Hiện thực bác bỏ luận điệu vu cáo “Tự do báo chí”

 07:19 22/06/2021

Đã trở thành quy luật, vào các dịp ngày Tự do báo chí thế giới (3/5) hay kỷ niệm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21/6), một số cá nhân, tổ chức, đài báo tiếng Việt ở nước ngoài có quan điểm, tư tưởng chống phá Việt Nam như Tổ chức phóng viên không biên giới (RSF), Tổ chức Bảo vệ ký giả (CPJ), Tổ chức theo dõi nhân quyền (HRW), Ngôi nhà tự do (Freedom House), Đài Á châu tự do (RFA)... lại đăng tải nhiều bài viết, hình ảnh tuyên truyền, xuyên tạc, vu cáo Việt Nam “đàn áp tự do ngôn luận, tự do báo chí”.

Bên cạnh đưa ra bảng xếp hạng về cái gọi là “tự do ngôn luận”, “tự do báo chí” trong các bản báo cáo, phúc trình, họ còn vu cáo Việt Nam đàn áp, bắt, xử lý các nhà báo vi phạm pháp luật và đạo đức người làm báo, đồng thời gây sức ép đòi cơ quan chức năng Việt Nam trả tự do đối với các nhà báo trên.

Hằng năm, một số tổ chức còn tiến hành trao “giải thưởng tự do báo chí” cho một số nhà báo vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức người làm báo. Những cái tên như Trương Duy Nhất, Phạm Đoan Trang, Phạm Chí Dũng… cũng đã không ít lần được “vinh danh” ở những giải thưởng này.

Bản chất những người nhân danh “nhà báo độc lập” hay “báo sạch”!

Trong các bản tường trình hay báo cáo và các bài viết vu cáo Việt Nam đàn áp tự do báo chí, bắt, giam giữ các nhà báo được một số cá nhân, tổ chức không có thiện chí đăng tải trong thời gian qua, những cái tên trong “Hội nhà báo độc lập” như Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thụy, Lê Hữu Minh Tuấn hay các đối tượng trong nhóm “Báo sạch” như Trương Châu Hữu Danh được nhắc đến rất nhiều.

Đối với Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thụy và Lê Hữu Minh Tuấn được biết đến là những thành viên trong tổ chức tự xưng có tên “Hội Nhà báo độc lập Việt Nam” (được thành lập vào năm 2014 với mục tiêu đấu tranh, làm thay đổi thể chế chính trị Việt Nam), trong đó Phạm Chí Dũng là chủ tịch, Nguyễn Tường Thụy là phó phụ trách chi hội miền Bắc.

Dưới vỏ bọc của tổ chức “Hội Nhà báo độc lập”, các đối tượng trên đã đăng tải nhiều bài viết có nội dung tuyên truyền, phỉ bảng chính quyền nhân dân, bôi nhọ, chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam. Bản án 15 năm tù giam, 3 năm quản chế tại địa phương đối với Phạm Chí Dũng; 11 năm tù giam, 3 năm quản chế tại địa phương đối với Nguyễn Tường Thụy; 11 năm tù giam, 3 năm quản chế đối với Lê Hữu Minh Tuấn cùng về tội “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống phá Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam” được TAND thành phố Hồ Chí Minh tuyên phạt tại phiên tòa sơ thẩm ngày 5-1-2021 là thích đáng cho những người coi thường pháp luật, chống phá đất nước. 

Đối với Trương Châu Hữu Danh và Đoàn Kiên Giang, Nguyễn Thanh Nhã, Nguyễn Phước Trung Bảo trong nhóm “Báo sạch” thì ngày 16/6/2021, Viện KSND thành phố Cần Thơ chuyển trả toàn bộ hồ sơ vụ án đến cơ quan An ninh điều tra, Công an thành phố Cần Thơ  đề nghị điều tra bổ sung, làm rõ hành vi của một số đối tượng có liên quan đến vụ án.

Sau đó trên trang RFA đã đăng tải bài viết “Nhóm “Báo sạch” bị điều tra về cáo buộc cố ý làm lộ bí mật Nhà nước” và vu cáo “Việc bắt giữ bốn nhà báo nằm trong xu thế đáng lo ngại đối với Việt Nam”, đồng thời kêu gọi cơ quan chức năng “trả tự do cho tất cả những người bị giam giữ một cách bất công, cho phép tất cả mọi công dân được bày tỏ quan điểm một cách tự do và không sợ bị trả thù”.

Trên thực tế, Trương Châu Hữu Danh cùng đồng phạm đã lợi dụng quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí để đăng tải những bài viết, video, hình ảnh trên các trang cá nhân Facebook, nhóm "Báo sạch" và kênh Youtube BS Chanel liên quan đến các vụ việc xảy ra tại TP Cần Thơ và một số địa phương khác với những nội dung xuyên tạc sự thật, vu cáo, chống phá và trục lợi cá nhân. Trương Châu Hữu Danh và đồng phạm còn chia sẻ, trao đổi, tàng trữ 9 tài liệu “mật” và “tối mật” liên quan một số vụ án.

Với những hành vi trên, Trương Châu Hữu Danh bị khởi tố, bắt giam để điều tra về tội "lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”, “cố ý làm lộ bí mật Nhà nước, chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy vật hay bí mật Nhà nước” và dư luận đang chờ bản án nghiêm khắc đối với những kẻ mang danh “Báo sạch” để phạm tội.

Việc các cơ quan chức năng xử lý các đối tượng đã lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí vi phạm quyền và lợi ích của Nhà nước và công dân theo pháp luật như các thành viên trong “Hội Nhà báo độc lập”, “Báo sạch”... là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam cũng như luật pháp quốc tế. 

Việt Nam luôn tôn trọng, bảo đảm quyền tự do báo chí của mọi công dân

Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí được Liên hợp quốc và pháp luật của nhiều quốc gia phát triển như Pháp, Anh, Mỹ quy định cụ thể. Trong bản“Tuyên ngôn về Nhân quyền và Dân quyền Pháp năm1789”, vấn đề tự do báo chí được trình bày như là một trong những quyền cơ bản: “Bất kỳ công dân nào cũng có thể nói, viết và công bố tự do; tuy nhiên, họ sẽ chịu trách nhiệm nếu lạm dụng quyền tự do này theo quy định của pháp luật” (Điều 11).

Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 tại khoản 1, Điều 19 quy định rõ: “Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp” và khoản 2, Điều 22 quy định: “Việc thực hiện quyền này không bị hạn chế, trừ những hạn chế do pháp luật quy định và là cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích an ninh quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, và để bảo vệ sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng hay các quyền và tự do của người khác”.

Ở Pháp, trong tiến trình cách mạng 1789, tự do báo chí đã được đề cập tại Ðiều 11, Tuyên bố dân quyền và nhân quyền. Sau này, đạo luật 1881 về tự do báo chí cũng được ban hành trong nền cộng hòa thứ ba vào ngày 29/7/1881 và đã nêu rõ các giới hạn trong tự do báo chí vì sự lạm dụng tự do, cụ thể là đưa ra các định nghĩa về tội phạm báo chí và đến nay đạo luật này vẫn còn giá trị.

Ở Anh, tất cả các bài phát biểu miệng hay đăng báo với mục đích làm mất tín nhiệm hoặc kích động chống lại chủ quyền, chính phủ, hiến pháp, bất cứ viện nào hoặc hệ thống tòa án, kích động sự bất bình hay sự công phẫn giữa các công dân của Nữ hoàng, sự hận thù giữa các giai cấp của các công dân đó… đều bị coi là vi phạm pháp luật.

Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng, bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận của mọi công dân và cũng như các quốc gia khác, để giữ gìn kỷ cương và bảo đảm sự ổn định để phát triển, Nhà nước Việt Nam không cho phép lợi dụng những quyền này để tuyên truyền, kích động lật đổ chính quyền, phá hoại khối đoàn kết dân tộc, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân.

Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán quan điểm tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do báo chí. Trên cơ sở nội luật hóa pháp luật quốc tế về quyền tự do báo chí, Hiến pháp năm 1946 đã khẳng định “người dân có quyền tự do báo chí và được pháp luật bảo đảm thực hiện”. Các bản Hiến pháp sau này đều kế thừa và phát triển nội dung của Hiến pháp năm 1946 về quyền tự do báo chí.

Điều 25, Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định” và khẳng định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của pháp luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Quy định này cũng được thể chế trong nhiều văn bản pháp luật Việt Nam, như Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi 2017; Luật Báo chí năm 2016...

Ở Việt Nam, báo chí thực sự trở thành cầu nối giữa “ý Đảng, lòng dân”, tạo đồng thuận xã hội, thúc đẩy công cuộc xây dựng, phát triển đất nước; là phương tiện để người dân kiểm tra, giám sát thực thi pháp luật và đóng góp ý kiến phản biện đối với các chính sách, pháp luật của Nhà nước; là công cụ bảo vệ lợi ích xã hội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân.

Theo số liệu tại Hội nghị báo chí toàn quốc năm 2020, đến cuối năm 2020, cả nước ta có 41.000 nhân sự đang tham gia hoạt động; 779 cơ quan báo chí, trong đó có 142 báo, 612 tạp chí, 25 cơ quan báo chí điện tử độc lập; 72 cơ quan được cấp phép hoạt động phát thanh, truyền hình với tổng số 87 kênh phát thanh và 193 kênh truyền hình. Đó là minh chứng sinh động cho việc bảo đảm quyền tự do báo chí ở Việt Nam, phản bác luận điệu vu cáo Nhà nước Việt Nam đàn áp tự do báo chí, tự do ngôn luận.

Chúng ta khuyến khích tự do báo chí vì lợi ích của quốc gia, dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và nhân dân. Và lẽ tất nhiên, chúng ta không thể chấp nhận việc lợi dụng tự do báo chí, tự do Internet, tự do ngôn luận để gây mất ổn định, chống lại Tổ quốc và dân tộc, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước, xâm phạm lợi ích của công dân.

Phan Dương

Mạng xã hội - nhận diện và nguy cơ

 06:44 21/06/2021

Cùng với những giá trị tích cực, mạng xã hội cũng bộc lộ những mặt trái và hệ lụy của nó đối với sự phát triển của đất nước. Nó “được ví như con dao 2 lưỡi ẩn chứa nhiều vấn đề bất cập và hiểm họa khó lường đối với người sử dụng không đúng mục đích”.

Việt Nam là nước có số người dùng Internet và mạng xã hội thuộc tốp đầu trên thế giới, với hơn 64 triệu người dùng Internet (chiếm 67% dân số); hơn 55 triệu người dùng (chiếm 57% dân số) và 436 mạng xã hội đang hoạt động, đứng thứ 7 trong 10 nước có số người sử dụng mạng xã hội nhiều nhất thế giới.

Nhìn lại mười năm qua, cùng với các thông tin bổ ích, có giá trị đối với xã hội thì còn vô số thông tin, hình ảnh có nội dung xấu độc trên mạng xã hội do các thế lực “mạng đen” tung ra, đã và đang tác động tiêu cực tư tưởng, dư luận xã hội, gây nghi ngờ, gieo rắc sự hoang mang, dao động, làm giảm sút lòng tin của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ ta.

Nhìn khái lược, càng gần đây, các phần tử cơ hội chính trị và các thế lực thù địch càng sử dụng nhiều âm mưu, thủ đoạn, vừa công khai, trắng trợn, vừa ngấm ngầm hòng phá hoại, bôi nhọ, công kích Đảng, Nhà nước và chế độ ta; đồng thời, liên tục điều chỉnh hình thức và phương pháp chống phá ngày càng tinh vi, thậm chí biến ảo, với những chiêu trò mới rất xảo trá và nguy hiểm, không chỉ về tư tưởng mà còn chuẩn bị tổ chức, lôi kéo, tập hợp lực lượng, trước hết thông qua các cuộc “tập dượt” trên mạng xã hội.

1. Chúng triệt để lợi dụng một số cá nhân cơ hội chính trị, thoái hóa, biến chất về phẩm chất, đạo đức, lối sống, để thành lập các hội, nhóm “xã hội dân sự”; thông qua cái gọi là “diễn đàn dân chủ”, sử dụng các website và các trang mạng xã hội dưới danh nghĩa phản biện, để bôi nhọ Đảng Cộng sản Việt Nam, phát tán thông tin xấu độc xâm hại Tổ quốc, dọn đường mưu toan lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa.   

Càng gần đây, các thế lực thù địch coi việc hình thành phát triển xã hội dân sự độc lập về chính trị là điều kiện, tiền đề cho việc đảm bảo quyền con người, cổ xúy tự do cá nhân thông qua thực hiện quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội, tự do biểu tình… để thực hiện “diễn biến hòa bình”; trong đó, lợi dụng các quyền cơ bản của con người như: Quyền lập hội, quyền công dân, quyền tự do báo chí... 

Chúng núp dưới chiêu bài “dân chủ hóa”, hình thành “kênh phản biện” để cho ra đời các tổ chức đối trọng với các cơ quan, tổ chức trong bộ máy của Đảng, Nhà nước, đòi giám sát hoạt động của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội. Đồng thời, lợi dụng các diễn đàn tư tưởng, thông qua hoạt động hợp tác, nghiên cứu khoa học... để đề cao dân chủ tư sản, nhằm chuyển hóa lập trường, tư tưởng của đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân. 

Chúng ra sức cổ xúy cái gọi là quyền bày tỏ chính kiến không giới hạn và liên kết hình thành các tổ chức “độc lập” tham gia vào đời sống cộng đồng, thoát ly khỏi sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước; lập các hội, nhóm với tên gọi, khẩu hiệu, tôn chỉ, mục đích thu hút được các tầng lớp, thành phần xã hội tham gia (“Hội Phụ nữ nhân quyền”, “Hội Nhà báo độc lập”, “Hội Anh em dân chủ”…) nhằm lôi kéo quần chúng; phát triển lực lượng, hình thành các hội nhóm hoạt động “bất bạo động”; tuyên truyền, kích động tư tưởng ly khai, tự trị, khoét sâu mâu thuẫn dân tộc, gây chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân; tạo tiền đề tập hợp, phát triển lực lượng, hình thành tổ chức chính trị đối lập với Đảng, Nhà nước. Đây chính là những “cây cầu nối” cực kỳ nguy hiểm của chúng.

2. Bằng con đường tổ chức, thông qua liên kết, hợp tác, dưới hình thức tài trợ của các tổ chức phi chính phủ (NGO) hoặc các tổ chức dưới danh nghĩa từ thiện, nhân đạo, chúng len lỏi, luồn sâu và thông qua các tổ chức này tạo lập chỗ đứng, với sự dọn đường, cổ xúy biểu tình và thúc đẩy bạo loạn của mạng xã hội.  

Trên lĩnh vực kinh tế, chúng âm mưu thông qua hoạt động hợp tác, đầu tư để làm cho nền kinh tế phát triển chệch hướng xã hội chủ nghĩa, thiết lập hệ thống và cơ cấu kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa tại Việt Nam; từ đó, tạo ra nền tảng vật chất, xã hội thuận lợi, hình thành nền “chính trị dân chủ” và “xã hội dân sự” kiểu phương Tây. 

Đồng thời, trên lĩnh vực chính trị, chúng kêu gọi “dân chủ hóa chính quyền”, từng bước cô lập, tách các tổ chức đảng, đảng viên ra khỏi quần chúng, tạo áp lực về chính trị - xã hội, thậm chí gây bạo loạn, lật đổ, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Với thủ đoạn “thân thiện giả hiệu”, chúng thâm nhập vào hoạt động của nền kinh tế, tìm kiếm cơ hội tiếp cận với các đối tượng chính trị thoái hóa; thậm chí mua chuộc những phần tử này, để xây dựng lực lượng. Mức độ mà mật độ hình thức kiểu này của chúng ngày càng tăng.

