Minh chứng sinh động phản bác luận điệu sai trái về trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam”

Thứ Hai, 29/01/2024, 07:37

Với mưu đồ chống phá, các thế lực thù địch, phản động đã cố tình đưa ra những luận điệu xuyên tạc, công kích đường lối, chính sách ngoại giao, phủ nhận những thành tựu trong công tác đối ngoại của Việt Nam.

Nhận diện âm mưu, thủ đoạn chống phá

Mới đây, sau  khi cuốn sách “Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được ra mắt bạn đọc thì một số tổ chức, cá nhân phản động lưu vong ở nước ngoài, các hãng truyền thông hải ngoại định kiến với Việt Nam đã tung ra những bài viết, hình ảnh, video trên các nền tảng mạng xã hội với nội dung sai trái.

Họ đưa ra luận điệu sai lệch rằng “cuốn sách là không cần thiết”, “trường phái ngoại giao cây tre là ngả nghiêng, không thực chất, không có lập trường, không rõ ràng”, “gió chiều nào theo chiều ấy”… Mục đích của các thế lực thù địch là xuyên tạc trường phái “ngoại giao cây tre”, thể hiện qua những vấn đề sau:

Minh chứng sinh động phản bác luận điệu sai trái về trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam” -0
Hội nghị ngoại giao lần thứ 32 xác định xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại, vững mạnh…

Thứ nhất, xuyên tạc để tiến tới phủ nhận vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng ta cũng như vai trò quản lý xã hội của Nhà nước, đòi thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam; ca ngợi kiểu cách đối ngoại phương Tây để tạo “cơn sóng ngược” nhằm hướng lái nước ta đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, cho rằng như thế mới có đường lối đối ngoại đúng đắn.

Thứ hai, gieo rắc, kích động tư tưởng dân tộc cực đoan, tạo “ngòi nổ” để kích động tâm lý chống đối, phản kháng, gây chia rẽ, kỳ thị trong ngoại giao, đặc biệt gây sự hiểu nhầm đối với người dân trong đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước, gây mất ổn định xã hội, ảnh hưởng tiêu cực an ninh quốc gia, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Thứ ba, hạ bệ vị thế, uy tín nước ta trên trường quốc tế, tìm cách làm cho các đối tác của Việt Nam thiếu niềm tin, e ngại trong xúc tiến hợp tác kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội; gây ra sự hiểu sai về đất nước, con người Việt Nam; tìm cách cô lập Việt Nam với thế giới.

Có thể thấy, âm mưu của các thế lực thù địch là rất nguy hiểm, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, nếu không tỉnh táo nhận diện và có cái nhìn khách quan, đúng đắn, đầy đủ về giá trị trường phái “ngoại giao cây tre”  thì rất dễ rơi vào cái bẫy của đối tượng xấu giăng ra, thậm chí dễ trở thành “quân tốt”, “con bài” trong các hoạt động chống phá của các hội nhóm phản động, cơ hội chính trị.

Cần hiểu đúng về trường phái “ngoại giao cây tre”

“Ngoại giao cây tre” là khái niệm được nhắc nhiều trong những năm gần đây. Đây là trường phái ngoại giao được đúc kết, hình tượng hóa đường lối đối ngoại mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang thực hiện, trong đó trường phái ngoại giao này được xây dựng trên phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.

Vậy cụm từ “ngoại giao cây tre” có từ bao giờ?

Vào tháng 8/2016, tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 29, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định trường phái ngoại giao độc đáo, mang đậm bản sắc cây tre Việt Nam. Đến tháng 12/2021, tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Tổng Bí thư tiếp tục nhấn mạnh: “Hơn 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đối ngoại, ngoại giao Việt Nam đã kế thừa và phát huy bản sắc, cội nguồn văn hóa và truyền thống dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại, phát triển trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, hình thành nên trường phái đối ngoại, ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo, mang đậm bản sắc cây tre Việt Nam. Đó là vừa kiên định về nguyên tắc, vừa uyển chuyển về sách lược; mềm mại, khôn khéo nhưng cũng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, can trường trước mọi khó khăn, thử thách, vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân; đoàn kết, nhân ái nhưng kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc”.

Qua đó, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phân tích, làm sâu sắc thêm cơ sở hình thành, đặc trưng về trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”.

Trên cương vị là người đứng đầu Đảng, với tư duy đối ngoại sâu sắc mang tầm chiến lược cao và thực tiễn trải nghiệm hoạt động ngoại giao phong phú, sinh động, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã cho ra đời cuốn sách “Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam””.  Đồng chí Trương Thị Mai, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư, Trưởng ban Tổ chức Trung ương khẳng định, cuốn sách của Tổng Bí thư là kim chỉ nam cho đường lối, chủ trương của Đảng về công tác đối ngoại; đóng góp to lớn, góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận và cơ sở thực tiễn về xây dựng CNXH và con đường đi lên CNXH của Việt Nam.

Đồng chí Lê Hoài Trung, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương đánh giá, cuốn sách có giá trị vô cùng to lớn bởi đây là công trình đầu tiên mang tính hệ thống, tập hợp những phát biểu, bài viết của Tổng Bí thư về lĩnh vực đối ngoại, ngoại giao. Các bài viết thể hiện một cách cụ thể, sâu sắc và sinh động sự đóng góp to lớn, quan trọng của đồng chí Tổng Bí thư trên nhiều cương vị khác nhau trước đây và với cương vị là lãnh đạo cao nhất của Đảng ta hiện nay trong việc xây dựng và phát triển đường lối đối ngoại của Việt Nam; đồng thời, khẳng định sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo sát sao, toàn diện, xuyên suốt của Đảng, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với công tác đối ngoại trên cả ba trụ cột là đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân.

Bàn về những thành tựu đối ngoại và những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đồng chí Thongsavanh Phomvihane, Ủy viên Trung ương Đảng, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào khẳng định: “Những thành tựu của Việt Nam nói chung, những thành tựu trong công tác đối ngoại nói riêng cũng chính là những thành tựu, là bài học kinh nghiệm quý báu cho đất nước Lào… Đặc biệt, Đảng, Nhà nước Lào đánh giá cao ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong việc nhấn mạnh 6 nhóm vấn đề là mục tiêu, nhiệm vụ to lớn, nặng nề nhưng đầy vẻ vang trong việc triển khai thực hiện đường lối đối ngoại của Việt Nam”.

Trong bài viết “Giá trị thời đại của trường phái ngoại giao mang bản sắc “cây tre Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng”, đồng chí Hàn Phương Minh, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại Chính hiệp toàn quốc Trung Quốc, Chủ tịch Học hội ngoại giao và quan hệ quốc tế CHARHAR đã chia sẻ cảm xúc: “Ngoại giao “cây tre Việt Nam” là vừa kiên trì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, vừa tích cực mở rộng trong lĩnh vực ngoại giao, bảo vệ và phát triển lợi ích quốc gia của Việt Nam, kết hợp nhuần nhuyễn tính linh hoạt và tính nguyên tắc, nỗ lực thích ứng với thế giới không ngừng biến đổi; mặt khác, cùng với việc phát triển các quan hệ ngoại giao hiện có, thiết lập các quan hệ hợp tác mới. Đây chính là nền tảng ngoại giao để Việt Nam vẫn phát triển ổn định, lành mạnh dù đứng trước tình hình thế giới vô cùng phức tạp”.

Còn rất nhiều chính khách, học giả, nhà nghiên cứu thế giới đánh giá cao đường lối, chính sách đối ngoại, ngoại giao của Đảng, Nhà nước ta, ghi nhận những cống hiến to lớn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong quá trình phát triển đất nước, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.

Trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam” mang lại giá trị gì?

Các hoạt động đối ngoại theo trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam” đã góp phần củng cố vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; phục vụ đắc lực, hiệu quả cho phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, tăng cường sức mạnh dân tộc, góp phần xây dựng một thế giới hòa bình, hợp tác. Qua trường phái ngoại giao ấy, từ đầu nhiệm kỳ khóa XIII của Đảng đến nay, Việt Nam tiếp tục mở rộng, làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, trọng tâm là các nước láng giềng, đối tác quan trọng và bạn bè truyền thống.

