Trước mỗi vấn đề từng người dân cần suy tính kỹ lưỡng

31/10/2016 05:00

Thời gian gần đây, tình trạng một số người dân tụ tập gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn một số tỉnh miền Trung thực sự là điều rất đáng lo ngại. Phải thẳng thắn thừa nhận rằng, những khó khăn và thiệt hại không nhỏ về kinh tế, về việc làm, ảnh hưởng lớn đến đời sống của một bộ phận người dân ở 4 tỉnh miền Trung do Formosa gây ra là điều hết sức đáng trách, đáng bị phê phán.

Hậu quả mà Formosa gây ra bắt nguồn từ cung cách lãnh đạo, quản lý; thể hiện trình độ hạn chế của một số cán bộ, đảng viên ở địa phương. Tuy nhiên, trước hậu quả nặng nề, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của nhân dân, Đảng, Nhà nước ta đã có những biện pháp chỉ đạo quyết liệt, quy rõ trách nhiệm đối với từng tập thể, cá nhân; đồng thời có nhiều chủ trương, chính sách hỗ trợ, giúp đỡ những người dân bị thiệt hại do Formosa gây ra nhằm sớm ổn định cuộc sống. Thực tế, bằng nhiều chính sách hỗ trợ, cuộc sống của người dân ở 4 tỉnh miền Trung từng bước trở lại bình thường, thậm chí mở ra nhiều hướng đi mới trong phát triển kinh tế, khai thác tiềm năng, thế mạnh ở địa phương.
Tuy nhiên, một số cá nhân, thậm chí là một bộ phận nhân dân chưa thấy hết hoặc cố tình không thấy hết sự nỗ lực, cố gắng và quyết tâm chính trị rất cao, thể hiện rõ trách nhiệm của mình trước nhân dân của Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp trong việc giải quyết hậu quả do Formosa để lại. Với những giải pháp rất cụ thể, Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp bước đầu có nhiều chính sách hỗ trợ, giúp đỡ nhân dân khôi phục sản xuất, ổn định cuộc sống. Đặc biệt, ngoài những chính sách hỗ trợ trước mắt, Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp còn có những chủ trương, chính sách về lâu dài, bảo đảm để mọi người dân phát huy ngành nghề truyền thống, khai thác hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của địa phương trong xây dựng và phát triển kinh tế. Hơn thế, từ vụ việc mà Formosa gây ra, Đảng, Nhà nước ta đã thể hiện rất rõ quan điểm trong phát triển kinh tế-xã hội: Không vì lợi ích kinh tế mà đánh đổi môi trường. Phát triển kinh tế phải gắn với bảo vệ môi trường, tạo sự phát triển bền vững, vì chất lượng và cuộc sống của người dân.
Ảnh minh họa. Nguồn: qdnd.vn 
Việc một số người dân có thể do tự phát, có thể do bị một số phần tử kích động, lôi kéo tụ tập gây mất an ninh trật tự trên địa bàn một số địa phương miền Trung thời gian gần đây là hết sức đáng ngại. Thực tế, những hành động tự phát nêu trên của một số người dân sẽ không giải quyết được vấn đề gì mà chỉ gây thêm rối bận trong công tác quản lý, điều hành của chính quyền các cấp; gây thiệt hại về kinh tế mà trước hết là thiệt hại cho chính những người dân bị lôi kéo, kích động. Hành động của số ít người dân tham gia các lần tụ tập thực chất chỉ là sự tiếp tay cho những mưu đồ chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ của thế lực thù địch, những kẻ cơ hội chính trị đi ngược lại lợi ích chung của nhân dân, của dân tộc. Chiêu bài của các thế lực thù địch sử dụng để chống phá Đảng, chống phá Nhà nước thực sự không có gì mới, vẫn chỉ lợi dụng những hạn chế, khuyết điểm cụ thể trong lãnh đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền các cấp, lợi dụng những sai phạm của một số cán bộ, đảng viên trong bộ máy của Đảng, chính quyền và núp dưới chiêu bài “dân chủ”, “tự do”, “nhân quyền”, “tôn giáo”... để kích động, lôi kéo. Mục tiêu mà các thế lực thù địch, những kẻ cơ hội chính trị hướng đến không phải là vì quyền lợi của người dân, vì cuộc sống của nhân dân, mà chính là mưu đồ chính trị hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Xin hãy nhìn rộng ra một số nước trên thế giới và khu vực để thấy rõ hơn mưu đồ hết sức thâm độc của các thế lực thù địch. Ban đầu, họ lợi dụng những khó khăn trong đời sống xã hội, những bất ổn trong đời sống chính trị để tuyên truyền, kích động, lôi kéo nhân dân, tập hợp lực lượng tổ chức biểu tình, gây rối loạn xã hội. Cùng với những hoạt động trong nước, được sự “hà hơi, tiếp sức” của các tổ chức phản động ở nước ngoài, trên danh nghĩa là “ý nguyện của quần chúng nhân dân”, họ đặt ra nhiều yêu sách đòi bầu cử sớm quốc hội để thay đổi người đứng đầu nhà nước nhằm tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng, từng bước lái đất nước đi theo mục đích riêng. Tuy nhiên, sau khi đã nắm được chính quyền, họ sẵn sàng quên hết mọi lời hứa trước đó đối với nhân dân. Và hậu quả là cuộc sống của người dân đã khổ cực ngày càng thêm khổ cực. Nội chiến triền miên; nạn đói, dịch bệnh xảy ra ngày càng nghiêm trọng; tình trạng thất nghiệp gia tăng; bệnh viện, trường học bị tàn phá... xảy ra ở không ít quốc gia trên thế giới, đẩy người dân “tham gia” vào làn sóng di cư, trở thành vấn đề nhức nhối của toàn cầu. Thực tế đã diễn ra và hiện nay cũng đang diễn ra cho thấy, chính sự mất cảnh giác của nhân dân là một yếu tố khiến nhiều nước trên thế giới và khu vực từng là điểm đến hấp dẫn, là nơi “đáng sống”, là quốc gia có thu nhập cao... giờ đây trở thành những nơi bất ổn, đe dọa nghiêm trọng không chỉ cuộc sống, mà cả sinh mạng của người dân. Bất ổn về chính trị không chỉ gây hậu quả cho thế hệ người dân hôm nay mà còn gây rất nhiều hệ lụy cho các thế hệ mai sau.
Sẽ không cần phải phân tích nhiều và đề cập một cách chi tiết, bởi trong điều kiện hiện nay, khi khoa học, công nghệ phát triển với sự bùng nổ của thông tin thì mọi vấn đề xảy ra trên thế giới người dân ít nhiều đều biết được, hiểu được. Bởi vậy, trước từng vấn đề, từng vụ việc, mỗi người cần bình tĩnh phân tích, nhìn nhận một cách kỹ càng để có những quyết định phù hợp, chính xác. Hiến pháp năm 2013 và văn kiện Đại hội XII của Đảng đều thể hiện rất rõ quan điểm: Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp tuyệt đối tôn trọng ý kiến của nhân dân. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách được Đảng, Nhà nước ban hành với mục tiêu duy nhất, cao nhất là hướng đến quyền lợi của người dân, vì cuộc sống của nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước đều phải phục vụ nhân dân, phải chịu sự giám sát của nhân dân và phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.
Thời gian gần đây, nhất là sau thành công Đại hội XII của Đảng và cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XIV, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, phong trào cách mạng trong các tầng lớp nhân dân đang diễn ra sôi nổi trên cả nước. Nhiều chương trình, kế hoạch hành động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các bộ, ban, ngành Trung ương, địa phương được công bố công khai. Nhiều vấn đề, vụ việc phức tạp được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trực tiếp chỉ đạo các bộ, ngành Trung ương, chính quyền các địa phương giải quyết dứt điểm, hiệu quả. Đặc biệt, những vấn đề, vụ việc liên quan đến đời sống nhân dân, liên quan đến quyền lợi chính đáng của người dân đều được lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quốc hội quan tâm, chỉ đạo hết sức quyết liệt với yêu cầu cao nhất, hiệu quả nhất, thời gian giải quyết nhanh nhất.
Đảng, Nhà nước đã thể hiện rõ chủ trương, quan điểm hướng về nhân dân, hướng về cơ sở, quan tâm, chăm lo, bảo vệ lợi ích chính đáng của người dân; kiên quyết xử lý các trường hợp tập thể, cá nhân vi phạm, không có vùng cấm, không có ngoại lệ; đặc biệt, không chỉ xử lý cán bộ sai phạm đã nghỉ hưu, nghỉ chế độ, mà những cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật, vi phạm Điều lệ Đảng đều bị xem xét, xử lý thích đáng. Hàng loạt vụ án nghiêm trọng được đưa ra xét xử công khai; hàng chục vụ việc phức tạp xảy ra ở một số địa phương, đơn vị được các cơ quan chức năng nhanh chóng vào cuộc, xác định rõ nguyên nhân, quy rõ trách nhiệm, có những hình thức xử lý thích đáng là những minh chứng sinh động trong đổi mới phong cách, phương pháp công tác, điều hành và quản lý xã hội của Đảng, Nhà nước và chính quyền các cấp, với mục tiêu cao nhất và duy nhất: Bảo vệ quyền lợi chính đáng của người dân, vì cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân.
Với những gì nhìn thấy và đang hiện hữu trong đời sống xã hội của một số quốc gia trên thế giới, với những nỗ lực, cố gắng của Đảng, Nhà nước trong điều kiện nền kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn, với truyền thống yêu nước, đoàn kết, thủy chung... để mỗi người dân thể hiện rõ trách nhiệm của mình, trong mỗi suy nghĩ, trong từng hành động, mỗi người cần bình tĩnh, tỉnh táo, phân tích cặn kẽ, thấu đáo để không rơi vào cạm bẫy của các thế lực thù địch, mà vẫn bảo vệ được quyền lợi của mình. Truyền thống lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng minh, chính sự đoàn kết, đồng lòng của nhân dân đã tạo nên sức mạnh vô địch để đất nước ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách. Đặc biệt, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đảm nhiệm vai trò lãnh đạo xã hội, lãnh đạo đất nước, nhân dân đã ủy thác, trao quyền, gửi gắm niềm tin, tạo nên sức mạnh đánh bại kẻ thù xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cứ mỗi nhiệm kỳ qua đi, mỗi năm qua đi, thế giới lại ghi nhận Việt Nam tạo thêm được những dấu ấn đặc biệt và toàn diện. Nhiều chỉ tiêu thiên niên kỷ chúng ta đã hoàn thành; đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện; quyền sống, quyền con người, quyền tự do ngày càng được coi trọng. Việt Nam đang là điểm đến hấp dẫn và an toàn trong nhận xét, đánh giá của bạn bè quốc tế. Những kết quả có được ấy khởi nguồn từ sự ổn định về chính trị; trong đó, sự đồng thuận của nhân dân, của xã hội mang yếu tố quyết định.
Sau 30 năm thực hiện đường lối đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được những thành tựu có ý nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, những thành tựu ấy mới chỉ là những bước tạo dựng ban đầu trong điều kiện còn rất nhiều khó khăn, phức tạp đặt ra ở phía trước. Tương lai dân tộc, vận mệnh của đất nước không chỉ phụ thuộc vào sự lãnh đạo của Đảng, mà quan trọng chính là bắt nguồn từ sức mạnh đoàn kết, đồng lòng của mọi tầng lớp nhân dân.
LÊ LONG KHÁNH