Cùng với đó, các thế lực thù địch đẩy mạnh “tiến công” trên lĩnh vực đối ngoại. Chúng chủ động tiếp cận móc nối, hỗ trợ, mua chuộc, lôi kéo các đối tượng, nhất là những phần tử có tư tưởng bất mãn, thù địch, cơ hội, thoái hóa, biến chất, hữu khuynh, cực đoan, thân phương Tây, tạo lực lượng nòng cốt cho “chuyển hóa” và “tự chuyển hóa” tư tưởng ngay từ bên trên, bên trong.

Để thúc đẩy nhanh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền tác động hướng lái truyền thông. Đồng thời, thành lập nhiều tổ chức và đưa người vào Việt Nam để theo dõi, tìm hiểu, thu thập thông tin về vấn đề dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo, tiến hành móc nối, cài cắm, truyền bá tư tưởng sai trái, vu cáo, xuyên tạc tình hình thực tế ở Việt Nam; kêu gọi tập hợp lực lượng, hình thành và công khai hóa tổ chức chính trị đối lập trá hình trên không gian mạng; lợi dụng các vấn đề nhạy cảm chính trị xã hội, vụ việc phức tạp thu hút sự quan tâm của quần chúng để kích động biểu tình, gây bất ổn về an ninh, trật tự, tìm thời cơ tiến hành “cách mạng đường phố” tại Việt Nam…

3. Thực tế đã cho thấy không ít đối tượng có quan hệ khá mật thiết với tổ chức phản động nước ngoài; và khi những đối tượng xuất hiện trên các trang mạng cá nhân, lập tức được các trang tin hải ngoại dẫn lại và được các tổ chức phản động cổ xúy.

Các đối tượng chống đối chính trị thường có mối quan hệ móc nối với các thế lực thù địch bên ngoài, đặc biệt là các tổ chức phản động lưu vong để nhận được sự chỉ đạo và hậu thuẫn tài trợ về vật chất để trang trải, có điều kiện hoạt động chống phá trong nước. Chúng tìm cách tiếp cận, mua chuộc cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất đang làm việc trong các bộ phận trọng yếu, cơ mật để cung cấp tài liệu, mua thông tin bí mật quốc gia.

Chúng sử dụng mạng để chia sẻ công cụ, cách thức, thủ đoạn phạm tội; phương thức lây nhiễm virus, phần mềm gián điệp... mượn môi trường mạng là “miếng đất” để tuyên truyền, tuyển lựa, huấn luyện và chỉ đạo hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội. 

Để đẩy nhanh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, các thế lực thù địch  thúc đẩy “dân chủ hóa” trong nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời thực hiện “dân chủ hóa” trong truyền thông và xã hội. Yếu tố thứ nhất mang tính quyết định đến tiến trình “dân chủ hóa” từ bên trên, bên trong nội bộ ta; yếu tố thứ hai sẽ đẩy nhanh “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của toàn xã hội. 

Mặt khác, lợi dụng sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0), các thế lực thù địch mạnh tay chi tài chính cho quảng cáo, đầu tư, tài trợ các chương trình để khống chế, dẫn dắt giới truyền thông hoạt động theo ý đồ của chúng, ý đồ đưa truyền thông tách khỏi sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. 

Ở bên ngoài, một số tổ chức đẩy mạnh các hoạt động tài trợ, bồi dưỡng năng lực cho các tổ chức xã hội dân sự tại Việt Nam nhằm tác động chuyển hóa và phát triển các kênh “phản biện xã hội”. Thông qua đây, họ tác động hình thành trong nội bộ các cơ quan, tổ chức chính trị; đặc biệt là các cơ quan dân cử xu hướng hoạt động “độc lập”, thậm chí “đối lập” với sự lãnh đạo của Đảng ta.

Núp dưới chiêu trò “yêu nước”, “tự do ngôn luận”, “phản biện”… gần đây và sắp tới sẽ còn điên cuồng hơn, một số tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước dùng mọi thủ đoạn tập trung kích động, lôi kéo tụ tập đông người, biểu tình trái phép, thậm chí có hành vi quá khích, gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội...   

4. Với sự phụ họa của các hãng truyền thông nước ngoài, các thông tin xuyên tạc, bịa đặt này tiếp tục được thổi phồng, phát tán rộng rãi, tinh vi hơn, gây không ít ảnh hưởng tiêu cực cho xã hội. 

Các đối tượng ở nước ngoài cấu kết với số đối tượng trong nước tìm cách hình thành, phát triển cái gọi là “xã hội dân sự” cùng các tổ chức, hội nhóm bất hợp pháp. Chúng lợi dụng “các khoảng trống thông tin” để tấn công vào sự hiếu kỳ của công chúng, gây hoang mang dư luận, làm giảm sút niềm tin của Nhân dân; kích động trào lưu “xét lại lịch sử”, “viết lại lịch sử”, phủ nhận lịch sử dân tộc; cổ xúy, tung hô các “giá trị” dân chủ phương Tây, phi chính trị hóa các lực lượng vũ trang; kích động biểu tình, gây rối, thực hiện các cuộc “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố” hòng lật đổ chính quyền, tạo cớ kêu gọi các thế lực bên ngoài can thiệp vào nội bộ nước ta.

Nhìn tổng thể, dưới nhiều hình thức và phương tiện, trên mạng xã hội, các thế lực thoái hóa, cơ hội, phản động và các thế lực thù địch tiếp tục tập trung công phá, ở 8 phương diện tư tưởng, lý luận cơ bản nhất và chủ yếu nhất: Thứ nhất, công phá nền tảng tư tưởng chính trị và thủ tiêu ý thức hệ. Thứ hai, bôi nhọ, xuyên tạc đường lối chính trị và công phá thể chế chính trị. Thứ ba, tung hỏa mù về “đảng trị” và vu khống Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền. Thứ tư, chia rẽ phá hoại mối quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.

Thứ năm, khoét sâu vấn đề tôn giáo, dân tộc, nhân quyền với thể chế xã hội chủ nghĩa nhằm phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống lại nhân dân. Thứ sáu, thông qua vấn đề chính trị gia và quan hệ giữa các nhà lãnh đạo chính trị, giữa các lực lượng nhằm xâm hại thể chế xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Thứ bảy, chung quanh vấn đề quan hệ quốc tế, võ đoán các nguy cơ cái gọi là “đu dây bên miệng hố”, kích động cái gọi là “bài”, “thoát” nước này, liên minh với nước khác, cốt phá hoại đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa trong hội nhập quốc tế của Đảng ta, cổ xúy cho chủ nghĩa ly khai, xâm hại nhân dân, phá vỡ sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc. Thứ tám, các trào lưu tư tưởng, lý luận du nhập, thẩm thấu bằng mọi con đường, âm mưu gặm nhấm, công phá làm băng hoại dưới mọi hình thức, quy mô và mức độ tư tưởng, lý luận của chúng ta từ nền tảng.

Vì thế, cuộc đấu tranh trên mạng xã hội, hơn bao giờ hết, sự phức tạp và quyết liệt, thậm chí có ý nghĩa sinh tử và đầy thách thức.

