Đi vào "đường ngược chiều"

QĐND - Gần 9 giờ tối 10-10-2014, cả gia đình tôi lên xe háo hức đến khu Vincom Long Biên để xem màn trình diễn bắn pháo hoa. Chưa đến giờ bắn pháo hoa, nhưng trên tuyến đường Nguyễn Văn Linh và tất cả các con đường quanh khu đô thị Vincom Long Biên đã chật cứng người, phương tiện. Trong khối người ấy, tôi thấy hội tụ đủ mọi lứa tuổi, từ cụ già cho tới các em nhỏ. Có những cháu còn quá nhỏ vẫn được bố mẹ công kênh trên vai để giúp các cháu có thể nhìn rõ các màn trình diễn pháo hoa. Phải thừa nhận rằng, mọi người đều đón chờ màn pháo hoa với tâm trạng háo hức, phấn khởi. Đúng 9 giờ tối, màn pháo hoa được bắt đầu trong tiếng hò reo, trầm trồ không ngớt của người xem. Trong phút giây ấy, tôi thấy mọi lo toan, vất vả thường nhật dường như tan biến, con người ta có cảm giác tươi mới trong tâm hồn, có thêm động lực để tiếp tục làm việc, cống hiến.
Thế nhưng về đến nhà, mở máy vi tính lướt qua mấy trang web, bất ngờ bắt gặp một bài viết (còn gọi là: Lời kêu gọi...) của bà L.H.Đ, một công dân đang sinh sống ở thủ đô Hà Nội. Đọc qua cái gọi là “lời kêu gọi...” của bà, tôi thấy thực sự thất vọng bởi mấy lẽ. Thứ nhất là về ngôn từ: Bài viết của bà dùng toàn những lời lẽ cộc cằn, mang tính kích động, hằn học. Những lời lẽ ấy khó ai mà tin là lại được viết ra bởi một người đã ngoài 80 tuổi, hơn nữa lại mang danh một nhà giáo. Thứ hai là ý nghĩa của cái gọi là “lời kêu gọi...” của bà, lại không nhằm vào chủ đích chính là đề nghị thành phố Hà Nội ngừng bắn pháo hoa nhân dịp kỷ niệm 60 năm Ngày giải phóng Thủ đô “để tiết kiệm” như thiển ý của bà. Mà những “lời kêu gọi...” ấy chủ yếu là xuyên tạc tình hình kinh tế, chính trị của đất nước, hòng làm nghiêng ngả lòng người... Như thế cho thấy, khi viết những dòng đó, bà đang mang cái tâm không thiện.
Đấu tranh với những mặt trái của xã hội để cho đất nước ngày càng phát triển là trách nhiệm mọi người dân Việt Nam. Từ khi ra đời, Đảng, Nhà nước ta đã khuyến khích người dân Việt Nam làm việc đó, và cách đây ít năm, bà cũng đã hành động đúng, nên mới được khen thưởng là “công dân chống tham nhũng”. Thế nhưng, việc “đấu tranh cho tự do, dân chủ” của bà những năm gần đây dường như càng ngày càng có biểu hiện lạc lối. Tôi cho rằng, khi mà đấu tranh cho “tự do, dân chủ” kiểu vào hùa, quá khích, ngụy tạo, đi ngược với mong muốn chung của đông đảo người dân thì đó khó có thể gọi là đấu tranh một cách đúng nghĩa. Hành động đó chẳng khác gì một người tự lao xe vào đường ngược chiều và tưởng tượng ra rằng mình như một người hùng.

TRẦN THÔN

Cảnh giác với những chiêu trò phá hoại chính sách đại đoàn kết dân tộc

QĐND - Phá hoại chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam là một trong những mục tiêu mà các thế lực thù địch không bao giờ từ bỏ trong thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình". Các tỉnh Tây Nguyên, Tây Bắc và Tây Nam Bộ... là những địa bàn trọng điểm chống phá của các thế lực thù địch. Cách đây ít năm, hòng kích động, chia rẽ người Kinh với đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên, các thế lực thù địch đã sử dụng tổ chức FULRO tuyên truyền xuyên tạc, rằng "Tây Nguyên là của người Thượng", "Đồng bào dân tộc ở Tây Nguyên phải liên kết lại đuổi người Kinh về xuôi"... Với tinh thần cảnh giác cao độ của người dân, cùng với các biện pháp nghiệp vụ kiên quyết của lực lượng chức năng, chúng ta đã phát hiện và đấu tranh ngăn chặn kịp thời những âm mưu và hành động phá hoại đó.
Nhưng các thế lực thù địch không dễ gì từ bỏ. Chúng vẫn luôn tìm cách phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc của chúng ta. Những chiêu trò mà chúng thực hiện như những “nọc độc” vẫn hằng ngày, hằng giờ len lỏi vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, lợi dụng sự lơ là, chủ quan, mất cảnh giác của người dân để tiêm nhiễm, chống phá. Mặc dù các cơ quan bảo vệ pháp luật, lực lượng chức năng của Việt Nam đã bắt giữ, xử lý nhiều đối tượng nhưng những chiếc "vòi bạch tuộc" của tổ chức FULRO vẫn không ngừng tìm cách vươn xa, chui sâu vào từng ngõ ngách của xã hội để tiến hành các hoạt động móc nối, lôi kéo những phần tử xấu ở trong nước thực hiện các hoạt động chống phá Việt Nam quyết liệt hơn. Điển hình vào cuối tháng 9-2014, tại huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai, lực lượng Công an đã bắt giữ 3 đối tượng cầm đầu, gồm: Rmah Blot (54 tuổi), Ksor Hlip (59 tuổi) và Kpă Chul (64 tuổi), cùng trú tại huyện Chư Pưh. Qua đấu tranh khai thác, ta nắm được từ tháng 9-2013 đến nay những đối tượng này đã nhiều lần liên lạc, nhận sự chỉ đạo của một số đối tượng FULRO lưu vong ở nước ngoài để tuyên truyền, lôi kéo bà con dân tộc thiểu số trên địa bàn huyện Chư Pưh bỏ sinh hoạt tôn giáo truyền thống, tập trung nhóm họp "Tin lành Đề Ga", âm mưu chia rẽ người Kinh và người Thượng, kích động chống Đảng, chính quyền; tiếp tục gây dựng cơ sở hoạt động hòng thành lập cái gọi là “Nhà nước Đề Ga”...
Để tuyên truyền, lôi kéo được nhiều người dân tham gia vào những chiêu trò của tổ chức phản động này, chúng thường dùng tiền mua chuộc những người nhẹ dạ cả tin, sau đó cung cấp tài liệu phản động để chỉ đạo phát tán. Cũng có nơi chúng lợi dụng sự sơ hở trong công tác quản lý của chính quyền, cơ quan chức năng để tổ chức chiếu đĩa DVD tuyên truyền về “Tin lành Đề Ga” cho nhiều người xem và lôi kéo những người dân nhận thức hạn chế, thiếu hiểu biết về pháp luật, hám lợi trước mắt tham gia vào tổ chức này.
Mặc dù thực tiễn đã khẳng định rõ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhưng các thế lực thù địch phản động luôn tìm cách xuyên tạc, phủ nhận. Để thực hiện mưu đồ đó, một số đối tượng đã phát tán tài liệu bịa đặt, dựng cảnh người dân ăn mặc rách rưới, nhem nhuốc... rồi chụp ảnh, quay camera gửi ra nước ngoài tung lên một số trang mạng nhằm bôi nhọ chế độ, xuyên tạc nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Địa bàn chúng thường hoạt động là ở các buôn, làng thuộc vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số... Nhưng tất cả những chiêu trò đó không qua được tai mắt nhân dân và các lực lượng chức năng.
Lợi dụng những diễn biến phức tạp, khó lường của tình hình thế giới và khu vực, các thế lực thù địch phản động, trong đó có tổ chức FULRO lưu vong vẫn ra sức thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, tiếp tục lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo hòng phá hoại thành quả cách mạng, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc của Việt Nam. Nhưng dù bằng chiêu thức gì chăng nữa, các thế lực thù địch phản động cũng không thể phủ nhận được thành tựu to lớn của cách mạng Việt Nam, không thể chia rẽ được tình đoàn kết đã trở thành nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam. Ngay từ Đại hội lần thứ nhất các dân tộc thiểu số (ngày 3-12-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nhờ sức đoàn kết trong đấu tranh của tất cả các dân tộc, nước Việt Nam ngày nay được độc lập, các dân tộc thiểu số được bình đẳng cùng dân tộc Việt Nam, tất cả đều như anh chị em trong một nhà, không có sự phân chia nòi giống, tiếng nói...”.
Thấm nhuần tư tưởng của Người, đại đoàn kết toàn dân tộc đã trở thành một nguyên tắc nhất quán trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta. Đặc biệt những năm gần đây, Đảng ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách mới hướng đến đồng bào các dân tộc thiểu số. Để những chủ trương, chính sách đó thực sự đi vào cuộc sống, Chính phủ đã chỉ đạo, hướng dẫn các cấp, các ngành, các địa phương, nhất là trên địa bàn Tây Nguyên bám sát cơ sở để tổ chức thực hiện. Các chương trình, dự án kinh tế, văn hóa, xã hội được triển khai nhanh chóng đã tạo ra sự đổi thay đáng kể trong đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc, khoảng cách chênh lệnh về trình độ văn hóa, đời sống kinh tế... giữa đồng bào dân tộc thiểu số với đồng bào Kinh ở Tây Nguyên và các địa phương miền núi ngày càng được thu hẹp...
Không ai có thể phủ nhận được những thành quả về thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Những chuyển động căn bản ấy đã góp phần không nhỏ giúp các cấp ủy đảng và chính quyền tăng cường đoàn kết dân tộc, động viên và phát huy sức mạnh to lớn của đồng bào các dân tộc trong sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và củng cố quốc phòng, an ninh…
Để tiếp tục đấu tranh triệt phá những âm mưu kích động gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc của các thế lực thù địch nói chung và của cái gọi là "Tin lành Đề Ga", “Nhà nước Đề Ga” nói riêng, chúng ta cần tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp. Cùng với xử lý nghiêm minh những hành vi chia rẽ nội bộ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây bất ổn về chính trị-xã hội, chúng ta cần đặc biệt chú ý đến công tác quản lý xã hội. Thực tiễn đã khẳng định, cấp ủy, chính quyền nhất là ở cấp cơ sở đóng vai trò rất quan trọng trong công tác quản lý, nắm tình hình địa bàn, phối hợp với các lực lượng, các tổ chức chính trị, đoàn thể quần chúng, triển khai các biện pháp tuyên truyền, phổ biến, thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước. Gần gũi, sát dân, nắm chắc địa bàn còn giúp cho cán bộ, đảng viên kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của đồng bào để có biện pháp giải quyết phù hợp, hiệu quả, ngăn chặn kẻ xấu lợi dụng. Mặt khác, quản lý chắc địa bàn sẽ giúp cấp ủy, chính quyền cơ sở chủ động phát hiện, đấu tranh vạch trần những âm mưu, thủ đoạn nham hiểm của các thế lực thù địch, phản động, để từ đó thông qua tuyên truyền tạo ra bước chuyển biến trong nhận thức, nâng cao tinh thần cảnh giác, phát huy trách nhiệm của mọi người dân trong phòng tránh, đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu và hành động phá hoại. Đi kèm với đó, chúng ta cần tiếp tục quan tâm đầu tư phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số nói chung và đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên nói riêng. Đẩy lùi đói nghèo, lạc hậu, quê hương khởi sắc, đó chính là cơ sở, nền tảng để củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào chế độ, tăng cường củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
KIM NGỌC