Nhận diện nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong lĩnh vực báo chí và một số giải pháp khắc phục (tiếp theo và hết)

28/10/2016 10:57

Bên cạnh các giải pháp cơ bản để đối phó nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng và trong xã hội, nội dung tiếp theo của bài viết, tác giả TRƯƠNG MINH TUẤN đã đề xuất một số giải pháp cụ thể để góp phần làm lành mạnh hóa hoạt động báo chí.

5. Xu hướng hư vô về chính trị, thiếu đạo đức nghề nghiệp trong một bộ phận người làm báo
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong hệ thống báo chí và thông qua hệ thống báo chí trước hết bắt đầu từ người làm báo. Nếu mỗi người làm báo nhận thức nghiêm túc về vai trò xã hội, trách nhiệm với bạn đọc, ý nghĩa tích cực của báo chí với sự phát triển xã hội và con người,… thì sẽ tự ý thức nâng cao năng lực chuyên môn, tăng cường phẩm chất chính trị, trau dồi đạo đức nghề nghiệp. Đáng tiếc một bộ phận người làm báo ít quan tâm vấn đề này, khi mà các sự, vụ liên quan hành vi tiêu cực của người làm báo có xu hướng tăng lên? Lạm dụng vai trò báo chí, tự cấp tư cách “đứng trên luật pháp”, có người làm báo lấy nghề nghiệp làm công cụ trục lợi như: gây sức ép lên lãnh đạo đơn vị sản xuất, kinh doanh, lãnh đạo doanh nghiệp để tống tiền, ký hợp đồng quảng cáo; hoặc chạy theo tin tức, sự kiện giật gân mà bất chấp sự thật, bất chấp pháp luật, bất chấp tính nhân văn của báo chí...
Phê phán cái xấu, chỉ rõ bản chất cái xấu là cần thiết, song một số người làm báo dường như có xu hướng khoét sâu, phóng đại hiện tượng tiêu cực; trong khi các thế lực thù địch, một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí tập trung công kích nhằm làm mất uy tín các cơ quan chức năng (công an, tòa án), một số người làm báo cũng lại hùa theo soi mói, công kích, thậm chí bịa đặt, “giăng bẫy” người thi hành công vụ... Hư vô về chính trị, thiếu đạo đức nghề nghiệp, một số nhà báo đã vô tình (hay cố tình?) tác động xấu đến xã hội, làm người đọc hoang mang, suy giảm niềm tin vào chính quyền…
 Ảnh chỉ có tính minh họa. (Nguồn: TTXVN)
6. Sự thiếu trách nhiệm, bất cập trong công tác chỉ đạo, quản lý của một số cơ quan chủ quản báo chí
Những năm gần đây, tình trạng buông lỏng quản lý, thiếu sâu sát, kiểm tra của cơ quan chủ quản, tự coi “vô can” trước sai phạm của cơ quan báo chí thuộc quyền đang khá phổ biến. Không ít cơ quan chủ quản (nhất là một số tổ chức xã hội, tổ chức nghề nghiệp) buông lỏng vai trò, trách nhiệm chỉ đạo, quản lý theo quy định đối với cơ quan báo chí thuộc quyền; có cơ quan chủ quản sau khi xin giấy phép thành lập cơ quan báo chí là “khoán trắng” cho cơ quan báo chí toàn quyền quyết định hoạt động; dẫn tới tình trạng có cơ quan báo chí không chịu sự chỉ đạo, quản lý của cơ quan chủ quản.
Một số cơ quan chủ quản thiếu quan tâm, hỗ trợ cơ quan báo chí tháo gỡ khó khăn, thậm chí yêu cầu cơ quan báo chí thuộc quyền đóng góp kinh phí hoạt động, lệ thuộc vào kinh phí của cơ quan báo chí. Một số trường hợp, việc xử lý sai phạm, vụ việc tiêu cực trong cơ quan báo chí không nghiêm khắc, hoặc không giải quyết dứt điểm, thiếu kịp thời, thậm chí có biểu hiện bao che người đứng đầu cơ quan báo chí, dẫn đến khiếu nại, tố cáo vượt cấp, tác động tiêu cực tới tư tưởng cán bộ, phóng viên, biên tập viên. Có người đứng đầu cơ quan báo chí mất uy tín, nhưng cơ quan chủ quản không có phương án thay thế, khiến nội bộ cơ quan mất đoàn kết kéo dài. Lãnh đạo một số cơ quan báo chí chưa quan tâm đúng mức công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao trách nhiệm chính trị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý và phóng viên, biên tập viên của cơ quan thuộc quyền...
Trên đây là một số khái quát bước đầu để góp phần nhận diện nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong lĩnh vực báo chí. Trên thực tế, những sự kiện, hiện tượng liên quan diễn ra rất phức tạp, đan xen nhau, có thể là vô tình và có thể là cố tình, nên khó nhận diện, khó định tính, định lượng… Để khắc phục tình trạng này, bên cạnh các giải pháp cơ bản để đối phó nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng và trong xã hội nói chung, cần chú ý các giải pháp để lành mạnh hóa hoạt động báo chí:
1. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với báo chí cần đi đôi với tăng cường kỷ luật Đảng đối với đảng viên hoạt động trong lĩnh vực báo chí:
- Phải tuân thủ nguyên tắc thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân theo quy định của pháp luật. Ở Việt Nam, không hề có mâu thuẫn giữa tự do ngôn luận, tự do báo chí với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với báo chí. Các vấn đề này được bảo đảm bằng Hiến pháp và hệ thống luật pháp của Nhà nước.
- Trên cơ sở Luật Báo chí (năm 2016), cần rà soát lại toàn bộ các văn bản pháp luật liên quan hoạt động báo chí để bổ sung, hoàn thiện kịp thời theo hướng: luật pháp bảo vệ việc hành nghề của người làm báo với tư cách là nghề nghiệp xã hội đặc thù, nhưng luật pháp không tạo ra đặc quyền cho người làm báo, người làm báo bình đẳng trước pháp luật như mọi công dân khác.
- Đảng viên hoạt động trên lĩnh vực báo chí phải chấp hành Điều lệ Đảng, chấp hành các Nghị quyết của Đảng, chấp hành sự chỉ đạo của cấp trên theo hệ thống tổ chức của Đảng. Cần xác định việc chỉ đạo, định hướng của cơ quan, tổ chức Đảng cấp trên với tổ chức Đảng và đội ngũ đảng viên tại các cơ quan báo chí hoàn toàn không mâu thuẫn với quyền tự do báo chí. Tuy nhiên, không để đảng viên có chức vụ trong cơ quan Đảng và Nhà nước, kể cả người có chức vụ cao nhưng không được phân công lãnh đạo, quản lý báo chí và truyền thông, sử dụng chức vụ của mình can thiệp hoặc gây ảnh hưởng đến hoạt động báo chí. Bởi chính hành động can thiệp, gây ảnh hưởng rất vô nguyên tắc này là vi phạm quyền tự do báo chí, vi phạm nguyên tắc Đảng.
- Rà soát lại chất lượng đảng viên hoạt động trong các cơ quan báo chí, kiên quyết loại bỏ những phần tử có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ra khỏi chức vụ lãnh đạo các cơ quan báo chí.
2. Rà soát lại toàn bộ danh mục các lĩnh vực thuộc bí mật Đảng và Nhà nước. Danh mục này nhất thiết phải được ban hành đúng thẩm quyền, đúng luật. Ngoài danh mục này, mọi vấn đề khác của quốc gia cần được bảo đảm để người làm báo và người dân tiếp cận dễ dàng. Các thông tin tiêu cực liên quan đến hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân được báo chí điều tra phát hiện, nếu không thuộc danh mục “Mật”, không ai được quyền ngăn cản đưa lên báo chí. Cơ quan báo chí và người làm báo chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc công bố các thông tin đó, nếu xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì tùy mức độ sai phạm đều phải bị xử lý và bồi thường đúng pháp luật. Làm nghiêm túc việc này sẽ trực tiếp chống lại, bác bỏ luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch và một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí vẫn xuyên tạc rằng Đảng, Nhà nước Việt Nam bưng bít thông tin, xâm phạm quyền tự do báo chí.
3. Đổi mới việc đào tạo nghề báo trong nước, từ giáo trình, đội ngũ giảng viên đến phương pháp giảng dạy, bảo đảm cho người làm báo có đủ tri thức chuyên ngành và trình độ tác nghiệp báo chí hiện đại. Người làm báo trước hết phải có trình độ chuyên môn (của một hoặc một số lĩnh vực họ tiếp cận), có bản lĩnh và trình độ chính trị; vì nếu chỉ có trình độ chuyên môn thì không thể có tác phẩm báo chí có giá trị. Do đó, cần khuyến khích tuyển sinh vào đại học báo chí những người đã có một bằng đại học trên lĩnh vực khác. Trừ giảng viên các môn học khác, giảng viên về nghiệp vụ báo chí tại trường đại học báo chí hoặc khoa báo chí thuộc trường đại học, nhất thiết phải là người đã thông qua hoạt động báo chí và đã có những tác phẩm báo chí có giá trị.
4. Cơ quan chủ quản báo chí cần rà soát chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan báo chí, sản phẩm báo chí, từ đó khẩn trương xây dựng đề án đổi mới, sắp xếp lại cơ quan báo chí, sản phẩm báo chí thuộc cơ quan, đơn vị, ngành theo hướng tinh gọn, thiết thực, hiệu quả, để báo chí thật sự là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, của các đoàn thể chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức nghề nghiệp, diễn đàn tin cậy của nhân dân. Cần kiên quyết xử lý, thu gọn báo, tạp chí, ấn phẩm phụ, chương trình giải trí, trang thông tin điện tử,... hoạt động không đúng tôn chỉ, mục đích, đối tượng phục vụ, sai phạm kéo dài...
5. Điểm b khoản 2 Điều 8 Luật Báo chí (năm 2016) khẳng định Hội Nhà báo Việt Nam có nhiệm vụ: “Ban hành và tổ chức thực hiện quy định về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo”, điều này cho thấy, đạo đức nghề nghiệp người làm báo là vấn đề luật định, không phân biệt người có Thẻ Nhà báo hay không. Do đó, việc Hội Nhà báo Việt Nam ban hành, hướng dẫn hội viên thực hiện Quy định đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam là hết sức cần thiết, với trường hợp cụ thể, vi phạm quy định này phải được xử lý trên cơ sở pháp luật.
6. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, thường xuyên của ban cán sự đảng, đảng đoàn, lãnh đạo cơ quan chủ quản với hoạt động của cơ quan báo chí thuộc quyền; coi trọng xây dựng tổ chức đảng trong cơ quan báo chí vững mạnh về mọi mặt, đề cao vai trò, trách nhiệm đảng viên của người làm báo, nhất là người giữ cương vị lãnh đạo, quản lý cơ quan báo chí; đồng thời nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý và định hướng hoạt động theo đúng tôn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí, và chức năng, nhiệm vụ của người làm báo; chú trọng quy định tại Điều 15 Luật Báo chí: “Chỉ đạo cơ quan báo chí thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích, nhiệm vụ, phương hướng hoạt động; tổ chức nhân sự và chịu trách nhiệm về hoạt động của cơ quan báo chí”, “Người đứng đầu cơ quan chủ quản báo chí… liên đới chịu trách nhiệm trước pháp luật trong phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn của mình đối với các sai phạm của cơ quan báo chí trực thuộc”.
Theo nhandan.com.vn

