Không “chính trị hóa” các vụ án kinh tế

Thứ hai, 08/04/2024 - 05:22

Phiên tòa xét xử sơ thẩm đối với bị cáo Trương Mỹ Lan và đồng phạm, do Tòa án Nhân dân TP Hồ Chí Minh mở, đã thu hút sự quan tâm đặc biệt của dư luận. Bên cạnh thông tin khách quan, phản ánh trung thực diễn biến phiên tòa và bản chất vụ án, không gian mạng cũng liên tục xuất hiện những thông tin xuyên tạc, kích động theo hướng “chính trị hóa” các quan hệ kinh tế, nhằm phá hoại môi trường đầu tư, gây rối an ninh chính trị, chống phá đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước...

Thấy gì từ vụ án xét xử Trương Mỹ Lan và đồng phạm?

Vụ án xảy ra tại Tập đoàn Vạn Thịnh Phát, Ngân hàng SCB, với vai trò chủ mưu của Trương Mỹ Lan, được dư luận truyền thông trong nước và quốc tế đánh giá là vụ “đại án” có tính chất rất phức tạp, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

Trương Mỹ Lan và đồng phạm đã sử dụng những thủ đoạn tinh vi để “rút ruột” ngân hàng, tham ô, tham nhũng, gây thiệt hại cho Nhà nước và các tổ chức, cá nhân với tổng số hơn 400.000 tỷ đồng. Đồng phạm giúp sức, cấu kết với Trương Mỹ Lan có 41 lãnh đạo, cán bộ Ngân hàng SCB; 15 cựu cán bộ Ngân hàng Nhà nước; 3 cựu cán bộ Thanh tra Chính phủ; 1 cựu cán bộ Kiểm toán Nhà nước... và nhiều cá nhân khác.

Chính vì tính chất phức tạp và hậu quả đặc biệt nghiêm trọng của vụ án nên các cơ quan thực thi pháp luật đã phải xử lý một khối lượng công việc khổng lồ, với khoảng 6 tấn hồ sơ, tài liệu. Điều tra, khám phá thành công vụ án đặc biệt lớn, đặc biệt nghiêm trọng này là sự cố gắng nỗ lực vượt bậc của các cơ quan thực thi pháp luật; thể hiện tinh thần kiên quyết, kiên trì trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực... của Đảng, Nhà nước ta.

Không “chính trị hóa” các vụ án kinh tế
 Bị cáo Trương Mỹ Lan (thứ 2, từ trái sang) tại phiên tòa ngày 7-3. Ảnh: TTXVN

Những kẻ làm ăn bất chính, có hành vi tiêu cực, suy thoái tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng... sẽ phải chịu những chế tài nghiêm khắc của pháp luật. Tinh thần không có vùng cấm, không có ngoại lệ và hiệu lực của sức mạnh cảnh báo, răn đe, nghiêm trị đã được thực thi rất nghiêm minh, thông suốt.

Tuy nhiên, với âm mưu chống phá Đảng, Nhà nước, nhiều phương tiện, ấn phẩm truyền thông mang tư tưởng thù địch và tài khoản trên các nền tảng mạng xã hội của các thành phần bất mãn, cơ hội chính trị, các đối tượng thù địch trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài... lại cố tình bẻ cong sự thật, xuyên tạc, lèo lái vụ án đi theo một hướng khác.

Từ khi Tòa án Nhân dân TP Hồ Chí Minh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm đối với bị cáo Trương Mỹ Lan và đồng phạm vào ngày 5-3-2024 đến nay, nhiều phương tiện truyền thông phát tiếng Việt ở hải ngoại và các tài khoản của các tổ chức phản động trên mạng xã hội đã liên tục phát, đăng tải những nội dung theo hướng “chính trị hóa” vụ án kinh tế để lèo lái dư luận.

Họ lợi dụng thành phần xuất thân của Trương Mỹ Lan và một số đối tượng khác (là người Việt gốc Hoa) để tung tin xuyên tạc, kích động. Một mặt, họ cho rằng người như bị cáo Trương Mỹ Lan, pháp luật Việt Nam sẽ không dám xử nghiêm; mặt khác, họ tung tin xuyên tạc, vu cáo Việt Nam đang thực hiện cái gọi là “đàn áp tư sản”, rồi “khuyến cáo” các nhà đầu tư nước ngoài từ bỏ ý định đầu tư vào Việt Nam. Bên cạnh đó, truyền thông mang tư tưởng thù địch còn lớn tiếng chỉ trích, phê phán hệ thống pháp luật và hệ thống chính trị ở Việt Nam là “tạo ra nhiều lỗ hổng để tham nhũng phát triển”...

Tỉnh táo nhận diện, quyết liệt đấu tranh

Đứng trên lập trường khách quan, chúng ta thấy rõ, những luận điệu mang đầy tính hiềm khích, xuyên tạc, kích động kiểu như vậy đều là những dạng biểu hiện của “thuyết âm mưu” do các thế lực thù địch rắp tâm thực hiện. Âm mưu của họ là gây mâu thuẫn dân tộc, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân và chính sách dân tộc, tôn giáo; chính sách ngoại giao nhân dân... của Đảng, Nhà nước ta; phá hoại môi trường đầu tư và sự phát triển của nền kinh tế đất nước.

Bám vào những diễn biến của phiên tòa xét xử sơ thẩm bị cáo Trương Mỹ Lan và đồng phạm để tung tin xuyên tạc, kích động, lèo lái dư luận... là thủ đoạn nằm trong chiến dịch truyền thông “bẩn” mang “thuyết âm mưu” của các thế lực thù địch, chĩa mũi nhọn chống phá đất nước. Nhìn rộng ra và xâu chuỗi các vấn đề, sự kiện trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực dưới sự lãnh đạo của Đảng trong thời gian qua, chúng ta sẽ thấy rõ hơn mưu đồ này.

Theo đó, trước, trong và sau mỗi vụ án, vụ việc, sự kiện... liên quan đến công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được đưa ra ánh sáng công lý, thì truyền thông mang tư tưởng thù địch cũng dồn dập các chiến dịch tuyên truyền theo hướng đả kích, chống phá. Họ không chỉ cố tình sổ toẹt, phủ nhận thành tựu, hiệu lực, hiệu quả công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, mà còn lấy đó làm môi trường để “ký sinh” tư tưởng phản động nhằm thực hiện mưu đồ chống phá Đảng ta đến cùng.

“Chính trị hóa” các vụ án kinh tế, các quan hệ kinh tế bằng kiểu lập luận ngụy biện, lấy hiện tượng để quy kết bản chất, lấy cái cá biệt để quy chụp tổng thể... là chiêu bài được các thế lực thù địch sử dụng, “nhai đi nhai lại” liên tục.

Để nhận diện rõ hơn chiêu bài thâm độc, xảo biện, xảo quyệt của các thế lực thù địch và những phần tử cơ hội chính trị, phản động, cần có tư duy biện chứng, đánh giá vấn đề một cách tổng thể, khách quan. Chúng ta đều biết rõ, tham nhũng, tiêu cực là một thuộc tính của xã hội có giai cấp. Không có bất cứ quốc gia, vùng lãnh thổ nào không tham nhũng và không có các vụ án về kinh tế.

Nhìn gần hơn, ở một số quốc gia châu Á trong những năm vừa qua, người ta còn truy tố, xử lý cả các nguyên thủ vì tội tham nhũng. Để khám phá, điều tra thành công một vụ án kinh tế, hoàn toàn không phải là một công việc dễ dàng. Nó đòi hỏi các cơ quan thực thi pháp luật phải mất rất nhiều công sức, thời gian để truy tìm, củng cố, hoàn thiện chứng cứ, hồ sơ.

Chính vì vậy, những quan điểm cho rằng, tham ô, tham nhũng, tiêu cực là “đặc trưng” ở Việt Nam, rằng Việt Nam “càng chống, tham nhũng càng nhiều” là kiểu lập luận quy chụp, phiến diện, võ đoán, cố tình “đánh bùn sang ao” nhằm gây rối an ninh chính trị, phá hoại, kìm hãm sự phát triển của đất nước.

Nhìn từ vụ án xét xử Trương Mỹ Lan và đồng phạm cũng như tinh thần kiên trì, kiên quyết, không có vùng cấm, không có ngoại lệ... trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực hiện nay giúp cán bộ, đảng viên và công dân yêu nước củng cố lòng tin, kiên định với mục tiêu, chiến lược, sách lược của Đảng. Với phương châm lấy phòng ngừa là chính, “chặt cành để cứu cây”, “trị một người để cứu muôn người”..., tính nghiêm minh của pháp luật và tinh thần nhân văn xã hội chủ nghĩa trong quan điểm của Đảng đã và đang phát huy mạnh mẽ hiệu lực, hiệu quả chấn hưng, cảnh tỉnh, răn đe trong môi trường đầu tư và đời sống xã hội.

Thông qua đó, giúp chúng ta nhận diện rõ hơn những âm mưu, thủ đoạn nham hiểm của các thế lực thù địch để có tinh thần, thái độ, phương pháp đấu tranh mạnh mẽ, hiệu quả. Mỗi cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, nòng cốt là đội ngũ cán bộ, đảng viên, người đứng đầu..., cần thống nhất nhận thức, tuyệt đối không nghe theo, hùa theo những luận điệu xuyên tạc, phản động.