TS. Nhị Lê

Thủ đoạn đánh lận mục đích, ý nghĩa Quỹ vaccine phòng COVID-19

 07:25 14/06/2021

Trong khi mọi tầng lớp nhân dân đã và đang tham gia ủng hộ Quỹ vaccine phòng COVID-19 thì một số cá nhân, tổ chức không có thiện chí đã đăng tải những thông tin xuyên tạc về việc thành lập Quỹ, thậm chí xúc phạm đến danh dự, uy tín của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và cá nhân, tổ chức đã tham gia ủng hộ Quỹ…

Sau những sáng kiến trong công tác phòng, chống dịch COVID-19 như “ATM gạo", “chợ 0 đồng” hay tặng nhu yếu phẩm, tặng vật tư y tế, giúp người dân vùng dịch tiêu thụ nông sản... thì việc thành lập Quỹ vaccine phòng COVID-19 thêm một lần nữa thể hiện tinh thần đoàn kết, gắn bó, vượt qua khó khăn, thách thức của toàn Đảng, toàn dân trước đại dịch COVID-19. Vậy nhưng, trong khi mọi tầng lớp nhân dân đã và đang tham gia ủng hộ Quỹ thì một số cá nhân, tổ chức không có thiện chí đã đăng tải những thông tin xuyên tạc về việc thành lập Quỹ, thậm chí xúc phạm đến danh dự, uy tín của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và cá nhân, tổ chức đã tham gia ủng hộ Quỹ.

Thành lập Quỹ là yêu cầu khách quan

Việc thành lập Quỹ là xuất phát từ thực tiễn khách quan. Theo thống kê, đến thời điểm cuối tháng 5/2021, tỷ lệ người dân Việt Nam đã được tiêm vaccine phòng COVID-19 ở nước ta chỉ hơn 1%, thuộc mức thấp nhất trong khu vực. Theo tính toán của các chuyên gia, để đạt được miễn dịch cộng đồng, miễn dịch toàn dân, Việt Nam cần có hơn 150 triệu liều vaccine phòng COVID-19 để tiêm phòng cho khoảng hơn 75 triệu người dân với tổng kinh phí ước tính khoảng 25,2 nghìn tỷ đồng. Trong đó, ngân sách Nhà nước chi 16 nghìn tỷ đồng, còn 9,2 nghìn tỷ đồng do sự tự nguyện ủng hộ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Thực tiễn trên đòi hỏi nguồn kinh phí lớn để có vaccine phòng COVID-19, trong khi đất nước ta đang còn nhiều khó khăn, ngân sách hạn hẹp.

Việc Chính phủ ban hành Nghị quyết 53/NQ-CP thông qua chủ trương thành lập Quỹ vaccine phòng COVID-19 và Quyết định 779/QĐ-TTg thành lập Quỹ vaccine phòng COVID -19 là phù hợp với truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, đó là truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái “lá lành đùm lá rách”.

Dịch COVID -19 được xem như một loại “giặc” nguy hiểm làm tổn hại đến sức khỏe cộng đồng, kinh tế đất nước suy giảm, cuộc sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Do đó, muốn diệt được loại “giặc” này đòi hỏi sự đồng lòng của cả hệ thống chính trị và người dân, sự vào cuộc tích cực của tất cả các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Lịch sử dựng nước và giữ nước đã chứng minh, khi đất nước ta gặp khó khăn, tinh thần đoàn kết, sức dân là nền tảng quan trọng để chúng ta chiến thắng mọi kẻ thù.

Năm 1945, trước tình thế cách mạng “ngàn cân treo sợi tóc”, hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng bào ta trên mọi miền đất nước đã nhiệt tình ủng hộ “Tuần lễ vàng” với tinh thần “người có ít góp ít, người có nhiều góp nhiều”, tạo nên Quỹ Độc lập. Kết quả là chỉ trong một thời gian ngắn, nhân dân cả nước đã quyên góp được 20 triệu  đồng và 370kg vàng, góp phần thiết thực cho cuộc kháng chiến kiến quốc thành công.

Hiện nay, nguồn thu ngân sách Nhà nước ta gặp nhiều khó khăn do tác động của đại dịch. Việc nhân dân hỗ trợ, ủng hộ Quỹ chính là sự đồng lòng, san sẻ khó khăn cùng Đảng, Nhà nước chiến đấu chống đại dịch. Việc thành lập Quỹ vào lúc này là rất cần thiết nhằm kêu gọi, vận động các tầng lớp nhân dân ủng hộ, đóng góp kinh phí cho công tác phòng, chống dịch, huy động nguồn lực xã hội để người dân có thể tiếp cận vaccine sớm nhất.

Lan tỏa tinh thần đoàn kết, vì cộng đồng

Quỹ vaccine phòng COVID-19 đã chính thức ra mắt vào tối Thứ bảy, ngày 5-6 tại Nhà hát Lớn Hà Nội. Thủ tướng Phạm Minh Chính dự buổi lễ đã khẳng định: “Đây sẽ là quỹ của tinh thần đoàn kết, sự nhân ái, niềm tin, trái tim, kết nối trái tim cùng nhau vượt qua khó khăn góp phần tạo nên Việt Nam chiến thắng, ghi danh vào lịch sử về một chiến thắng đại dịch COVID-19”. Sau lễ ra mắt cho đến nay, Quỹ vaccine phòng COVID-19 đã nhận được sự đóng góp của hàng nghìn tập thể, cá nhân. Những ngày qua, không chỉ các doanh nghiệp, địa phương mà rất nhiều cá nhân trong và ngoài nước đã nhiệt tình ủng hộ Quỹ.

Điển hình như câu chuyện về Mẹ Việt Nam Anh hùng Nguyễn Thị Cược (92 tuổi, ở thôn Hoàng Xá, xã Ninh Xá, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh) đã dành 10 triệu đồng tiết kiệm để ủng hộ cho công tác phòng, chống COVID-19. Cụ ông Nguyễn Chương (97 tuổi), là thương binh chống Pháp, từng chiến đấu ở chiến trường Thừa Thiên năm 1951, nay ở thôn Phú Long, xã Kỳ Phú, huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh cũng đã viết tâm thư gửi ban vận động quyên góp chống dịch xã và trích 10 triệu đồng tiền tiết kiệm để ủng hộ Quỹ. Hay hình ảnh về các em học sinh đã dành những đồng tiền tiết kiệm, ăn sáng của mình để ủng hộ cho Quỹ phòng COVID-19…

Còn vô số câu chuyện cảm động về việc các tầng lớp nhân dân đã và đang tham gia ủng hộ Quỹ vaccine phòng COVID-19, thực tiễn đó thêm một lần nữa khẳng định tinh thần đoàn kết toàn dân, đồng sức, đồng lòng vượt qua gian khó, chiến thắng đại dịch. 

Mỗi đóng góp của người dân vào Quỹ vaccine phòng COVID-19 đều hướng tới mục tiêu cuộc sống an toàn hơn của bản thân, gia đình, cộng đồng và cả xã hội. Với sáng kiến Quỹ vaccine phòng COVID-19, đại diện các tổ chức quốc tế tại Việt Nam như Tổ chức Y tế thế giới, điều phối viên thường trú của Liên hợp quốc tại Việt Nam, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, Đại diện thường trú Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam... đã có những đánh giá cao về tinh thần đoàn kết, trách nhiệm của nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến chống “giặc COVID-19”.

Tiến sỹ Kidong Park, Trưởng Đại diện Tổ chức Y tế Thế giới tại Việt Nam đánh giá: “Việc huy động các nguồn lực để nâng cao khả năng tiếp cận vaccine COVID-19 của Chính phủ Việt Nam rất kịp thời, phù hợp với sáng kiến vaccine toàn cầu. Chính phủ Việt Nam rất nỗ lực để huy động nguồn lực từ ngân sách nhưng thực tế vẫn cần nhiều nguồn lực hơn nữa. Việc Chính phủ quản lý và sử dụng công bằng, hiệu quả nguồn lực từ người dân, doanh nghiệp tư nhân sẽ mang lại giá trị mới cho chiến lược ứng phó với COVID-19. Chính sự đoàn kết này sẽ giúp Việt Nam chấm dứt đại dịch. Hy vọng Việt Nam sẽ tiếp tục là một ví dụ cho cách tiếp cận toàn dân trong việc kết thúc đại dịch”.