Nhận diện nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong lĩnh vực báo chí và một số giải pháp khắc phục

25/10/2016 1

Một trong những vấn đề quan trọng được thẳng thắn chỉ ra và thảo luận tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng vừa qua là biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Bài viết của tác giả TRƯƠNG MINH TUẤN tiếp cận, nhận diện vấn đề này trong lĩnh vực báo chí, chỉ rõ một số xu hướng, hiện tượng… có nguồn gốc từ yếu tố chủ quan, có thể tác động tiêu cực, đẩy tới quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Thành tựu của 30 năm Đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng có đóng góp quan trọng của báo chí, đó là sự thật không thể phủ nhận. Và cũng trong 30 năm Đổi mới, nền báo chí nước ta đã có bước phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ về nhiều mặt, như: Số lượng và phạm vi phát hành các báo, tạp chí, trang thông tin điện tử, báo điện tử, đài truyền hình, ấn phẩm, chương trình ngày càng tăng; chất lượng nội dung và hình thức, công nghệ in ấn, truyền tải thông tin đã được cải thiện; đội ngũ nhà báo và người làm việc tại các cơ quan báo chí phát triển cả về số lượng và trình độ chuyên môn; hầu hết cơ quan bộ, ban, ngành ở Trung ương, các đoàn thể chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức nghề nghiệp từ Trung ương đến địa phương, mỗi cơ quan đều có ít nhất một tờ báo, tạp chí hoặc trang thông tin, báo điện tử; có đơn vị ở Trung ương hoặc địa phương còn có tới hàng chục đơn vị báo chí với nhiều loại ấn phẩm khác nhau...
Từ chức năng, nhiệm vụ của mình, báo chí đã tích cực thông tin, tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phản ánh tâm tư, nguyện vọng chính đáng của mọi tầng lớp nhân dân; tuyên truyền bảo vệ môi trường; thông tin cảnh báo, phòng, chống lũ lụt thiên tai; phát hiện, cổ vũ các nhân tố mới, điển hình tiên tiến, các thành tựu phát triển đất nước và hội nhập quốc tế; tích cực tham gia cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các tệ nạn xã hội; đấu tranh chống lại âm mưu, thủ đoạn của “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực lý luận, tư tưởng, văn hóa; báo chí cũng góp phần rất quan trọng trong tuyên truyền đấu tranh bảo vệ chủ quyền biên giới, lãnh thổ, bảo vệ các vùng biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc; góp phần vào quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ, tạo sự đồng thuận trong xã hội. Sự phản ánh, phản biện trên báo chí đã góp phần giúp Đảng và Nhà nước hoàn thiện một số chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật. Nhờ báo chí mà nhiều sự bất cập về chính sách đã được phát hiện và sửa đổi, nhiều thân phận con người bị oan sai, bị chèn ép và bất hạnh được trả lại công bằng, được cộng đồng cưu mang, giúp đỡ…
Phóng viên báo chí tác nghiệp tại lễ mít-tinh, diễu binh, diễu hành kỷ niệm 70 năm Ngày Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9. Ảnh: Minh Trường.  
Từ phương diện quốc gia, phải nói rằng các năm gần đây, sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đối với báo chí đã có nhiều đổi mới, để vừa bảo đảm sự đồng thuận của báo chí theo đường lối, định hướng, mục tiêu phát triển đất nước, vừa tuân thủ nguyên tắc về tự do ngôn luận, tự do báo chí theo Hiến pháp. Dù các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội, các tổ chức và cá nhân thiếu thiện chí với Việt Nam bằng các luận điệu cũ và mới, liên tục công kích sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đối với báo chí, chúng ta vẫn có đủ cơ sở thực tế để khẳng định sự định hướng của Đảng, Nhà nước đối với báo chí không hề mâu thuẫn với tự do ngôn luận, tự do báo chí. Bởi suy cho cùng, bảo đảm tự do ngôn luận, tự do báo chí cũng như các quyền chính đáng khác của nhân dân chính là một trong những mục tiêu cơ bản mà Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn hướng tới.
Tuy nhiên, cũng phải nói rằng, bên cạnh các đóng góp tích cực nói trên, đã và đang có một bộ phận người làm báo và cơ quan báo chí bộc lộ không ít tiêu cực, hoặc đang có dấu hiệu thể hiện khuynh hướng lệch lạc. Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã thẳng thắn chỉ ra một cách có hệ thống những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; trong đó, xu hướng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong hệ thống báo chí và thông qua hệ thống báo chí là hiện tượng nguy hiểm, có thể gây ra tác động khôn lường, với một số biểu hiện đáng chú ý:
1. Thái độ hai mặt về chính trị, chạy theo chủ nghĩa cơ hội
Luật pháp nước ta không cho phép viết tin bài chống chế độ đăng trên báo chí chính thống, nên một số người trong giới báo chí thường thể hiện xu hướng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” qua thái độ nước đôi: đối với các bài báo đăng tải trên báo chí chính thống, họ thường né tránh những vấn đề họ “tự cho là nhạy cảm”; mặt khác, chính họ lại viết bài đăng trên blog, mạng xã hội để đưa ý kiến trái ngược với báo chí chính thống, phụ họa hoặc gián tiếp phụ họa giọng điệu của các thế lực thù địch, chống đối, thiếu thiện chí để làm vừa lòng đám đông trên mạng, trở thành “người hùng” trên mạng. Đáng chú ý, sau khi được dư luận trên mạng tung hô, cổ xúy, một vài cây bút càng trở nên hăng hái hơn.
Bên cạnh đó, đến nay, trừ một số tờ báo như Nhân Dân, Quân đội nhân dân, Công an nhân dân,… nhiều cơ quan báo chí ngày càng hiếm các cây bút có khả năng viết bài bình luận sắc bén có phân tích rành mạch về lý luận và thực tiễn, có chứng lý cụ thể, trình bày bài bản, phù hợp với mọi tầng lớp bạn đọc và có sức thuyết phục để chống lại, vạch trần các âm mưu, ý đồ, quan điểm, luận điểm chống phá Đảng, chống chế độ. Với một số vụ việc đã được Nhà nước xử lý công khai, và dù cơ quan chức năng tổ chức họp báo để cung cấp thông tin, cung cấp thông cáo báo chí, nhưng một số cơ quan báo chí chỉ khai thác và đăng lại bản tin của Thông tấn xã Việt Nam.
Phải chăng, đó là kết quả của sự lười nhác, hay việc làm này còn hàm ý rằng không thể không đưa tin nhưng đây không phải là quan điểm, và thái độ của tòa soạn? Thậm chí qua mạng xã hội, blog cá nhân,... một số người làm báo sau khi rời cơ quan báo chí (về hưu, nghỉ việc, hoặc bị buộc thôi việc) còn công khai quan điểm đi ngược quan điểm chính thống, thậm chí đồng tình, cổ vũ luận điệu của một số người tự nhận hoặc được gọi là “nhà dân chủ”, “người yêu nước”…