Bên cạnh đó, cần lên tiếng đấu tranh trên không gian mạng, thông qua các nền tảng mạng xã hội, vạch trần, lật tẩy, chỉ rõ những luận điệu xuyên tạc mang ý đồ đen tối của các thế lực thù địch, góp phần lành mạnh hóa môi trường truyền thông, bảo vệ vững chắc đường lối, chủ trương, nền tảng tư tưởng của Đảng.

PHAN NGUYỄN

Nhận diện mưu đồ chống phá dưới chiêu bài “tù nhân lương tâm”, “nhà hoạt động nhân quyền”, “người bất đồng chính kiến”

Thứ Hai, 08/04/2024, 07:08

Để chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam, nhiều tổ chức, cá nhân luôn tuyên truyền cái gọi là “tù nhân lương tâm”, “nhà hoạt động nhân quyền” hay “người bất đồng chính kiến” nhằm vu cáo, xuyên tạc tình hình nhân quyền tại Việt Nam, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc...

Mới đây, ngày 7/3/2024, cơ quan An ninh điều tra Công an Hà Nội đã thi hành lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh khám xét đối với đối tượng Nguyễn Chí Tuyến (SN 1974, trú tại quận Long Biên, Hà Nội) và đối tượng Nguyễn Vũ Bình (SN 1968, trú tại quận Hai Bà Trưng, Hà Nội) để điều tra về tội “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống lại Nhà nước” theo Điều 117, Bộ luật Hình sự năm 2015. Trước sự việc trên, các đối tượng chống phá tiếp tục tuyên truyền xuyên tạc với chiêu bài dân chủ, nhân quyền nhằm làm nóng dư luận, đánh tráo bản chất, bôi nhọ chính quyền.

Chiêu trò mập mờ đánh lận

Việc những đối tượng trên bị tạm giam giống như “miếng mồi” béo bở cho các tổ chức, cá nhân chống phá thực hiện các hoạt động vu cáo, xuyên tạc tình hình nhân quyền ở Việt Nam. Trang VOA Tiếng Việt đăng bài nêu, tổ chức Ủy ban Bảo vệ Ký giả (CPJ) yêu cầu chính quyền Việt Nam trả tự do cho hai blogger độc lập Nguyễn Chí Tuyến và Nguyễn Vũ Bình. Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (Human Rights Watch - HRW) từng công bố báo cáo tổng kết toàn cầu về tình hình nhân quyền trên thế giới năm 2023 với những thông tin sai lệch, xuyên tạc tình hình nhân quyền tại Việt Nam, nay lại tiếp tục đưa bài viết lên án việc cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố, bắt tạm giam hai đối tượng trên. Trang BBC Tiếng Việt với bài viết “Làn sóng đàn áp mới khi Việt Nam vẫn muốn có ghế ở Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc” với lời lẽ vu cáo, miệt thị. Trên mạng xã hội của các tổ chức, cá nhân đội lốt dân chủ, nhân quyền trở lại điệp khúc lên án, chỉ trích cùng những bài viết có tính áp đặt, can thiệp công việc nội bộ của cơ quan tư pháp Việt Nam.

Với việc đưa ra những thông tin xuyên tạc, vu cáo nhằm chính trị hóa vụ án hình sự là điều dễ nhận thấy trong các chiêu trò chống phá của các thế lực thù địch về tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Việc gắn những ngôn từ mà họ thường xướng lên như “tù nhân lương tâm”, “đàn áp tiếng nói bất đồng” phản ánh cách tư duy ngụy biện, không có cơ sở pháp lý. Bởi, trong nền tư pháp Việt Nam không có thuật ngữ “tù nhân lương tâm”, “nhà hoạt động nhân quyền”, “người bất đồng chính kiến”… Mục đích chính của việc gắn mác trên nhằm biến các đối tượng vi phạm pháp luật, phạm tội thành những “ngọn cờ” đấu tranh cho cái gọi là dân chủ, nhân quyền, từ đó hậu thuẫn, kích động các đối tượng chống phá trong nước, xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta… Đây là một âm mưu, thủ đoạn nguy hiểm của các thế lực thù địch, phản động nhằm đánh lừa dư luận trong nước và quốc tế; cổ xúy, hậu thuẫn, hỗ trợ cho số đối tượng chống đối, phá hoại công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.

Phải thừa nhận rằng, “tù nhân lương tâm”, “nhà hoạt động nhân quyền”, “người bất đồng chính kiến” thực sự là một cái mác dễ khơi gợi lòng trắc ẩn trong công chúng. Có lẽ đó cũng là lý do ngày càng có nhiều đối tượng sau khi vi phạm và bị xử lý theo luật pháp Việt Nam, được các đối tượng dựng lên như những “tù nhân lương tâm”, tiếp tục trở thành công cụ để các thế lực thù địch vu cáo, bịa đặt về tình hình nhân quyền ở Việt Nam như Cấn Thị Thêu, Đoàn Khánh Vinh Quang, Trịnh Bá Phương, Nguyễn Văn Hoá, Nguyễn Văn Túc, Lê Đình Lượng... Đây đều là những đối tượng thực hiện các hành vi tán phát thông tin, tài liệu chống phá Đảng, Nhà nước, lợi dụng danh nghĩa đấu tranh dân chủ, nhân quyền để phạm tội.

Từ những thông tin trên cho thấy, để thực hiện các hành vi can thiệp vào công việc nội bộ cũng như đưa ra các thông tin xuyên tạc tình hình nhân quyền tại Việt Nam, các thế lực phản động, thù địch luôn tìm cách cổ xúy các đối tượng bất mãn, cơ hội chính trị trong nước, kích động số này gây rối xã hội, chống phá chế độ, xâm phạm an ninh quốc gia. Từ đó tạo thêm vây cánh và nhân rộng “chân rết” phục vụ cho những hành động chống phá Việt Nam thông qua các vấn đề về tự do, tôn giáo và nhân quyền, tiến tới thực hiện “cách mạng màu” bạo loạn và lật đổ chính quyền.

Sự thật về cái gọi là “tù nhân lương tâm”, “nhà hoạt động nhân quyền”, “người bất đồng chính kiến”…

Tự do, dân chủ, nhân quyền là giá trị mang tính phổ quát toàn cầu, mỗi quốc gia tùy theo đặc điểm văn hóa và thể chế chính trị sẽ có quan điểm, góc nhìn và cách tiếp cận khác nhau về quyền con người. Vì thế, việc áp đặt quan điểm của nước này vào nước khác là không phù hợp, đó cũng được coi là hành động can thiệp vào công việc nội bộ của một quốc gia có chủ quyền. Vì vậy, việc một số tổ chức tự đề ra báo cáo nhân quyền là việc làm mang ý đồ chính trị, họ đã tự khoác cho mình chiếc áo nhân quyền để lấy cớ can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Đây là những hành vi cần lật tẩy, lên án trước dư luận và cộng đồng quốc tế.

Liên quan vấn đề này, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã nhiều lần nêu rõ: Ở Việt Nam không có cái gọi là “tù nhân lương tâm”, không có việc những người vì tự do bày tỏ chính kiến mà bị bắt giữ. Như tại các quốc gia khác trên thế giới, ở Việt Nam, mọi hành vi vi phạm pháp luật đều bị xử lý nghiêm theo đúng các quy định của pháp luật. Bảo đảm và thúc đẩy các quyền con người là chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam, được thực hiện phù hợp với Hiến pháp và pháp luật Việt Nam cũng như các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Những nỗ lực và thành tựu của Việt Nam về bảo đảm và thúc đẩy quyền con người thời gian qua đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận rộng rãi.

Quan điểm trên là rất rõ ràng, khách quan, Việt Nam không có việc bắt bớ, đàn áp cái gọi là “tù nhân lương tâm”, “nhà hoạt động nhân quyền”, “người bất đồng chính kiến”... Những trường hợp bị khoác danh nghĩa nói trên thì thực chất là các đối tượng phạm tội, đã thực hiện hành vi xâm phạm các quan hệ xã hội mà pháp luật hình sự bảo vệ. Các đối tượng bị xử lý hình sự mà một số tổ chức quốc tế thiếu thiện chí, các phần tử phản động, cơ hội chính trị rêu rao “tù nhân lương tâm” thì không liên quan gì “lương tâm” cả khi họ đã thực hiện hành vi xâm phạm an ninh quốc gia, gây nguy hiểm cho xã hội, cho cộng đồng. Cũng như mọi quốc gia độc lập, có chủ quyền trên thế giới, Việt Nam tôn trọng, bảo đảm các quyền cơ bản của con người bằng hệ thống luật pháp cũng như áp dụng trên thực tế. Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân nhưng không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác... Những hành vi tuyên truyền xuyên tạc, bịa đặt, kích động vi phạm pháp luật, chống phá Nhà nước; tổ chức hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân đều bị xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật nhằm giữ gìn an ninh trật tự, ổn định chính trị - xã hội.