Phúc trình của Tổ chức Theo dõi nhân quyền (HRW) xuyên tạc bản chất Pháp luật Việt Nam

Những ai quan tâm đến hoạt động của tổ chức Theo dõi nhân quyền (HRW) có trụ sở ở Hoa Kỳ thì đều biết, hàng năm, tổ chức này đều có “Phúc trình” mà nội dung của nó nếu không phải là sự xuyên tạc thì cũng là việc cường điệu những cái gọi là vi phạm các quyền con người ở các quốc gia, nhất là các quốc gia cộng sản, đặc biệt là Việt Nam. Hàng năm tổ chức này còn trao giải thưởng “Bảo Vệ Nhân Quyền” cho những người mà theo họ đã dũng cảm đấu tranh bảo vệ quyền con người ở các quốc gia. Và dường như năm nào HRW cũng “ ưu tiên” cho những người, mà họ gọi là “ bất đồng chính kiến” ở Việt Nam. Có thể nói tất cả những người được HRW tặng thưởng đều là những người đã từng vi phạm pháp luật Việt Nam. Về mối quan hệ giữa báo cáo của HRW với các Báo cáo của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ chúng ta sẽ trở lại ở phần sau của bài viết này.
Năm nay, HRW có “sáng kiến” công bố báo cáo “chuyên đề” về cái mà họ gọi là “Tình trạng bạo hành của công an Việt Nam”. Tại buổi công bố Báo cáo, ông Phil Robertson, Phó giám đốc khu vực châu Á của Human Rights Watch, có nói: những cứ liệu của báo cáo này “Dựa vào kết quả tập hợp và phân tích thông tin từ những cơ quan truyền thông “lề phải” trong nước”.               
Thật đáng tiếc, ông Phil Robertson đã quên rằng, trong các báo cáo trước đây của tổ chức này, thường nói rằng: ở Việt Nam “không có tự do ngôn luận, báo chí”. Báo chí thường chỉ nói về thành tích của Đảng, nhà nước…
Không phủ nhận rằng, tình trạng ép cung, bức cung, sử dụng nhục hình, là một thực tế vẫn đang tồn tại trong cán bộ, công chức ngành bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng ở tất cả các quốc gia. Chẳng hạn như ở Hoa Kỳ, sau vụ khủng bố 11/9/2001 Mỹ đã dùng nhà tù ở vịnh Guantanamo bắt giữ nhiều nghi can trong nhiều năm mà không được đưa ra xét xử. Gần đây nhiều phương tiện truyền thông cho biết CIA đã có nhà tù bí mật ở Djibouti (châu Phi). Ở đó nhiều tù nhân bị tra tấn và không được đưa ra xét xử. Ở Hoa Kỳ không chỉ tù nhân bị tra tấn mà thậm chí người bị cho rằng “có thể” chống lại cảnh sát đã bị bắn chết. Đó là trường hợp một thanh niên da màu có tên là Michael Brown, 18 tuổi ở bang Missouri bị một nhân viên cảnh sát bắn chết trong khi anh không hề có vũ khí. Cái chết của người thanh niên này không chỉ nói lên tình trạng bạo hành trong ngành cảnh sát Hoa Kỳ mà còn nói lên tình trạng phân biệt chủng tộc ở đây còn rất nặng nề.
Ngày nay nói đến cái gọi là “Phúc trình” của Tổ chức theo dõi nhân quyền (HRW), có trụ sở ở Hoa Kỳ thì ai cũng có thể đoán được nội dung của Văn bản đó là gì. Hàng năm, cứ trước hoặc sau Báo cáo của HRW là có “Báo cáo thường niên về tình hình nhân quyền thế giới”, “Báo cáo thường niên về Tự do Tôn giáo quốc tế” của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ. Cũng trước hoặc sau các Báo cáo của HRW  là những cuộc  “Điều trần” tại Hạ viện về tình hình vi phạm trắng trợn “các quyền vốn có” của những người “bất đồng chính kiến” hoặc những “tù nhân lương tâm” của “Hà Nội” (cái tên mà các ông Nghị sỹ Hạ viện Hoa Kỳ không quen văn hóa ngoại giao đã dùng để chỉ Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam). Tiếp đó là những “Dự luật nhân quyền Việt Nam,  năm… (nào đó)” được soạn thảo, để trình trước Hạ viện… và rồi đệ trình lên Thượng viện. Nếu người ta so sánh đối chiếu thì thấy dường như những chứng cứ mà Bộ Ngoại giao Mỹ đưa ra trong các báo cáo hoặc các nhân chứng trong các cuộc “Điều trần” tại Hạ viện với “Phúc trình” của HRW về căn bản là giống nhau về số liệu, sự kiện; là “một giuộc” về sự kỳ thị đối với chế độ “Cộng sản”. Nói một cách thẳng thắn, HRW là người sưu tầm, cắt gọt, tạo dựng chứng cứ cho các báo cáo nhân quyền của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ.
Quan điểm của HRW thì ai cũng biết. Bảo vệ nhân quyền là cái cớ, nói cho chính xác đó là phương tiện để tổ chức này xuyên tạc, bôi nhọ các chế độ xã hội mà Hoa Kỳ không ưa, đặc biệt là các quốc gia Cộng sản. Tất nhiên HRW đôi khi đã bị lỗi “việt vị”, báo cáo của họ lại đi ngược lại lợi ích của Hoa Kỳ, đi ngược lại lợi ích của chính họ. Vì sự kỳ thị với chế độ xã hội XHCN Việt Nam mà tổ chức này đã bị “cấm cửa”, trong khi hầu hết các cơ quan nhân quyền quốc tế đã được mời vào Việt Nam.
Trở lại chủ đề “bạo hành” ở Việt Nam trong “Phúc trình” của HRW, nếu tổ chức này có cái nhìn khách quan thì phải biết, đối với mỗi quốc gia, vấn đề bạo hành, ép cung, bức cung không phải là có hay không có mà là đường lối hình sự, Hiến pháp, pháp luật quốc gia đó có cho phép hành vi đó tồn tại hay không?
Trên báo chí và diễn đàn chính trị xã hội Việt Nam vừa qua, trong đó có Quốc hội, vấn đề bức cung, ép cung, sử dụng nhục hình đã được đề cập một cách khách quan và phân tích sâu sắc. Nhiều vụ án đối với những người có hành vi sử dụng nhục hình đã bị xét xử nghiêm khắc, bất chấp quá trình, chức vụ công tác của họ.
Gần đây triển khai Hiến pháp 2013 , ngày 11/9, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội tổ chức phiên giải trình về chống bức cung, nhục hình với sự tham gia của Bộ Công an, VKSND Tối cao. Nhiều đại biểu cho rằng cần phải sửa đổi, bổ sung Luật Tố tụng hình sự, xử nghiêm cán bộ, công chức sử dụng nhục hình, ép cung, bức cung bảo vệ các quyền con người theo Hiến pháp 2013.
Sáng 2/10, trong phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, việc phê chuẩn công ước Chống tra tấn đã được đưa ra thảo luận. Báo cáo của Chính phủ do Bộ Công an trình bày tại phiên họp khẳng định, việc phê chuẩn công ước là sự kiện pháp lý có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ nhân quyền, góp phần thực thi Chương 2 của Hiến pháp về quyền con người. Trên thực tế không phải hành vi bức cung, ép cung, sử dụng nhục hình cho đến nay pháp luật Việt Nam mới nghiêm cấm. Luật Hình sự và Tố tụng hình sự đã có những quy định về hành vi  này. Việc Việt Nam ký kết và phê chuẩn công ước “Chống tra tấn” một lần nữa thể hiện quyết tâm của Đảng, Nhà nước ta nhằm chống tra tấn, hạ nhục con người. Như thông tin đại chúng đã đưa Việt Nam đã ký Công ước này vào tháng 11/2013 và dự kiến việc Quốc hội sẽ phê chuẩn tại kỳ họp thứ 8, khai mạc vào cuối tháng 10 này.
Việc HRW dựa vào một số thông tin chưa được kiểm chứng về tình trạng bạo hành của Công an Việt Nam, với sự kỳ thị sẵn có ra “Phúc trình” cường điệu hóa hiện tượng này, đồng thời bỏ qua tất cả các quy định của Hiến pháp, pháp luật Việt Nam về bảo vệ con người, có thể nói HRW đã xuyên tạc bản chất nhân đạo, tính nghiêm minh của pháp luật Việt Nam. Việc làm đó cần phải nghiêm túc xem lại.
Vọng Đức