2. Xuất hiện xu hướng tách rời định hướng của Đảng với quyền tự do báo chí, tách rời hoạt động của Đảng khỏi cuộc sống của nhân dân
Xu hướng này khá phổ biến trong một số phóng viên, biên tập viên và cả lãnh đạo cơ quan báo chí. Biểu hiện rõ nhất là các bài viết liên quan chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, hoạt động của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước thường được đưa tin một cách hời hợt, khô khan, thiếu sinh khí, lấy số lượng thay chất lượng, mục đích như để “đúng định hướng” một cách hình thức. Đôi khi phát biểu của lãnh đạo Đảng, Nhà nước đề cập nhiều vấn đề, với nhiều nội dung thì một số tờ báo chỉ khai thác vấn đề, nội dung ở một khía cạnh được họ cho là “giật gân” để rút “tít” câu khách chứ không nhằm giới thiệu một cách hệ thống.
Hậu quả nguy hiểm của xu hướng này là tạo ra các tác phẩm báo chí khiến người đọc thấy nhàm chán, từ đó đổ lỗi cho sự lãnh đạo của Đảng, đổ lỗi cho định hướng của cơ quan chức năng về công tác tư tưởng và sự quản lý Nhà nước về truyền thông. Cũng nằm trong xu hướng này, một số tờ báo, một số nhà báo còn như muốn “lấy lòng cấp trên” bằng bài viết tâng bốc dễ dãi, phản cảm, khiến các thế lực thù địch và một số cá nhân nhân cơ hội khai thác, lợi dụng để công kích sự lãnh đạo của Đảng với báo chí.
Những bài viết chân thực và đầy tâm huyết về những tấm gương cán bộ, đảng viên vì nước vì dân, các phóng sự sinh động về sự gắn bó giữa Đảng với dân vắng dần trên nhiều tờ báo, nhất là báo điện tử và báo của các tổ chức xã hội, nghề nghiệp; thay vào đó nhiều khi chỉ là các bản tin, bài tường thuật vô cảm được viết như ẩn chứa trong đó một “thông điệp” để công chúng hiểu rằng họ viết cho “phải đạo”, khiến công chúng dị ứng với hình ảnh về hoạt động của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, cho dù đó là những hoạt động ích nước, lợi dân, vì sự ổn định và phát triển. Một khi xu hướng này trở nên phổ biến, có thể biến báo chí cách mạng - nền báo chí mang bản chất của cách mạng, chính trực, dấn thân vì độc lập dân tộc, vì tự do và hạnh phúc của nhân dân, sinh động, có sức mạnh làm lay động lòng người,… trở thành nền báo chí giáo điều, công thức, dần dà phai nhạt và có thể đánh mất vai trò xã hội.
3. Tùy tiện khai thác tin tức từ báo chí phương Tây, coi báo chí phương Tây là chuẩn mực của tự do báo chí
Trên diện rộng có thể thấy, khi đề cập các sự kiện quốc tế, lâu nay nhiều cơ quan báo chí chủ yếu sử dụng thông tin, dựa trên bình luận của các hãng tin, báo chí phương Tây để đưa tin hoặc bình luận, nhất là những sự kiện lớn như chiến tranh I-rắc, cuộc chiến ở Li-bi, vấn đề bán đảo Triều Tiên, tình hình ở Xy-ri, các vấn đề quốc tế về nhân quyền... Một số tin tức, bình luận từ VOA, RFI, RFA,… thậm chí tin tức, bình luận của một số báo, trang tin của người Việt ở nước ngoài vốn không thiện chí với Việt Nam đã được sửa sang công bố trên báo chí trong nước.
Để theo đuổi sự kiện giật gân, có trang tin còn phỏng vấn một số nhân vật chống cộng là người Việt Nam ở nước ngoài. Điển hình của hiện tượng này là sau khi J.Nguyễn được bầu vào Thượng viện tiểu bang Ca-li-pho-ni-a (Mỹ) có báo, trang tin trong nước đã giới thiệu một cách trang trọng, như một “niềm tự hào” không cần biết J.Nguyễn nổi tiếng chống cộng, nổi tiếng trong các hoạt động vu cáo, vu khống Việt Nam.
Thiếu trách nhiệm về chính trị, thiếu trách nhiệm trong khai thác và công bố thông tin,... xu hướng này còn ảnh hưởng tới quan hệ giữa Việt Nam với một số quốc gia. Như vậy, một số cơ quan báo chí, một số người làm báo hầu như không quan tâm tới thực tế là một số báo, hãng tin ở phương Tây thường đưa tin, bình luận (thậm chí tổ chức chiến dịch truyền thông) theo xu hướng bóp méo sự thật, không đúng sự thật, cắt xén sự thật, dựng sự kiện giả,… để vu khống, làm mất uy tín một số quốc gia hoặc cá nhân cụ thể, nhằm phục vụ lợi ích của một số thế lực chính trị, tập đoàn tài phiệt. Từ bình diện nhất định có thể nói, hiện tượng thiếu trách nhiệm này đã vô tình (cố tình?) gây nhiễu thông tin, dẫn tới sự mơ hồ, nghi ngờ, hoang mang trong người đọc…
4. Sử dụng quyền tự do báo chí để phục vụ các “nhóm lợi ích”
Tựu trung, tình trạng này đã và đang diễn ra trên hai phương diện:
- Một là, một số tờ báo, trang tin câu kết với một bộ phận doanh nghiệp và một số cán bộ, công chức để lũng đoạn chính sách, thực hiện chiến dịch truyền thông tạo lợi thế để một số doanh nghiệp làm ăn bất chính, gây bất lợi cho doanh nghiệp khác. Thực tế cho thấy, một số doanh nghiệp, đơn vị sản xuất được một số tờ báo ca ngợi, biến thành địa chỉ kinh doanh lành mạnh, phát đạt, đáng tin cậy,... nhằm thu hút đầu tư, tăng hấp dẫn để bán sản phẩm; tô vẽ thành tích cho một số cá nhân để biến họ thành người thành đạt, kinh doanh giỏi,... Sau một thời gian, tất cả vỡ lở, doanh nghiệp hoặc đơn vị sản xuất được ca ngợi chỉ là nơi làm ăn thua lỗ, tài sản của Nhà nước thất thoát nghiêm trọng; cá nhân được tô vẽ thì bị phát hiện là lừa đảo, tham nhũng, có người phải nhận án tù…
- Hai là, một số tờ báo, trang tin phụ họa một số phần tử cơ hội chính trị tranh thủ sự hậu thuẫn của các thế lực chính trị nước ngoài hòng tạo ra thực lực chính trị nhằm thay đổi chế độ trong tương lai. (Liệu có nên coi đây là loại hành vi hỗ trợ các thế lực thù địch thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình"?). Trên thực tế, phát ngôn và hành động của một số người này cho thấy họ có khuynh hướng lợi dụng phản biện để phê phán, bôi đen chế độ xã hội. Họ phủ nhận con đường Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Họ không thừa nhận các thành tựu kinh tế - văn hóa - xã hội đất nước đạt được trong thời gian qua.
Dưới nhãn quan của họ, tất cả đều xấu, tất cả đều tiêu cực... chỉ có ý kiến của họ mới đúng đắn! Họ thường xuyên xuất hiện trên BBC, VOA, RFI, RFA... để đánh giá, bình luận với các ý kiến chưa bao giờ tỏ ra thiện chí; đồng thời, mỗi khi có sự kiện hệ trọng xảy ra trong nước, họ vẫn được một số tờ báo, trang tin ưu ái phỏng vấn, đề nghị viết bài trong đó chủ yếu là đánh giá tiêu cực. Và "tự diễn biến" trên báo chí, cũng bắt đầu từ những cách thức biểu hiện như vậy.
(Còn nữa)
Theo nhandan.com.vn

Ngăn chặn thông tin xấu độc

17/10/2016 00:13

 Xét ở một góc độ nhất định, “phòng” được hiểu là tổng thể các chủ trương, biện pháp bảo vệ nội bộ, bảo vệ cán bộ, đảng viên, để tổ chức, cá nhân được sinh sống, công tác trong môi trường tốt nhất, không có những tác động tiêu cực, xấu độc.