Chỉ tính trong năm 2023, chúng ta đã tổ chức thành công 22 chuyến thăm của lãnh đạo chủ chốt tới các nước láng giềng, các đối tác quan trọng, bạn bè truyền thống và 28 chuyến thăm của lãnh đạo cấp cao các nước đến Việt Nam cùng với hàng trăm cuộc gặp cấp cao tại các diễn đàn, hội nghị đa phương; trong đó, có những chuyến thăm có ý nghĩa lịch sử như chuyến thăm Việt Nam của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Mỹ Joe Biden...

Thành công của các chuyến thăm, hoạt động đối ngoại này đã tạo nên bước phát triển mới về chất trong đối ngoại và hội nhập quốc tế của nước ta. Đến nay, nước ta đã có quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia, trong đó có 6 nước đối tác chiến lược toàn diện, 12 nước đối tác chiến lược và 12 nước đối tác toàn diện. Trên phương diện kinh tế, thông qua ngoại giao “cây tre Việt Nam”, năm 2023 đã góp quan trọng vào thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xuất nhập khẩu đạt trên 680 tỷ USD, thu hút FDI đạt 36,6 tỷ USD, tăng 32,8%, nhiều tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới đã cam kết đầu tư dài hạn ở Việt Nam…

Khẳng định thành tựu do “ngoại giao cây tre” mang lại, tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 32 ngày 19/12/2023, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định, công tác đối ngoại đã “đạt được nhiều kết quả, thành tựu quan trọng, có ý nghĩa lịch sử, trở thành một điểm sáng đầy ấn tượng trong toàn bộ những kết quả, thành tựu chung của đất nước”.

Trước một thế giới với vô vàn sự chia rẽ, xung đột, Việt Nam đang dần khẳng định vị thế, uy tín đối với bạn bè quốc tế, là biểu tượng của hòa bình, độc lập, tự chủ, thân thiện, hiếu khách, nơi các đối tác đặt niềm tin cho những mối quan hệ tốt đẹp. Những đóng góp của trường phái ngoại giao “cây tre Việt Nam” đã được chứng minh, khẳng định giá trị trên thực tế. Đây là minh chứng sinh động góp phần bác bỏ những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch, phản động về đường lối, chính sách đối ngoại của Việt Nam.

Đại Thắng – Trịnh Thúy

Hệ thống chính trị một đảng cầm quyền ở Việt Nam - sự lựa chọn đúng đắn của lịch sử

Thứ hai, 29/01/2024 - 06:11

Lịch sử chính trị thế giới đã cho chúng ta nhiều bài học để thấy rằng sự chia rẽ, phân rã, thiếu tập trung về quyền lực chính trị sẽ dẫn đến sự bất hòa, đó chính là mầm mống cho những nỗi thống khổ, bất hạnh của người dân. Thực tiễn cũng cho thấy, chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập hoàn toàn không phù hợp với bối cảnh lịch sử-xã hội ở Việt Nam.

Những nghịch lý và hệ lụy của chế độ đa đảng

Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập là một khuynh hướng tổ chức đời sống chính trị-xã hội xuất hiện từ đầu thế kỷ 18 với xu hướng tuyệt đối hóa sự đa dạng, đối kháng của các đảng chính trị. Chế độ đa đảng là hệ thống mà ở đó có nhiều đảng chính trị có khả năng giành quyền điều hành chính phủ một cách độc lập hay liên minh với nhau.

Lịch sử chính trị thế giới cho chúng ta một số bài học để thấy rằng hệ thống đa đảng đối lập nhiều khi không dẫn các quốc gia theo con đường này đến hòa bình, ổn định và phồn vinh, mà ngược lại nó dẫn đến sự bất hòa, phân lập, thậm chí là tê liệt của bộ máy công quyền. Trở lại bối cảnh lịch sử của nước Đức cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Nước Đức thời kỳ này tồn tại nhiều đảng phái chính trị, mỗi đảng đại diện cho những lợi ích xã hội được xác định rõ ràng, tranh giành quyền lực và lợi lộc từ quyền lực, thỏa hiệp và ký kết thỏa hiệp với nhau khi nào có thể. Sự chia rẽ trong đời sống chính trị không chỉ dẫn đến hậu quả đau đớn cho Đức vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 mà hiện vẫn còn dẫn tới sự bất ổn chính trị, làm gia tăng nghèo đói và bạo loạn ở nhiều nước trên thế giới.

Nhìn lại cuộc cách mạng “mùa xuân Ả Rập” diễn ra năm 2011 cho thấy điều đó. Phân hóa giàu nghèo, tham nhũng là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự nổi dậy lật đổ chính quyền tại một loạt quốc gia ở khu vực Bắc Phi và Trung Đông. Nhưng sau khi lật đổ chính quyền, điều mà người dân trông chờ là một nền chính trị ổn định, ít tham nhũng, quan tâm đến đời sống của đại đa số người dân, những gì mà các thế lực bên ngoài rao giảng đã không được thực thi trên thực tế. Thay vào đó là sự tranh giành quyền lực giữa các đảng phái và thế lực chính trị. Cho đến hiện tại, ở các quốc gia này, không có một đảng chính trị hay một lực lượng chính trị nào đủ mạnh để có thể thống nhất, lãnh đạo đất nước khiến xã hội vẫn chưa đi vào ổn định và phát triển.

Thể chế đa đảng với cách thức tổ chức cho phép các đảng đối lập phản đối chính sách của đảng cầm quyền nhằm thực hiện dân chủ, nhưng nghịch lý của nó là khiến chính phủ trở nên phân rã và chia rẽ. Sự phân cực chính trị làm phân tán nguồn lực và các chính sách đem lại lợi ích cho đa số người dân thường sẽ khó được thực thi. Bởi khi không nắm chính quyền, các đảng chính trị sẽ có nhiệm vụ là tìm mọi cách phê phán chính sách của đảng đối lập; mục đích chính của việc làm này không phải là để có tiếng nói phản biện nhằm làm cho chính sách được thực thi một cách tốt hơn mà là để giành giữ lá phiếu cho đảng mình trong các lần bầu cử tiếp theo.

Nhìn vào đời sống chính trị của các quốc gia tổ chức theo chế độ đa đảng đối lập, chúng ta sẽ thấy các đảng chính trị để tranh giành quyền lực, họ không dựa trên lợi ích của đông đảo người dân nhằm giải quyết các vấn đề mà xuất phát từ lợi ích của đảng phái, thậm chí là lợi ích cá nhân hẹp hòi. 

Sự lựa chọn cho ổn định, ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân Việt Nam

Lịch sử chính trị thế giới đã cho chúng ta nhiều bài học để thấy rằng sự chia rẽ, phân rã, thiếu tập trung về quyền lực chính trị sẽ dẫn đến sự bất hòa, đó chính là mầm mống cho những nỗi thống khổ, bất hạnh của người dân.

Tại Việt Nam, vào cuối thập niên 20 của thế kỷ trước, cùng với sự phát triển của các phong trào yêu nước, các tổ chức cộng sản đảng đã ra đời mà tiêu biểu là An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Đảng và Tân Việt Cách mạng Đảng. Sau khi ra đời 3 tổ chức cộng sản đều tuyên bố ủng hộ Quốc tế cộng sản và đều tự nhận mình là đảng cách mạng chân chính. Tuy nhiên sự xuất hiện và tồn tại 3 tổ chức cộng sản đảng cùng hoạt động cách mạng đã dẫn đến sự chia rẽ nguồn lực, các đảng công kích lẫn nhau để tranh giành ảnh hưởng. Sự chia rẽ, công kích lẫn nhau của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam thời kỳ này đã gây tổn hại lớn cho sự phát triển của phong trào cách mạng và gây nên tâm trạng nghi ngờ, hoang mang trong quần chúng.

Để chấm dứt sự chia rẽ và công kích lẫn nhau của các tổ chức cộng sản, đầu tháng giêng năm 1930, được sự ủy nhiệm của Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã đến Hương Cảng để triệu tập hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3-2-1930 là minh chứng lịch sử cho chúng ta thấy cách thức tổ chức một đảng duy nhất cầm quyền, đây là sự lựa chọn đúng đắn của lịch sử, phù hợp với đặc trưng văn hóa, chính trị, kinh tế, xã hội của nước ta.