Không có tự do báo chí không giới hạn

Trong những năm qua, một trong những thủ đoạn mà các thế lực thù địch và một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí với Việt Nam thường làm là cổ vũ cho cái gọi tự do ngôn luận ngoài khuôn khổ luật pháp, bất chấp thực tế đó là một điều không tưởng. Và sự kiện xảy ra gần đây trên một trang mạng của người Mỹ gốc Việt đã cung cấp thêm thí dụ chứng minh không có thứ tự do báo chí không giới hạn, vì chí ít báo chí không thể bỏ qua yêu cầu về tính văn hóa.
Dù xu hướng, hình thức truyền thông có thể khác nhau, nhưng từ ngày được tạo điều kiện về nước tác nghiệp, một số báo, trang tin của người Mỹ gốc Việt như kbchn, vietweekly, phobolsatv,... đã cố gắng trực tiếp đưa tin, bình luận khách quan về một số sự kiện, vấn đề tại Việt Nam, hoặc liên quan tới Việt Nam, qua đó không chỉ làm công việc thuần túy truyền thông, mà còn giúp người Việt sinh sống ở nước ngoài hiểu thêm về đất nước, góp phần vào quá trình hòa hợp dân tộc. Hơn nữa, dù phải đối phó với hoạt động vu cáo, chống phá, đe dọa,... của một số người "chống cộng", nhưng trong khả năng, điều kiện riêng của mỗi báo hoặc trang tin, một số nhà báo đã lên tiếng vạch rõ bản chất, trực diện đấu tranh với những luận điệu, hành vi chống phá đất nước, xuyên tạc đường lối, chính sách của Ðảng và Nhà nước Việt Nam; hoặc lợi dụng chiêu bài "đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền ở trong nước" để hù dọa, trục lợi từ cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Có thể coi đây là bước đi rất quan trọng trong nhận thức và hành động của một số nhà báo người Mỹ gốc Việt. Tiếp xúc với sự thật, họ từng bước nhận rõ sự thật, rồi lên tiếng bảo vệ sự thật, đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc sự thật. Bằng khả năng tác nghiệp ít nhiều chuyên nghiệp, lại tận dụng được ưu thế của truyền thông đa phương tiện, các báo và trang tin này đã thu hút nhiều bạn đọc là người Việt ở nước ngoài, và ở trong nước cũng đã ra đời nhóm bạn đọc ủng hộ.
Kết quả đáng khích lệ đó là bằng chứng cụ thể chứng minh quan điểm, chính sách đúng đắn của Ðảng và Nhà nước Việt Nam về tự do báo chí, đồng thời cho thấy sự hiện thực hóa một cách nghiêm túc quan điểm và chính sách đó qua vai trò, trách nhiệm của cơ quan quản lý báo chí thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Ngoại giao, của Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài cùng các ban, ngành, địa phương đã tạo điều kiện thuận lợi để các nhà báo người Việt ở nước ngoài về nước tác nghiệp. Vì thế, các nhà báo ở kbchn, vietweekly, phobolsatv đã có mặt tại nhiều địa phương, từ thành phố tới nông thôn, từ đồng bằng tới miền núi, trực tiếp tiếp xúc với các tầng lớp nhân dân, các sự kiện - hiện tượng muốn tìm hiểu.
Sự có mặt của các nhà báo ở Trường Sa, Hoàng Sa cùng nhiều vùng sâu, vùng xa đã đưa tới các bài báo, ảnh, video clip sống động về con người cụ thể ở các địa phương cụ thể, qua đó góp phần cho thấy thành tựu, hình ảnh nước Việt Nam đang trên đường phát triển. Gần đây nhất, các video clip do phóng viên vietweekly thực hiện khi cùng đồng nghiệp trong nước tới Mù Cang Chải (Yên Bái), Bắc Hà (Lào Cai) đã giới thiệu với công chúng nhiều hình ảnh cụ thể về con người, cuộc sống, nét văn hóa sinh động, đa dạng, độc đáo của đồng bào vùng cao; đồng thời cho thấy một sự thật không thể phủ nhận là chính sách đúng đắn cùng sự quan tâm, đầu tư rất lớn của Nhà nước đối với sự phát triển con người, phát triển kinh tế - xã hội ở vùng sâu, vùng xa; nhất là những nỗ lực, tấm gương quên mình của các thầy giáo, cô giáo miền xuôi hết lòng dạy dỗ, chăm sóc những học sinh là người dân tộc thiểu số tại các bản làng xa xôi, hẻo lánh...
Tuy nhiên cũng gần đây, việc phobolsatv của nhà báo Vũ Hoàng Lân đăng video clip với sự có mặt của Ngô Kỷ - một người thô lậu và nổi tiếng "chống cộng", để người này công khai xúc phạm lãnh tụ của nhân dân Việt Nam, vu cáo Nhà nước Việt Nam, là việc cần phải lên án. Người đọc trong nước biết rằng, tồn tại trong bối cảnh báo chí được James Du - nhà báo người Mỹ gốc Việt, trong bài Một nền báo chí hèn nhát, dung túng một cộng đồng cực đoan hèn nhát (đăng trên mục Diễn đàn của phobolsatv) đã vạch rõ là lề lối làm báo "mị dân để thỏa mãn tự ái những kẻ chiến bại đầy tự ti mặc cảm và làm báo vì kinh tế, cho nên mục tiêu chính của báo chí là tai là mắt của quần chúng, là cơ quan giám sát đầy quyền lực đã trở thành công cụ tuyên truyền và bị khuất phục bởi nhóm nhỏ chống cộng quá khích, cực đoan, rất nhanh chân quỳ lạy những ông cuồng tín chuyên ăn bám xã hội như Ngô Kỷ...
Những tờ báo như Người Việt, Sàigòn Nhỏ, Viễn Ðông, Việt Tide, Việt Báo không khác gì những loa tuyên truyền cho các tổ chức đấu tranh, chống cộng cực đoan. Những tờ báo này chỉ tuyên truyền bịp bợm một chiều, thiếu tính khách quan của những tờ báo lương thiện trong xã hội dân chủ tự do" nên phobolsatv cũng như kbchn, vietweekly sẽ gặp khó khăn và cũng vì thế mà rất chia sẻ. Song, dù mục đích của phobolsatv là "truyền thông thuần túy, độc lập, khách quan, đa chiều" và "cố gắng đem lại cho khán, thính giả người Việt ở khắp nơi những thông tin chính xác, sống động, khách quan, đa chiều, không thiên về bất cứ xu hướng chính trị, xã hội nào... mong muốn cung cấp thêm cho khán, thính giả một nguồn thông tin độc lập, đáng tin cậy, và đặc biệt là không né tránh những đề tài mang tính nhạy cảm" thì cũng không được đánh đồng văn hóa với "phản văn hóa", không thể vì đề cao tính "đa chiều" của thông tin mà đánh đồng ngôn ngữ, thái độ có tính văn hóa với ngôn ngữ, thái độ vô văn hóa.
Nhất là không được sử dụng báo chí để xúc phạm, mạ lị cá nhân mà luật pháp ở mọi quốc gia đều khẳng định và xử lý nghiêm khắc. Bởi, từ việc khẳng định và xử lý này mà dư luận vẫn được biết đến các tin tức như: năm 2011, Tòa án hình sự Thái-lan phán quyết rằng công dân Mỹ Joe Gordon (Giô Goóc-đôn) phạm tội phỉ báng nhà vua Thái-lan - một tội có thể bị phạt tới 15 năm tù; cơ quan lập pháp tiểu bang Mê-xi-cô yêu cầu Chính phủ Liên bang phải phạt nữ ca sĩ Miley Cyrus (Mi-ly Xi-rút) vì đã "xúc phạm" quốc kỳ của Mê-xi-cô trong màn biểu diễn thô tục trên sân khấu; gần đây hơn là tin: "tòa án thành phố Cay-en, thủ phủ vùng lãnh thổ hải ngoại Ghuy-a-na thuộc Pháp vừa ra phán quyết, tuyên phạt một thành viên của đảng cực hữu Mặt trận Quốc gia (FN) chín tháng tù, vì đã xúc phạm đương kim Bộ trưởng Tư pháp Christiane Taubira (Cri-xti-an Tô-bi). Ðây là mức án tù giam đầu tiên ở Cộng hòa Pháp về hành vi phát ngôn mang tính chất phân biệt chủng tộc... Ngoài ra, đảng FN cũng bị phạt bổ sung 30.000 ơ-rô vì phải có trách nhiệm liên đới, do không kiểm soát chặt chẽ các hành vi, cử chỉ của ứng viên trong quá trình vận động tranh cử". Chính vì để bảo vệ uy tín, danh dự cá nhân, tạo tiền đề giúp các quốc gia xây dựng thành điều luật nằm trong hệ thống pháp luật, nên đề cập tới tự do ngôn luận, khoản 3 Ðiều 19 Công ước về các quyền dân sự và chính trị của Liên hợp quốc đã khẳng định một số hạn chế phải được pháp luật quy định, trong đó có việc: "Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác".
Không rõ vì quá chuyên chú với mục đích và tôn chỉ, hay vì thiếu cẩn trọng mà phobolsatv lại xâm phạm chính quy định của mình? Vì diễn đàn này ghi rõ danh sách từ ngữ nên tránh: "Những từ ngữ có tính cách mạ lị, miệt thị như: mày, tao, thằng, đám, bọn, chó, thằng ngu, con điên, lũ chó, đám cộng sản, lũ cộng hòa, bọn dốt nát, lũ mất gốc, bọn công an, lũ việt cộng, đám phản động, bầy bán nước, lũ ngu dốt..."? Phải chăng với phobolsatv, trên diễn đàn của trang mạng này có quy định từ ngữ nên tránh, còn trong video clip phỏng vấn thì không? Nên sau khi công bố video clip có mặt Ngô Kỷ và để kẻ này ngang nhiên phát ngôn bậy bạ, xúc phạm lãnh tụ của nhân dân Việt Nam, phobolsatv đã gây nên sự bức xúc rất lớn trong người đọc, người xem. Nhiều người phản ứng rất gay gắt, bày tỏ sự phản đối, coi "những clip như thế này không giúp cho việc hòa hợp dân tộc Việt Nam trong và ngoài cùng nhau xây dựng và bảo vệ đất nước"; và thậm chí có người còn nghi ngờ sự kiện nêu trên là kết quả từ "mục đích chính trị" (?).
Trước phản ứng của dư luận, ngày 2-10, phobolsatv đã có thông báo thừa nhận "nhiều phản ánh từ khán, thính giả trong và ngoài nước, cho rằng một số ngôn từ được sử dụng trong các video clip nói trên không thích hợp đối với một kênh truyền thông mang tính đại chúng, vốn có khối khán, thính giả đông đảo bao gồm cả trong và ngoài nước, rất đa dạng về quan điểm chính trị, xã hội, văn hóa và niềm tin. Một cách cụ thể, nhiều người xem đã phản ánh cho biết cảm thấy bị xúc phạm vì một số ngôn từ đã được sử dụng", cho rằng, "những quan tâm và phản ánh này là hoàn toàn chính đáng, và để tránh những buồn phiền, hiểu lầm không đáng có từ khán, thính giả, phobolsatv quyết định chính thức tháo gỡ các video clip nói trên, kể từ khi ra thông báo này. Sự phát tán và sử dụng các ấn bản sao chép từ những video clip này trong tương lai nằm ngoài sự kiểm soát của phobolsatv. Tuy nhiên, phobolsatv sẽ làm mọi cách trong khả năng có thể để ngăn chặn việc phát tán và sử dụng nếu có", đồng thời "trân trọng gửi lời xin lỗi đến từng khán, thính giả đã cảm thấy ưu phiền hoặc bị xúc phạm vì sự cố này".
Thái độ cầu thị của phobolsatv nên được ghi nhận, và cũng nên ghi nhận cả ý kiến thảo luận của người có nick The Pham: "Qua đây Vũ Hoàng Lân rút ra một bài học sơ đẳng nhất về văn hóa truyền thông, thực ra Vũ Hoàng Lân hiểu về hai chữ tự do một cách quá thuần túy mà đây không phải riêng Vũ Hoàng Lân mà phần đa số người Việt ở Mỹ mắc phải. Hy vọng qua đây Vũ Hoàng Lân sẽ không vấp phải một lần nữa. Làm truyền thông không đơn thuần là truyền bá thông tin mà kèm theo nó là sự truyền bá một sản phẩm văn hóa đến bạn đọc, nhất là về mặt ngôn ngữ... Lỗi lầm ai cũng có, nhưng biết đối diện với cái sai và sửa sai mới là điều quý". Sau sự cố cần phải phê phán, người đọc và người xem vẫn hy vọng phobolsatv sẽ rút ra các bài học bổ ích trong hoạt động báo chí sau này.
VŨ HỢP LÂN