Điểm chung của các vụ việc này là đều được xử lý dựa trên luật pháp hiện hành, trên tinh thần thượng tôn pháp luật. Vậy nên, cái gọi “tù nhân lương tâm”, “nhà hoạt động nhân quyền”, “người bất đồng chính kiến” thực chất chỉ là một thuật ngữ hết sức mập mờ được tạo ra nhằm đánh lạc hướng, thậm chí đầu độc dư luận, khiến họ khó có thể phân biệt đâu là những người hoạt động vì nhân quyền đích thực, đâu là những đối tượng sử dụng con bài nhân quyền nhằm mục đích gây rối, phá hoại. Việc hai đối tượng Nguyễn Chí Tuyến, Nguyễn Vũ Bình bị khởi tố, tạm giam để điều tra cũng như quá trình xử lý các đối tượng phạm pháp trước đó về hành vi tương tự là việc làm cần thiết của các cơ quan tiến hành tố tụng, đảm bảo theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn coi trọng và đảm bảo quyền con người, quyền công dân. Một tổ chức phi chính phủ hay một quốc gia dù lớn mạnh cỡ nào cũng không có quyền can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác và càng không thể gây sức ép với nước khác bằng những nhận xét về tình hình tự do, nhân quyền một cách áp đặt, chủ quan, sai lệch. Nhân dân Việt Nam đã và đang được sống trong một đất nước tự do, độc lập, trong đó những quyền cơ bản của con người được tôn trọng và bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật. Mọi sự đánh giá từ các tổ chức quốc tế tự xưng về nhân quyền hay các thế lực từ bên ngoài không làm thay đổi bản chất thực tế, bởi chỉ có người dân sống trên Tổ quốc này mới cảm nhận rõ những thành quả mà họ đang thụ hưởng.

Đương nhiên, cũng như nhiều quốc gia khác, kể cả các nước tiên tiến, việc đảm bảo về nhân quyền luôn là quá trình phấn đấu, từng bước hoàn thiện. Quá trình thực hiện không tránh khỏi những tồn tại, hạn chế nhưng khi đánh giá cần cách nhìn khách quan, không thể xoáy vào những hạn chế đó để đánh đồng, quy chụp “bức tranh nhân quyền” xám xịt như luận điệu của những kẻ chống phá. Do vậy, mỗi người cần nâng cao nhận thức, tỉnh táo, cảnh giác trước cái gọi là “tù nhân lương tâm”, “nhà hoạt động nhân quyền”, “người bất đồng chính kiến”; từ đó góp phần đấu tranh làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động nhằm bảo vệ sự ổn định chính trị, tăng cường sự đồng thuận trong xã hội.

Liêm Chính - Bình Nguyên

Bài cuối: Phá tan kế hoạch ly khai ngông cuồng

Thứ Sáu, 05/04/2024, 08:03

Việc người Mông bị kẻ xấu xúi giục và các thế lực thù địch dụ dỗ thuyết phục xưng vua, đòi lập Vương quốc Mông đã có từ thời những năm đầu thập kỷ 80 nhưng rộ nhất là từ 1986. Ngày đấy ở bản người Mông nào xì xầm chuyện sắp có vua Mông Vàng Chứ.

Bà con người Mông râm ran kháo nhau rằng đi theo Vàng Chứ thì sẽ có nhà cao cửa rộng, sẽ không phải làm gì mà cũng có ăn, rồi tha hồ được đi Thái Lan, đi cả Mỹ. Thậm chí nói rằng đi theo Vàng Chứ sẽ trở thành người Giời, biết bay…

Nghèo khó… ló nổi loạn

Thời đó, tỉnh Lai Châu chưa chia tách làm 2 như hiện nay. Đó là một tỉnh rộng nhất Việt Nam nhưng cũng nghèo nhất Việt Nam. Nghèo đến mức độ mà ở một số nơi như huyện Mường Tè, cứ vào trước mùa mưa, Nhà nước lại phải tổ chức lập “cầu hàng không” chở gạo, muối, dầu hoả, thuốc men và các loại hàng hoá thiết yếu khác đến hỗ trợ bộ đội, công an, giáo viên và bà con ở các xã vùng ngã ba biên giới Việt - Trung - Lào. Thậm chí, bà con một số xã huyện Mường Tè được cấp không muối, dầu hoả và vải mặc. Năm 1984, tôi đi bộ từ huyện lỵ Mường Tè lên xã Sín Thầu mất đúng 7 ngày. Ngày nào đi ngắn thì khoảng 25 cây số, còn ngày đi chặng dài nhất là gần 60 cây…

Bài cuối: Phá tan kế hoạch ly khai ngông cuồng -0
Trung tướng Tô Lâm, Thứ trưởng Bộ Công an chỉ đạo phương án giải quyết điểm nóng Mường Nhé (tháng 5/2011).

Trong bối cảnh người Mông đang đua nhau theo Vàng Chứ thì Công an tỉnh Lai Châu ngày ấy do Thiếu tướng Nguyễn Trọng Tháp làm Giám đốc đã phải rất vất vả để ngăn chặn. Người có công đầu trong việc vận động bà con người Mông không nghe lời kẻ xấu là Phó Giám đốc Giàng Páo Ly.

Ông Giàng Páo Ly là người Mông, đi Công an vũ trang (nay là Bộ đội Biên phòng) từ năm 1959, ông là chiến sĩ Công an vũ trang đầu tiên của người Mông được gặp Bác Hồ. Ông còn là người nổi tiếng khi sáng tác bài hát “Anh lại về” mà rất nhiều cán bộ Công an thế hệ sau vẫn còn đang nhớ. Bài hát có câu: “Cầu mùng, cầu cháo lù/Cầu mùng cầu cháo lu…”. Nghĩa là “anh bộ đội ơi, anh công an ơi, anh đi rồi anh lại về, anh về với bản của mình nhé…”. Phó Giám đốc Giàng Páo Ly có biệt tài nói chuyện với người Mông và cách xử lý của ông bao giờ cũng được bà con tâm phục khẩu phục...

Bà con người Mông sống nghĩa hiệp nhưng rất cả tin và hay có cái lý sự riêng của mình. Họ không ưa nói dài dòng văn tự, lý thuyết suông mà ưa dẫn chứng bằng những hình tượng cụ thể, dễ hiểu. Chính vì vậy, mà cán bộ làm công tác vận động quần chúng với người Mông phải “có duyên”, phải nói tiếng nói và tư duy theo kiểu người Mông.

Trở lại vụ Huổi Khon, vào những ngày cuối tháng 4/2011, tại huyện Mường Nhé, tình hình căng như dây đàn. Đã có nhiều phương án dẹp vụ bạo loạn này được đặt ra, trong đó đáng chú ý nhất là phương án dùng Bộ đội đặc công đột nhập vào bắt những tên cầm đầu. Tuy nhiên trở ngại lớn nhất là các đối tượng cầm đầu nhóm “6 sao” di chuyển liên tục. Còn anh em đặc công hầu hết là người Kinh, không ai biết tiếng dân tộc là người Mông thì làm sao biết đứa nào cầm đầu, đứa nào không.

05a - chính quyền tỉnh điện biên hỗ trợ phương tiện đưa nhân dân trở về nơi ở cũ.jpg -0
Lực lượng Công an và chính quyền tỉnh Điện Biên hỗ trợ phương tiện đưa người dân trở về nơi ở cũ.

Lại có một phương án nữa đó là dùng Cảnh sát cơ động của Bộ Công an và Công an tỉnh tấn công tổng lực vào Huổi Khon nhưng phương án này dễ gây đổ máu và lãnh đạo Bộ Công an luôn nhất quán chỉ đạo phải bảo đảm an toàn cho người dân và lực lượng làm nhiệm vụ…

Trong lúc còn đang bàn tính, thì tên cầm đầu nhóm “6 sao” là Vàng Ía đề nghị được đối thoại với Chủ tịch UBND tỉnh Mùa A Sơn. Nhận được thông tin này, sau khi bàn bạc kĩ với lực lượng chức năng, anh Mùa A Sơn quyết định đi cùng hai cán bộ Công an không mang theo vũ khí vào gặp bọn chúng.

Buổi gặp gỡ diễn ra khá bất ngờ, các đối tượng nhóm “6 sao” tỏ ra khá ôn hoà nêu những yêu sách của chúng. Đó là phải để cho người Mông thành lập vương quốc riêng, bao gồm toàn bộ các tỉnh Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, một phần của Hòa Bình, một phần Thanh Hoá và cả bốn huyện biên giới Hà Giang là Đồng Văn, Mèo Vạc, Hoàng Su Phì, Xín Mần.

Chủ tịch Mùa A Sơn đã đối thoại với chúng bằng tiếng Mông. Anh khuyên giải chúng nếu có đề nghị gì thì cứ bình tĩnh để lãnh đạo tỉnh trình lên Trung ương xem xét, còn việc quan trọng nhất bây giờ là phải để Hội Chữ thập đỏ của tỉnh mang nước uống, thuốc men và thực phẩm vào cho người già và con trẻ. Chủ tịch tỉnh cũng nói dứt khoát: “Nếu để một người bị ốm chết ở Huổi Khon thì chính quyền sẽ xử lý các anh”.

Cuộc gặp gỡ kéo dài khoảng một tiếng rưỡi đồng hồ thì nhóm cầm đầu để Chủ tịch Mùa A Sơn trở về an toàn.