So với thể chế đa đảng đối lập, nhiều quan điểm cho rằng các quốc gia có một đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo đất nước đó là “chế độ độc đảng toàn trị”. Hằng năm, các báo cáo về chỉ số tự do dân chủ (Democracy Index) vẫn dựa vào tiêu chí đa đảng đối lập để đánh giá mức độ tự do, dân chủ của một quốc gia. Dựa vào các báo cáo này, họ rao giảng rằng các quốc gia như Việt Nam có một đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo đất nước thì xu hướng chung “đảng đó sẽ độc chiếm quyền lực, tiếm đoạt các chức năng của nhà nước, kiểm soát toàn bộ đời sống của xã hội nói chung, của cá nhân nói riêng”. Họ "khuyến cáo" rằng, "Việt Nam cần phải thực hiện “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập” để thực hiện dân chủ"(!).

Tuy nhiên phải hiểu rằng, dù đề cập đến dân chủ như một giá trị tốt đẹp, dân chủ như một hình thức cai trị, một cách thức ra các quyết định chung hay dân chủ như một chế độ chính trị thì tất cả các ngữ nghĩa này đều không bắt nguồn từ cách thức tổ chức các đảng chính trị như thế nào. Dù là chế độ một đảng nhưng chúng ta đã, đang thực hiện dân chủ theo những cách riêng, phù hợp với đặc trưng văn hóa, tập quán, lối sống và năng lực thực hành dân chủ của người dân Việt Nam.

Lịch sử đấu tranh cách mạng ở Việt Nam đã cho chúng ta thấy Đảng Cộng sản Việt Nam là tổ chức duy nhất lãnh đạo đất nước, đó là sự lựa chọn đúng đắn của lịch sử, phù hợp với phong tục, tập quán, năng lực thực hành dân chủ của người Việt. Nếu ai đó nói với chúng ta rằng Việt Nam cần phải học hỏi các quốc gia trên thế giới, phải xóa bỏ chế độ độc tôn của Đảng Cộng sản Việt Nam để tổ chức đời sống chính trị theo chế độ đa đảng, nhất là đa đảng đối lập giống như nhiều quốc gia khác trên thế giới thì chúng ta đừng hoang mang, dao động, mà hãy nhìn vào đời sống chính trị của các quốc gia theo chế độ đa đảng, đặc biệt là hệ thống đa đảng đối lập đã được phân tích cụ thể ở phần trên. Hãy nhìn vào cuộc sống hiện tại của người dân ở các quốc gia đã trải qua "mùa xuân Ả Rập" hay trải qua "cách mạng sắc màu", những người đã tin theo những lời xúi giục đó, họ đang khát khao như thế nào về một cuộc sống yên bình, ổn định, không có xung đột, đói nghèo và tội phạm gia tăng để cân nhắc quan điểm và lựa chọn hành động cho đúng.

Cho đến hiện nay, chế độ đa đảng, đặc biệt là đa đảng đối lập với đại diện theo tỷ lệ vẫn được các quốc gia phương Tây sử dụng như một “tiêu chuẩn của các nền dân chủ tiên tiến”. Lịch sử tổ chức đời sống chính trị trên thế giới lại cho chúng ta thấy rằng, dân chủ không bắt nguồn từ cách thức chúng ta tổ chức các đảng chính trị như thế nào. Nếu bạn đọc ở đâu đó hay nghe ai đó thuyết giảng rằng Việt Nam cần phải xây dựng chế độ đa đảng giống như mô hình của nhiều quốc gia phương Tây, thì bạn hãy nhớ rằng: Hiện nay, trên thế giới đang có hàng chục quốc gia lựa chọn thể chế "đa nguyên, đa đảng" nhưng đang chìm trong đói nghèo, khủng hoảng chính trị triền miên. Chúng ta có lợi thế hơn họ bởi chúng ta có những tấm gương trước mắt để học hỏi và lựa chọn. Sự lựa chọn đúng đắn nhất của chúng ta là: Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo nhà nước và xã hội. Đây là sự lựa chọn cho sự ổn định, ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân ta và sự phát triển bền vững của đất nước Việt Nam.

Tiến sĩ HOÀNG THỊ QUYÊN (Học viện Chính trị Khu vực IV, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh)

Ngăn ngừa suy thoái trong công nghiệp văn hóa

Thứ năm, 25/01/2024 - 06:20

Tại Hội nghị toàn quốc về phát triển các ngành công nghiệp văn hóa (CNVH) Việt Nam, diễn ra ngày 22-12-2023 ở Hà Nội, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã nhấn mạnh yêu cầu: Cần có sự chuyển biến mạnh mẽ từ nhận thức, tư duy đến hành động, đổi mới tư duy, đột phá trong cách làm... đồng thời nhận diện thời cơ, thách thức của CNVH Việt Nam trong thời gian tới...

Tư duy phiến diện và hành động “ăn xổi”

Công nghiệp văn hóa là một khái niệm có biên độ tư duy và phạm vi ứng dụng rộng, đa ngành, đa lĩnh vực, đa phương thức. Trên thế giới, tùy vào trình độ phát triển kinh tế-xã hội và đặc trưng văn hóa, mỗi quốc gia có cách phát triển CNVH khác nhau.

Tại Việt Nam, CNVH trên thực tế đang là lĩnh vực khá non trẻ. Trong thời kỳ đổi mới, hội nhập, Đảng, Nhà nước ta đã có định hướng phát triển CNVH từ sớm và tư duy phát triển CNVH được bổ sung, phát triển qua từng nhiệm kỳ, từng giai đoạn phát triển đất nước. Tuy nhiên, việc đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống trên lĩnh vực này vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế.

Hội nghị toàn quốc về phát triển các ngành CNVH của Chính phủ ngày 22-12-2023 đã chỉ rõ: Nội dung, hình thức sản phẩm, dịch vụ trong các lĩnh vực CNVH còn hạn chế (thiếu những sản phẩm, tác phẩm lớn, phản ánh được hơi thở, sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước; một số tác phẩm có biểu hiện "lệch chuẩn"); dễ bị tác động bởi các yếu tố bên ngoài...

<a title="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" style="text-align:center;" href="https://www.qdnd.vn"><img src="https://file3.qdnd.vn/data/images/0/2021/08/11/linh/bannerv2.png" class="vllogo"></a>
Ảnh minh họa: tuyengiao.vn

Sự “lệch chuẩn” trong CNVH, từ những góc nhìn cận cảnh trên thực tế, có thể thấy, nó xuất phát từ nhận thức chưa đầy đủ về mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phát triển CNVH của Đảng. Từ đó dẫn đến tư duy phiến diện trong một bộ phận tổ chức, cá nhân làm văn hóa. Lối tư duy ấy sinh ra cách làm thực dụng, “ăn xổi”. Đơn cử, tại TP Hồ Chí Minh, ngành công nghiệp giải trí có sự bứt phá, vươn lên bằng các mô hình xã hội hóa. Sự huy động các nguồn lực, trong đó có nguồn lực từ kiều bào và hợp tác quốc tế đã thổi một luồng gió mới cho thị trường giải trí ở TP Hồ Chí Minh.

Hàng loạt mô hình sân khấu xã hội hóa, hãng phim tư nhân, công ty dịch vụ giải trí... ra đời, đem đến cho thị trường sự đa dạng về loại hình, phong phú về sản phẩm. Nhưng rồi, chỉ được một thời gian, nhiều mô hình đã bị thoái trào, nhiều doanh nghiệp giải thể, nhiều sân khấu đóng cửa, một số hãng phim chỉ còn cái tên trong quá khứ. Thậm chí, không ít tổ chức, cá nhân (trong đó có một số người nổi tiếng) vi phạm pháp luật đã bị truy tố.

Nhìn từ khía cạnh văn hóa tư tưởng, có thể thấy, điều đáng lo ngại hiện nay chính là những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống trong CNVH. Để kiếm nhiều tiền, muốn nhanh chóng nổi tiếng, không ít tổ chức, cá nhân sẵn sàng sử dụng chiêu trò phản cảm bằng mọi giá. Sự xuất hiện nhan nhản các danh hiệu tự phong, kiểu như: “Nữ hoàng”, “ông vua”, “nam thần”, “thánh nữ”, “ngôi sao”... cùng việc “bội thực” các cuộc thi nhan sắc khiến tình trạng “lệch chuẩn” trong thị trường giải trí ngày càng phức tạp. Bên cạnh đó là sự “lệch chuẩn” về tư tưởng, nội dung tác phẩm.

