được giao quét nhà lại để cho nhà đầy rác” (Sđd, tập 12, tr.554). Đó là bệnh tham nhũng đục khoét, lãng phí: “… coi Đảng như một cái cầu thang để thăng quan phát tài. Họ không quan tâm đến đời sống của nhân dân mà chỉ lo nghĩ đến lợi ích của riêng mình. Họ quên rằng mỗi đồng tiền, hạt gạo đều là mồ hôi nước mắt của nhân dân, do đó mà sinh ra phô trương, lãng phí” (Sđd, tập 11, tr.374). Đó là căn bệnh cơ hội, xu nịnh, a dua: “Lại có những người trước mặt thì ai cũng tốt, sau lưng thì ai cũng xấu. Thấy xôi nói xôi ngọt, thấy thịt nói thịt bùi. Theo gió bẻ buồm, không có khí khái” (Sđd, tập 5, tr.261)…
Soi những lời giáo huấn của Lê-nin, của Hồ Chí Minh vào tình hình  nước ta hôm nay có thể đưa ra mấy biện pháp dưới đây về chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”:
Một là, chú trọng hơn nữa, thực hiện thiết thực hơn nữa Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Phải coi đây là việc làm thường xuyên liên tục chứ không phải làm theo giai đoạn, theo thời kỳ. Một trong những phương thức lãnh đạo hiệu quả là cách làm nêu gương, thì cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương trong sáng nhất, thuyết phục nhất.
Hai là, tăng cường bồi dưỡng lý tưởng chính trị, tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta cho mọi tầng lớp nhân dân. Thế nhưng trên thực tế vấn đề này ở một số nơi được làm một cách hình thức. Họ coi đây là việc làm miễn cưỡng vì mất thời gian, xa lạ với chuyên môn.
Ba là, đưa việc phê bình và tự phê bình vào thực chất. Bác Hồ từng nói một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Đảng cần phải biết những ưu điểm và khuyết điểm của mình để dạy dỗ đảng viên, dạy dỗ quần chúng. Nhìn từ góc độ này thì trong Đảng ta cần tiến hành một sự phê bình dân chủ rộng rãi, các đảng viên, các cơ sở Đảng cấp dưới thường xuyên góp ý phê bình cho cơ quan Đảng cấp trên. Đối với đảng viên, thì vẫn lời Bác Hồ, “Ai cũng cần tắm rửa cho mình mẩy sạch sẽ. Thì ai cũng cần tự phê bình cho tư tưởng và hành động được đúng đắn” (Sđd, tập 6, tr.209). Bài học sự sụp đổ của Liên Xô có một nguyên nhân là coi nhẹ, thậm chí bỏ qua vấn đề phê bình và tự phê bình. Ai cũng có bệnh, và như một quy luật, càng già thì càng nhiều bệnh. “Khuyết điểm cũng như chứng bệnh. Phê bình cũng như uống thuốc. Sợ phê bình, cũng như có bệnh mà giấu bệnh. Không dám uống thuốc. Để đến nỗi bệnh ngày càng nặng, không chết "cũng la lết quả dưa" (Sđd, tập 5, tr.261).
Bốn là, công tác cán bộ phải theo quy trình chặt chẽ, bởi xét đến cùng, vấn đề con người luôn mang tính quyết định. Bác Hồ từng ví công việc cách mạng như một bộ máy, cán bộ là dây chuyền: “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt,… toàn bộ máy cũng tê liệt” (Sđd, tập 5, tr.54). Phải ngăn chặn ngay một thực tế đau lòng: Có nơi sử dụng, bổ nhiệm, cất nhắc cán bộ không theo năng lực, nghề nghiệp mà theo quan hệ, ô dù, thậm chí bằng tiền bạc. Có một thành ngữ dân gian đang phổ biến trong xã hội phần nào nói lên điều này: “Thứ nhất quan hệ, thứ nhì tiền tệ, thứ ba hậu duệ, thứ tư trí tuệ”. Nếu tình trạng này là có thật, cứ diễn ra không phanh thì “dây chuyền” cán bộ sớm muộn sẽ bị đứt. Một vài vụ án tham nhũng nghiêm trọng gần đây, nhìn ở góc độ này chính là bài học về sử dụng sai cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt.
Năm là, tăng cường hơn nữa niềm tin của dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Sống ở xứ sở nhiệt đới khí hậu khắc nghiệt, nghề canh tác chủ yếu gắn với cây lúa nước nên người dân Việt phải cô kết lại với nhau thành một khối để lao động và chống thiên tai địch họa. Họ sống trọng tình và trọng niềm tin, “một điều bất tín vạn sự bất tin”. Dân ta rất thiết tha với Đảng, yêu Đảng và vì Đảng, do vậy Đảng phải đáp lại tấm lòng ấy, phải gần dân hơn, yêu dân và vì dân hơn, nói phải đi đôi với làm, nói ít làm nhiều. Tránh tình trạng nghị quyết ở các cấp rất hay, nhưng xong nghị quyết là cũng xong luôn công tác lãnh đạo, đến kỳ lại ra nghị quyết, trong khi tình hình chuyển biến chậm chạp, hoặc không chuyển biến. Điều kỳ vọng nóng bỏng của dân ta hôm nay với Đảng, đặt niềm tin vào Đảng là việc chống tham nhũng triệt để và hiệu quả.
Sáu là, ngăn chặn kịp thời sự xâm lăng về chính trị, văn hóa từ bên ngoài. Các tư tưởng, quan điểm, lối sống độc hại bằng nhiều con đường đang tiêm nhiễm vào một bộ phận dân ta. Chống lại cuộc xâm lăng này thì cách khả thi và đúng đắn hơn cả là tự tạo ra một sức đề kháng văn hóa đủ mạnh. Phải xây dựng một nền văn hóa dân tộc, tiên tiến, hiện đại. Đây là chủ trương lớn của Đảng mà chúng ta đang tiến hành, nhưng tiếc rằng có nơi, có lúc xác định mục tiêu phát triển còn nhẹ về văn hóa mà nặng về kinh tế. Phải thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi” để đầu tư cho văn hóa đúng mức, hiệu quả.

NGUYỄN THANH TÚ