Đâu là “Chính trị đích thực”?

QĐND - Gần đây, các thế lực thù địch tập trung tiến công một cách trực diện vào những quan điểm cơ bản của chúng ta về chính trị của quân đội, xây dựng quân đội ta về chính trị; về đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội ta của chúng. Chúng xuyên tạc, cắt xén nội dung chính trị của quân đội ta; giương lên ngọn cờ bảo vệ "nhân dân, Tổ quốc, lãnh thổ", coi đó là "tất cả" chính trị của quân đội ta và yêu cầu cần phải "bỏ hẳn cách hiểu quân đội chỉ cần trung thành với Đảng Cộng sản"!

Những quan điểm trên cũng không có gì là lạ, không khác với quan điểm: “Quân đội và công an chỉ là của quốc gia, dân tộc, không cần đặt dưới sự lãnh đạo của đảng phái nào, lực lượng chính trị nào” mà chúng đã từng rêu rao từ rất lâu và được lặp đi lặp lại trong suốt thời gian qua. Thực chất, đó vẫn là thực hiện mưu đồ loại bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, đối với xã hội và nhân dân Việt Nam; lái chính trị của quân đội ta sang chính trị khác. Trước khi bàn đến chính trị của quân đội ta, cũng cần thấy rõ thực chất chính trị của những người đưa ra các quan điểm trên, chính là ở chỗ đó, chứ chẳng phải là một sự "vô tư, khách quan" nào cả.
Ảnh minh họa/qdnd.vn
Luận điệu quân đội chỉ là "của nhân dân, của dân tộc”, nên quân đội chỉ bảo vệ "nhân dân, Tổ quốc, lãnh thổ" có vẻ như được dựa trên “cơ sở” thực tiễn rằng, quân đội ta có một truyền thống anh hùng gắn với vận mệnh của dân tộc, đã "vì nhân dân quên mình, vì nhân dân hy sinh" (họ cũng làm ra vẻ vì dân, vì nước, nhắc lại mệnh đề này!), đã anh dũng chiến đấu hy sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì độc lập, tự do của Tổ quốc trong nhiều thập kỷ qua của lịch sử Việt Nam; rằng, quân đội ta là quân đội có quan hệ máu thịt với nhân dân, là quân đội của dân, do dân và vì dân.
Từ những cơ sở đó, cho nên, họ đặt vấn đề quân đội chỉ là "của nhân dân, của dân tộc”; chỉ bảo vệ "nhân dân, Tổ quốc, lãnh thổ", đó mới là “chính trị đích thực” của quân đội, chứ không cần thiết phải đặt dưới sự lãnh đạo của một đảng phái và không phải bảo vệ, trung thành với một đảng phái nào, một lực lượng chính trị nào! (thực chất, theo họ, đó là Đảng Cộng sản Việt Nam).
Đây thực sự là một thủ đoạn lừa bịp, vô căn cứ, phản động về chính trị và phản khoa học cả về lý luận và thực tiễn. Song, nó dễ làm cho một số người nhẹ dạ cả tin, có thể lầm tưởng rằng các quan điểm đó là phù hợp, cần thiết.
Dùng chiêu thức này, các thế lực thù địch đã trực tiếp lợi dụng và đánh vào tình cảm của nhân dân ta đối với quân đội. Từ tình yêu mến và lòng tự hào chính đáng về quân đội anh hùng đến việc cho rằng, quân đội là chỉ "của nhân dân, của dân tộc”, chỉ bảo vệ "nhân dân, Tổ quốc, lãnh thổ" như là sự phát triển “lô-gích tự nhiên” trong nhận thức, tình cảm của nhân dân đối với quân đội. Chúng cố tình khơi lên và đẩy đến cái sự phát triển “lô-gích tự nhiên” ấy.
Làm sao mà có thể nói rằng, quân đội chỉ là "của nhân dân, của dân tộc” một cách chung chung, không cần sự lãnh đạo của một đảng phái, lực lượng chính trị nào. Bất cứ quân đội nào thì vấn đề chính trị của quân đội cũng đều là vấn đề quan trọng hàng đầu, đó thực chất là vấn đề bản chất giai cấp, mục tiêu lý tưởng chiến đấu của quân đội, do ai tổ chức và lãnh đạo, chiến đấu cho ai, vì ai. Chẳng cần trích dẫn kinh điển để tranh luận, nhưng bản thân họ cũng có thể hiểu (và chắc đã hiểu), tính tất yếu khách quan của việc phải có một lực lượng chính trị, một giai cấp, nhà nước tổ chức ra quân đội. Quân đội là "của nhân dân, của dân tộc", nhưng quân đội “của nhân dân, của dân tộc” ấy do ai lập nên, do ai tổ chức, rõ ràng là phải do một lực lượng chính trị nhất định.
Lịch sử nhân loại chứng tỏ rằng, con đường phát triển của các dân tộc, sự nghiệp cách mạng của nhân dân các nước bao giờ cũng do một lực lượng chính trị đại biểu cho lợi ích của dân tộc, của nhân dân dẫn dắt và lãnh đạo. Lực lượng lãnh đạo dân tộc, nhân dân ấy cũng đồng thời là lực lượng tổ chức và lãnh đạo quân đội "của nhân dân, của dân tộc”. Quân đội là công cụ bạo lực vũ trang của một giai cấp, nhà nước nhất định, của lực lượng chính trị đang đại biểu cho lợi ích quốc gia, dân tộc, đang lãnh đạo và dẫn dắt dân tộc, nhân dân trên con đường phát triển. Dù có gọi là “của nhân dân, của dân tộc” thì quân đội cũng phải do nhà nước, do một lực lượng chính trị nhất định tổ chức và nuôi dưỡng.
Bản chất chính trị-xã hội của quân đội “của nhân dân, của dân tộc” ấy nhất thiết phải mang bản chất của nhà nước, của lực lượng chính trị đã tổ chức ra nó, chịu sự lãnh đạo và phải trung thành với nhà nước, lực lượng chính trị tổ chức ra nó.
Thử hỏi, nếu nói rằng, quân đội chỉ là “của nhân dân, của dân tộc” thì quân đội ấy mang bản chất nào, mang bản chất của ai? Hay là “không có bản chất! Đây là một kiểu giọng điệu nhằm để đánh lừa người khác, chứ bản thân những kẻ rêu rao cho quan điểm trên cũng thừa hiểu, quân đội phải mang bản chất chính trị và phải phục vụ cho ai. Thực chất luận điệu quân đội chỉ là “của nhân dân, của dân tộc” là nhằm xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng ta đối với quân đội, để một lực lượng chính trị khác sẽ nắm quân đội. Đây thực sự là luận điệu vô căn cứ, phản khoa học, rất có hại, ảnh hưởng xấu đến sự nghiệp xây dựng quân đội, đến sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Những kẻ rêu rao quan điểm quân đội chỉ bảo vệ "nhân dân, Tổ quốc, lãnh thổ", thế mới là “chính trị đích thực”, đã cố tình cắt xén chính trị của quân đội ta, cố tình tước bỏ cốt lõi trong chính trị của quân đội ta. Đúng nhiệm vụ của quân đội ta là phải bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân, dân tộc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước; song nhiệm vụ đó bao giờ cũng gắn với bảo vệ chế độ và người tổ chức, lãnh đạo, giáo dục quân đội, đó là Đảng Cộng sản.
Lịch sử xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của quân đội ta đã như vậy và hiện nay vẫn như vậy. Những kẻ rêu rao quan điểm trên đã "không nhớ đến" trong lịch sử dân tộc, ông cha ta cũng đã từng nói đến bảo vệ "sơn hà" phải gắn liền với bảo vệ "xã tắc" đó sao. Họ hãy nghiên cứu kỹ thêm về lịch sử dân tộc, lịch sử của Quân đội nhân dân Việt Nam, để hiểu thế nào là “chính trị đích thực” của quân đội ta.
Dân tộc Việt Nam, giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã sản sinh ra Quân đội nhân dân Việt Nam, quân đội của dân, do dân và vì dân, chiến đấu vì lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Mối quan hệ giữa vấn đề giai cấp và vấn đề nhân dân, dân tộc trong cách mạng Việt Nam được thể hiện sâu sắc trong bản chất chính trị-xã hội của quân đội ta. Đưa ra luận điểm quân đội là chỉ "của nhân dân, của dân tộc”, các thế lực thù địch cố tình làm cái việc “tách” vấn đề giai cấp và vấn đề nhân dân, dân tộc trong bản chất, mục tiêu lý tưởng chiến đấu của quân đội ta. Đó là quan điểm vừa phản khoa học, vừa phi lịch sử. Chúng cố làm cái việc “tách” ra đó thực chất là nhằm tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, gắn quân đội ta với chính trị khác, chính trị tư sản.
Không thể tách vấn đề giai cấp và vấn đề nhân dân, dân tộc trong bản chất, mục tiêu lý tưởng chiến đấu, trong chức năng, nhiệm vụ của quân đội. Quân đội ta là của dân tộc Việt Nam, của nhân dân Việt Nam, cũng đồng thời là của giai cấp công nhân Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Nhiệm vụ của quân đội là bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân, nhưng chỉ có Quân đội nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mới có thể làm tròn phận sự trung thành với Tổ quốc và nhân dân Việt Nam theo đúng nghĩa của nó; mới có thể làm cho sự trung thành với Đảng, Nhà nước, chế độ và với Tổ quốc, nhân dân, dân tộc gắn bó chặt chẽ với nhau trong chỉnh thể thống nhất, không tách rời. Chính trị đích thực và đầy đủ của quân đội ta là thực hiện chính trị của Đảng và Nhà nước Việt Nam, phục vụ Đảng, Tổ quốc, phục vụ nhân dân, biểu hiện tập trung ở nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Không thể "giả nhân, giả nghĩa" nói bừa rằng, quân đội chỉ bảo vệ "nhân dân, Tổ quốc, lãnh thổ", thế mới là “chính trị đích thực”, không cần đặt dưới sự lãnh đạo của lực lượng chính trị, đảng phái nào!
PGS, TS NGUYỄN MẠNH HƯỞNG