Những ồn ào dư luận xoay quanh một số bộ phim điện ảnh, tác phẩm văn học thời gian qua cho thấy, nhiều giá trị cốt lõi của văn hóa, truyền thống dân tộc bị “hư cấu” theo những góc nhìn phiến diện. Phẩm chất anh hùng, lòng yêu nước hun đúc nên cốt cách dân tộc bị “pha loãng”, trở nên hời hợt, nhạt nhòa. Thậm chí, có lúc nó bị biến thành công cụ, chi tiết để chọc cười, câu khách...

Xu thế tất yếu và tính cấp thiết “lấy xây để chống”

Nguyên nhân căn bản của những hạn chế, bất cập nêu trên chính là do môi trường CNVH bị chi phối, ảnh hưởng bởi chủ nghĩa cá nhân. Thực trạng này đòi hỏi phải chấn chỉnh, khắc phục cách làm “ăn xổi”, manh mún, chụp giật; đồng thời phải đổi mới mạnh mẽ nhận thức, tư duy và hành động trong CNVH. Báo cáo tổng kết công tác năm 2023 của ngành tuyên giáo TP Hồ Chí Minh do đồng chí Phan Nguyễn Như Khuê, Trưởng ban Tuyên giáo Thành ủy TP Hồ Chí Minh trình bày tại hội nghị ngày 28-12-2023 cũng nêu rõ: Công tác đấu tranh, phòng, chống luận điểm xấu độc trên không gian mạng thuộc lĩnh vực văn học, nghệ thuật chưa kịp thời; việc thực hiện cơ chế đặt hàng tác phẩm văn học nghệ thuật đối với đội ngũ sáng tạo ngoài công lập chưa tạo được sự thu hút đối với các nguồn lực xã hội...

Phát triển CNVH là xu thế tất yếu. Trong chiến lược phát triển Việt Nam hùng cường, tiềm năng, thế mạnh từ văn hóa dân tộc cần được khai mở, tận dụng, phát triển một cách mạnh mẽ, toàn diện. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Khẩn trương triển khai có trọng tâm, trọng điểm ngành CNVH và dịch vụ văn hóa trên cơ sở xác định và phát huy sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, vận dụng có hiệu quả các giá trị, tinh hoa và thành tựu mới của văn hóa, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của thế giới”.

Để CNVH phát triển bền vững với tinh thần khẩn trương theo định hướng của Đảng, phương châm kết hợp “xây” và “chống”, “lấy xây để chống” cần được nhất quán từ chủ trương vĩ mô đến ứng dụng, phát triển các mô hình, loại hình từ cơ sở. Chính sách kinh tế trong văn hóa và văn hóa trong kinh tế được Đảng ta xác định trong Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII (năm 1998) chính là một trong những nguyên tắc nền tảng để đổi mới tư duy, hành động “xây” và “chống” trong CNVH. Mục tiêu phát triển đã được Chính phủ xác định rõ, đến năm 2030 đạt 7% tổng sản phẩm trong nước (GDP) từ CNVH.

Cơ cấu CNVH bao gồm nhiều lĩnh vực, song ưu tiên phát triển các ngành có nhiều lợi thế, tiềm năng, như: Điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, thủ công mỹ nghệ, quảng cáo, phần mềm và các trò chơi giải trí, truyền hình và phát thanh, thời trang, du lịch văn hóa...

Các ngành ưu tiên phát triển cũng chính là những lĩnh vực chứa đựng nhiều yếu tố nhạy cảm. Thời cơ cho CNVH rất lớn, nhưng thách thức cũng đến từ chính yếu tố nhạy cảm của nó mà nhiều khi hiệu lực luật pháp không can thiệp được.

Để “xây” và “chống” có hiệu quả, phải lấy vũ khí văn hóa đạo đức đẩy lùi mầm mống phản văn hóa, quét sạch chủ nghĩa cá nhân trong hoạt động văn hóa. Mục tiêu kinh tế của CNVH không chỉ có việc nâng tầm, nâng chất lượng các yếu tố về nhân lực, vật chất, công nghệ... mà cần coi trọng giá trị cốt lõi của văn hóa. Cùng với đẩy mạnh công tác giáo dục lý luận chính trị, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong môi trường CNVH, cần phát huy vai trò của các tổ chức hội, đoàn, hiệp hội từ Trung ương đến địa phương trong quản lý, định hướng lao động nghề nghiệp của văn nghệ sĩ và doanh nghiệp.

Để “xây” tốt thì phải ngăn ngừa mầm mống suy thoái ngay từ tư duy, ý tưởng sáng tạo, biểu diễn, phổ biến tác phẩm. Vai trò nòng cốt của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên trong các hội, đoàn, hiệp hội cần được đề cao để hội viên các ngành, các lĩnh vực có môi trường lao động, cống hiến lành mạnh, đúng định hướng của Đảng. Muốn CNVH phát triển bền vững, phải đầu tư có trọng tâm, trọng điểm để có tác phẩm lớn.

Tác phẩm lớn xứng tầm thời đại luôn được hình thành trên nền tảng truyền thống văn hóa, cốt cách dân tộc. Rời bỏ giá trị cốt lõi ấy, tác phẩm chỉ là sự vay mượn, lai căng, nó có thể gây sốt thị trường ở một lúc, một nơi nào đó, nhưng chắc chắn khó tránh khỏi "chết yểu". Mà bản chất CNVH thì không thể nào chấp nhận những "cái chết" kiểu như vậy.

PHAN TÙNG SƠN

Tin giả - sự nguy hại và phương cách ngăn chặn

Thứ hai, 22/01/2024 - 05:49

Tin giả đang nổi lên thành vấn nạn tại nhiều quốc gia trên thế giới. Ở Việt Nam, vấn nạn tin giả diễn ra tràn lan, gây thiệt hại lớn trên nhiều lĩnh vực, phương diện, nhất là các thế lực thù địch sử dụng tin giả để thực hiện âm mưu, thủ đoạn chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng, Nhà nước và dân tộc ta. Do vậy, ngăn chặn, triệt phá tin giả, thông tin xấu độc là nhiệm vụ cấp thiết trong kỷ nguyên số.

Tin giả - hậu quả thật

Tin giả còn được gọi là tin rác hoặc tin tức giả mạo, là thông tin cố ý bịa đặt hoặc dùng thủ thuật lừa bịp bằng cách lan truyền qua phương tiện truyền thông hay mạng xã hội (MXH). Tin giả thường được tạo ra để tác động đến tư tưởng, quan điểm, tình cảm, cảm xúc, thái độ, hành vi của người dân, gây ảnh hưởng tiêu cực đến diễn biến thực tiễn, nhằm thực hiện các mục đích chính trị, lợi ích kinh tế hay ý đồ xấu xa của chủ thể tiến hành.

Trong điều kiện mới với xu thế phát triển nhanh của MXH và các nền tảng MXH xuyên biên giới, kéo theo việc các thế lực thù địch tăng cường lợi dụng, tung tin giả ngày càng phổ biến với nhiều chiêu trò, cách thức, thậm chí rất khó nhận diện, đấu tranh, đẩy lùi.

Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ người dân sử dụng internet rất cao. Bởi vậy, khi tin giả xuất hiện thì cường độ, tốc độ lan truyền nhanh, tác động rất lớn đến đời sống trên không gian mạng và cộng đồng xã hội. Ví như, khoảng cuối tháng 3, đầu tháng 4-2022, loạt tin đồn thất thiệt trên MXH về việc một số doanh nghiệp ngoài nhà nước niêm yết trên sàn chứng khoán bị thanh tra chuyên đề (hoạt động phát hành trái phiếu và việc thực hiện pháp luật về kế toán, thuế, chứng khoán) gây hoang mang cho nhà đầu tư và gây thiệt hại nghiêm trọng cho các doanh nghiệp. Ngay sau đó, dù có thông tin chính thống để đính chính, trấn an cổ đông, nhà đầu tư nhưng cổ phiếu của các doanh nghiệp này vẫn liên tục giảm mạnh. Điều đó cho thấy, chỉ vì tin giả mà kinh tế đất nước bị ảnh hưởng, chi phối rất nghiêm trọng.