Tháo ngòi nổ “quả bom Mường Nhé”

Ngày 4/5/2011, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cùng một số đồng chí lãnh đạo các bộ, ngành Trung ương đi trực thăng lên Mường Nhé. Trung tướng Tô Lâm, Thứ trưởng Bộ Công an (hiện là Đại tướng, Bộ trưởng) đã có mặt trước khi Thủ tướng lên, cùng với một trung đoàn Cảnh sát cơ động do Thiếu tướng Nguyễn Văn Vượng - Tư lệnh Cảnh sát cơ động chỉ đạo trực tiếp.

Sau khi nghe Bộ Công an, Công an tỉnh báo cáo, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kết luận: Phải giải quyết xong vụ bạo loạn này trước ngày 20/5/2011 vì đó là ngày bầu cử toàn quốc nên không thể kéo dài. Trong phương án giải quyết, dứt khoát không được đụng độ với dân và Thủ tướng nói thẳng quan điểm để bà con nghe theo lời kẻ xấu dẫn đến thế này, chính quyền cũng có lỗi. Thủ tướng cũng giao việc giải quyết vụ bạo loạn này cho Bộ Công an giải quyết chính và yêu cầu chở gấp lên lương thực, thực phẩm để giúp bà con.

Bài cuối: Phá tan kế hoạch ly khai ngông cuồng -0
Chính quyền tỉnh Điện Biên hỗ trợ kinh phí giúp người dân trở về nơi ở cũ.

Trước khi lên máy bay về Hà Nội, Thủ tướng còn nhắc lại yêu cầu: “Trừng trị bọn cầm đầu nhưng phải bảo vệ dân”. Sau khi có sự chỉ đạo của Thủ tướng và lãnh đạo Bộ Công an, Công an tỉnh dưới sự chỉ đạo trực tiếp lúc này của Thứ trưởng Tô Lâm, đã xây dựng một kế hoạch hết sức tỉ mỉ, cụ thể và tính toán đến từng chi tiết nhỏ nhất.

Cũng qua các công tác nghiệp vụ, Công an tỉnh Điện Biên xác định được bọn cầm đầu có rất ít vũ khí nóng, mà chủ yếu là dao, gậy và nỏ. Anh em trinh sát cũng đã đánh giá được sự nguy hiểm của những tên cầm đầu “có mức độ”… Tuy nhiên điều làm Trung tướng Tô Lâm và lãnh đạo Công an tỉnh Điện Biên lo lắng đó là tình trạng mất vệ sinh, thiếu đồ ăn, nước uống đang rất trầm trọng. Đã có một số trẻ em, người già bị ốm, suy kiệt.

Ngày 6/5/2011, Công an tỉnh Điện Biên cử hai cán bộ vào “đàm phán” với nhóm “6 sao” về việc để tổ chức Hội Chữ Thập Đỏ của tỉnh mang lương thực, nước uống vào cho bà con, và khám bệnh phát thuốc. Sau một hồi suy nghĩ bọn chúng đồng ý nhưng với điều kiện chỉ cho 10 người vào, còn lương thực, thực phẩm xếp ngoài hàng rào dây thép gai, chúng sẽ cho người ra lấy. Sau khi giải thích mãi, chúng đồng ý cho 15 người.

Phương án tác chiến đặt ra là khi Hội Chữ Thập Đỏ lọt qua được hàng rào thì lập tức khống chế ngay những tên có mặt ở đấy và phá bung hàng rào để lực lượng phía sau ập vào... Bên cạnh xây dựng kế hoạch tác chiến, Trung tướng Tô Lâm cũng chỉ đạo phải làm ngay phương án “hậu chiến” là đưa bà con trở về quê cũ. Thế là hàng chục xe khách được huy động, trên xe có sẵn bánh mì, nước uống, có cả nhân viên y tế của tỉnh, huyện, bộ đội quân y đi cùng.

 Đúng 9h30 sáng ngày 6/5/2011, cuộc tấn công được bắt đầu.

Trung tướng Tô Lâm đích thân chỉ huy tại Sở Chỉ huy cách Nậm Kè chỉ chưa đầy cây số. Còn Thiếu tướng Nguyễn Văn Vượng thì trực tiếp chỉ huy Cảnh sát đặc nhiệm. Ở phía dưới chân đồi cách xa khoảng hơn một cây số, 200 Cảnh sát đặc nhiệm ngồi sẵn trên các xe chờ lệnh. Còn các nữ Cảnh sát đặc nhiệm thì mặc trang phục quần áo blu trắng như nhân viên y tế, nhân viên Hội Chữ thập đỏ và đi trên hai xe tải nhẹ chở mì tôm, nước uống đến xếp ngoài phía hàng rào.

Bọn cầm đầu cho người ra kiểm tra từng nhân viên “Chữ thập đỏ” xem có mang vũ khí không và khi thấy tất cả chỉ đi tay không, hoặc mang theo ống nghe khám bệnh thì chúng yên tâm hẳn. Khi cả đội qua được hàng rào thì ngay lập tức, lệnh tấn công được phát ra. Các nữ Cảnh sát đặc nhiệm và cả anh em lái xe, nhân viên y tế quật ngã ngay những đứa ở hàng rào. Anh chị em hành động nhanh đến mức có tên còn bảo: “Ấy, ấy, đừng có đùa thế!”, và không tên nào chạy được hai chục mét.

Bài cuối: Phá tan kế hoạch ly khai ngông cuồng -0
Được tuyên truyền, giáo dục, nhận thức rõ sai lầm, một đối tượng trong nhóm cầm đầu bất ngờ thuyết phục người dân quay về nơi ở cũ, không tụ tập gây mất ANTT. 

Những kẻ nổi loạn làm nhiệm vụ bảo vệ ở hàng rào hoàn toàn không phải là đối thủ của Cảnh sát đặc nhiệm. Cuộc tấn công diễn ra chớp nhoáng chỉ khoảng vài phút, hơn chục tên ngoan cố bị khóa tay, hàng rào được mở toang. Từ dưới chân đồi, các xe chở Cảnh sát đặc nhiệm vùn vụt lao lên. Khi xe đến nơi, các Cảnh sát đặc nhiệm trong vai nhân viên Hội Chữ thập đỏ được sự dẫn đường của một cơ sở đã lao thẳng vào phía lán của bọn cầm đầu. Bà con từ các lán cũng ùa ra và thay vì “bảo vệ” bọn cầm đầu thì lại mau mắn chỉ cho cảnh sát nơi trú ngụ của chúng… Hóa ra là những ngày qua, bà con cũng đã quá cơ cực vì phải sống chui rúc trong những căn lều tạm bợ, thiếu thốn từng cốc nước. Và họ cũng nhận ra đã bị bọn “6 sao” lừa bịp… Nhưng muốn về cũng không được vì chúng đe dọa sẽ giết những ai bỏ trốn. Bây giờ có Công an đến, bà con nhận thấy cơ hội giải thoát đã tới nên nhất nhất nghe theo chỉ dẫn của Công an.

Cuộc tấn công của Cảnh sát cơ động vào Huổi Khon diễn ra khá nhanh chóng. Chỉ sau nửa giờ, toàn bộ những tên cốt cán của nhóm “6 sao” đã bị bắt giữ. Và không có một ai bị thương…

Những người dân nhẹ dạ được đưa xuống chân đồi và ở đây, đã có hàng chục xe chở khách xếp hàng sẵn. Ai lên xe thì được phát bánh mì, nước uống và kèm theo cả… phong bì! Khỏi phải nói là bà con mừng đến như thế nào.

Lời kết

Gần đây, tôi cùng đoàn công tác xã hội từ thiện của Công ty Thời Mới và Phòng Công tác Đảng và công tác chính trị Công an tỉnh Điện Biên mang hơn 300 phần quà Tết lên tặng bà con nghèo Huổi Khon. Tình hình ANTT của xã bây giờ đã tốt. Người Mông ở đây đã rất yên tâm sản xuất, tuy cuộc sống vẫn còn khó khăn…

Và khi nhìn lại cách giải quyết vụ bạo loạn Huổi Khon thì mới thấy lực lượng Công an đã hết sức đúng đắn về cách xử lý điểm nóng và quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ… Quan trọng nhất là lãnh đạo Bộ Công an và Công an tỉnh luôn lấy việc bảo đảm an toàn cho người dân làm tiêu chí đầu tiên và đã kết hợp khéo léo, nhuần nhuyễn giữa các mặt công tác nghiệp vụ; làm tốt công tác vận động quần chúng… Việc giải quyết dứt điểm vụ bạo loạn Huổi Khon là một bài học quý trong công tác bảo đảm an ninh ở cơ sở trong bối cảnh hiện nay.    

Nguyễn Như Phong 

Bài 1: Bí ẩn lá cờ có ngôi sao 6 cánh

Thứ Năm, 04/04/2024, 07:21

Trong trang sử vàng của mình, lực lượng Công an tỉnh Lai Châu (cũ) và Công an tỉnh Điện Biên hôm nay đã có những đóng góp xứng đáng vào thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ vào việc giữ gìn an ninh chính trị, bảo đảm trật tự an toàn xã hội vùng đất Tây Bắc của Tổ quốc. Đặc biệt, vào tháng 5/2011, dưới sự chỉ đạo của Bộ Công an, các đơn vị nghiệp vụ An ninh, Cảnh sát và Công an tỉnh Điện Biên đã giải quyết thành công vụ bạo loạn với hàng chục đối tượng chủ mưu lôi kéo hàng ngàn người Mông tập trung chống phá, âm mưu “ly khai, lập quốc” ở huyện Mường Nhé.