Ông Kamal Malhotra, Điều phối viên thường trú của Liên hợp quốc tại Việt Nam cũng đánh giá cao việc thành lập Quỹ vacine phòng COVID-19 của Việt Nam và cho rằng “đây là một sáng kiến hay, là điều Liên hợp quốc đã ủng hộ trong nhiều tháng nay”.

Bà Carollyn Turk, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam cũng đã chúc mừng Chính phủ Việt Nam ra mắt Quỹ vaccine phòng COVID-19 và cho biết “việc tiêm vaccine phòng COVID-19 nhanh và hiệu quả là biện pháp cần thiết và quan trọng để đảm bảo an toàn cho người dân, thúc đẩy phục hồi kinh tế. Chính phủ Việt Nam đang có bước đi đúng đắn trong việc đẩy nhanh tiếp cận vaccine cho người dân”…

Theo tính toán, Việt Nam cần khoảng 25,2 nghìn tỉ đồng kinh phí vaccine phòng COVID-19.


Và những luận điệu lạc lõng

Trong bối cảnh đó, một số cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí, chống phá đất nước đã tuyên truyền, xuyên tạc, bóp méo sự thật về việc thành lập Quỹ vaccine phòng COVID-19, thậm chí còn xúc phạm đến những nghĩa cử cao đẹp, hành động đúng đắn, nhân văn của các cá nhân, tổ chức trong cuộc chiến chống dịch COVID-19 của toàn thể nhân dân ta.

Đài Á châu tự do đăng tải bài viết “Chính phủ nói không thiếu tiền sao phải huy động tiền dân mua vaccine?” và cho rằng, Chính phủ đang “bòn rút tiền của nhân dân”, việc tiêm cho người dân là thuộc nghĩa vụ của Nhà nước… Từ đó, kêu gọi kiều bào, người dân không tham gia đóng góp cho Quỹ này. Gần đây, trang mạng tổ chức Việt Tân cùng một số báo, đài không có thiện chí với Việt Nam đã đăng tải những bài viết phê phán việc thành lập Quỹ vaccine ở Việt Nam, từ đó đưa ra những luận điệu xuyên tạc, vu cáo, hạ thấp uy tín Đảng, Nhà nước, chế độ.

Đáng lên án hơn, trong khi chức sắc, tín đồ Công giáo đang sát cánh cùng Chính phủ và nhân dân phòng, chống dịch thì một số linh mục Công giáo đã tuyên truyền, xuyên tạc việc thành lập Quỹ vaccine phòng COVID-19, thậm chí có linh mục khi thấy các chức sắc, tín đồ tham gia ủng hộ Quỹ đã có lời lẽ miệt thị, xúc phạm những người này.

Ngăn chặn đại dịch COVID -19, đó là trách nhiệm của toàn xã hội. Do vậy, việc một số luận điệu quy trách nhiệm trong công tác phòng, chống dịch là “của riêng Đảng, Nhà nước” là hoàn toàn vô lý. Không có quốc gia nào tự chống chọi với đại dịch chỉ bằng sự quyết tâm của Chính phủ. Những luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc của các tổ chức, cá nhân, đài báo trên về Quỹ vaccine phòng COVID-19 của Đảng, Nhà nước Việt Nam cũng như xúc phạm đến danh dự, hình ảnh của các cá nhân, tổ chức tham gia ủng hộ là việc làm của những kẻ lạc điệu, lạc lõng trong cuộc chiến chống dịch COVID-19.

Trong quyết định thành lập Quỹ cũng đã chỉ rõ, nguyên tắc của Quỹ Vaccine là trên cơ sở tự nguyện đóng góp của người dân, doanh nghiệp, để những người có điều kiện và có tâm với đất nước đóng góp. Hoàn toàn không có chuyện Chính phủ ép buộc mọi người phải đóng góp.

Thực tế, trước khi Quỹ được thành lập, đã có rất nhiều địa phương, doanh nghiệp, người dân rất muốn đóng góp vào công cuộc tìm mua vaccine, để mọi người dân được tiêm vaccine, xã hội trở lại ổn định, vượt qua dịch bệnh và cuộc sống người dân trở lại như bình thường. Sau khi Quỹ thành lập, những ngày qua, số tiền quyên góp ủng hộ Quỹ không ngừng tăng lên, là minh chứng rõ nét nhất cho tinh thần đoàn kết chống lại đại dịch COVID-19 của nhân dân Việt Nam. Thực tiễn sinh động đó phản bác các luận điệu sai trái, xuyên tạc.

Phan Dương - Đại Thắng

Đâu phải "sùng bái cá nhân"!

09/06/2021 05:00

Trong mỗi dịp cả nước tổ chức kỷ niệm những sự kiện lịch sử trọng đại, tưởng nhớ những người con ưu tú của dân tộc, các thế lực thù địch lại đẩy mạnh hoạt động chống phá trên mặt trận văn hóa tư tưởng. Đặc biệt, là việc họ rêu rao về khái niệm “sùng bái cá nhân” ở Việt Nam.

Theo cách hiểu thông thường thì “sùng bái cá nhân” là một hiện tượng thiếu tính tích cực. Người sùng bái bắt chước một cách mù quáng người được sùng bái, bất kể tốt-xấu, hay-dở. Trong khi đó, “biết ơn tiền nhân” là một đức tính tốt đẹp của loài người trên toàn thế giới. Việc đó thể hiện sự biết ơn người có công, biết học tập điều tốt đẹp của những người đi trước.

Truyền thống biết ơn là một nét văn hóa của người Việt Nam, được đúc kết bằng những câu thành ngữ, tục ngữ: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Uống nước nhớ nguồn”, “Con người có tổ có tông/ Như cây có cội như sông có nguồn”... Với những bậc tiền nhân đã góp công lớn gây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước... từ ngàn đời qua, người Việt luôn cung kính thờ phụng, tôn làm đức Tổ (Vua Hùng), đức thánh (Đức thánh Trần)... Ở phạm vi hẹp hơn, trong một làng, người Việt suy tôn người có công lớn đối với dân làng thành đức Thành hoàng. Trong phạm vi một nghề hay một dòng tộc, đều có đền thờ tổ nghề hay nhà thờ họ. Hầu hết các gia đình người Việt đều có bàn thờ tổ tiên, ông bà, cha mẹ.

Đâu phải "sùng bái cá nhân"!
Ảnh minh họa/tuyengiao.vn. 

Điển hình, một hình thức truyền thống biết ơn tổ tiên của người Việt đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Đó là Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương.

Trên thế giới, mỗi quốc gia, dân tộc đều có truyền thống biết ơn với những hình thức thể hiện khác nhau. Đơn cử tại Hoa Kỳ, để tôn vinh những người có công với đất nước, người ta tạc lên núi Rushmore chân dung 4 vị tổng thống, với chiều cao khuôn mặt mỗi vị tới 18 mét.

Truyền thống biết ơn luôn chảy trong huyết quản người Việt. Nguyễn Ái Quốc vô cùng biết ơn Các Mác, F.Ăng-ghen, V.I.Lênin-những người đã chỉ ra con đường cứu nước bằng cách mạng vô sản và xây dựng xã hội mới tốt đẹp, nhưng Người không áp dụng cứng nhắc Chủ nghĩa Mác-Lênin. Người đã vận dụng linh hoạt Chủ nghĩa Mác-Lênin vào tình hình thực tế ở Việt Nam để mang lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc mình.

Đó chính là cách biết ơn trong tỉnh thức, hoàn toàn khác xa với khái niệm “sùng bái cá nhân”.

Đảng ta, nhân dân ta luôn biết ơn và nguyện học tập, làm theo những nhà cách mạng tài đức song toàn, có công lớn đối với đất nước, điển hình là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Việc biết ơn và học tập, noi gương đó không chỉ có giá trị, ý nghĩa thiết thực đối với đất nước, mà còn thiết thực đối với mỗi người, mỗi gia đình. Thực tế đã chứng minh rất rõ điều đó và không ai có thể phủ nhận. Như thế, khác hẳn với “sùng bái cá nhân”! 