<a title="Báo Quân đội nhân dân | Tin tức quân đội, quốc phòng | Bảo vệ Tổ quốc" style="text-align:center;" href="https://www.qdnd.vn"><img src="https://file3.qdnd.vn/data/images/0/2021/08/11/linh/bannerv2.png" class="vllogo"></a>
Ảnh minh họa: Báo Điện tử Đảng Cộng sản 

Tương tự, tin giả xuất hiện trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là những vấn đề, lĩnh vực "nóng", "nhạy cảm" liên quan đến công tác nhân sự, bầu cử, bỏ phiếu tín nhiệm, xử lý kỷ luật cán bộ cấp cao... Tin giả cũng thường xuất hiện trước những sự kiện chính trị trọng đại của Đảng, đất nước, Quân đội với tần suất ngày càng nhiều và mức độ nguy hiểm, phức tạp khó lường. Đặc biệt, thời gian gần đây xuất hiện nhiều tin giả về tình hình sức khỏe của một số đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội, gây xáo trộn đến tư tưởng, tình cảm và niềm tin của quần chúng; thậm chí còn tạo ra sự hoang mang, tâm lý tiêu cực trong đời sống xã hội.

Rõ ràng, tin giả là một loại thông tin không có thật, nhưng hệ quả và tác hại của nó thì có thật; ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều lĩnh vực đời sống xã hội, nhất là an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, quốc phòng, an ninh. Chẳng hạn, vào những năm 80, 90 của thế kỷ 20, trên địa bàn Tây Nguyên, các thế lực phản động ở nước ngoài cấu kết với FULRO tung tin giả về việc người Kinh đang chiếm đất của người Thượng, rồi kích động, lôi kéo một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số tụ tập biểu tình, gây rối chính trị ở nhiều địa bàn Tây Nguyên vào các năm 2001, 2004. Tương tự, những sự vụ, sự việc diễn ra ở Thái Bình (năm 1997), Mường Nhé, Điện Biên (năm 2011) và các "điểm nóng" ở Tây Bắc, Tây Nghệ An, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ... đều bắt đầu từ những tin tức giả mạo, bịa đặt một cách trắng trợn. Hay sự kiện diễn ra ở Bình Thuận và hàng chục địa phương trong nước năm 2018 là bài học đau lòng, khi kẻ thù bịa ra tin giả về việc cán bộ Trung ương “tự quyết” cho nước ngoài thuê đất đặc khu trong 99 năm là nhằm hiện thực lợi ích nhóm của một bộ phận cán bộ... Tin giả ấy đã tạo ra sự bức xúc trên MXH, rồi lan ra đời sống, gây nhiều tổn thất cả về vật chất lẫn tinh thần.

Làm gì để khống chế, đẩy lùi tin giả?

Là quốc gia có nhiều nỗ lực và đạt kết quả quan trọng trong phòng, chống, xử lý tin giả, đến nay, Việt Nam đã hoàn thiện các quy định pháp luật, tăng cường biện pháp quản lý thông tin trên MXH; ban hành các quy định, quy trình xử lý tin sai sự thật; tăng cường hợp tác để yêu cầu các nền tảng xuyên biên giới loại bỏ thông tin sai lệch, vi phạm pháp luật; thiết lập Trung tâm an ninh mạng quốc gia... Thế nhưng, những nỗ lực nêu trên vẫn chưa đủ sức hạn chế, khống chế một cách hiệu quả tình trạng tin giả đang có xu hướng gia tăng trên MXH.

MXH với đặc tính dễ ẩn danh, lan truyền nhanh, khó xác minh, truy vết... đã và đang trở thành môi trường thuận lợi cho việc tán phát tin giả. Hơn thế, trong điều kiện mới, các lực lượng thù địch đang ra sức chống phá cách mạng Việt Nam, trong đó, việc tung tin giả được sử dụng như một mũi công kích chủ yếu.

Để khắc chế, đẩy lùi vấn nạn tin giả, với trách nhiệm rất cao, Việt Nam đã đề xuất thành lập đội phản ứng của ASEAN về tin giả và được các quan chức cao cấp ASEAN đồng thuận, ủng hộ. Tuy nhiên, việc tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện cơ chế, cách thức vận hành đội phản ứng nhanh để đi vào hoạt động hiệu quả vẫn còn là bài toán nan giải. Cùng với đó, việc phát huy vai trò của Trung tâm an ninh mạng quốc gia và Trung tâm phòng, chống tin giả tuy đạt kết quả bước đầu khả quan nhưng vẫn thụ động; chủ yếu là ứng phó, xử lý sự cố, sự việc khi có tình huống mà chưa đề cao đúng mức tính chủ động trong dự báo, ngăn chặn, đẩy lùi tin giả từ sớm, từ xa...

Cùng với đó, để khống chế, đẩy lùi tin giả thì công tác cung cấp, định hướng thông tin chính thống phải được xem là giải pháp trọng yếu, ưu tiên hàng đầu. Theo đó, cơ quan chức năng phải thực sự “đi trước, đón đầu” trong việc cung cấp thông tin chính xác, đồng bộ, rộng khắp; biến thông tin chính thống thành dòng chủ lưu trong đời sống thông tin xã hội để ngăn chặn, phòng ngừa, đẩy lùi tin giả. Khi xuất hiện tình huống tin giả, cơ quan chức năng cần có ngay các giải pháp quản lý, khống chế cả về số lượng, phạm vi, mức độ, cường độ lây lan của tin giả trên không gian mạng. Phải nỗ lực khắc chế, đẩy lùi tin giả từ khi chúng vừa manh nha hình thành, hay chí ít là khi chúng xuất hiện nhỏ lẻ, chứ không thể để tin giả lây lan rộng khắp, trở thành "điểm nóng" trên MXH rồi mới “theo đuôi”, đi tìm cách khắc phục, xử lý...

Vấn đề đáng bàn ở đây là vì sao những tin tức giả mạo, bịa đặt trắng trợn vẫn có thể xuất hiện kéo dài trên MXH, gây hậu quả nghiêm trọng, nhưng chưa có cơ quan chức năng kịp thời đứng ra nhận trách nhiệm hoặc chủ động đấu tranh, cung cấp thông tin chính thống nhằm điều chỉnh, uốn nắn, định hướng dư luận ở những thời điểm nhạy cảm? Phải chăng vẫn còn vướng mắc nào đó về mặt cơ chế, hay là do chi phối bởi căn bệnh sợ trách nhiệm? Đây là vấn đề cần nhìn nhận thấu đáo để nghiêm khắc rút kinh nghiệm và có giải pháp khắc phục.

Trên tinh thần đó, cùng với việc tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống, đẩy lùi vấn nạn tin giả, Việt Nam cần có những quy định chặt chẽ hơn trong việc xử lý khủng hoảng truyền thông; hoàn thiện quy định, quy chế phát ngôn định hướng dư luận; quy rõ trách nhiệm đối với người đứng đầu và cơ quan chức năng trong việc quản lý, đấu tranh với vấn nạn tin giả. Đó là những vấn đề cần lưu tâm, ưu tiên thực hiện.

Một giải pháp quan trọng nữa là cần đẩy mạnh hợp tác giữa các cơ quan quản lý truyền thông Việt Nam và các quốc gia trên thế giới trong việc phát hiện, khống chế, đẩy lùi tin giả; tăng cường phối hợp giữa các tổ chức nghiên cứu độc lập, tổ chức xác minh và nhà cung cấp MXH để đối phó với vấn nạn tin giả trong khu vực và trên thế giới; tăng cường phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa các cấp, ngành, cơ quan, địa phương trong cả nước nhằm chủ động ngăn chặn, phát hiện, đấu tranh và xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân có hành vi tán phát, ủng hộ, cổ xúy tin giả nhằm những mục đích tiêu cực, phản động, vi phạm pháp luật.