Thấy rằng trong điều kiện hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ thông tin và truyền thông là một tất yếu. Bên cạnh những mặt tích cực thì công nghệ thông tin, nhất là mạng xã hội được các lực lượng thù địch triệt để sử dụng như một "công cụ" hữu hiệu nhằm chống phá cách mạng Việt Nam. Gần đây nhất, thời điểm trước, trong và sau Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng, các tổ chức phản động ở nước ngoài và các phần tử cơ hội chính trị chống đối trong nước tăng cường truyền bá các quan điểm sai trái, thù địch, chống phá Đảng ta trên các trang tin điện tử, blog cá nhân... Chúng kết hợp đẩy mạnh “diễn biến hòa bình” với việc khuyến khích, tạo điều kiện, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta.
Điểm yếu của chúng ta hiện tại là chưa có hệ thống giải pháp vĩ mô hữu hiệu để quản lý triệt để, hiệu quả mạng xã hội như ở một số nước đã làm trên thế giới. Lợi dụng kẽ hở này trong công tác quản lý, lực lượng thù địch đã biến một số diễn đàn trên internet trở thành mảnh đất hỗn tạp thông tin, tạo ra sự đan xen cái đúng, cái sai. Thậm chí, có thời điểm, thông tin ngược chiều, sai trái, phản động lại trở thành dòng chủ lưu trên mạng xã hội, gây nên nhiều xáo trộn trong đời sống tinh thần quần chúng, dẫn đến nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” rất cao.
Để khắc phục yếu kém này, trước hết các cấp ủy đảng, người chỉ huy cần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý các cấp đối với hệ thống thông tin nói chung, internet nói riêng. Ví như trong quân đội hiện nay, việc sử dụng hệ thống các mạng LAN có độ mật cao cũng là một hướng đi hiệu quả nên nghiên cứu, vận dụng. Cùng với đó, cơ quan chức năng nên ban hành các quy định cụ thể về việc cán bộ, đảng viên tham gia khai thác, sử dụng thông tin trên internet; nhất là việc sử dụng facebook, zalo, blog... Đồng thời, cũng nên khảo sát, tổng hợp liệt kê và thông báo rộng rãi đến mọi cán bộ, đảng viên những trang mạng đen, địa chỉ web, blog cá nhân không nên truy cập, tiếp cận; hoặc có những điểm lưu ý khi truy cập, khai thác. Mặt khác, nhất thiết phải sử dụng các biện pháp kỹ thuật đồng bộ để can thiệp, can ngăn, khống chế những thông tin xấu độc, gây ảnh hưởng tiêu cực đến cán bộ, đảng viên.
Việc phòng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, cần được tiến hành nhất quán ở mọi cấp, mọi ngành, mọi đối tượng, thể hiện hằng ngày, hằng giờ, bằng những đầu việc rất cụ thể. Đối với các cơ quan thông tấn, báo chí cả nước, nên chủ động phối hợp, liên kết với nhau để có những đợt tuyên truyền cao điểm, kịp thời ngăn chặn, chế áp thông tin mạng xã hội; làm cho cái tốt, cái đẹp, cái mới, cái tích cực trở thành dòng chủ lưu. Cơ quan chức năng, nhất là ngành tuyên giáo các cấp cần chủ động tổng hợp, cung cấp thông tin và định hướng dư luận xã hội. Đồng thời, việc xây dựng các lực lượng chuyên sâu, gắn trách nhiệm với các chế độ thụ hưởng xứng đáng, nhằm phát huy hết khả năng trong tham gia đấu tranh phòng vệ tổng lực.
Thiếu tướng NGÔ KIM ĐỒNG, Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Binh chủng Thông tin liên lạc
SÔNG TRÀ (ghi)

"3 việc" cần làm ngay trong quản lý đảng viên
“Phòng” theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh có nghĩa là “tiến công, thoái thủ nhanh như chớp”, là “tiến công, phòng ngự không sơ hở”; “phòng” là khắc phục được các sơ hở không để kẻ địch lợi dụng... Do đó, một trong những việc cần làm ngay hiện nay là phải thắt chặt lại kỷ luật, kỷ cương; nghiêm túc vận hành công tác quản lý cán bộ, đảng viên bằng Điều lệ Đảng và hệ thống cơ chế, chế tài, quy định; tránh mọi sơ hở trong chính nội bộ để lực lượng thù địch lợi dụng, khai thác.
Việc đầu tiên cần làm ngay là Đảng phải bắt buộc 100% đảng viên học lại, nắm lại để hiểu kỹ, hiểu sâu và triệt để thực hiện 19 điều đảng viên không được làm. Thực tế cho thấy, nhiều đảng viên hiện nay vẫn chưa nắm, chưa thuộc, chưa hiểu, càng chưa thực hiện trên thực tế 19 điều này. Trong khi nhiều tổ chức Đảng lại sao nhãng, không kiểm tra, duy trì nền nếp thực hiện những điều cấm đối với đảng viên. Khi có đảng viên vi phạm thì không xử lý, hoặc xử lý quá nhẹ, không đủ tính răn đe. Tôi cho rằng, chỉ cần thực hiện tốt 19 điều này thì "tự chuyển biến", "tự chuyển hóa" sẽ không có đất tồn tại trong tổ chức và đội ngũ chúng ta. Do đó, Đảng nên cân nhắc việc phát động một đợt sinh hoạt nghiêm túc, đồng bộ trong Đảng về vấn đề này.
Thứ hai, Đảng phải khắc phục ngay tình trạng "nói và làm" không theo, không đúng với nghị quyết của Trung ương và các cấp ở một bộ phận cán bộ, đảng viên. Hiện nay, nhiều đảng viên, thậm chí là cấp ủy viên, khi thảo luận thì không phát biểu thể hiện chính kiến của mình, nhưng sau khi có nghị quyết lại biểu hiện sự thiếu nhất trí, hoặc nghi ngờ tính khả thi của nghị quyết. Tình trạng nói không đi đôi với làm, làm không đúng với tinh thần nghị quyết còn diễn ra ở không ít tổ chức Đảng. Do đó, cần chú trọng kiểm tra, phát hiện xử lý nghiêm đối với những cán bộ, đảng viên nói và làm không đúng nghị quyết; phải kiên quyết chỉnh đốn Đảng ngay từ mỗi ý nghĩ, hành vi của từng cán bộ, đảng viên.
Thứ ba, phải sớm tiến hành phân loại, sàng lọc cán bộ, đảng viên để có chủ trương, giải pháp, biện pháp quản lý hiệu quả nhất. Đối với những người hoạt động trong khu vực, lĩnh vực có nguy cơ cao dẫn đến "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", nhất thiết phải có cơ chế, chế tài, quy định quản lý đặc thù. Ví như việc ban hành những quy định mà chúng ta đã thực hiện: Quy định dành cho cán bộ khi đi nước ngoài, quy định khi tiếp xúc với người nước ngoài... Hay nói rộng hơn là Đảng cần chủ trương đẩy mạnh việc thể chế hóa, cụ thể hóa các nguyên tắc thành quy chế, quy định trong Đảng và pháp luật của Nhà nước để tổ chức thực hiện hiệu quả, quản lý cán bộ, đảng viên.
PGS, TS ĐỖ DUY MÔN, Trưởng khoa Tâm lý học Quân sự, Học viện Chính trị
ÚT NGUYỄN (ghi) 

Coi trọng bảo vệ nội bộ và bảo vệ cán bộ
Công tác bảo vệ chính trị nội bộ (BVCTNB) là một nội dung công tác Đảng, công tác chính trị, nhằm góp phần bảo đảm cho mỗi tổ chức, đơn vị thực sự TSVM về chính trị, tư tưởng và tổ chức, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, thẳng thắn đánh giá thấy rằng, hiện nay, một số cấp ủy, chỉ huy chưa chú trọng đúng mức đến công tác này; cá biệt có nơi còn coi đó là chức trách, nhiệm vụ riêng của cán bộ và cơ quan chuyên trách. Công tác giáo dục, quản lý cán bộ, đảng viên ở một số nơi còn thiếu chặt chẽ, chưa tạo được sự tích cực phòng ngừa trước âm mưu, thủ đoạn chống phá thâm độc của các thế lực thù địch. Việc chấp hành các quy định về quản lý nội bộ, bảo vệ bí mật ở một số cơ quan, đơn vị chưa được duy trì chặt chẽ, còn mất cảnh giác, dẫn đến bị kẻ xấu lợi dụng... Đó là những kẽ hở để "tự chuyển biến", "tự chuyển hóa" len lỏi vào nội bộ ta.
Để khắc phục tình trạng này, cấp ủy, bí thư, người chỉ huy các cấp cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, quan tâm kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, Nhà nước và hướng dẫn của cơ quan chức năng về công tác BVCTNB. Cùng với đó, cấp có thẩm quyền cần chủ động nghiên cứu, nắm vững tình hình, dự báo chính xác những nguy cơ có thể dẫn tới "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"; kịp thời phát hiện, xử lý các phần tử, các hoạt động phá hoại của địch và phần tử xấu đối với cơ quan, đơn vị... loại bỏ từ sớm những nguy cơ và "ung nhọt" dẫn đến "tự diễn biến", "tự chuyển hóa".
Đặc biệt, công tác BVCTNB nhất thiết gắn chặt với công tác bảo vệ cán bộ. Tức là phải có những giải pháp hết sức cụ thể nhằm bảo vệ trí tuệ, danh dự, uy tín, tính mạng, sức khỏe, tài sản... của cán bộ trong những tình huống và trường hợp cụ thể. Ví như, trước thông tin xấu độc, bịa đặt của kẻ thù, hòng bôi nhọ danh dự một số cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước ta trên mạng xã hội, cơ quan chức năng cần vào cuộc nhanh, quyết liệt để có những giải pháp đồng bộ đấu tranh. Trong đó, phải coi trọng việc cung cấp những thông tin chính thức, khách quan đến nhân dân, nhằm huy động sức mạnh tổng lực đấu tranh phản bác, làm thất bại âm mưu của kẻ thù.
Bảo vệ cán bộ còn thể hiện cao nhất ở tính nhân văn, nhân đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cùng với việc duy trì, chấp hành nghiêm kỷ luật Đảng, cán bộ, đảng viên các cấp phải có trách nhiệm phát hiện, giúp đỡ đối tượng “tự diễn biến” tìm lại chính mình; khéo léo lôi kéo họ về phía Đảng; không nên cứng nhắc để vô hình trung đẩy đồng chí, đồng đội về phía kẻ thù và lực lượng phản động, chống đối...
Đại tá BÙI TÁ TUÂN, Chủ nhiệm Chính trị, Bộ CHQS tỉnh Quảng Ngãi (Quân khu 5)
TẤN TUÂN (ghi)

“Nghe dân nói” để chống suy thoái

15/10/2016 05:00

Sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng, trong xã hội do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ những hạn chế của công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng của Đảng. PGS, TS Trương Ngọc Nam, Giám đốc Học viện Báo chí và Tuyên truyền trao đổi với phóng viên Báo Quân đội nhân dân về nguyên nhân và giải pháp cho vấn đề này.