HUY ĐĂNG

Không nhắm mắt phán liều như thế!

07/06/2021 05:00

Chính phủ vừa tổ chức Lễ ra mắt Quỹ vaccine phòng, chống Covid-19, thu được hàng nghìn tỷ đồng chỉ sau mấy giờ phát động, thế mà thật lạ lùng lại xuất hiện những luận điệu với lời lẽ nực cười, "chọc gậy bánh xe" xuyên tạc chủ trương, cách làm tốt đẹp và hiệu quả đó.

So sánh khập khiễng

Đài Á châu tự do với sự suy diễn thiển cận nêu ra quan điểm: Chính phủ nói không thiếu tiền sao phải huy động tiền dân mua vaccine? Họ còn dẫn lời một ông phó giáo sư với bình luận vu vơ, sợ góp quỹ rồi sẽ “hao hụt”. Tổ chức khủng bố và phản động Việt Tân thêm một lần nữa tấu lên tiếng loa rè, so sánh với một số nước và cho rằng phải tiêm vaccine miễn phí cho dân mới là chính quyền thực sự “lo cho dân”. Trên một số trang mạng còn nêu ý kiến không đúng sự thật từ nước ngoài rằng, Chính phủ gây “khó xử” đối với một số doanh nghiệp khi đóng góp cho quỹ vaccine...

Thật là những kẻ thiếu thiện chí, nhắm mắt phán liều!

Trước hết, cần khẳng định, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã có chủ trương tiêm vaccine miễn phí cho toàn dân từ rất sớm và coi đó là một giải pháp chiến lược để đẩy lùi dịch bệnh. Điều này thể hiện tinh thần nhất quán “lo cho dân” như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Chính sách của Ðảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Ðảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Ðảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Ðảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Ðảng và Chính phủ có lỗi. Vì vậy, cán bộ Ðảng và chính quyền từ trên xuống dưới, đều phải hết sức quan tâm đến đời sống của nhân dân”.

Tại Đại hội XIII của Đảng, các đại biểu đã bàn thảo, quyết định và công bố trong phiên bế mạc: "Tập trung kiểm soát đại dịch Covid-19, tiêm chủng đại trà vaccine Covid-19 cho cộng đồng...", coi đây là một trong 6 nhiệm vụ trọng tâm cần tập trung triển khai thực hiện ngay sau đại hội. Đó là một quyết định đúng đắn, mang tính lịch sử và đầy trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong điều kiện kinh tế đất nước còn khó khăn, nguồn lực hạn chế. Với quyết định đó, Việt Nam nằm trong danh sách không nhiều quốc gia trên thế giới sớm có chủ trương tiêm vaccine Covid-19 đại trà cho toàn dân.

Trong bối cảnh hiện nay, thực hiện chủ trương chiến lược và mục tiêu kép vừa kiểm soát tốt dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế-xã hội, Nhà nước Việt Nam đủ nguồn lực tài chính để bảo vệ sản xuất, bảo vệ sức khỏe, tính mạng của nhân dân. Song để sử dụng hiệu quả, hợp lý các nguồn lực trong bối cảnh tiềm lực kinh tế đất nước còn khó khăn, rất cần sự chung tay của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân trong thực hiện “mục tiêu kép”. Việt Nam đã, đang và sẽ chống dịch Covid-19 hiệu quả bằng nguồn lực Việt Nam, cách làm Việt Nam, truyền thống Việt Nam, từng được cả thế giới ghi nhận, cảm phục với nhiều cách làm trở thành hình mẫu. Vì vậy, những sự so sánh với nước ngoài, với các nước phát triển có tiềm lực kinh tế và nền tảng khoa học công nghệ, có nguồn vaccine dồi dào hơn rồi suy diễn cho rằng Chính phủ phải làm như họ mới là “lo cho dân” là không đúng đắn.

Cần nguồn kinh phí rất lớn khi ngân sách còn hạn hẹp

Tiêm vaccine là giải pháp căn cơ, lâu dài, mang tính chiến lược để thoát khỏi đại dịch Covid-19. Song theo tính toán của các chuyên gia, để đạt được miễn dịch cộng đồng, Việt Nam cần khoảng 150 triệu liều vaccine phòng Covid-19 để tiêm cho khoảng 75 triệu người dân, với tổng nhu cầu kinh phí khoảng 25.000 tỷ đồng. Cùng với đó, dịch bệnh được dự báo chưa thể kết thúc sớm, “sống chung với dịch bệnh” trở thành yêu cầu thường trực, hiệu lực của vaccine lại không kéo dài, việc tiêm vaccine phải tiến hành định kỳ. Tất cả những điều này đòi hỏi nguồn kinh phí rất lớn trong khi Việt Nam còn nhiều khó khăn, ngân sách nhà nước hạn hẹp.

Không nhắm mắt phán liều như thế!
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính trao chứng nhận, hoa cảm ơn bác Nguyễn Mạnh Tường 82 tuổi, cán bộ hưu trí ngành đường sắt. Ảnh: Viết Chung

Đó là phân tích hết sức khoa học, qua đó cho thấy, việc huy động nguồn lực tài chính của quốc gia còn có thể bảo đảm cho lâu dài, phát sinh thêm nếu dịch bệnh tiếp tục diễn biến phức tạp với những biến thể mới khó lường. Ngân sách nhà nước cũng rất cần được sử dụng tổng lực, linh hoạt cho tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy sản xuất phát triển chứ không chỉ tập trung cho chống dịch.

Phát biểu trong lễ ra mắt Quỹ vaccine phòng, chống Covid-19 tối 5-6, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính khẳng định: Lịch sử dựng nước và giữ nước đã chứng minh, khi đất nước ta gặp khó khăn, tinh thần đoàn kết, sức dân là vũ khí tối tân nhất, sắc bén nhất để chúng ta chiến thắng mọi kẻ thù và viết nên những chiến thắng vẻ vang của dân tộc, như Bác Hồ kính yêu đã căn dặn: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Trong cuộc chiến chống Covid-19, sự đồng lòng của nhân dân là chìa khóa mở cánh cửa lớn để chúng ta thoát ra khỏi đại dịch và trở về cuộc sống bình thường, bình yên, an dân, an toàn. Truyền thống “Thương người như thể thương thân”, hay “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/ Người trong một nước phải thương nhau cùng” đã hun đúc trong mỗi người con đất Việt và gìn giữ từ thế hệ này sang thế hệ khác, ở bất cứ nơi đâu trên trái đất này. Truyền thống ấy càng tỏa sáng mỗi khi đất nước chúng ta gặp khó khăn như: Chiến tranh, thiên tai, bão lũ, dịch bệnh... Thủ tướng khẳng định, Quỹ vaccine phòng, chống Covid-19 “là quỹ của sự nhân ái, của tinh thần đoàn kết, của niềm tin, của trái tim kết nối trái tim để chúng ta cùng nhau vượt qua khó khăn, góp phần tạo nên một Việt Nam chiến thắng, để một lần nữa chúng ta lại ghi danh, viết nên lịch sử chiến thắng vẻ vang của dân tộc-chiến thắng đại dịch Covid-19”.

Sức mạnh Việt Nam xa lạ với sự ích kỷ, tích toán

Việc kêu gọi mọi người chung tay đóng góp Quỹ vaccine phòng, chống Covid-19 không phải là vì “thiếu tiền”, càng không phải là sự ép buộc mà chính là ý Đảng, lòng dân, là sự quy tụ không chỉ nguồn lực vật chất mà còn cả nguồn lực tinh thần. Qua sự ủng hộ quỹ, tạo nên một phong trào hành động nhân văn sôi nổi và rộng khắp, thành làn sóng mạnh mẽ đẩy lùi dịch bệnh.