NGUYỄN TẤN TUÂN

Đánh tráo bản chất phiên tòa xét xử vụ khủng bố - âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch

Thứ Hai, 22/01/2024, 05:26

Từ 16-20/1/2024, TAND tỉnh Đắk Lắk đưa ra xét xử sơ thẩm 100 bị cáo trong vụ khủng bố, tấn công trụ sở UBND hai xã ở Đắk Lắk, giết hại cán bộ, chiến sĩ Công an và người dân vào rạng sáng 11/6/2023.

Trước, trong và sau phiên toà, trên nhiều kênh thông tin báo chí nước ngoài, các trang mạng của tổ chức phản động lưu vong và trang mạng cá nhân của các đối tượng chống đối đã tung ra thông tin sai sự thật, các hình ảnh được dàn dựng, cắt ghép với mục đích chính trị hoá vụ án.

Họ cố tình đánh tráo bản chất, biến vụ khủng bố thành vấn đề xung đột, mâu thuẫn trong các dân tộc ở Tây Nguyên nhằm kích động tâm lý kỳ thị dân tộc, gây chia rẽ giữa đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên. Đồng thời tạo cớ để kêu gọi các nước, các tổ chức quốc tế can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta.

Thủ đoạn đánh tráo bản chất vụ án

 “Chính trị hóa” vụ án hình sự là hành vi được các thế lực thù địch triệt để lợi dụng nhằm bẻ lái, xuyên tạc, áp đặt, cho đó là “vi phạm nhân quyền”, “vi phạm dân chủ”, “tranh giành quyền lực”, “thanh trừng phe nhóm”, “lỗi do độc đảng”... Họ thổi phồng, suy diễn vụ việc sang hướng quy kết thành những vấn đề chính trị của đất nước. Đài Á châu tự do (RFA) đưa bài “Vụ xả súng tại Đắk Lắk vào tháng 6/2023 là “phản kháng chống lại áp bức”, xuyên tạc sự thật.

t3aaa.jpg -0
Phiên toà xét xử các bị cáo trong vụ khủng bố ở Đắk Lắk.

Họ tẩy trắng hành vi khủng bố và kích động, xuyên tạc chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng ta, đồng thời tiếp tục cổ suý, kích động cho những hành động khủng bố trên.

Báo điện tử BBC Tiếng Việt ngày 17/1 đăng bài “Thấy gì từ phiên tòa xét xử 100 người vụ tấn công trụ sở UBND xã ở Đắk Lắk?”, đưa nhiều thông tin sai sự thật, mang tính chụp mũ, suy diễn như: “Báo chí trong nước khi đưa tin phiên tòa đều gọi các bị cáo là khủng bố, tạo ra cái nhãn “có tội” cho tất cả những người này dù chưa hề có bản án có hiệu lực của tòa”! Các đối tượng tiếp tục vu cáo Việt Nam đàn áp người dân tộc thiểu số suốt nhiều thập kỷ qua và quy kết hành vi tấn công khủng bố là phản ứng từ sự dồn nén, phẫn uất quá lâu của người dân mà sự kiện ngày 11/6/2023 “tựa như một sự tức nước vỡ bờ”!

Đài VOA Tiếng Việt đưa tin phiên toà bằng việc dẫn lại nguồn tin của báo chí. Tuy nhiên, trang tin đã lồng ghép, xuyên tạc bản chất vụ việc vào nội dung bài báo như phủ nhận hành vi khủng bố và coi các hoạt động trên là sự “phản kháng áp bức”! Đồng thời, bài viết trích dẫn những nội dung sai trái khác nhắm vào miệt thị chính quyền, quy cho nguyên nhân vụ khủng bố là “họ đã bị đẩy đuổi đến bước đường cùng”!

Không chỉ đến khi xảy ra vụ việc các đối tượng tấn công khủng bố ở Đắk Lắk mà trước đó các kênh thông tin báo chí nước ngoài, các trang mạng của tổ chức phản động lưu vong và trang mạng cá nhân của các đối tượng chống đối đã đưa nhiều thông tin sai sự thật, có các bình luận mang tính chụp mũ, suy diễn. Họ xuyên tạc chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng ta khi nói rằng, giải pháp cho các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội ở Tây Nguyên đều lặp lại điệp khúc này từ khi đất nước thống nhất, ngày 30/4/1975.

Thủ đoạn tuyên truyền, xuyên tạc vấn đề dân tộc ở Tây Nguyên của các thế lực thù địch, phản động theo các hướng sau:

Một là, sử dụng triệt để các tiện ích của phương tiện truyền thông  trên internet, trong đó có mạng xã hội để xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta liên quan đến các vấn đề dân tộc, tôn giáo; vu cáo Nhà nước phân biệt đối xử, đàn áp quyền của người dân tộc thiểu số nhằm làm suy giảm niềm tin của nhân dân, kích động đồng bào chống đối chính quyền, đòi ly khai, quyền tự trị, đòi thành lập “Nhà nước Đê-ga” độc lập.

Hai là, lợi dụng các chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta để tuyên truyền, phát triển đạo trái pháp luật, nhất là đạo “Tin lành Đêga” nhằm tôn giáo hóa các vùng dân tộc thiểu số, tiến tới tập hợp lực lượng trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, từ đó kết hợp vấn đề dân tộc và tôn giáo để kích động hoạt động biểu tình, bạo loạn, tạo thành điểm nóng chính trị, an ninh xã hội.

Ba là, triệt để lợi dụng những vấn đề lịch sử để lại nhằm thực hiện việc kích động hận thù, chia rẽ đồng bào các dân tộc thiểu số, khoét sâu tâm lý ly khai, phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết vùng miền, đoàn kết lương giáo, đoàn kết người Việt Nam ở nước ngoài với quê hương, đoàn kết quân - dân, đoàn kết cấp ủy đảng, chính quyền các cấp với nhân dân...

Âm mưu cơ bản, lâu dài của các đối tượng chống đối trong và ngoài nước đối với vùng đất Tây Nguyên là xuyên tạc, vu cáo Việt Nam đàn áp quyền của người dân tộc thiểu số; tuyên truyền, lôi kéo, kích động đồng bào các dân tộc đòi ly khai, tự trị, thành lập cái gọi là “Nhà nước Đê-ga”, tách Tây Nguyên ra khỏi đại gia đình các dân tộc và chủ quyền lãnh thổ Việt Nam; biến địa bàn Tây Nguyên thành khu vực mất ổn định, vùng tự trị, tiến tới thành lập “nhà nước độc lập”. Đồng thời, tạo ngòi nổ cho đồng bào dân tộc thiểu số ở những khu vực khác hình thành nhiều “điểm nóng xung đột”, gây mất ổn định chính trị, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Từ hình thành các điểm nóng trong nước, các đối tượng kêu gọi sự can thiệp từ bên ngoài vào tình hình nội bộ của Việt Nam và làm suy giảm uy tín của Việt Nam với quốc tế.

Sự thật không thể bị bóp méo

Ngày 22/6/2023, tại trụ sở Liên hợp quốc (LHQ) ở New York, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã tổ chức thảo luận và thông qua văn kiện rà soát lần thứ 8 việc thực hiện chiến lược chống khủng bố của LHQ. Nghị quyết tái khẳng định chiến lược cùng 4 trụ cột, tầm quan trọng của việc thực hiện cân bằng và kết hợp tất cả trụ cột. Tham dự và phát biểu tại phiên họp, Đại sứ Đặng Hoàng Giang, Trưởng Phái đoàn Thường trực Việt Nam tại LHQ đánh giá: Chủ nghĩa khủng bố tiếp tục là mối đe dọa nghiêm trọng đối với hòa bình, ổn định và phát triển trên phạm vi toàn cầu. Đồng thời, Đại sứ Đặng Hoàng Giang khẳng định, việc thông qua văn kiện bằng đồng thuận thể hiện thông điệp thống nhất và mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế không chấp nhận chủ nghĩa khủng bố dưới bất cứ hình thức nào. Đối với vụ việc xảy ra tại tỉnh Đắk Lắk ngày 11/6/2023, Đại sứ Đặng Hoàng Giang nhấn mạnh, đây là hành vi khủng bố có tổ chức nhằm vào trụ sở cơ quan nhà nước, cán bộ và dân thường. Ông khẳng định, các tổ chức, cá nhân trực tiếp thực hiện hoặc đứng sau sẽ bị xử lý tương xứng với mức độ vi phạm. Đồng thời tái khẳng định lập trường của Việt Nam phù hợp với các văn kiện của LHQ liên quan, lên án mạnh mẽ chủ nghĩa khủng bố dưới mọi hình thức và biểu hiện, do bất kỳ ai thực hiện, ở đâu và vì bất kỳ mục đích gì.