Phóng viên (PV): Thưa PGS, TS Trương Ngọc Nam, vừa qua, Báo Quân đội nhân dân đã đăng vệt bài "Phòng, chống nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng - vấn đề sống còn của Đảng và chế độ ta”. Đồng chí nhìn nhận về vấn đề này như thế nào, đặc biệt là thực trạng của vấn đề trong thanh niên, sinh viên hiện nay?
PGS, TS Trương Ngọc Nam: Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) đã chỉ rõ tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, cảnh báo nguy cơ "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong Đảng và cả trong xã hội có chiều hướng không giảm mà còn gia tăng nghiêm trọng hơn. Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) lần này cũng đang bàn giải pháp khắc phục nguy cơ lớn này. Tôi nghĩ rằng, chúng ta phải có giải pháp nhằm vào những nguyên nhân chính, quan trọng. Thứ nhất, một trong những nguyên nhân cơ bản là hạn chế của công tác cán bộ. Chúng ta chưa có cơ chế đồng bộ để cán bộ, đảng viên luôn tự rèn luyện, tự tu dưỡng và được kiểm soát để bảo đảm phẩm chất, năng lực của mình không bị tha hóa, biến chất. Thứ hai, chúng ta phải có một cơ chế kiểm soát quyền lực; đây là vấn đề rất lớn, là vấn đề của toàn bộ hệ thống trong điều kiện Đảng ta là đảng chính trị duy nhất cầm quyền. Nếu chúng ta không kiểm soát quyền lực mà để quyền lực bị tha hóa thì không cách gì để chúng ta ngăn chặn suy thoái. Hệ thống các quy định, quy chế hiện chưa đầy đủ, chưa cụ thể và chưa hiệu quả. Thứ ba là cần phải có những giải pháp rất căn cơ về công tác tư tưởng, giáo dục chính trị và giáo dục đạo đức.
Về tình trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong thanh niên, sinh viên, đây là đối tượng lôi kéo của cả những người tiến hành chiến lược “Diễn biến hòa bình” và những người đã “tự chuyển hóa”. Tình trạng “tự chuyển hóa”, hay sự suy thoái từ trong Đảng, bộ máy nhà nước ảnh hưởng nghiêm trọng đến tinh thần và tư tưởng của thanh niên, sinh viên. Những con người giữ vị trí nhất định trong xã hội luôn có tác động rất mạnh đến đời sống chính trị, tư tưởng, tinh thần, tình cảm của thanh niên, sinh viên. Đáng ngại là sự tác động tiêu cực đó hiện chưa giảm đi, không được ngăn chặn. Còn về biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thì sinh viên đang có một bộ phận rơi vào hoài nghi, không có niềm tin vào chế độ, vào Đảng. Vì thế, nếu chúng ta có các giải pháp đấu tranh, ngăn chặn trong nội bộ Đảng, trong hệ thống chính trị thì tự nhiên công tác giáo dục thanh thiếu niên, sinh viên sẽ có những cơ sở, những trụ cột để dựa vào. Tôi cho rằng, đây là mối liên hệ rất đặc thù giữa xây dựng Đảng và công tác giáo dục thanh niên và nhất là sinh viên.
Đối với nhà trường, để ngăn chặn nguy cơ “tự diễn biến” trong sinh viên, trong quá trình giảng dạy, giáo dục, rèn luyện sinh viên phải đặc biệt coi trọng dân chủ ở học đường, phải quan tâm và có chính sách xã hội phù hợp để giúp đỡ thanh niên, sinh viên, tạo điều kiện để sinh viên có cơ hội học tập tốt và tiến thân, lập nghiệp sau khi ra trường. Quan tâm đến đời sống sinh viên, đồng hành với các em trong chuẩn bị tương lai thì các em sẽ không bị lôi kéo, không bị “kích động”, những tư tưởng tiêu cực sẽ ít “đất” để sinh sôi. Tất nhiên, cùng với quá trình đó phải coi trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên. Như thế là vừa tạo điều kiện cho sinh viên phát triển, vừa làm “tấm khiên” che chắn những tác động tiêu cực từ bên ngoài vào các em.
PV: Là một nhà giáo nhưng đồng thời cũng là một nhà báo, đồng chí suy nghĩ như thế nào nếu như có hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ngay trong đội ngũ nhà báo và cơ quan báo chí, truyền thông? Việc này  nguy hại như thế nào đối với công tác xây dựng Đảng?
PGS, TS Trương Ngọc Nam: Đội ngũ nhà báo, cơ quan báo chí, truyền thông có vị trí rất quan trọng trong xã hội và trong công tác xây dựng Đảng. Cho nên, tôi nghĩ nếu sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn ra ngay trong đội ngũ nhà báo, cơ quan báo chí truyền thông thì tác hại sẽ rất lớn, khôn lường. Tính lan tỏa của truyền thông đối với xã hội sẽ làm những vấn đề tiêu cực ở bộ phận bị thổi bùng lên thành những phản ứng tiêu cực, bức xúc xã hội. Biểu hiện này đã có, như việc đưa thông tin ở một số cơ quan báo chí không phản ánh đúng sự thật, không đúng bản chất. Điều đó tác động theo hướng tiêu cực rất mạnh đến niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Vì thế, chúng ta phải xây dựng được cơ chế làm việc, các quy định, các thiết chế, kể cả đạo đức, pháp luật để cho người làm báo nói lên sự thật, đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực nhưng trên tinh thần xây dựng, vì sự nghiệp của dân, của nước, của Đảng chứ không phải vì động cơ cá nhân. Đặc biệt, hiện nay phải chống quan điểm vụ lợi trong làm báo, đó chính là biểu hiện “lợi ích nhóm” trong báo chí và nếu để điều đó “phát triển” trong các cơ quan báo chí thì nó sẽ ảnh hưởng khôn lường đến xã hội.
Nhà báo là những cán bộ, đảng viên, họ đều là những con người cụ thể. Tình trạng suy thoái tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ của xã hội, của Đảng thì chắc trong đội ngũ nhà báo cũng có một số người như thế. Tất nhiên, những cơ quan báo chí mà duy trì nghiêm nguyên tắc sinh hoạt Đảng, tổ chức Đảng vững mạnh thì sẽ giảm đến mức tối thiểu tình trạng suy thoái trong cán bộ, phóng viên. Từ quan sát của bản thân, tôi cho rằng đại đa số nhà báo hiện đều giữ được lập trường chính trị, ý thức, niềm tin, thái độ, tâm thế làm báo và có cái tâm cùng với tầm nhìn. Trách nhiệm xã hội, trách nhiệm công dân, trách nhiệm với Đảng được họ thể hiện trong việc phát hiện các hiện tượng tiêu cực, phản ánh đúng đời sống của nhân dân đến Đảng, Chính phủ. Tuy nhiên, trong nội bộ các cơ quan báo chí không tránh khỏi những cá nhân vì một động cơ nào đó hoặc là vì có một thái độ, quan điểm không đúng mà có những bài báo, việc làm ảnh hưởng đến giới báo chí. Những trường hợp như vậy, chúng ta phải có kỷ luật nghiêm minh nhưng cũng phải coi trọng giáo dục, thuyết phục, đồng thời phải có chính sách cụ thể. Chúng ta trân trọng những người biết sửa sai sau khi lạc đường, còn những người nào đi ngược lại với lợi ích của nhân dân, chủ trương, đường lối của Đảng một cách cố tình, có chủ đích, gây hậu quả thì phải xử lý nghiêm.
PV: Thưa đồng chí, cả hai vấn đề nêu trên đều phản ánh một thực tế là công tác giáo dục chính trị tư tưởng của chúng ta tồn tại nhiều hạn chế. Là người nghiên cứu sâu lĩnh vực xây dựng Đảng, đồng chí có suy nghĩ gì về giải pháp nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị trong Đảng và trong xã hội ?
PGS, TS Trương Ngọc Nam: Như Đảng ta đã nhận định, công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống hiện còn hình thức, chưa đủ sức động viên và thường xuyên nâng cao ý chí cách mạng của cán bộ, đảng viên; một số nơi có tình trạng những việc làm đúng, gương người tốt không được đề cao, bảo vệ; những sai sót, vi phạm không được phê phán, xử lý nghiêm minh. Công tác kiểm tra, giám sát, giữ gìn kỷ cương, kỷ luật ở nhiều nơi, nhiều cấp chưa thường xuyên, ráo riết; đấu tranh với những vi phạm còn nể nang, không nghiêm túc. Vai trò giám sát của nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội chưa được phát huy, hiệu quả chưa cao. Công tác tuyên truyền, giáo dục  có một số hạn chế như nội dung nghèo nàn, hình thức khô cứng, phương pháp thiếu linh hoạt, sáng tạo, đặc biệt là việc tuyên truyền, giáo dục một chiều. Ngay cả với một bộ phận nhỏ rơi vào “tự diễn biến”, chúng ta chưa tác động theo chiều hướng vừa "đẩy", vừa "hút”. “Đẩy” là đấu tranh với những quan điểm sai trái, “hút” là tạo con đường cho họ nhận thức lại, đi đến nhận thức đúng. Trong tuyên truyền, giáo dục, tôi cho rằng phải tăng cường đối thoại, trao đổi một cách chân thành, trách nhiệm để xây dựng niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Thực tế, nhiều khi chúng ta tuyên truyền một chiều, thậm chí áp đặt; chỉ lo "đẩy" các nội dung, chủ trương, quan điểm của Đảng tới nhân dân nhưng chưa lắng nghe xem dân nói gì, phản ứng thế nào, góp ý gì vào vấn đề đó. Công tác tuyên truyền, giáo dục thiếu sự trao đổi, đối thoại và không có kiểm tra, đánh giá hiệu quả để điều chỉnh, nâng cao chất lượng.
Một hạn chế khác là đội ngũ người làm tuyên truyền, giáo dục chưa chuyên nghiệp. Chúng tôi đã có dịp đi thực tế, khảo sát công tác giáo dục, tuyên truyền của các nước tiên tiến, kể cả công tác tuyên truyền của các đảng chính trị, họ làm rất bài bản, khoa học. Người đi tuyên truyền, giáo dục là những người được đào tạo chuyên nghiệp. Mục tiêu tuyên truyền của họ rất rõ là xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với từng nhóm xã hội, với công chúng và nhân dân. Tuyên truyền không chỉ để dân nghe, dân biết mà quan trọng là để dân hành động. Hành động của nhân dân là thước đo hiệu quả tuyên truyền. Ở nước ta cũng vậy, tôi nghĩ việc tuyên truyền không chỉ để dân tin vào Đảng mà quan trọng là để dân tự nguyện, tự giác làm theo chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, tuyên truyền để các lợi ích của dân được thực hiện tốt hơn. Đối tượng nào cũng vậy, đều thích nghe những điều liên quan đến lợi ích sát sườn của mình. Công tác tuyên truyền, giáo dục cần đổi mới mạnh mẽ theo hướng này thì mới đáp ứng được yêu cầu của tình hình cấp bách hiện nay.
PV: Trân trọng cảm ơn đồng chí!
NGUYỄN HỒNG - ANH MINH (thực hiện)