Nhân kỷ niệm 70 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Báo CAND trân trọng giới thiệu loạt bài Dập tắt âm mưu lập “Vương quốc Mông” ở Mường Nhé của nhà báo Nguyễn Như Phong.

Đó là một buổi trưa tháng 4/2011. Hôm ấy gió Lào thổi như bão, nóng hầm hập. Thượng tá Tráng A Tủa, Trưởng phòng Phòng Chống phản động và chống khủng bố, nay là Phòng An ninh nội địa, Công an tỉnh Điện Biên (anh Tủa hiện là Thiếu tướng, Cục trưởng Cục Xây dựng phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, Bộ Công an) vừa đi công tác về, chưa kịp ăn cơm thì có điện thoại. Nhìn số máy, anh biết đó là điện thoại của một người là cơ sở...

Bài 1:  Bí ẩn lá cờ có ngôi sao 6 cánh -0
Trung tướng Tô Lâm, Thứ trưởng Bộ Công an (nay là Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Công an) thị sát thực địa vụ tụ tập trái phép tại bản Huổi Khon, xã Nậm Kè, huyện Mường Nhé năm 2011.

Cuộc điện thoại mật báo

Từ đầu dây đằng kia, có tiếng gấp gáp: “Anh Tủa ơi, bọn thằng Và, thằng Ía nó sắp nổi loạn rồi. Chúng nó lập Vương quốc Mông ở chỗ Nậm Kè - Mường Nhé ấy”. Anh Tủa hỏi lại: “Bao giờ chúng bắt đầu?”. “Em không biết ngày nào nhưng hôm nay đã bắt đầu kéo người về bản Huổi Khon rồi”. Tráng A Tủa hỏi lại: “Chúng có vũ khí không?”. “Em không biết”. Tráng A Tủa vội vàng hỏi lại ngay: “Em có đi cùng chúng nó không?”. Tiếng người đầu dây bên kia nói vẻ sợ sệt: “Em có đi nhưng nghe nói chúng sẽ thu hết điện thoại và em thì không được đến gần thằng Và đâu. À, cứ đứa nào cầm lá cờ có ngôi sao 6 cánh là bọn chúng đấy”.

 Anh Tủa vội vàng nói thêm: “Em cố gắng theo dõi và cho anh biết kịp thời nhé. Anh sẽ cử người liên lạc với em và bảo vệ em”. Tiếng người đầu dây bên kia hốt hoảng: “Ối anh ơi không được đâu”, rồi tắt máy…

Ngay lập tức, Tráng A Tủa lên báo cáo đồng chí Giám đốc và ngay sau đó, một cuộc họp khẩn của Ban Giám đốc cùng các phòng nghiệp vụ của Công an tỉnh Điện Biên được tổ chức.

Tại cuộc họp, mọi thông tin được kiểm tra và Trưởng Công an huyện Mường Nhé báo cáo qua điện thoại thì đúng là có hiện tượng người Mông từ các nơi đang ùn ùn kéo về khu vực Mường Nhé. Cảnh sát giao thông cũng báo cáo là có hiện tượng nhiều người Mông đi trên các chuyến xe khác từ Sơn La, Lào Cai kéo sang Điện Biên.

Đối với lãnh đạo Công an tỉnh Điện Biên thì việc một số đối tượng người Mông âm mưu thành lập Vương quốc Mông là điều mà các anh đã biết từ lâu và Công an tỉnh cũng xác lập một chuyên án. Diễn biến của chuyên án tương đối thuận lợi. Số lượng những tên cầm đầu cũng như lai lịch của chúng đã đầy đủ trong hồ sơ chuyên án. Trong đó, có những kẻ đang ở bên nước ngoài. Cũng có đối tượng ở Hòa Bình, Sơn La, Lào Cai, thậm chí ở cả miền Tây Nghệ An và Xiêng Khoảng (Lào). Từ lâu, lực lượng An ninh nội địa của Công an tỉnh Điện Biên đã có tài liệu về nhóm “6 sao”, với âm mưu thành lập Vương quốc Mông. Sở dĩ gọi đây là nhóm “6 sao” là vì chúng dùng lá cờ có ngôi sao 6 cánh để làm biểu tượng. Chúng lý giải: “Cờ của Việt Nam là ngôi sao vàng 5 cánh, thì cờ của chúng tao phải là… 6 cánh”. Nhưng rồi lại có một nhóm phân hóa, làm lá cờ có ngôi sao 7 cánh cho “oai hơn” cờ sao 6 cánh.

Sau khi nghe các đơn vị nghiệp vụ báo cáo, Ban Giám đốc Công an tỉnh đã có những chỉ đạo quyết liệt, cụ thể; đồng thời báo cáo khẩn cấp về Bộ.

Thời điểm đó là vào ngày 20/4/2011.

Bài 1:  Bí ẩn lá cờ có ngôi sao 6 cánh -0
Cấp ủy, chính quyền địa phương phát loa vận động người dân không nghe theo lời kẻ xấu, trở về quê cũ sinh sống.

Điểm nóng Mường Nhé

Những ngày sau đó, xã Nậm Kè của huyện Mường Nhé bỗng trở nên nóng khác thường. Bà con người Mông từ khắp nơi ùn ùn kéo về. Chỗ nào đi được xe máy thì họ đi, gặp các chốt chặn của lực lượng Cảnh sát giao thông, họ vứt luôn xe máy và băng rừng cuốc bộ.

Xã Nậm Kè nằm cách thị trấn huyện Mường Nhé hơn 30 cây số; có 12 bản và số dân thời điểm này khoảng 4.700 người, chủ yếu là người dân tộc Mông và Sán Chỉ. Ngoài người Mông chiếm chủ yếu, ở xã còn có người Thái, người Dao; người Si La; người Sán Chỉ; người Pu Péo… Những người Mông ở 8 bản của Nậm Kè gần như sống cách biệt với cộng đồng, thậm chí chính quyền xã cũng “khó quản” được họ. Một số người dân lấy cái lý rằng: “Nhà nước bảo đất đai này là của toàn dân nhé, nên tao thích ở đâu thì ở, tao thích làm gì thì làm”. Từ cái “lý” như vậy nên người Mông ở Huổi Khon tỏa đi khắp nơi du canh, du cư, họ còn sang vùng ngã ba Tam giác vàng ở tỉnh Bò Kẹo bên Lào để “làm ăn”.

Cuối tháng 4/2011, người Mông ùn ùn đổ về Nậm Kè. Họ dựng lều bằng đủ các loại vải nhựa, bao tải… Trên những quả đồi thấp ở khu vực bản Huổi Khon cách trung tâm xã khoảng một cây số không thể đếm được có bao nhiêu người và bao nhiêu lều. Những kẻ cầm đầu đã chọn ở Huổi Khon là khá thông minh bởi lẽ ở đây có đường núi đi xã Pá Mì, có đường thông sang xã Nậm Vỳ, xã Tà Tổng của huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu. Mà đường đi Tà Tổng thì chỉ có đi bộ, không có loại xe cộ nào có thể đi được. Từ Nậm Kè đi Tà Tổng phải băng, leo những con dốc như dốc Nậm Xả dài 7 km rồi dốc Tà Tổng dài như đèo Pha Đin.

Ở các con đường ôtô có thể đi được, Cảnh sát giao thông và Cảnh sát cơ động đặt barie và kiểm soát người. Nếu là người Mông thì kiểm tra giấy tờ tùy thân và khuyên giải họ quay trở về. Nhưng biện pháp này không mấy hiệu quả; không cho đi thì họ lập tức gồng gánh nồi niêu xoong chảo và vật dụng cần thiết đi bộ về Huổi Khon. Với người Mông, một ngày đi bộ được khoảng 50 đến 60 cây số là chuyện bình thường.

Bài 1:  Bí ẩn lá cờ có ngôi sao 6 cánh -0
Nhẹ dạ nghe lời kẻ xấu, nhiều người dân rời bỏ nhà cửa, ruộng nương tụ tập tại Mường Nhé từ giữa tháng 4/2011.

Cùng lúc đó, một số cán bộ chủ chốt của huyện Mường Nhé liên tục nhận được những tin nhắn từ số máy lạ là người Mông đã nổi dậy thành lập Vương quốc Mông. Rồi người ta đồn thổi, truyền tai nhau những thông tin như sau khi thành lập Vương quốc Mông thì sẽ được người Mông ở Mỹ, Thái Lan, Myanmar và cả ở Trung Quốc trợ giúp. Vương quốc Mông sẽ lấy Mường Nhé làm thủ phủ và Vương quốc Mông mới này sẽ có diện tích trải dài từ một phần của tỉnh Hòa Bình, hết tỉnh Sơn La, toàn bộ tỉnh Điện Biên và khoảng một nửa tỉnh Lai Châu, nhưng Vua Mông mới là ai thì không biết.

Chỉ trong vòng ba ngày, hơn một vạn người Mông đổ về xã Nậm Kè và gây nên một cảnh hỗn loạn chưa từng thấy. Ngần ấy con người nhồi nhét trên dăm quả đồi lại cách xa nguồn nước thì quả là một điều hãi hùng.