Trước đó, ngày 20/6/2023, tại Hội nghị cấp cao của những người đứng đầu cơ quan chống khủng bố của các quốc gia thành viên LHQ, Thiếu tướng Phạm Ngọc Việt, Cục trưởng Cục An ninh nội địa, Bộ Công an đã có bài phát biểu nêu rõ bốn nguy cơ khủng bố từ bên ngoài gây hại cho an ninh quốc gia Việt Nam. Tại hội nghị này, đại diện Bộ Công an đã khẳng định hành động của nhóm đối tượng tấn công trụ sở chính quyền và người dân tại tỉnh Đắk Lắk là tội phạm khủng bố có tổ chức.

Ngày 2/10/2023, Ủy ban pháp lý (Ủy ban 6) của Đại hội đồng LHQ khóa 78 đã khai mạc và tiến hành thảo luận nội dung các biện pháp để loại trừ chủ nghĩa khủng bố quốc tế với sự tham dự, phát biểu của các nước thành viên và các tổ chức quốc tế, khu vực. Tham dự và phát biểu tại phiên thảo luận, tham tán công sứ Lê Thị Minh Thoa, Phó trưởng phái đoàn thường trực Việt Nam tại LHQ khẳng định lập trường nhất quán của Việt Nam là kiên quyết lên án khủng bố dưới bất kỳ hình thức và với động cơ nào. Việt Nam ủng hộ các biện pháp chống khủng bố phù hợp với các nguyên tắc của Hiến chương LHQ, các nghĩa vụ theo luật nhân quyền và nhân đạo quốc tế. Vụ tấn công khủng bố xảy ra tại xã Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk tháng 6/2023, đại diện Việt Nam cám ơn các đối tác đã lên án vụ tấn công và nhân dịp này, đề nghị các quốc gia, tổ chức quốc tế có liên quan tiếp tục hỗ trợ và hợp tác chặt chẽ với Việt Nam trong điều tra, xét xử số đối tượng còn đang lẩn trốn.   

Vì vậy, phiên toà xét xử 100 bị cáo trong vụ tấn công khủng bố ở Đắk Lắk ngày 11/6/2023 là tuân theo quy định của pháp luật Việt Nam phù hợp với các nguyên tắc của Hiến chương LHQ, các nghĩa vụ theo luật nhân quyền và nhân đạo quốc tế. Đồng thời trong quá trình điều tra vụ án, Việt Nam cũng đã nhận được sự hỗ trợ từ các quốc gia, tổ chức quốc tế có liên quan trong hoạt động phòng, chống khủng bố. Đến nay, các đối tượng đều đã ăn năn, hối cải, thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, thừa nhận do thiếu hiểu biết hoặc do bị đe doạ nên đã tham gia hoạt động phạm tội. Các đối tượng xin được Đảng, Nhà nước xem xét khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt. Kết quả điều tra đã làm rõ được toàn bộ diễn biến sự việc và tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các đối tượng. Công tác điều tra, truy tố, xét xử được thực hiện khách quan, công bằng, tuân thủ các quy định của pháp luật.

Bản chất của chiêu trò chính trị hóa vụ án hình sự phiên toà xét xử vụ án cho thấy rõ ý đồ đánh tráo bản chất nhằm chống phá Việt Nam của các thế lực thù địch, phản động. Người dân cần tỉnh táo, đề cao cảnh giác, không ngộ nhận trước chiêu trò ấy, không tin vào luận điệu xuyên tạc, suy diễn, quy chụp của những phần tử cực đoan, cơ hội chính trị; không tiếp tay cho các thế lực thù địch chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Liêm Chính - Bình Nguyên

Bộ Ngoại giao Mỹ cần có đánh giá khách quan và phù hợp bối cảnh mới

Thứ Sáu, 19/01/2024, 08:15

Ngày 4/1/2024, Ngoại trưởng Mỹ A.Blinken công bố báo cáo thường niên về cái gọi là “Chỉ định quốc gia thực hiện hoặc dung túng cho những vi phạm đặc biệt nghiêm trọng về tự do tôn giáo năm 2023”.

Báo cáo này tiếp tục xếp Việt Nam vào danh sách giám sát đặc biệt về tự do tôn giáo, trong đó cáo buộc Việt Nam “vi phạm nghiêm trọng về tự do tôn giáo”. Cùng với đó, Ủy hội tự do tôn giáo quốc tế Mỹ (USCIRF) tiếp tục ra thông cáo vu cáo tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam.

“Té nước theo mưa”, các thế lực thù địch, tổ chức phản động lưu vong triệt để lợi dụng để thổi phồng vấn đề, rêu rao đây là thành quả của việc cung cấp thông tin tới Bộ Ngoại giao Mỹ. Tổ chức Ủy ban cứu người vượt biển (BPSOS) tung hô rằng, đây là một phần của kết quả đấu tranh, vận động quốc tế của BPSOS thời gian qua, riêng năm 2023, BPSOS đã thường xuyên tiếp xúc đại sứ lưu động về tự do tôn giáo của Bộ Ngoại giao Mỹ Rashad Hussain, cung cấp cho USCIRF và Bộ Ngoại giao Mỹ hơn 70 báo cáo về “các vi phạm tự do  tôn giáo tại Việt Nam”.

Cùng với đó, BPSOS tiếp tục kêu gọi, hướng dẫn các đối tượng chống đối trong nước cách thức xây dựng “hồ sơ vi phạm nhân quyền, tự do tôn giáo ở Việt Nam” để gửi cho USCIRF. Mới đây, BPSOS còn tuyên bố thành lập các nhóm nghiên cứu nhằm kêu gọi các tổ chức quốc tế, các cá nhân trong và ngoài nước “cung cấp thông tin, tài liệu về hoạt động đàn áp các nhóm tôn giáo độc lập”.

dai-le-phat-dan.jpg -0
Quang cảnh một đại lễ Phật đản ở Việt Nam.

Tổ chức này coi đây là cách thu thập thông tin “cần thiết” để làm bằng chứng xây dựng báo cáo gửi các cơ quan như Bộ Ngoại giao Mỹ, USCIRF, thúc ép các cơ quan này đưa Việt Nam vào danh sách quốc gia cần quan tâm đặc biệt về tôn giáo.

Một số đối tượng chống đối khác cũng được dịp “lên mặt”, đưa ra những lời lẽ vu cáo, bôi nhọ trên các trang mạng xã hội. Đối tượng Y Quynh Bdap (kẻ cầm đầu  tổ chức “Người Thượng vì công lý”) rêu rao rằng, Việt Nam bị liệt vào danh sách trên vì “đã sách nhiễu, đàn áp các hội thánh độc lập, cưỡng ép người Thượng, người Mông bỏ đạo…”. Những trung tâm thông tin chống phá như VOA, RFA, RFI… đưa ra các bài viết dưới dạng “phân tích, bình luận, tọa đàm”, mục đích lấy cớ thổi phồng sự việc, xuyên tạc tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam. Một số bài viết xuyên tạc rằng, dù Việt Nam được bầu vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc song quyền con người tại Việt Nam, trong đó có quyền tự do tôn giáo vẫn bị chà đạp một cách tồi tệ, có hệ thống. Họ còn lấy cớ phỏng vấn một số đối tượng chống đối bất mãn để minh họa cho bài viết.

Chúng tôi thấy rằng, việc Bộ Ngoại giao Mỹ xếp Việt Nam vào danh sách  giám sát đặc biệt về tự do tôn giáo với cáo buộc vi phạm nghiêm trọng về tự do tôn giáo là sai lệch, vừa không phản ánh đúng thực tiễn, vừa tạo điều kiện để các thế lực xấu lấy cớ chống phá Việt Nam. Đặc biệt, báo cáo được đưa ra trong bối cảnh quan hệ Việt – Mỹ được tăng cường, nâng cấp lên quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện. Cụ thể, trong chuyến thăm cấp Nhà nước đến Việt Nam ngày 10-11/9/2023 của Tổng thống Joe Biden, lãnh đạo hai nước đã ra Tuyên bố chung về nâng cấp quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ lên Đối tác Chiến lược toàn diện. Hai bên đã ra Tuyên bố chung, trong đó nêu rõ việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người.