Thực tiễn đã cho thấy, cũng như trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và thực tế qua 3 làn sóng Covid-19 từ đầu năm 2020 đến nay, Việt Nam từng chiến thắng các làn sóng Covid-19 trước đây không chỉ bằng sự tập trung nguồn lực vật chất mà còn nhờ sức mạnh tinh thần to lớn. Đó chính là nhân tố chính trị tinh thần, là sự đoàn kết toàn dân, là sức mạnh của kỷ luật Đảng hòa cùng sức mạnh của kỷ cương phép nước, sức mạnh của sự nêu gương “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”, sức mạnh của tình đồng chí, nghĩa đồng bào "tương thân tương ái", "lá lành đùm lá rách", sức mạnh của Quân đội nhân dân và các lực lượng tuyến đầu xả thân vì dân, vì nước, “trong tim là Tổ quốc, phía trước là nhân dân”; sức mạnh của Đoàn Thanh niên “đâu cần thanh niên có, việc gì khó có thanh niên”; sức mạnh của các tổ Covid-19 cộng đồng đi từng ngõ, gõ từng nhà, rà từng người...

Sức mạnh ấy xa lạ với sự ích kỷ, bủn xỉn, thấy đồng tiền “to hơn cái trống” như lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng phê phán. Sức mạnh ấy xa lạ với những tính toán nhỏ nhen, suy diễn tầm thường vì không ai bắt hay ép buộc bất kỳ tổ chức, cá nhân nào nếu họ cảm thấy băn khoăn, “khó xử” trước việc ủng hộ quỹ.

Chung tay xây dựng Quỹ vaccine phòng, chống Covid-19 chính là lời hiệu triệu của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam để nhân lên sức mạnh Việt Nam. Ai đưa ra những lời xuyên tạc, bóp méo sự thật về những hành động đúng đắn, nhân văn của chúng ta thì đáng xấu hổ cho lương tâm và tầm nhìn của họ.

Không nhắm mắt phán liều như thế!
Ngân hàng Quân đội hân hạnh tài trợ cuộc thi   

NGUYỄN VĂN MINH

Tái diễn virus núp bóng dịch bệnh

 08:15 07/06/2021

Lợi dụng vào tình hình dịch bệnh, một số cá nhân, đối tượng cơ hội chính trị, phản động đã thông tin sai lệch, xuyên tạc gây tâm lý hoang mang, bức xúc với người dân.

Hơn tháng qua, Việt Nam đối diện đợt bùng phát thứ tư dịch bệnh COVID-19. Hệ thống chính trị và nhân dân với tinh thần “chống dịch như chống giặc”, “chủ động tấn công phòng, đi trước chặn đầu dập dịch”, quyết tâm để đẩy lùi, chiến thắng đại dịch. 

Tuy nhiên, lợi dụng vào tình hình dịch bệnh, một số cá nhân, đối tượng cơ hội chính trị, phản động đã thông tin sai lệch, xuyên tạc gây tâm lý hoang mang, bức xúc với người dân.

Đánh lận sự thật

Đi ngược tinh thần cả nước chung tay chống dịch, một số đối tượng đã phát tán trên không gian mạng nhiều thông tin sai sự thật, xuyên tạc tình hình dịch bệnh và công tác chỉ đạo, điều hành của Nhà nước, các cấp chính quyền trong nỗ lực phòng, chống dịch bệnh.

Ngày 16/5, ông Vi Văn T. sử dụng điện thoại di động đăng tải lên Facebook cá nhân “Thành Trung” với nội dung: “chết bớt đi cho đỡ chật chội” đã gây bức xúc. Tài khoản “Tuan Nguyen” thông tin sai lệch, mang tính kỳ thị: “Bắc Giang chưa thể khoanh vùng, truy vết được hết để lây lan, cấm hết người Bắc Giang mới hết được dịch”! 

Trên mạng xã hội Fecebook, Youtube, nhiều đối tượng cũng đã thông tin sai lệch theo hướng nghiêm trọng hóa tình hình dịch bệnh ở Bắc Giang là không thể kiểm soát được theo kiểu “Bắc Giang toang rồi”; “Bắc Giang vỡ trận vì ổ dịch khu công nghiệp”...

Một số thông tin sai sự thật, có ý xuyên tạc, phê phán chính quyền, hệ thống chính trị lơ là, thờ ơ với công tác phòng, chống dịch bệnh, đối đãi không tử tế, bỏ rơi người bệnh khu cách li: “Công nhân bị bỏ đói, không có lương thực trong nhiều ngày, các trường hợp F0, F1 bị bỏ rơi”. 

Cùng với đó là chửi bới thô tục, xúc phạm cơ quan nhà nước. Những thông tin này sau khi được lan truyền trên mạng xã hội đã gây tâm lý lo lắng, bức xúc với người dân.                    

Những thông tin sai trái, xuyên tạc đã đề cập ở trên về tình hình dịch bệnh thời gian qua đã được cơ quan Công an phát hiện, làm rõ, ra quyết định xử phạt hoặc tham mưu chính quyền địa phương xử phạt hành chính. 

Sau khi được cơ quan Công an xử lý, giải thích, các cá nhân, đối tượng trên đều nhận thức rõ hành vi sai trái và tự nguyện gỡ bỏ. Những thông tin sai sự thật, xuyên tạc sau khi được đăng tải đã lan truyền trên không gian mạng làm người dân thêm hoang mang, lo lắng, nhiều người lầm tưởng là thật có tâm lý bức xúc, suy giảm niềm tin vào cấp ủy, chính quyền trong công tác phòng, chống dịch bệnh.  

Đài RFA, RFI, BBC, một số cơ quan truyền thông hải ngoại đăng tải hàng loạt bài viết đánh lận bản chất như: “Việt Nam huy động cử tri đi bỏ phiếu bất chấp dịch bệnh”, “Việt Nam đến đợt dịch thứ tư mới khẩn trương lập quỹ vaccine: mất bò mới lo làm chuồng”… 

Họ đưa ra luận điệu xuyên tạc, phê phán Nhà nước, hệ thống chính trị chỉ lo bầu cử, sắp xếp “đấu đá ghế ngồi” mà lơ là, thờ ơ công tác phòng, chống dịch bệnh, bỏ rơi người dân, rồi thông tin xuyên tạc, nhiều cử tri “tẩy chay cuộc bầu cử”. 

Họ công kích Việt Nam “chủ quan để dịch lây nhiễm, trong khi người dân luôn phải “sống cảnh nơm nớp” thì Chính phủ cứ lo mặc cả nước này, nước nọ, đàm phán mà chưa có vaccine”.

Lợi dụng Chính phủ đưa sáng kiến, kêu gọi cộng đồng xây dựng quỹ vaccine, họ xuyên tạc: “huy động mọi nguồn lực và đóng góp của nhân dân, doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tiền mua vaccine là hành động ăn xin, ăn mày, đây là cơ hội “béo bở” cho những thành phần tham nhũng trong chính quyền các cấp”... 

Tác giả của những quan điểm chống phá này vốn là những phần tử có bề dày chống đối, có đối tượng từng chịu hình phạt tù về hành vi phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia, hiện tị nạn, lưu vong ở nước ngoài như Nguyễn Văn Đài. 

Đây là những luận điệu xuyên tạc với mục đích công kích, chống phá nhằm bôi nhọ, hạ thấp uy tín đối với Đảng, Nhà nước Việt Nam, đả kích thể chế chính trị Việt Nam.

Nỗ lực, thần tốc chống dịch và tình người, nghĩa cử cao đẹp

Khi có dịch, nhất là những đợt bùng phát, từ Trung ương đến địa phương, các cấp ủy, chính quyền và nhân dân tập trung lãnh đạo, tổ chức, thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch với tinh thần quyết liệt, thần tốc “chống dịch như chống giặc”, “chủ động tấn công, đi trước chặn đầu, không chạy theo sau dịch bệnh”, bảo đảm an toàn về sức khỏe, tính mạng người dân, hạn chế thấp nhất ảnh hưởng đến việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội. 