Liên tiếp những cuộc họp do Thường vụ Tỉnh ủy, UBND tỉnh Điện Biên chủ trì được tổ chức. Nhiều phương án giải quyết được bàn bạc kĩ lưỡng. Tuy nhiên, trong lúc tỉnh chưa dứt khoát được phương án giải quyết thì đối tượng cầm đầu đã lên tiếng yêu cầu gặp trực tiếp Chủ tịch UBND tỉnh Mùa A Sơn...

(Còn tiếp)

Nguyễn Như Phong

Kiên trì, kiên định bảo vệ đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam - Bài 3: Ba điều cốt yếu để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ nhân dân (Tiếp theo và hết)

Thứ bảy, 06/04/2024 - 05:37

Để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đấu tranh vạch trần những luận điệu xuyên tạc, giả dối, gạt bỏ những luồng thông tin xấu độc làm ô nhiễm môi trường tinh thần của xã hội, chúng ta cần giữ vững niềm tin khoa học, bồi dưỡng tình cảm cách mạng và trau dồi bản lĩnh chính trị. Đó là ba điều cốt yếu để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ và bảo vệ nhân dân.

Giữ vững niềm tin khoa học

Niềm tin khoa học là niềm tin dựa trên cơ sở khoa học, nắm vững lý luận khoa học và cách mạng, hiểu biết quy luật để nhận thức đúng xu thế vận động, biến đổi và phát triển của lịch sử một cách tất yếu, khách quan.

Niềm tin khoa học không tự có sẵn, không hình thành dễ dàng chỉ một lần là xong và có mãi. Nhận thức là một quá trình, từ hiện tượng tới bản chất, từ đơn giản đến phức tạp, không ngừng khám phá, sáng tạo để nắm vững chân lý và hành động tự giác theo chân lý, theo quy luật.

Niềm tin khoa học do đó gắn liền với trình độ học vấn, học thức, với sự trưởng thành của tư duy lý luận, của phương pháp tư duy khoa học. Con người ta không chỉ lĩnh hội tri thức trong sách vở, qua học tập, lại phải có nhu cầu tự học suốt đời, có thói quen tự tu dưỡng, tự rèn luyện như một nhu cầu văn hóa, để tự làm mới nhận thức của mình mà còn phải chú trọng thực hành trong thực tiễn. Hồ Chí Minh là một kiểu mẫu về tự học-học trong nhà trường, học qua sách vở và nhất là học trong trường đời thực tiễn, học dân, hỏi dân để hiểu dân, tin dân.

Để có niềm tin khoa học, niềm tin của trí tuệ, niềm tin được dẫn dắt và thúc đẩy bởi lý luận khoa học và cách mạng, vượt lên kinh nghiệm và chủ nghĩa kinh nghiệm thực dụng, thiển cận, tầm thường, tự thanh toán khỏi mình bệnh giáo điều, sách vở, chủ quan duy ý chí, bệnh hình thức, lý luận suông và cả thói coi khinh lý luận, tự trói buộc mình bởi chủ nghĩa kinh nghiệm... cần phải thực hành lý luận trong thực tiễn và từ thực tiễn mà kiểm chứng lý luận, phát hiện lý luận mới. Người có niềm tin khoa học là người có năng lực sáng tạo, có tinh thần đổi mới và tự đổi mới, nhạy cảm với cái mới, có đầu óc phê phán cái cũ lạc hậu, lỗi thời, cái sai trái, cái giả để khẳng định và tin theo cái đúng, cái tốt, cái thật. Như thế, niềm tin khoa học hội tụ cả năng lực khoa học, cả phẩm chất đạo đức và về mặt giá trị, đó là một giá trị văn hóa, hướng tới chân-thiện-mỹ.

Kiên trì, kiên định bảo vệ đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam - Bài 3: Ba điều cốt yếu để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ nhân dân (Tiếp theo và hết)
Ảnh minh họa. Nguồn: qdnd.vn 

 

Niềm tin khoa học mang sức mạnh của lý tính, lý trí, tỉnh táo, sáng suốt, được chứng thực, thử thách trong thực tiễn. Vào năm 1959, trong chuyến thăm Indonesia, nói chuyện trước giới trí thức khoa học tại trường đại học ở thủ đô Jakarta, Hồ Chí Minh khiêm tốn nói trước các học giả nước bạn về việc tự học của mình. Người khẳng định rằng, chính thực tiễn cuộc sống và trong đấu tranh cách mạng mà Người lĩnh hội được những tri thức đích thực. Đó là những tri thức đáng tin cậy nhất. Từ trong kháng chiến, khi viết các tác phẩm “Đời sống mới” và “Sửa đổi lối làm việc”, Người căn dặn chúng ta, về mặt giáo dục và nhà trường, “phải đặc biệt chú trọng dạy và học các môn khoa học về tinh thần và đạo đức”.

Thống nhất lý luận với thực tiễn, theo Hồ Chí Minh là bản chất tối cao của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Đó là bảo đảm chắc chắn để xây dựng niềm tin khoa học duy vật và biện chứng. Nhờ đó, không trì trệ, bảo thủ, chủ quan, tư biện mà cũng không cực đoan, siêu hình, không phiêu lưu mù quáng. Niềm tin khoa học là cơ sở của lòng trung thành xét về mặt lý luận, của tinh thần lạc quan cách mạng vì giác ngộ chân lý và quy luật, vững tin ở triển vọng tương lai ngay cả khi gặp khó khăn, thử thách. “Thắng không kiêu, bại không nản” là vì vậy. Khi khẳng định: “Ta nhất định thắng, địch nhất định thua”, “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”, Hồ Chí Minh thể hiện rõ rệt một niềm tin khoa học mãnh liệt và Người đã gieo niềm tin, truyền cảm hứng cho mỗi chúng ta. 

Chính nhờ vững vàng, kiên định niềm tin khoa học ấy mà chúng ta tin tưởng ở Đảng khi Đảng quyết định đổi mới và hội nhập. Vào lúc thử thách hiểm nghèo khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) Đông Âu đổ vỡ chế độ XHCN, Đảng ta nhanh chóng đưa ra Cương lĩnh 1991 thay Cương lĩnh 1951, lại được bổ sung phát triển ở Cương lĩnh 2011. Đảng ta khẳng định rằng dù có trải qua những bước quanh co phức tạp nhưng chủ nghĩa xã hội (CNXH) vẫn là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử loài người. Triển vọng tốt đẹp thuộc về CNXH chứ không phải chủ nghĩa tư bản, dù chủ nghĩa tư bản đã trở thành chủ nghĩa tư bản hiện đại. Tuyên bố chính trị đó của Đảng nhanh chóng trở thành ngọn cờ tập hợp các lực lượng cách mạng trong nước và có tầm ảnh hưởng quốc tế, củng cố niềm tin khoa học và niềm tự hào chính đáng của chúng ta về truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng. Với Đảng, nhờ có niềm tin khoa học mà Đảng ta giữ vững được phương hướng chính trị, có đường lối đúng, đưa nước ta vượt qua khủng hoảng, tồn tại và phát triển như ngày nay. Dân tin Đảng, niềm tin đó của dân được Đảng ta coi là tài sản vô giá phải giữ gìn và phát huy, không được suy giảm, càng không thể mất. Đó cũng là niềm tin khoa học và sự thủy chung của Đảng đối với nhân dân và dân tộc ta.

Văn kiện Đại hội XIII nêu cao khát vọng phát triển đất nước, khơi gợi và phát huy tinh thần cống hiến của mỗi người dân, tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh, coi trọng công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Đó là những quyết sách chiến lược vô cùng quan trọng và cần thiết. Đảng ta cũng nhấn mạnh phải đổi mới mạnh mẽ thể chế phát triển, để thực hiện thành công các đột phá chiến lược đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao. Niềm tin khoa học cho chúng ta sức mạnh để khát vọng đó trở thành hiện thực.

Bồi đắp tình cảm cách mạng

Có niềm tin khoa học là có cơ sở để nuôi dưỡng và rèn luyện tình cảm cách mạng. Đó là một trong những động lực tinh thần mạnh mẽ nhất thúc đẩy hành động cách mạng. Tình cảm cách mạng được xây dựng trên các chuẩn mực đạo đức cần, kiệm, liêm, chính để chí công vô tư, đặt việc nước, việc dân lên trên hết, trước hết.

Khi cách mạng và Đảng cần, mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng phải nêu cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, sẵn sàng hy sinh cả lợi ích và cuộc sống cá nhân riêng tư, vì sự nghiệp chung với tinh thần “dĩ công vi thượng” như Hồ Chí Minh nhấn mạnh. Còn nhớ, gần hai tháng trước khi mất, ngày 14-7-1969, trả lời phỏng vấn của nữ nhà báo Cuba-đồng chí Mácta Rôhát: “Đâu là điều thiêng liêng nhất?”, Người đã nói: “Tôi hiến cả đời tôi cho dân tộc tôi”. Đó là lẽ sống cao thượng được thúc đẩy suốt đời bởi tình cảm cách mạng của Hồ Chí Minh. Đó là đạo đức, là bản lĩnh văn hóa đạo đức của Hồ Chí Minh.