Âm mưu, thủ đoạn chống phá quân đội ta về chính trị của các thế lực thù địch

QĐND - Đấu tranh chống “Diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng ta là Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối đổi mới đất nước của Đảng, là một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách của Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong tình hình mới, nhiệm vụ xây dựng quân đội ta về chính trị có điều kiện thuận lợi hơn so với các thời kỳ trước đây, song cũng gặp không ít khó khăn, thách thức; đặc biệt đó là sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch đối với quân đội ta.
Để chủ động đấu tranh làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình” chống phá quân đội ta về chính trị, tư tưởng, trước hết cần phải nhận diện rõ những âm mưu, thủ đoạn hết sức xảo quyệt, tinh vi của các thế lực thù địch. Những âm mưu và thủ đoạn thể hiện trên một số vấn đề chủ yếu sau:
Thứ nhất, các thế lực thù địch tập trung chống phá nền tảng tư tưởng, lý luận của Đảng ta, nhằm làm biến chất chính trị quân đội ta.
Trong nhiều thập kỷ qua, các thế lực thù địch luôn tập trung công kích, xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng ta là Chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Chúng tung ra và cổ xúy cho luận điệu “quân đội phi giai cấp”; “quân đội nhà nghề”; ra sức rao giảng rằng, quân đội chỉ là công cụ của Nhà nước, chỉ có sứ mệnh bảo vệ quốc gia chống xâm lược, chứ không có quân đội nhân dân và không thuộc một thể chế chính trị nào (!)… Mưu đồ hiểm độc của chúng hòng làm cho quân đội ta từng bước biến chất về chính trị, mất phương hướng và mục tiêu chiến đấu.
Những kẻ thù của cách mạng rất lo sợ Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành vũ khí tinh thần, ngọn cờ giải phóng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam; đó cũng là vũ khí tư tưởng vô địch của quân đội ta. Vì vậy, chúng không ngừng tấn công quyết liệt vào những vấn đề nguyên tắc, các luận điểm cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm tạo sự rung chuyển, phá vỡ quan điểm, lý luận đổi mới của Đảng ta về CNXH. Chúng tung ra các luận thuyết tư sản có vẻ “khách quan”, “khoa học”; võ đoán cho rằng Chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã “lỗi thời”, “cáo chung”; xuyên tạc trắng trợn đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta; khuếch trương, cổ xúy xã hội tư sản hòng làm cho cán bộ, chiến sĩ lung lạc niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường đi lên CNXH ở nước ta hiện nay.
Thứ hai, các thế lực thù địch ra sức xuyên tạc vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” ở Việt Nam, nhằm làm cho quân đội ta mất phương hướng chính trị và suy giảm bản lĩnh chiến đấu.
Chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” là sở đoản của các thế lực thù địch sử dụng để chống phá cách mạng Việt Nam từ trước đến nay. Đó cũng là những ngón đòn thâm hiểm mà chúng sử dụng hòng gây kích động trong quân đội. Thông qua phát tán tài liệu, sách báo phản động, kẻ địch tung ra các luận điệu cho rằng “chế độ đảng trị” là nguyên nhân gây trở ngại phát triển nền dân chủ ở Việt Nam. Chúng đòi Đảng ta thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; phải “chuyên nghiệp hóa quân đội” thì xã hội mới có dân chủ.
Trước những thành tựu về thực hiện quyền con người ở Việt Nam trong gần 30 năm Đổi mới, các thế lực thù địch càng hằn học và tìm mọi cách để bôi nhọ, hạ uy tín các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội, công an; chúng thực thi mọi thủ đoạn xảo trá để hòng xóa nhòa truyền thống, phẩm chất và hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ đã trở thành giá trị văn hóa đặc sắc của dân tộc Việt Nam. Chúng cũng luôn xoi tìm mọi kẽ hở, thiếu sót trong tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề dân tộc, tôn giáo để kích động, lôi kéo quân đội can dự vào các vấn đề nhạy cảm đó.
Thứ ba, các thế lực thù địch đẩy mạnh xuyên tạc quan điểm, lý luận đổi mới của Đảng ta về nền kinh tế thị trường, nhằm làm cho cán bộ, chiến sĩ nhận thức sai lệch về đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.
Trải qua gần 30 năm thực hiện đường lối Đổi mới, những quan điểm, lý luận của Đảng về phát triển nền kinh tế đã đưa đất nước từng bước vượt qua mọi khó khăn, thách thức và ngày càng phát triển vững chắc. Tuy nhiên, các thế lực thù địch vẫn không ngớt tung ra nhiều luận điệu xuyên tạc, lừa mị, nhằm cản trở, chống đối quan điểm, lý luận đổi mới của Đảng về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Chúng lặp đi lặp lại luận điệu cũ rích rằng, kinh tế thị trường là sản phẩm của CNTB, phải gắn với CNTB; không thể dung hợp kinh tế thị trường với CNXH. Thậm chí, chúng còn cố bịa đặt, suy diễn, coi định hướng XHCN “chỉ mang ý nghĩa thuần túy quyền lực”… Những quan điểm, luận điệu phản động đó được chúng tìm mọi cách để thâm nhập vào tư tưởng, niềm tin và hành động của cán bộ, chiến sĩ, hòng thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ quân đội ta theo mô hình quân đội tư sản, mà chúng cho đó là phù hợp với nền kinh tế thị trường TBCN.
Một số hình thức mà các thế lực thù địch sử dụng để chống phá quân đội ta về chính trị, tư tưởng là: Chúng tìm mọi cách đan xen nội dung tuyên truyền quan điểm, luận điệu xuyên tạc, phản động vào hoạt động của quân đội ta, thông qua diễn đàn khoa học, phát tán tài liệu, rải tờ rơi, “phiếu cung cấp thông tin” (Alert), thư điện tử và internet; cổ xúy việc viết “thư góp ý”, “hồi ký” của cán bộ quân đội lão thành… các thế lực thù địch đã lập ra hàng trăm tổ chức phản động ở nước ngoài; tổ chức các nhóm chính trị đối lập và mưu đồ công khai hóa hoạt động ở trong nước. Lực lượng an ninh của ta đã phát hiện, ngăn chặn kịp thời hoạt động chống phá của các thế lực thù địch cả ở nước ngoài và trong nước; kiểm tỏa chặt chẽ hoạt động của các đối tượng chống đối, cơ hội chính trị.
Về phương tiện chống phá, các thế lực thù địch tổ chức một số trung tâm ở hải ngoại do bọn phản động cầm đầu và huy động tối đa các phương tiện thông tin với nhiều cấp độ, đặt tại nhiều vùng lãnh thổ của một số nước để tuyên truyền, xuyên tạc đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta; phá hoại quân đội ta về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Chúng thiết lập một hệ thống các nhà xuất bản, đài phát thanh và truyền hình… ở nước ngoài để chĩa mũi nhọn tuyên truyền chống phá Việt Nam; tận dụng tối đa mạng internet, báo điện tử, các website… nhằm tăng cường phát tán các tài liệu phản động vào nội địa nước ta.
Các thế lực thù địch chống phá quân đội ta về chính trị với nhiều thủ đoạn vừa ngấm ngầm, tinh vi, xảo quyệt, vừa công khai trắng trợn; kết hợp cả lực lượng bên ngoài và bên trong; triển khai trên tất cả các lĩnh vực hoạt động; lợi dụng tất cả các phương tiện, các tình huống; sử dụng tất cả các hình thức, biện pháp để chống phá. Việc đẩy mạnh đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận và văn hóa của quân đội ta hiện nay thực sự là một cuộc đấu tranh nóng bỏng, rất quyết liệt, phức tạp và còn nhiều khó khăn. Kết quả cuộc đấu tranh này tác động sâu sắc đến xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị. Vì vậy, đòi hỏi các cấp ủy, người chỉ huy, cơ quan chính trị, chính ủy, chính trị viên cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục cho các đối tượng luôn nhận rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; quản lý chặt chẽ những “kênh” thông tin mà kẻ địch thường sử dụng để truyền bá quan điểm, luận điểm xuyên tạc, phản động như: Internet, đĩa hình, sách báo, các diễn đàn chính trị, văn hóa…; dự báo những tình huống phức tạp nảy sinh về tư tưởng chính trị trong cán bộ, chiến sĩ và xác định biện pháp giải quyết phù hợp, hiệu quả; khắc phục tình trạng triển khai hoạt động đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” một cách hình thức, thụ động, mang tính “thời vụ”.
Trong tình hình mới, các thế lực thù địch vẫn luôn câu kết chặt chẽ với nhau để thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta, chống phá quân đội ta về chính trị với cấp độ và cường độ ngày càng quyết liệt, thâm hiểm hơn. Song mọi mưu mô xảo quyệt và thủ đoạn thâm hiểm của các thế lực thù địch có đạt được hay không, điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào bản lĩnh, trí tuệ và kinh nghiệm lãnh đạo của mỗi tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy, của đội ngũ chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam.