Nguyên nhân gốc rễ và những việc cần làm ngay

11/10/2016 23:12

Ngay sau khi Báo Quân đội nhân dân đăng vệt bài “Phòng, chống nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng-vấn đề sống còn của Đảng và chế độ ta”, nhiều đồng chí lãnh đạo, các nhà khoa học, nhà quản lý ở cơ quan trung ương và địa phương, nhiều bạn đọc xa gần đã bày tỏ sự quan tâm, ủng hộ và thẳng thắn chia sẻ quan điểm, chính kiến về vấn đề “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng. Báo Quân đội nhân dân trân trọng giới thiệu những quan điểm, chính kiến rất thẳng thắn, mới mẻ, đầy trách nhiệm, có ý nghĩa sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn.

Bàn về nguy cơ “tự diễn biến, tự chuyển hóa”, GS, TS Phùng Hữu Phú, Phó chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương, đã dành nhiều thời gian phân tích, nhận diện nguyên nhân gốc rễ của căn bệnh nội sinh trong Đảng; đồng thời thẳng thắn chỉ rõ tính cấp bách phải hành động ngay, hành động quyết liệt đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ từ “căn bệnh” nguy hại này.
Thành-bại bắt đầu từ cán bộ và công tác cán bộ
Phóng viên (PV): Được biết, Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) đang diễn ra tại Hà Nội sẽ dành nhiều thời gian thảo luận, quyết nghị các vấn đề liên quan đến sự suy thoái “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng. Thưa đồng chí, tại sao lần này Trung ương lại tập trung bàn vấn đề này và xem đây là một trong những phần việc hệ trọng của Đảng?
GS, TS Phùng Hữu Phú: “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là thuật ngữ không hề xa lạ, xuất hiện phổ biến trong thời gian gần đây. Thế nhưng, việc Đảng đưa các thuật ngữ này vào diễn đàn chính trị chính thức, nhất là sử dụng trong văn kiện của Đảng, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và có căn nguyên của nó.
Đại hội XII của Đảng đặt lên hàng đầu mục tiêu “tăng cường xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh”; xác định “tăng cường xây dựng chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) chỉ rõ một số vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng; trong đó có nhiệm vụ phòng, chống nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Và ở thời điểm hiện tại, Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) tiếp tục đưa vấn đề phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là một nội dung quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng… Điều đó cho thấy: Vấn đề “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là vấn đề vô cùng hệ trọng; là “căn bệnh” đang diễn ra phức tạp trong đội ngũ cán bộ, đảng viên; là thực trạng cần sớm được thẳng thắn nhận diện, đánh giá khách quan, đầy đủ để có giải pháp hữu hiệu và quyết tâm hành động quyết liệt nhằm ngăn chặn, đẩy lùi trước khi quá muộn.
Như đã biết, nguy cơ tha hóa của Đảng Cộng sản khi trở thành đảng cầm quyền; nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên cộng sản khi đã trở thành người lãnh đạo xã hội, đã được các nhà sáng lập Chủ nghĩa Mác - Lê-nin và Chủ tịch Hồ Chí Minh cảnh báo từ rất sớm. Khi nước ta đi vào phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, nguy cơ tha hóa quyền lực, tha hóa lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” tăng hơn nhiều lần. Từ trước, Đảng vẫn luôn coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thế nhưng có thời điểm, chúng ta chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc mức độ và sự nguy hại của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, do vậy, thiếu quyết tâm chính trị và các giải pháp đồng bộ, đủ mạnh để ngăn chặn, đẩy lùi. Hạn chế kéo dài này làm cho sự tha hóa quyền lực, suy thoái đạo đức, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” mang tính chất cá nhân đã lây lan, phát triển thành sự tha hóa mang tính tập thể. Và một khi “tự chuyển hóa” đã có “tổ chức”, đã liên kết thành hệ thống thì tổn hại về nhiều mặt tăng gấp nhiều lần, diễn ra trên diện rộng; việc phát hiện, đấu tranh khắc phục, triệt tiêu cũng sẽ vô cùng khó khăn. Chính vậy, Hội nghị Trung ương 4 (khóa XII) tập trung thảo luận, quyết nghị và sẽ ban hành Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng là việc làm cần kíp không thể chậm trễ, thể hiện quyết tâm và nhận thức nhất quán của Đảng.
Một góc Thủ đô Hà Nội hôm nay. Ảnh: TTXVN. 
PV: Giáo sư vừa nhắc đến yếu tố kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế tác động và làm gia tăng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Liệu đây có phải là nguyên nhân chủ yếu?
GS, TS Phùng Hữu Phú: Không hoàn toàn như vậy. Thực trạng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan; có nguyên nhân sâu xa lẫn nguyên nhân trực tiếp. Văn kiện Đại hội XII của Đảng và Báo cáo tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) đã phản ánh, chỉ ra khá đầy đủ, sâu sắc những nguyên nhân đó.
Ở đây, tôi xin tiếp cận vấn đề một cách hết sức dân dã, dễ hiểu và thẳng thắn. Theo đó, có thể chỉ ra rằng: Chính những yếu kém trong đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ là nguyên nhân gốc rễ nhất-là nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, hay “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém” cũng là vì thế!
Hay nói theo cách khác, nếu chúng ta có đội ngũ cán bộ tốt sẽ không có “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Và nếu chúng ta chưa làm tốt công tác tổ chức cán bộ thì sẽ không bao giờ có đội ngũ cán bộ tốt. Thậm chí, những yếu kém trong công tác cán bộ sẽ dẫn tới việc xuất hiện ngày càng nhiều trong hàng ngũ của chúng ta những cán bộ kém, yếu, thậm chí là cán bộ xấu. Bởi thế, có thể chỉ ra 3 nguyên nhân (từ góc độ lý luận) của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, gồm: 1. Sự tha hóa quyền lực và yếu kém trong việc kiểm soát quyền lực; 2. Yếu kém bất cập của công tác tổ chức cán bộ; đặc biệt là khuyết điểm của việc giáo dục, rèn luyện, quản lý cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược, cán bộ chủ chốt các cấp; 3. Chưa thật sự dựa vào dân, phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Đây là những nguyên nhân rất cụ thể, nhưng xét đến cùng đều là hệ lụy của những hạn chế, yếu kém từ công tác tổ chức cán bộ mà ra. Nếu không có cán bộ tha hóa thì cũng chẳng cần kiểm soát quyền lực, giám sát “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Nếu công tác giáo dục, quản lý cán bộ khoa học, chặt chẽ, hiệu quả thì chắc chắn sẽ không có “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Hoặc nếu cán bộ giữ vững bản chất cách mạng, thực sự là công bộc của dân, thì không thể có chuyện người dân đứng ngoài, vô cảm, thờ ơ trước công việc hệ trọng của Đảng. Như vậy, trăm sự chủ yếu là do cán bộ “tốt hay kém” và công tác tổ chức cán bộ đạt hiệu quả, chất lượng đến đâu.
PV: Như vậy, yếu kém từ công tác tổ chức cán bộ là nguyên nhân của mọi nguyên nhân?
GS, TS Phùng Hữu Phú: Như tôi vừa lý giải khá cụ thể ở trên, đây là một sự thật mà chúng ta phải khách quan nhìn nhận, thẳng thắn tự phê bình và phê bình, nghiêm khắc đấu tranh để nâng cao chất lượng công tác đặc biệt quan trọng này. Và có vậy, gốc rễ vấn đề mới được giải quyết triệt để.