Những ai có tình cảm cách mạng trong sáng sẽ có sự bảo đảm bền bỉ để chống lại và đánh bại chủ nghĩa cá nhân-với lòng tham, tính tham, vụ lợi, vị kỷ-để thực hành lòng yêu nước, thương dân, nêu cao tinh thần trách nhiệm, để hy sinh và tự nguyện cống hiến, vì nước, vì dân. Tình cảm cách mạng xa lạ đối lập với thói vô trách nhiệm, sự hờ hững, hoài nghi, lãnh đạm, vô cảm mà không ít người mắc phải, trở nên suy thoái, hư hỏng, thành tù binh của chủ nghĩa cá nhân. Đến khi rơi vào những việc làm sai trái, những hành vi bất minh, bất chính, bất liêm, vô sỉ thì thành ra kẻ thù của nhân dân vì đã làm hại dân, hại nước.

Có tình cảm cách mạng mới có thể tâm huyết vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, mới có sức mạnh chống lại mọi sai trái, lỗi lầm, mới đủ dũng khí để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, mà thực chất là bảo vệ nhân dân. Một khi tình cảm cách mạng bị nguội lạnh thì niềm tin sẽ bị lung lay, suy yếu, thậm chí từ bỏ niềm tin, lý tưởng, lẽ sống chỉ vì sự cám dỗ của tiền bạc, danh vọng, địa vị, quyền lực. Rơi vào vô cảm, đó là sự suy đồi về đạo đức, nhân cách, không còn sức đề kháng để tự bảo vệ lương tâm, danh dự, liêm sỉ của mình, càng không thể bảo vệ Đảng, chế độ và nhân dân. Đủ hiểu vì sao, vào lúc này, Đảng ta đặc biệt coi trọng xây dựng Đảng về đạo đức, đề cao sự gương mẫu, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp.

Trau dồi bản lĩnh chính trị

Kết quả tổng hợp từ giữ vững niềm tin khoa học và bồi đắp tình cảm cách mạng, thực hành đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, thực hành nhân-trí-dũng-liêm-trung từ vị tướng chỉ huy đến chiến sĩ, từ cán bộ lãnh đạo đến đảng viên và quần chúng sẽ dẫn đến bản lĩnh chính trị.

Bản lĩnh chính trị được hình thành, tôi luyện, thử thách trong thực tiễn, trong đối mặt trực tiếp, cọ xát trực tiếp với thực tiễn, tranh đấu với những tình huống phức tạp. Bản lĩnh chính trị có sức mạnh của trí tuệ khoa học, của đạo đức cách mạng, của cốt cách vững vàng về chính trị, không lung lay, dao động, không do dự, không tự đánh mất niềm tin, không xa dân-cội nguồn sức mạnh của Đảng.

Bản lĩnh chính trị là hành động chứ không phải lời nói suông, trung thực, nhất quán giữa nói và làm, không cơ hội, tùy thời, chỉ chăm lo cho cá nhân mình. Bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên trong đổi mới hiện nay là dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, dám hành động quyết liệt vì lợi ích chung như Đảng đã nhấn mạnh.

Đảng ta khuyến khích những con người như thế và tìm tòi cơ chế để bảo vệ họ, đồng thời cũng áp dụng các chế tài cần thiết để xử lý những cán bộ, đảng viên từ bỏ trách nhiệm, không hành động vì sợ sai lầm, vì tìm sự an toàn cho riêng mình. Rơi vào trường hợp này thì không còn dũng khí, lòng trung thực và trách nhiệm vì sự nghiệp chung, không còn là bản lĩnh chính trị nữa mà trở thành vật cản đối với đổi mới và phát triển. Đó là những người “thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh”, tự coi mình ở ngoài cuộc, vô can, không chịu trách nhiệm, chỉ chăm lo vun vén, tìm kiếm lợi ích cho riêng mình.

Do đó, muốn có bản lĩnh chính trị để chủ động tham gia vào cuộc chiến đấu bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ nhân dân thì phải đồng thời xây dựng niềm tin khoa học, bồi dưỡng tình cảm, đạo đức cách mạng, nêu cao tự phê bình và phê bình, củng cố sức mạnh của đoàn kết, dân chủ, đồng thuận từ trong Đảng đến trong dân và xã hội, thực hành “quyết tâm-tín tâm-đồng tâm” như chỉ dẫn của Bác Hồ.

Bản lĩnh chính trị là hạt nhân của văn hóa chính trị mà chúng ta phải dày công xây dựng. Chúng ta càng thấy dự cảm sâu sắc của Hồ Chí Minh khi Người nhấn mạnh: “Chính trị là đoàn kết và thanh khiết”, “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”.

Cuộc đấu tranh tư tưởng lý luận càng diễn biến phức tạp bao nhiêu thì những điều cốt yếu nói trên càng cần thiết và quan trọng bấy nhiêu. Nó không chỉ bảo đảm cho nhận thức đúng mà còn là điểm tựa vững chắc cho hành động tự giác, sáng tạo, chủ động và tích cực của mỗi chúng ta trong cuộc đấu tranh chống lại các thế lực thù địch, để kiên định lý tưởng, mục tiêu và con đường đã lựa chọn: Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, giữ vững định hướng XHCN của sự nghiệp đổi mới, xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

GS, TS HOÀNG CHÍ BẢO

Kiên trì, kiên định bảo vệ đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam - Bài 2: Thực tiễn đổi mới của Việt Nam khẳng định giá trị, sức sống đường lối chính trị của Đảng

Thứ sáu, 05/04/2024 - 05:32

Đảng Cộng sản Việt Nam là ngọn cờ tập hợp và dẫn dắt dân tộc ta vững bước đi theo con đường đã chọn: Độc lập dân tộc và CNXH, thể hiện sự vững vàng về lập trường, quan điểm, về phương hướng, đường lối chính trị đúng đắn, sáng suốt của Đảng ta, trung thành một cách sáng tạo với lý tưởng, mục tiêu XHCN của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tầm vóc cách mạng của đường lối đổi mới

Năm 1986, cải tổ diễn ra ở Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu. Cũng thời điểm 1986, Việt Nam tiến hành đổi mới với quyết định lịch sử từ Đại hội VI của Đảng. Đón kịp và tận dụng thời cơ, dũng cảm vượt qua thách thức, đó là quyết định đúng đắn, sáng suốt và bản lĩnh của Đảng ta trong bối cảnh quốc tế diễn biến phức tạp và tình hình trong nước lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng về kinh tế-xã hội.

Cải tổ thất bại do mất phương hướng chính trị và vấp phải những sai lầm về nguyên tắc, quan điểm, đường lối và chính sách, vì thế chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ. Hệ thống XHCN thế giới tan rã. CNXH và phong trào cách mạng lâm vào thoái trào, dù là tạm thời. Trật tự thế giới thay đổi. Lịch sử ở trong một khúc quanh đầy thử thách. Các thế lực thù địch, chống cộng, chống CNXH với những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc tinh vi, thâm độc và áp dụng những thủ đoạn phá hoại trắng trợn đã không ngớt rêu rao về “sự cáo chung của ý thức hệ cộng sản” (Chủ nghĩa Mác-Lênin), về sự “kết thúc CNXH”; rằng, lựa chọn CNXH là một sai lầm, là đi vào ngõ cụt, bế tắc, dẫn đến nghèo khổ, lạc hậu, chỉ có đi theo còn đường và mô hình phương Tây mới đem lại tự do, văn minh, sự giàu có, thịnh vượng và hạnh phúc (!).

Trong những năm đầu đổi mới, các nước phương Tây vẫn tiếp tục bao vây, cấm vận Việt Nam, kích động các phần tử bất mãn, chống đối tấn công vào sự lãnh đạo cầm quyền của Đảng ta. Chúng ra sức cổ xúy cho chủ nghĩa tự do mới, kinh tế thị trường tự do, đa nguyên, đa đảng, coi đó là cần thiết để có dân chủ, tự do. Chúng toan tính rằng, muốn xóa bỏ CNXH và Đảng Cộng sản Việt Nam thì bằng mọi cách phải hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh, reo rắc hoài nghi trong các tầng lớp dân chúng, nhất là đối tượng thanh niên, trí thức, văn nghệ sĩ, làm xói mòn niềm tin ý thức hệ, đi theo lối sống thực dụng, tôn thờ đồng tiền và các lợi ích vật chất, kích động chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Đó là những độc tố có sức phá hủy từ bên trong để chính chúng ta tập nhiễm thì sẽ tự phá hủy cơ đồ sự nghiệp của mình.

Cùng với sớm nhận rõ âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” nguy hại của các thế lực thù địch, phản động để giữ vững thế chủ động trong cuộc chiến không có tiếng súng này, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII nhằm tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Lần đầu tiên Đảng đã thẳng thắn nêu ra 27 biểu hiện của suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đề ra hàng loạt giải pháp nhằm làm cho Đảng trong sạch, vững mạnh, giữ vững phương hướng chính trị, không phạm sai lầm về quan điểm, đường lối để đưa phong trào cách mạng tiếp tục tiến lên.