Tuyên bố khẳng định tầm quan trọng của việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, phù hợp với hiến pháp của mỗi nước và các cam kết quốc tế. Hai nước nhất trí tiếp tục ủng hộ thúc đẩy và bảo vệ quyền con người thông qua các cơ chế đối thoại thẳng thắn, xây dựng như đối thoại nhân quyền, đối thoại lao động Việt Nam - Hoa Kỳ hàng năm, qua đó tăng cường hiểu biết lẫn nhau và giảm thiểu khác biệt. Việt Nam và Hoa Kỳ ghi nhận quyền con người, ổn định khu vực, hòa bình thế giới và phát triển bền vững có mối quan hệ bổ trợ lẫn nhau. Hai bên cũng ghi nhận những đóng góp mà các tổ chức xã hội và tôn giáo tiếp tục mang lại trong các lĩnh vực như giáo dục, chăm sóc y tế và dịch vụ xã hội ở cả hai nước.

Tuyên bố chung nêu rõ như vậy, nay một báo cáo của Bộ Ngoại giao Mỹ lại dựa trên các dữ liệu thiếu cơ sở, không khách quan để đưa ra đánh giá phiến diện vừa gây dư luận quốc tế hiểu nhầm, bất lợi đối với Việt Nam cũng như ảnh hưởng chung trong quan hệ giữa hai nước. Về vấn đề này, chiều 11/1, tại họp báo thường kỳ Bộ Ngoại giao Việt Nam, trả lời câu hỏi của phóng viên, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng khẳng định, chính sách nhất quán của Việt Nam là tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng của người dân. Điều này đã được thể hiện rất rõ trong Hiến pháp năm 2013 và hệ thống pháp luật của Việt Nam, cũng như việc bảo đảm, tôn trọng trên thực tế.

Những nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong việc bảo đảm quyền con người, trong đó có bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đều được cộng đồng quốc tế thừa nhận trong thời gian qua. “Việt Nam lấy làm tiếc và yêu cầu Hoa Kỳ không đưa Việt Nam vào danh sách theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo và cần có những đánh giá khách quan dựa trên thông tin chính xác, toàn diện về tình hình tự do tôn giáo, tín ngưỡng tại Việt Nam. Việt Nam sẵn sàng trao đổi với phía Hoa Kỳ về các vấn đề hai bên cùng quan tâm trên tinh thần thẳng thắn, cởi mở và tôn trọng lẫn nhau, đóng góp vào việc thúc đẩy quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững giữa Việt Nam và Hoa Kỳ” – Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao nêu rõ.

Cần thấy rằng, đánh giá của Bộ Ngoại giao Mỹ dựa trên những báo cáo, tài liệu do USCIRF cung cấp. USCIRF là cơ quan tham vấn độc lập do Quốc hội Mỹ thành lập nhằm phục vụ cho việc “cải thiện nhân quyền” ở các nước mà Mỹ cho là “cần quan tâm đặc biệt”. Trong khi đó, USCIRF thường xuyên có những đánh giá tiêu cực về Việt Nam, thậm chí kể cả khi đã được tạo điều kiện vào Việt Nam để chứng kiến tình hình thực tế thì những định kiến của họ vẫn theo nếp cũ. Từ năm 2012 đến nay, USCIRF liên tục khuyến nghị Bộ Ngoại giao Mỹ đưa Việt Nam vào danh sách “Các nước cần quan tâm đặc biệt - CPC” nhằm tạo cơ sở áp đặt chế tài với Việt Nam về kinh tế, chính trị, giáo dục.

Trong các báo cáo hằng năm về tự do tôn giáo tại Việt Nam, USCIRF cho rằng Việt Nam “đàn áp tôn giáo trong nước”; chỉ trích chính quyền và Công an Việt Nam; quan tâm đến số đối tượng vi phạm pháp luật bị xét xử được họ gọi là “tù nhân lương tâm”.

Đáng chú ý, thông tin USCIRF sử dụng trong báo cáo chủ yếu từ những nguồn thiếu kiểm chứng, được thu thập từ các tổ chức, cá nhân người Việt Nam ở nước ngoài có tư tưởng cực đoan, thù hận móc nối với số chống đối trong nước nên luôn thiếu khách quan, nhiều nội dung thể hiện rõ việc xuyên tạc về tự do tôn giáo ở Việt Nam. Ngay cả việc tiếp cận cá nhân trong nước thì họ cũng thể hiện sự phiến diện có chủ ý khi chỉ nhắm vào lời lẽ từ những cá nhân lợi dụng tự do tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Có nhiều cách tiếp cận về tôn giáo. Với góc độ là một tổ chức xã hội, ở Việt Nam có thể phân chia làm hai loại: các tôn giáo, tổ chức tôn giáo được và chưa được Nhà nước công nhận, cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo; tổ chức giả danh, lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để trục lợi, chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Trên cơ sở đó, Đảng, Nhà nước ta có quan điểm, chính sách, pháp luật cụ thể. Với các tôn giáo, tổ chức tôn giáo được công nhận, cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi cả việc đạo và việc đời.

Theo số liệu từ Ban Tôn giáo Chính phủ, hiện Nhà nước đã công nhận và cấp đăng ký hoạt động cho 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo với trên 26,5 triệu tín đồ, chiếm 27% dân số cả nước; có hơn 54 nghìn chức sắc, trên 135 nghìn chức việc và gần 30 nghìn cơ sở thờ tự.

Với các tôn giáo, tổ chức tôn giáo chưa được Nhà nước công nhận, cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo, chính quyền các cấp đã hướng dẫn họ hoạt động theo quy định của pháp luật, địa phương, hỗ trợ về mọi mặt, nhất là mặt pháp lý để sớm được xét, công nhận, cấp chứng nhận đăng ký hoạt động tôn giáo. Đồng thời, chúng ta có các quy định nhằm chấn chỉnh, xử lý khi họ có những sai phạm, vi phạm quy định của pháp luật. Đây cũng là điều mà các thế lực thù địch, phản động vu cáo Đảng, Nhà nước “kiểm soát”, “sách nhiễu” các tôn giáo.

Với các tổ chức đội lốt, giả danh tín ngưỡng, tôn giáo để trục lợi, chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân thì phải kiên quyết đấu tranh, xử lý. Những tổ chức này thường có các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ, cấu kết chặt chẽ với các thế lực phản động ở nước ngoài để tán phát các tài liệu phản động; lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để kích động, lôi kéo lực lượng chống đối, gây phức tạp an ninh trật tự, ảnh hưởng xấu đến đời sống xã hội, gây nhiều hệ lụy trong thời gian qua. Bởi vậy, việc cơ quan chức năng ngăn chặn, xử lý những hành vi lợi dụng tôn giáo để phá hoại, gây rối của những trường hợp này là hiển nhiên.

Ở Việt Nam cũng như bất cứ quốc gia nào trên thế giới, công dân phải tuân thủ hiến pháp, pháp luật. Chức sắc, tín đồ các tôn giáo là công dân Việt Nam nếu có những hành động cản trở công cuộc đổi mới, đi ngược lại lợi ích của dân tộc, đất nước đều phải bị ngăn chặn, xử lý. Không thể dùng lý do tôn giáo để biện minh cho hành vi vi phạm pháp luật. Đây là nguyên tắc trong một Nhà nước pháp quyền, đồng thời là cơ sở khẳng định thái độ rõ ràng, dứt khoát của chúng ta trong đấu tranh loại bỏ cái xấu, cái ác trong xã hội, tạo môi trường sinh hoạt tôn giáo bình thường, lành mạnh, đồng thời cũng là bài học cảnh tỉnh cho những đối tượng muốn lợi dụng tôn giáo để hoạt động chống phá đất nước.

Một báo cáo đánh giá về tình hình, tự do tôn giáo ở nước khác mà lại lấy dẫn chứng từ những cá nhân, tổ chức lợi dụng tôn giáo để chống phá nước đó thì báo cáo đó là không bình thường, cần phải được thể hiện đúng cơ sở và ý nghĩa của nó.

Đăng Minh