Th.S NGUYỄN ĐỨC THẮNG         

Chiêu trò chống phá núp bóng quyền tiếp cận thông tin của công dân

Thời gian gần đây, trên trang các web, blog của một số cá nhân, tổ chức, hãng thông tấn nước ngoài đã đăng tải nhiều bài viết có nội dung xuyên tạc quyền tiếp cận thông tin của công dân ở Việt Nam. Thông qua việc đòi hỏi chính quyền và các cơ quan chức năng phải công khai những thông tin thuộc về bí mật quốc gia, tác giả những bài viết này đã cố tình hướng lái, quy kết cho rằng, lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam bưng bít thông tin, ngăn cản, hạn chế việc quần chúng nhân dân “được biết” và thể hiện “trách nhiệm, nghĩa vụ công dân đối với vận mệnh đất nước”.
Việc làm của các cá nhân, tổ chức này không nằm ngoài mục đích xuyên tạc bản chất vấn đề, gây ra sự hiểu nhầm, hiểu sai lệch về thực tế quyền tiếp cận thông tin của công dân Việt Nam trong mắt bạn bè quốc tế.
Chúng ta đều biết, ngay từ những ngày đầu tiên giành độc lập, việc đảm bảo các quyền cơ bản của công dân nói chung, quyền tiếp cận thông tin nói riêng luôn được Đảng ta quan tâm, ghi nhận trong Hiến pháp, hệ thống pháp luật và được xem là mục đích tối thượng trong sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc. Trải qua các giai đoạn, quyền tiếp cận thông tin được liên tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với bối cảnh lịch sử và trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước, nhằm mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân.
Quá trình sử đổi, ban hành Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992, đặc biệt là Hiến pháp năm 2013 (Điều 25) đã thể hiện một cách toàn diện, đầy đủ quan điểm, chủ trương, cũng như quyết tâm của Đảng, Nhà nước trong nỗ lực đảm bảo các quyền cơ bản của công dân, trong đó có quyền tiếp cận thông tin.
Bên cạnh đó, tùy theo các lĩnh vực, góc độ, cấp độ khác nhau, Đảng, Nhà nước ta cũng đã cụ thể hóa quy định của Hiến pháp bằng các văn bản luật, dưới luật trực tiếp hoặc gián tiếp điều chỉnh quyền tiếp cận thông tin của công dân, cũng như trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức, cơ quan chức năng trong việc cung cấp thông tin, như: Luật Báo chí; Luật Khiếu nại, tố cáo; Luật Phòng, chống tham nhũng; Luật Ngân hàng Nhà nước; Luật Ngân sách Nhà nước; Pháp lệnh Bảo vệ bí mật Nhà nước... Đây là cơ sở pháp lý quan trọng làm nền tảng cho việc đảm bảo các quyền con người, đặc biệt là quyền tiếp cận thông tin được thực hiện trên thực tế.
Trên phương diện thực tiễn, những năm qua, cùng với sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng của các loại hình, phương tiện truyền thông đại chúng; các cơ chế dân chủ rộng rãi như: chất vấn lãnh đạo cấp ủy đảng, chính quyền các cấp, “dân hỏi – Bộ trưởng trả lời”, tọa đàm, tranh luận, phản biện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội... thì quyền tiếp cận thông tin của công dân đang ngày càng được đáp ứng, đảm bảo tốt hơn.
Ngoài các loại hình báo chí, hiện còn có 336 mạng xã hội và 1.174 trang thông tin điện tử được cấp phép hoạt động. Người dân Việt Nam được tiếp cận với 75 kênh truyền hình nước ngoài, trong đó có nhiều kênh phát rộng rãi trên toàn thế giới, như: CNN, BBC, TV5; Bloomberg... Kết quả này đã góp phần làm thỏa mãn nhu cầu thông tin đa chiều của nhân dân không chỉ là những vấn đề trong nước mà trên toàn thế giới; đồng thời, phản ánh một cách khách quan, sinh động, chân thực thực trạng quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam.
Tuy nhiên, ở bất kỳ một quốc gia, vùng lãnh thổ nào trên thế giới, việc quy định giới hạn nội dung thông tin được tiếp cận tới đâu là vấn đề có tính nguyên tắc. Việt Nam không phải là quốc gia ngoại lệ. Pháp lệnh số 30/2000/PL-UBTVQH10 ngày 28/12/2000 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa X về Bảo vệ bí mật Nhà nước đã quy định rõ đối với những tin thuộc bí mật Nhà nước, “Nhà nước có thể không công bố hoặc chưa công bố... Các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức khác, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân đều có nghĩa vụ, trách nhiệm bảo vệ…”. Điều đó đồng nghĩa với việc sẽ có những hạn chế nhất định trong việc cung cấp cũng như tìm hiểu, tiếp cận những thông tin liên quan đến bí mật nhà nước. Việc cung cấp những thông tin này phụ thuộc vào tính chất, mức độ của vụ, việc, bối cảnh lịch sử và tuân thủ quy định của luật pháp. Tuyệt đối không vì đòi hỏi phi lý của một nhóm người mà làm ảnh hưởng đến lợi ích chung của quốc gia, dân tộc. Do đó, sẽ không có gì là vi phạm quyền tiếp cận thông tin của công dân trong trường hợp thông tin đó thuộc bí mật Nhà nước chưa được giải mã.
Liên quan đến vấn đề này, hẳn chúng ta vẫn chưa quên vụ “bom tấn thông tin” gây chấn động thế giới hồi năm 2010 khi mạng tin WikiLeaks công bố hơn 92.000 trang tài liệu mật của quân đội Mỹ về cuộc chiến tranh ở Afghanistan và 400.000 tài liệu mật về chiến tranh Iraq. Những thông tin “nóng hổi” này vào thời điểm đó, không chỉ riêng người dân nước Mỹ, mà toàn thế giới đều quan tâm, muốn biết. Tuy nhiên, mọi thứ vẫn kín như bưng cho đến khi WikiLeaks đưa những thông tin này ra ánh sáng. Điều đáng nói ở đây là, ngay cả ở một đất nước vẫn tự xem mình là thiên đường của nền dân chủ, nhân quyền như Mỹ thì không phải lúc nào chính quyền cũng công khai hóa mọi thông tin, tài liệu của quốc gia. Đương nhiên, theo quan điểm của giới chức trách Mỹ, việc giữ bí mật những thông tin đó là đúng pháp luật nhằm phục vụ cho chính lợi ích quốc gia và nó không được cho là vi phạm quyền tiếp cận thông tin của công dân.
Quay trở lại vấn đề, việc một số tổ chức, cá nhân đăng tải những bài viết yêu cầu chính quyền và cơ quan chức năng Việt Nam phải công khai hóa những thông tin nằm ngoài phạm vi, giới hạn được phép cung cấp là hoàn toàn phi lý. Đó là một trong những chiêu bài nhằm lợi dụng quyền tiếp cận thông tin để xuyên tạc, vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền để phục vụ mưu đồ chính trị xấu xahttp://www.cand.com.vn/Images/reddot.gif
Tân Sơn

Phi chính trị hóa quân đội - Vẫn tích cũ chiêu trò ấy

QĐND - Cứ mỗi khi Đảng ta chuẩn bị tiến hành Đại hội, hay đất nước có sự kiện chính trị là các thế lực thù địch ra sức đẩy mạnh các hoạt động chống phá nhằm gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ Đảng với Nhà nước, quân đội và nhân dân với mục tiêu nhất quán là xóa bỏ chủ nghĩa xã hội mà chúng ta đang xây dựng và bảo vệ. Rất tiếc, đã có không ít người, kể cả cán bộ nguyên là lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước và quân đội do mắc mưu thủ đoạn thâm độc này, nên đã vào hùa để nhai lại những luận điệu sai trái, trong đó có luận điểm “quân đội Việt Nam hiện nay, xét về mọi phương diện thì thực chất là của dân, do dân, chứ không phải là của Đảng”!

Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Ảnh: QĐND.VN
Không phải đến nay luận điệu này mới được tuyên truyền, mà các thế lực thù địch đã sử dụng từ khi diễn ra cuộc cách mạng Nga lần thứ nhất. Khi đó, để đối phó với sự xung đột giữa đa số nhân dân lao động Nga với chính phủ Nga hoàng, bọn tôi tớ của nền chuyên chế này đã ra sức tuyên truyền về “tính trung lập của quân đội, về sự cần thiết phải giữ cho quân đội đứng ngoài chính trị”. Nhận rõ tính chất nguy hại của sự lừa dối này, V.I.Lê-nin đã chỉ ra cho tất cả binh sĩ và quần chúng lao động Nga thấy, các đảng phái chính trị, các chính phủ tư sản đều sử dụng quân đội để bảo vệ lợi ích của giai cấp mình; theo đó: “Bọn sát nhân cần đến quân đội làm công cụ tàn sát. Bọn tư sản tự do chủ nghĩa cần đến quân đội để bảo vệ nền quân chủ tư sản…”. Điều đó cho thấy, luận điệu cho rằng: “quân đội trung lập”, “quân đội không tham gia chính trị” chỉ là những khẩu hiệu giả tạo của các thế lực thù địch; vì vậy, nếu lực lượng nào rêu rao “quân đội phải trung lập về chính trị”, thực chất đó là sự xuyên tạc, lừa dối nhằm che giấu những mưu đồ đen tối, nham hiểm của chúng là “phi chính trị hóa” quân đội mà thôi.
Cả lý luận và thực tiễn lịch sử của các xã hội có giai cấp cho thấy: Nhà nước và quân đội là sản phẩm của xã hội có giai cấp; giai cấp nào đương quyền lãnh đạo xã hội, cũng đều tìm cách nắm quân đội và sử dụng quân đội như một công cụ bạo lực để tiến hành đấu tranh giai cấp. Trong lịch sử cận, hiện đại và đương đại, các chính đảng đều thông qua nhà nước để nắm quân đội nhằm thực hiện mục tiêu chính trị. Đó không chỉ là ngoại lệ đối với các nước có thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa, mà rất phổ biến ở các nước theo thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa.
Ngay ở các nước tư bản chủ nghĩa duy trì thể chế đa đảng, các chính đảng luôn đấu tranh với nhau để nắm chính quyền, thông qua đó lãnh đạo xã hội, nhưng trong thực tế, chỉ có các chính đảng được sự hậu thuẫn của các thế lực tư bản độc quyền mới có thực lực và cơ hội nắm quyền; vì thế, tính nhất nguyên về chính trị của nhà nước tư sản chưa bao giờ mất đi, cho dù chính đảng nào giành quyền lãnh đạo. Do vậy, quân đội của các nước này vẫn là công cụ chủ yếu để bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản. Theo đó, quân đội là bộ phận cấu thành của nhà nước tư sản, được nhà nước tư sản nuôi dưỡng, quản lý và sử dụng, nên mục tiêu chiến đấu, cơ chế quản lý đối với quân đội đó phụ thuộc vào quan điểm và mục tiêu chính trị của giai cấp tư sản. Vì thế, quân đội ở các nước này bao giờ cũng là lực lượng chính trị mang bản chất của nhà nước tư sản. Trong thực tiễn, quân đội tư sản không chỉ được sử dụng để bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản, mà còn để đàn áp sự phản kháng của nhân dân lao động ở ngay nước đó và ở các nước mà họ tiến hành chiến tranh xâm lược. Lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam chống lại sự xâm lược, ách thống trị của thực dân Pháp, phát xít Nhật và đế quốc Mỹ đã chứng minh bản chất chính trị tư sản của quân đội tư sản. Như vậy, trong thực tế đã không có và sẽ không thể có quân đội “trung lập về chính trị” như người ta đang rao giảng, ảo tưởng.
Sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô để lại bài học đau xót về xây dựng bản chất chính trị của quân đội. Với việc từ bỏ quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin về xây dựng quân đội kiểu mới, nhất là với sự phản bội của một số người trong ban lãnh đạo, mà quân đội Xô-viết đã thực hiện chủ trương “phi chính trị hóa”, xóa bỏ cơ chế Đảng lãnh đạo quân đội. Chủ trương đó nhanh chóng làm cho quân đội Xô-viết bị biến chất về chính trị, bị vô hiệu hóa trước sức công phá của “Diễn biến hòa bình” do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch tiến hành, nên không còn là lực lượng nòng cốt bảo vệ thành quả Cách mạng Tháng Mười, thành quả của nhiều thế hệ người Xô-viết xây đắp nên.
Thực tiễn 70 năm xây dựng và phát triển của quân đội ta luôn gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng. Từ ngày đầu thành lập, Đảng ta và Hồ Chí Minh đã coi trọng xây dựng bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của quân đội ta. Tuy trải qua một số lần thay đổi cơ chế lãnh đạo, nhưng nguyên tắc Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp, về mọi mặt đối với quân đội là bất biến. Cái giá phải trả khi từ bỏ nguyên tắc xây dựng quân đội ở Liên Xô, cũng như bài học về xây dựng lực lượng vũ trang Việt Nam (ở Nam Bộ) những năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám nhắc chúng ta rằng, trong mọi hoàn cảnh, phải kiên trì quan điểm “Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội”; coi đó là nguyên tắc bất biến để xây dựng quân đội tinh nhuệ về chính trị. Mọi suy nghĩ và hành động làm suy yếu sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, cần phải vạch trần và đấu tranh kiên quyết; nếu để điều đó xảy ra, quân đội sẽ mất phương hướng hành động, biến chất về chính trị, sẽ đứng ngoài cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Lịch sử 70 năm xây dựng quân đội về chính trị khẳng định rõ điều đó; vì thế, cần kiên quyết bác bỏ quan điểm quân đội trung lập.
Từ mấy vấn đề trên có thể khẳng định, những ai cho rằng “quân đội Việt Nam hiện nay, xét về mọi phương diện thì thực chất là của dân, do dân, chứ không phải là của Đảng” là xuyên tạc hiện thực, mà mục tiêu thật ẩn sau luận điểm này là nhằm chia rẽ quân đội với Đảng, tước bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội; tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội, tạo nguyên cớ cho các thế lực có thâm thù với cách mạng tiến hành “cuộc chiến không đánh mà thắng”, xóa bỏ hoàn toàn chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây vẫn là tích cũ, chiêu trò ấy, nhưng tiến hành dưới chiêu bài “phát huy dân chủ nội bộ, phát huy tính chủ động của cán bộ chỉ huy, bất kể là cán bộ quân sự hay chính trị” với hy vọng làm xáo trộn tư tưởng, gieo rắc hoài nghi, kích động hận thù, cổ xúy hoạt động chống phá, trước mắt là chống phá Đại hội Đảng các cấp, về lâu dài là “phi chính trị hóa” quân đội ta. Tuy việc làm này chỉ đem lại sự phấn khích cho những ai nông cạn, cả tin, hoặc ai đó mơ hồ, mặc cảm, bất mãn với chế độ ta, song chúng ta vẫn cần nêu cao cảnh giác để khỏi mắc mưu lừa đảo của các thế lực thù địch.
Để vạch trần sự lừa bịp về xây dựng quân đội, nhất là xây dựng quân đội về chính trị đang diễn ra hiện nay, một mặt, cần nâng cao tinh thần cảnh giác, nâng cao ý thức và trách nhiệm chính trị trong thực hiện quyền dân chủ và nghĩa vụ công dân; mặt khác, phải coi trọng xây dựng quân đội tinh nhuệ về chính trị, mà cốt lõi là giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội; chăm lo giáo dục chính trị theo hướng đổi mới cả nội dung và hình thức nhằm làm cho mọi quân nhân luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; bảo đảm cho quân đội ta là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
PGS, TS TRẦN ĐĂNG BỘ

"Quân sự không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại"