Kiên trì, kiên định bảo vệ đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam - Bài 2: Thực tiễn đổi mới của Việt Nam khẳng định giá trị, sức sống đường lối chính trị của Đảng

Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ảnh minh họa / TTXVN

Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền một cách chính danh, chính đáng và xứng đáng với ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, bằng trí tuệ khoa học được vũ trang bởi lý luận tiên phong của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, bởi kinh nghiệm phong phú tích lũy được trong lịch sử đấu tranh cách mạng, bởi bản lĩnh chính trị được tôi luyện từ thực tiễn và nhất là có sự gắn bó máu thịt với nhân dân, có sức mạnh từ lòng dân. Theo đúng bí quyết của Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn: Được dân tin, dân yêu, dân ủng hộ, dân giúp đỡ và dân bảo vệ thì cách mạng sẽ thành công. 

Tiến hành đổi mới, Đảng ta cân nhắc tỉnh táo, sáng suốt khi xác định tiền đề, điều kiện tiên quyết để đổi mới là ổn định chính trị-xã hội. Đó là ổn định tích cực, đem lại lợi ích cho dân, trước hết là lợi ích kinh tế. Dân cảm nhận và dân thụ hưởng trực tiếp lợi ích đó bằng việc làm, thu nhập để nâng cao đời sống, từ đó dân ủng hộ và đồng hành với Đảng, cùng đổi mới. Mất ổn định, xã hội rối loạn, lòng dân không yên thì không một chương trình đổi mới nào có thể thực hiện được.

Từ nhận thức đó, Đảng lựa chọn mắt xích xung yếu là kinh tế, phải tập trung đổi mới kinh tế, phát triển sản xuất, khắc phục lạm phát đang “phi mã” (hơn 770%) để từng bước ổn định đời sống nhân dân, thúc đẩy tăng trưởng. Phải trên cơ sở đổi mới kinh tế có hiệu quả, có thành công bước đầu để dân tin mà đổi mới chính trị, trước hết là hệ thống chính trị một cách thận trọng, có nguyên tắc. Từ thực tiễn đổi mới đã xuất hiện những tín hiệu thành công, sau này Đảng ta nhấn mạnh, đổi mới đồng bộ kinh tế và chính trị.

Hai đột phá lớn của Đảng ta về lý luận và thực tiễn là phát triển kinh tế thị trường và xây dựng nhà nước pháp quyền. Đó là thành tựu chung của nhân loại đạt được trong thời đại tư sản chứ không phải của riêng giai cấp tư sản. Đó là đòi hỏi tất yếu để phát triển, là động lực để giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất. Đó cũng là tác nhân kinh tế và chính trị cần thiết để xây dựng nền dân chủ hiện đại mà CNXH có thể và cần phải áp dụng, nhất là những nước quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam. Đây là trù tính chính xác của Đảng về nhận thức lý luận và quyết sách chính trị của Đảng ta.

Một trong những thành công nổi bật của đổi mới ở nước ta là giải quyết thành công cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội, dù phải mất một thập kỷ (1986-1996), không để xảy ra khủng hoảng chính trị, khi đi vào đổi mới hệ thống chính trị và chính trị nói chung mà nhiều nước đã vấp phải, kết cục là đổ vỡ thể chế, đảng mất vai trò cầm quyền. Đảng ta đi tiên phong trong đổi mới, tự ý thức được yêu cầu hệ trọng, phải đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng để thúc đẩy đổi mới toàn xã hội.

Đảng ta đã sớm nhận thức và hành động theo yêu cầu đó. Lãnh đạo trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, thực hiện dân chủ hóa xã hội, có nhà nước pháp quyền đặt ra cho Đảng ta yêu cầu phải nhận thức và hành động đúng quy luật, ở đây là các quy luật của kinh tế thị trường, lại duy nhất một đảng cầm quyền nên phải bảo đảm phát huy dân chủ, phải xử lý mọi vấn đề trong lãnh đạo, cầm quyền sao cho hợp hiến, hợp pháp, không vi hiến mà trái lại còn tuân thủ pháp luật, tôn trọng nhà nước và bảo vệ Hiến pháp, pháp luật, chủ trương xây dựng cơ chế bảo hiến, chú trọng kiểm soát quyền lực, không để quyền lực do dân ủy thác bị tha hóa.

Hai lĩnh vực rường cột của phát triển đất nước là kinh tế và chính trị. Đảng ta đã đạt được phát kiến lớn là kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước pháp quyền XHCN, khẳng định quyền lực tập trung thống nhất ở nhân dân, không phân chia quyền lực theo “tam quyền phân lập”, thực hiện phân công và phối hợp giữa các thiết chế lập pháp, hành pháp, tư pháp để thực hiện sự ủy quyền của dân và phục vụ quyền và lợi ích của nhân dân. 

Cương lĩnh 1991 và cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 của Đảng thực sự là ngọn cờ tập hợp và dẫn dắt dân tộc ta vững bước đi theo con đường đã chọn: Độc lập dân tộc và CNXH, thể hiện sự vững vàng về lập trường, quan điểm, về phương hướng, đường lối chính trị đúng đắn, sáng suốt của Đảng ta, trung thành một cách sáng tạo với lý tưởng, mục tiêu XHCN của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, đổi mới của Việt Nam thực sự mang tầm vóc của một cuộc cách mạng.

Giá trị bền vững của hệ tư tưởng của Đảng

Kẻ thù của những người cách mạng, của các đảng chân chính cách mạng thường kích động xã hội, thậm chí dùng cả những thủ đoạn mị dân khi cho rằng Chủ nghĩa Mác đã lỗi thời, cách xa thời nay hàng thế kỷ, không còn phù hợp trong xã hội mà dòng chảy thông tin đang cuồn cuộn như bão táp. Chủ nghĩa tư bản hiện đại đã khác xa với những điều phê phán, phủ định của Mác-Ăngghen. Chủ nghĩa Lênin cũng không còn giá trị khi Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu sụp đổ. Tư tưởng Hồ Chí Minh cũng từ đó mà hết vai trò vì cũng chỉ là bản sao từ Mác-Lênin.

Đó là những đánh giá võ đoán, chủ quan, những suy diễn hời hợt ẩn giấu những tâm địa đen tối, chỉ cổ vũ cho những kẻ chống đối và lừa bịp được một số người kém hiểu biết. Về thực chất, đó là sự xuyên tạc lịch sử và xúc phạm văn hóa nhân loại, bởi Mác, Ăngghen, Lênin, Hồ Chí Minh là đại biểu cho tinh hoa trí tuệ của thời đại mình, là những lãnh tụ kiệt xuất và danh nhân văn hóa đã khai sáng, khai trí, khai tâm cho loài người tiến bộ, cho các dân tộc đấu tranh để thực hiện những giá trị cao quý, tôn vinh phẩm giá con người, hướng cuộc đời tới chân-thiện-mỹ.

Chủ nghĩa Mác-Lênin với hệ thống các giá trị bền vững mãi mãi còn tỏa sáng, soi đường đi cho nhân loại trong cuộc hành trình từ “vương quốc của tất yếu đến vương quốc của tự do”. Luận điểm của Mác-Ăngghen trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (năm 1848) nói rằng, “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” chính là khẳng định bản chất nhân văn của CNXH và chủ nghĩa cộng sản. Lênin không chỉ đề xướng Chính sách kinh tế mới (NEP), trở thành nhà cách tân vĩ đại đầu tiên của CNXH hiện thực trong lịch sử mà còn đưa ra dự báo đầy tính hiện đại rằng, sớm muộn, trước sau thì tất cả các dân tộc sẽ đi tới CNXH. Bản chất quốc tế của CNXH vẫn bao hàm những đặc điểm lịch sử, văn hóa, những sắc thái riêng của từng dân tộc. Điều đó có nghĩa là, bản chất, mục tiêu của CNXH là một cái chung phổ biến, những con đường và mô hình xây dựng CNXH là phong phú, đa dạng. Đó là văn hóa thống nhất, bao hàm những khác biệt.

Hồ Chí Minh từ thực tiễn Việt Nam gắn liền với thực tiễn thế giới, đã từng xác định, xây dựng CNXH là xây dựng một xã hội văn hóa cao, thấm nhuần quan điểm phát triển, sao cho “đời sống vật chất ngày càng tăng, đời sống tinh thần ngày một tốt, xã hội ngày càng văn minh, tiến bộ”.

Bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn đó của Chủ nghĩa Mác-Lênin, CNXH khoa học đã từng được đề cập trong di sản tư tưởng của các nhà kinh điển mác xít. Đặc biệt là Hồ Chí Minh, người suốt đời phấn đấu cho Tổ quốc, dân tộc, nhân dân và nhân loại, theo đuổi đến cùng hệ giá trị Độc lập-Tự do-Hạnh phúc.

Đổi mới của Việt Nam với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử không chỉ đem lại lợi ích thiết thân cho mỗi người, mỗi gia đình và cả cộng đồng, mà còn củng cố niềm tin và tự hào của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Đổi mới của Việt Nam được dư luận quốc tế và thế giới đánh giá cao. Đó là sự trung thực, xác tín của lịch sử về giá trị, sức sống của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh từ thực tiễn, kinh nghiệm và bài học của Việt Nam trong đổi mới và hội nhập quốc tế.

Văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh “Phát triển kinh tế-xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”. Đó thực sự là một khái quát lý luận của Đảng, là thông điệp phát triển, là đường lối, chính sách phát triển mà Đảng ta đã truyền tới đông đảo nhân dân ta và bạn bè, đối tác trên thế giới, tràn đầy niềm tin và hy vọng.

(còn nữa)

GS, TS HOÀNG CHÍ BẢO