Chúng ta hiểu rằng, Đảng lãnh đạo cách mạng bằng Cương lĩnh, đường lối. Nhưng để có Cương lĩnh, đường lối chính trị đúng và thể hiện sinh động, hiệu quả trong thực tiễn, phải có đội ngũ cán bộ tốt. Nói cách khác, cán bộ chính là người hoạch định, kiến tạo đường lối của Đảng và cũng là người trực tiếp tổ chức thực hiện đường lối đó. Vì thế, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng 86 năm qua, ở bất cứ thời kỳ nào, giai đoạn nào, Đảng ta luôn xác định công tác cán bộ là vấn đề trọng yếu, khâu đột phá, then chốt để xây dựng Đảng thực sự vững mạnh, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng; đồng thời, là nhân tố quyết định sự tồn vong của chế độ, sự thành bại của cách mạng Việt Nam. Những năm gần đây, chúng ta cũng không xa rời tư tưởng và tinh thần đó. Thậm chí Trung ương còn quyết liệt đấu tranh, kiên quyết, kiên trì chỉ đạo phần việc hệ trọng này. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp ủy, tổ chức Đảng đã rà soát, bổ sung, sửa đổi và ban hành nhiều kết luận, quy định, quy chế, hướng dẫn về công tác tổ chức, cán bộ và sinh hoạt Đảng, góp phần quan trọng vào chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng Đảng. Tuy vậy, cũng thẳng thắn thấy rằng, việc đổi mới mạnh mẽ các khâu, các bước của công tác cán bộ còn chậm, có lúc còn lúng túng, hiệu quả chưa đáp ứng kịp đòi hỏi của thực tiễn cách mạng.
Từ năm 1975 đến nay, công tác tổ chức cán bộ tuy đã được quan tâm, đã có nhiều đổi mới, song nhìn tổng thể đổi mới tổ chức cán bộ còn chậm so với đổi mới kinh tế; đổi mới mang tính bộ phận, chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao, chuyển biến ngày càng nhanh của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Cho đến nay, các khâu trong quy trình công tác cán bộ còn nhiều yếu kém, bất cập: Đánh giá cán bộ vẫn còn là khâu yếu; chưa có cơ chế hiệu quả để phát hiện, trọng dụng người tài, loại bỏ kịp thời những người yếu kém, không đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy bằng cấp, chạy luân chuyển, chạy khen thưởng, chạy tội... chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Những tiêu cực trong lựa chọn cán bộ: “Thứ nhất hậu duệ, thứ nhì quan hệ, thứ ba tiền tệ, thứ tư trí tuệ” vẫn xảy ra. Năng lực lãnh đạo và sức chiến dấu của nhiều tổ chức cơ sở đảng còn thấp, quản lý đảng viên chưa chặt chẽ; chế độ trách nhiệm không rõ ràng, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu… Chính vì thế, bộ máy của hệ thống chính trị rất lớn, đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức rất đông nhưng không mạnh; nhiều khuyết tật của tổ chức, tật bệnh của cán bộ chậm được khắc phục, ngày càng trở nên trầm trọng hơn.
Nói cụ thể hơn, hiện tại chúng ta đã có một quy trình tròn khâu, bài bản, hệ thống; nhưng xem ra quy trình này đã quá cũ, đã “nhờn thuốc” và thậm chí đã bị lợi dụng như một “công cụ” cho những toan tính lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm; mà biểu hiện rõ nhất là việc “lũng đoạn” công tác cán bộ, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ trong một số khâu công tác cán bộ ở không ít cơ quan, đơn vị, địa phương. Những hạn chế, khuyết điểm nêu trên chậm được khắc phục đã gây hậu quả về nhiều mặt, đáng lo ngại là sự giảm sút niềm tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân vào công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ, lãnh đạo quản lý các cấp.
Kiên quyết, kiên trì, nhưng phải đột phá, giải quyết dứt điểm những việc trọng yếu
PV: Với vai trò, chức năng cơ quan tư vấn cho Trung ương, Hội đồng Lý luận Trung ương đã có những tư vấn cụ thể gì về giải pháp ngăn chặn, đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”?
GS, TS Phùng Hữu Phú: Trước hết, chúng tôi hoàn toàn tán thành với hệ thống các chủ trương, giải pháp Trung ương đã xác định, triển khai thực hiện trong thời gian qua.
Chúng ta biết rõ, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ là nhiệm vụ trọng tâm số một trong nhiệm kỳ Đại hội XII. Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã nêu ra 10 nhiệm vụ cơ bản để xây dựng Đảng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ nặng nề của thời kỳ phát triển mới; đồng thời nhấn mạnh nhiệm vụ trọng tâm là “kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI)".
Đa số cán bộ, đảng viên, nhân dân cho rằng: 10 nhiệm vụ nêu trong Văn kiện Đại hội XII là rất đầy đủ, toàn diện, đúng đắn, vấn đề bây giờ là xây dựng kế hoạch cụ thể để triển khai thật tốt sẽ làm chuyển biến cơ bản tình hình. Bốn nhóm giải pháp nêu trong Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) là rất đúng, rất trúng và vẫn còn nguyên giá trị. Yêu cầu đặt ra là phải rà soát và triển khai ngay những công việc mà nghị quyết đã nêu ra, nhưng đến nay vẫn chưa thực hiện (qua rà soát, còn 12 công việc đã được xác định trong nghị quyết nhưng chưa được thực hiện). Cùng với đó, cần đánh giá nghiêm túc giải pháp nào, công việc nào tuy đã triển khai nhưng làm chưa đến nơi, chưa đạt hiệu quả thì tập trung chỉ đạo làm triệt để, có kết quả rõ nét. Qua rà soát, cần thiết thì bổ sung giải pháp mới hoặc hoàn thiện những giải pháp đã có, để bảo đảm các giải pháp phải cụ thể, khả thi.
PV: Đó là những giải pháp cơ bản, toàn diện và lâu dài, ở đây chúng tôi lại rất quan tâm đến các nhóm giải pháp cụ thể-những việc cần làm ngay để phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng?
GS, TS Phùng Hữu Phú: Đây là vấn đề khó, Trung ương lần này sẽ họp bàn, quyết nghị. Khi Báo cáo Tư vấn với Trung ương, Hội đồng Lý luận Trung ương thống nhất quan điểm, cần thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng, nhưng phải đặc biệt quan tâm đến ba nhóm giải pháp có ý nghĩa đột phá sau đây:
1. Nhóm giải pháp kiểm soát chặt chẽ quyền lực, nghiêm trị những hành vi lạm dụng quyền lực, vi phạm Điều lệ Đảng, luật pháp của Nhà nước.
2. Nhóm giải pháp đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ; khắc phục yếu kém trong công tác cán bộ; nhất là giáo dục, quản lý cán bộ.
3. Nhóm giải pháp phát huy vai trò của nhân dân, thật sự dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng.
Ở đây, xin được nói sâu hơn nhóm giải pháp quan trọng nhất, cũng là vấn đề các đồng chí quan tâm xuyên suốt trong cuộc trao đổi lần này. Ấy là các giải pháp trong công tác cán bộ, mà Hội đồng Lý luận Trung ương đã tư vấn Trung ương, bao gồm: 1. Thực hiện thí điểm chế độ tiến cử, chế độ tập sự lãnh đạo, quản lý. Mở rộng hình thức thi tuyển cán bộ, công chức. 2. Xây dựng tiêu chí, hoàn thiện quy trình, mở rộng diện và đối tượng tham gia đánh giá cán bộ, bảo đảm dân chủ, thật sự khoa học, công khai, minh bạch; lấy hiệu quả, chất lượng công việc làm tiêu chí chính. 3. Đổi mới phương thức, quy trình đề bạt cán bộ, kết hợp quy hoạch cán bộ với mở rộng thi tuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý. Thực hiện công khai, minh bạch tài sản của cán bộ trước khi quyết định đề bạt. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác bầu cử trong Đảng và hệ thống chính trị; đề cao trách nhiệm giới thiệu của người đứng đầu; bảo đảm số dư các ứng viên ở tất cả các chức danh ở các cấp, các ngành và thực hiện quy định các ứng viên phải trình bày chương trình công tác. Nghiên cứu đổi mới quy trình bầu cử, đề bạt cán bộ theo hướng “dân bầu trước, Đảng quyết định phân công, bổ nhiệm sau”.
Cùng với đó, nên thực hiện việc định kỳ bỏ phiếu tín nhiệm thay cho việc lấy phiếu tín nhiệm đã làm trong nhiệm kỳ Đại hội XI. Kiên quyết sàng lọc, miễn nhiệm, thay thế cán bộ, cho từ chức cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ, yếu về năng lực, kém về phẩm chất đạo đức, có tín nhiệm thấp; có khuyết điểm, vi phạm chưa đến mức xử lý kỷ luật Đảng, kỷ luật hành chính, không chờ đến cuối nhiệm kỳ, hết tuổi công tác.
Về trước mắt, cần tiến hành rà soát lại cán bộ lãnh đạo các cấp. Tập trung giải quyết những trường hợp mà dư luận có nhiều ý kiến. Kiên quyết xử lý kỷ luật đúng tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp đối với các vụ việc tiêu cực đã phát hiện trong thời gian gần đây. Cũng nên mở một đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng để cán bộ, đảng viên, nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng; tập trung giải quyết những bức xúc trong Đảng, trong dân.
PV: Xin cảm ơn đồng chí! 
NGUYỄN TẤN TUÂN (thực hiện)