QĐND - Triết lý chính trị sâu sắc này được Chủ tịch Hồ Chí Minh nói ngày 25-10-1953, khi đến thăm Trường Chính trị trung cấp quân đội. Nó chỉ ra tầm quan trọng đặc biệt của chính trị đối với quân sự và quân đội ta. Nó cũng bác bỏ luôn các quan điểm sai lầm rằng: “Quân đội sinh ra là để bảo vệ nhân dân, bảo vệ Tổ quốc (BVTQ), bảo vệ cương vực, lãnh thổ, không phải là để bảo vệ bất cứ một đảng phái hay một thể chế chính trị nào?”; “Phải thay đổi cách giáo dục tư tưởng, chính trị trong quân đội, bỏ hẳn cách giáo dục áp đặt”; “Nên chăng, có thể bỏ dần chế độ cán bộ chính trị… vì trong thực tiễn, cán bộ chỉ huy nào cũng đều làm tốt được công tác chính trị cả”... Đồng thời cho thấy, sự kém hiểu biết về lý luận và thực tiễn xây dựng quân đội về chính trị trên các vấn đề cơ bản sau:
1. Quân đội trước hết và bao giờ cũng là công cụ bạo lực để thực hiện mục tiêu chính trị của nhà nước và giai cấp cầm quyền. Từ khi có giai cấp và nhà nước đến nay, dù là của giai cấp nào thì quân đội luôn là lực lượng vũ trang (LLVT) của một giai cấp, nhà nước, tập đoàn xã hội nhất định; là công cụ để tiến hành đấu tranh vũ trang nhằm thực hiện mục đích chính trị của giai cấp, nhà nước, tập đoàn xã hội tổ chức ra nó. Đứng ở mũi đầu của cuộc đấu tranh chính trị, quân đội vừa là một lực lượng chính trị, một bộ phận chính trị của nhà nước, vừa là biểu hiện tập trung nhất của chính trị nhà nước, của đấu tranh giành, giữ quyền lực nhà nước. Đây là một thực tiễn lịch sử, một chân lý đã được khái quát thành nguyên lý trong các học thuyết xây dựng quân đội của mọi giai cấp và nhà nước tư sản hay vô sản. Giai cấp nào, nhà nước nào không nắm vững, xao nhãng, từ bỏ chân lý này tất yếu sẽ mất quân đội, mất quyền lực nhà nước và sẽ bị giai cấp, lực lượng chính trị-xã hội đối lập tước bỏ mọi lợi ích.
Vì vậy, quan điểm của V.I.Lê-nin từ Cách mạng 1905 rằng: “Quân đội không thể và không nên trung lập. Không lôi kéo quân đội vào chính trị-đó là khẩu hiệu của bọn tôi tớ giả nhân, giả nghĩa của giai cấp tư sản và của chế độ Nga hoàng, bọn này trong thực tế, bao giờ cũng đã lôi kéo quân đội vào chính trị phản động” đã được lịch sử chứng minh là hoàn toàn đúng đắn và còn nguyên giá trị. Chân lý đó không chỉ đúng với cách mạng Nga-cuộc cách mạng XHCN một thời đã làm “long trời, lở đất” cái thế giới “tự do”, mà còn đúng với hoàn cảnh thực tiễn của cách mạng Việt Nam từ năm đầu xây dựng quân đội, thiết lập Nhà nước của giai cấp công nhân (GCCN) và nhân dân lao động Việt Nam đến nay.
2. Quân đội nhân dân Việt Nam được xây dựng trên nguyên tắc “chính trị trọng hơn quân sự”, “lấy chính trị làm gốc”. Quan điểm này của Đảng ta và Hồ Chủ tịch không chỉ đúng với học thuyết Mác - Lê-nin về xây dựng quân đội của giai cấp vô sản, mà còn kế thừa những giá trị truyền thống đặc sắc về xây dựng quân đội của ông cha ta, như “hun đúc bằng những điều nhân nghĩa” cho quân đội. Hơn cả, là sự phù hợp với thực tiễn cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, BVTQ của nước ta đang thua kém hơn các thế lực xâm lược về vũ khí trang bị, phương tiện chiến tranh. Vì vậy, việc coi trọng nhân tố chính trị-tinh thần, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị có ý nghĩa quan trọng đặc biệt.
Ngày đầu định tên cho quân đội ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Đảng ta xác định: “Chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền”. Đồng chí Võ Nguyên Giáp nói rõ: “Tuyên truyền trọng hơn tác chiến”; “Vận dụng vũ trang tuyên truyền để kêu gọi toàn dân đứng dậy, chuẩn bị cơ sở chính trị và quân sự cho khởi nghĩa sau này”. Từ đó, quân đội ta luôn chăm lo xây dựng vững mạnh toàn diện, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở để nâng cao sức mạnh chiến đấu tổng hợp. Hồ Chủ tịch xác định: “Muốn cho quân đội ta quyết chiến quyết thắng hơn nữa thì phải săn sóc đời sống vật chất của họ, nâng cao trình độ chiến thuật và kỹ thuật của họ, nhất là giáo dục chính trị, làm cho có lập trường vững chắc, lập trường quân đội của nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo. Trong việc chỉnh huấn bộ đội, phải lấy chính trị làm gốc, phải khởi đầu từ cán bộ dần dần đến toàn thể nhân viên. Phải chú trọng bồi dưỡng và cất nhắc cán bộ công nông. Phải làm cho quân đội ta trở nên thật là một quân đội cách mạng của nhân dân, một quân đội vô địch”. Đến thăm Trường Chính trị trung cấp quân đội, Người căn dặn bộ đội phải: “Học tập chính cương, chính sách của Đảng cho hiểu mà làm cho đúng, tức là thực hành Chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Chính cương và chính sách của Đảng đối với công việc kháng chiến và kiến quốc là áp dụng Chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào hoàn cảnh của cách mạng ta”. Người yêu cầu quân sự phải phục tùng chính trị, phải hướng vào hoàn thành nhiệm vụ chính trị và cảnh báo: “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”.
Nhờ tuân thủ vấn đề cơ bản này mà 70 năm qua, quân đội ta không chỉ tạo nên được sức mạnh chiến đấu tổng hợp, đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược mà còn góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta. Sự hiểu biết không đầy đủ hoặc cố tình xuyên tạc vấn đề này ắt hiểu sai về chính trị quân đội.
3. Mang bản chất GCCN, có tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc, có mục tiêu chiến đấu vì độc lập dân tộc và CNXH, vì hạnh phúc của nhân dân-biểu hiện tập trung của xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về chính trị. Sự nghiên cứu, quán triệt không đầy đủ vấn đề này ắt dẫn đến sai lầm: Một là, tuyệt đối hóa bản chất GCCN của quân đội; hai là, tuyệt đối hóa tính nhân dân, tính dân tộc của quân đội. Vừa qua đã xuất hiện nhận thức, quan điểm, kiến nghị lối thứ hai này. Sự sai lầm của họ chính là ở chỗ hoặc đọc chưa hết, học chưa thuộc, hiểu chưa kỹ Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng xây dựng quân đội về chính trị; hoặc chỉ nhấn đến tư tưởng “Trung với nước, hiếu với dân” của Người. Hồ Chủ tịch đã nhiều lần nói đến cụm từ này với quân đội ta. Trong đó, có hai lần với Trường Võ bị Trần Quốc Tuấn là nhân Lễ khai giảng ngày 26-5-1946 và thư gửi tháng 5-1948, Người đã tặng trường 6 chữ: “Trung với nước, hiếu với dân”.
Nhớ được lời căn dặn của Người là chưa đủ, mà còn phải hiểu ở giai đoạn đầu xây dựng Nhà nước và quân đội, chuẩn bị kháng chiến chống xâm lược, vì lợi ích của Tổ quốc, đó cũng là lợi ích của Đảng, mà Hồ Chủ tịch và Đảng ta quyết định đưa Đảng vào hoạt động bí mật. Việc này không đồng nghĩa với từ bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Hồ Chủ tịch nhắc đến “Trung với nước, hiếu với dân” là sự hiểu biết sâu sắc về chính trị quân đội mà Đảng ta đã xác định. Người muốn động viên toàn quân phát huy “cái tinh thần tự tôn, tự lập của dân tộc ta mấy nghìn năm để lại” mà “gan góc tiếp tục cái tinh thần bất diệt đó, để truyền lại cho nòi giống Việt Nam muôn đời về sau”. Năm 1951, để động viên toàn dân, toàn quân bước qua thời kỳ khó khăn, ác liệt của cuộc kháng chiến, Trung ương Đảng và Hồ Chủ tịch quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai. Từ đây, bản chất GCCN cùng tính nhân dân, tính dân tộc của quân đội tiếp tục được khẳng định. Bản chất GCCN-đặc tính chính trị căn bản nhất tiếp tục được thể hiện sâu đậm về chính trị, tư tưởng và tổ chức trong quân đội. Không chỉ giáo dục Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, học tập đường lối, quan điểm của Đảng, quán triệt nhiệm vụ đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước, mà cả hệ thống tổ chức quân đội cũng in đậm vai trò lãnh đạo của Đảng. Tổ chức Đảng, cơ quan, cán bộ chính trị, chính ủy, chính trị viên các cấp được tổ chức thống nhất, chặt chẽ trong toàn quân. Công tác Đảng, công tác chính trị là mạch sống của Quân đội nhân dân. Nhờ đó, suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược, sức mạnh chính trị-tinh thần của quân đội được phát huy cao độ. Quân đội hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang trước Đảng, Tổ quốc và nhân dân; xứng đáng với lời khen của Hồ Chủ tịch: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì CNXH. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
Tách bản chất giai cấp ra khỏi chính trị quân đội; tuyệt đối hóa tính nhân dân, tính dân tộc của quân đội; đòi Đảng ta từ bỏ vai trò lãnh đạo đối với quân đội, hay loại bỏ hệ thống cán bộ chính trị trong quân đội… là sự thiếu hiểu biết điều sơ đẳng về chính trị của quân đội ta, là thủ đoạn nham hiểm nhất của tư tưởng đòi “phi chính trị hóa” quân đội hiện nay. Một lần nữa, chúng ta càng thấu suốt lời cảnh báo của Hồ Chủ tịch: “Quân sự không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”.

TS NGUYỄN VĂN QUANG