Thực tế thời gian qua, Việt Nam huy động sự vào cuộc mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị và toàn dân để nhanh chóng kiểm soát tình hình, đẩy lùi dịch bệnh. Cấp ủy, chính quyền các cấp, các địa phương triển khai quyết liệt, kịp thời, đồng bộ các biện pháp phòng, chống, ngăn chặn dịch, không để bị động, bất ngờ. 

Sau khi phát hiện bệnh, từng ngõ xóm, khu phố, doanh nghiệp lập tức được cơ quan chức năng thần tốc truy vết, xét nghiệm, cách ly, điều tra dịch tễ, khoanh vùng nhanh gọn, điều trị, dập dịch, không để lây lan trên diện rộng. 

Với kết quả đạt được, Việt Nam đã khống chế thành công, hiệu quả nhiều đợt dịch bệnh được nhân dân đồng tình, ủng hộ, cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Từ thực tế đó, có thể thấy không có chuyện chúng ta lơ là, thờ ơ trong công tác phòng, chống dịch.

Trong lúc khó khăn, hoạn nạn, Bắc Giang, Bắc Ninh, TP Hồ Chí Minh… là những địa phương có nhiều ca nhiễm, được Chính phủ chỉ đạo rốt ráo, các bộ, ngành, địa phương dành sự quan tâm, chi viện đặc biệt. 

Bộ Công an đã nhanh chóng chi viện đội ngũ y, bác sĩ Bệnh viện 19-8, Bệnh viện Y học cổ truyền, chi viện hàng trăm Cảnh sát Cơ động, học viên trường CAND đến vùng tâm dịch giúp chính quyền, người dân phòng, chống dịch. 

Biết bao người dân Bắc Giang cảm động, rơi nước mắt khi chứng kiến nghĩa cử cao đẹp của các tỉnh, các ngành như Quảng Ninh, Thái Nguyên, Hà Nội, Đà Nẵng, Bộ Y tế, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng… dành cho. 

Hình ảnh đoàn thầy thuốc, cán bộ chiến sỹ CAND đến “chia lửa”, hỗ trợ chống dịch khiến nhiều người dân xúc động, vẫy tay chào đón như lời cảm ơn chân thành, trân trọng đón nhận suốt dọc hai bên đường từ khi đoàn xe vào địa phận tỉnh. 

Hình ảnh CSGT Bắc Giang làm nhiệm vụ, khi thấy đoàn tiến vào đã đứng nghiêm trang chào như lời tri ân, cảm ơn sâu sắc nghĩa cử cao đẹp dành cho Bắc Giang; những chiến sĩ Cảnh sát Cơ động hiến máu cứu người ngay trong vùng dịch nguy hiểm… gây xúc động mạnh trên cộng đồng mạng.

Phát huy tinh thần đùm bọc, sẻ chia trong lúc khó khăn, hạn chế dịch bệnh lây lan ra cộng đồng, hệ thống chính trị và người dân đã có nhiều hành động thiết thực. 

Việc Thủ tướng Chính phủ nêu sáng kiến, kêu gọi hình thành quỹ vaccine lúc này là rất cần thiết. Việc tương tự không phải bây giờ mới có mà ngay từ khi Chính phủ lâm thời mới thành lập, Hồ Chủ tịch cũng nhiều lần kêu gọi như “Hũ gạo chống đói”, “Tuần lễ vàng”... 

Đó không chỉ là chia sẻ với nhà nước mà còn là nghĩa đồng bào, thể hiện tinh thần tương thân, tương ái, truyền thống tốt đẹp, nhân văn của chế độ. 

Trong khu cách ly, bệnh nhân được điều trị, chăm sóc chu đáo; các đoàn thể Mặt trận, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Liên đoàn Lao động…phối hợp cùng các hội, nhóm, nhân dân phát động nhiều phong trào, hỗ trợ công nhân. 

Người dân, đoàn viên, thanh niên tình nguyện hỗ trợ nấu cơm, dựng trại, khử khuẩn, lau dọn đón các đoàn tình nguyện; Công an, Bộ đội giúp dân thu hoạch lúa, hoa màu… Công nhân được người dân địa phương san sẻ nắm gạo, mớ rau để cùng nhau vượt khó. 

Những tấm lòng nhân ái, nghĩa cử đồng bào ấy không chỉ góp phần đẩy lùi dịch bệnh mà còn lan tỏa những giá trị tốt đẹp. Như vậy thì làm gì có chuyện người dân bị “bỏ rơi”, bệnh nhân bị “bỏ đói”, “người dân thờ ơ” như luận điệu kẻ xấu đưa ra.

Lợi dụng dịch bệnh để thông tin sai trái, xuyên tạc với mục đích kích động, chống phá hay giật gân, câu view… là hành vi phạm pháp, vô cảm, vô đạo đức trong lúc dịch bệnh ảnh hưởng nghiêm trọng, trực tiếp đến sức khỏe và tính mạng con người. 

Người dân khi phát hiện những thông tin như vậy cần cảnh giác, không chia sẻ, đồng thời lên án, đấu tranh phản bác, thông tin cho cơ quan chức năng để kịp thời xử lý, ngăn chặn.

Lê Vĩnh Bình

Hãy biết “quay đầu là bờ”

 06:27 04/06/2021

Ngày 1/6, nhiều cơ quan thông tấn báo chí đưa thông tin về việc Cơ quan An ninh điều tra, Công an TP Hà Nội ra quyết định truy nã bị can Lê Văn Dũng (51 tuổi, còn gọi là Lê Dũng vôva, quê Ứng Hòa, Hà Nội) về tội “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam”, quy định tại Điều 117, Bộ luật Hình sự.

Vậy, nhân thân Lê Văn Dũng như thế nào, hành vi phạm pháp ra sao, trong bài viết này chúng tôi điểm lại những vấn đề chính.

Từ sinh viên Bách khoa đến đối tượng chống phá đất nước

Nhắc tới “Dũng vôva”, nhiều người biết đến danh xưng “nhà báo” và kênh TV tự phát qua nền tảng mạng xã hội Facebook với tên gọi “Chấn hưng tivi”, “CHTV VietNam”. Nhưng ít ai biết Lê Văn Dũng từng là sinh viên của Trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Dù được học hành, đào tạo cơ bản nhưng Dũng lại không chọn con đường đóng góp xây dựng quê hương như bao bạn bè cùng trang lứa. Dũng chọn cho mình một con đường khác, đó chính là chà đạp lên lợi ích của dân tộc, mưu nhờ ngoại bang nhằm can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, trục lợi cá nhân.

Tuy nhiên, gần 20 năm chọn con đường sai trái đó, Lê Văn Dũng hăng hái tham gia hoạt động của các tổ chức chống đối, như nhóm No-U, Hội Bầu Bí tương thân, rồi các vụ khiếu kiện đất đai ở Đông Anh (Hà Nội), Tiên Lãng (Hải Phòng), Văn Giang (Hưng Yên) đến ô nhiễm môi trường (Formosa)... Nhưng do bản chất các đối tượng chủ yếu là mưu lợi cá nhân dẫn đến sự nghi kỵ, chia rẽ nội bộ, mâu thuẫn, chửi bới, tố cáo lẫn nhau. Từ đó, Lê Văn Dũng chọn cho mình một con đường riêng và kênh TV qua Facebock “CHTV Việt Nam” ra đời và Dũng tự phong cho mình là “nhà báo”.

Từ người tham gia biểu tình, khiếu kiện, tụ tập trước cửa các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài, Lê Văn Dũng tự biến mình thành một đối tượng chống đối với cái mác “nhà báo”, sử dụng mạng xã hội Facebook để thực hiện các livestream trực tuyến nhằm xuyên tạc, đưa những thông tin sai sự thật, kêu gọi đấu tranh đòi dân chủ, thay đổi thể chế chính trị tại Việt Nam sang đa nguyên, đa đảng, đồng thời kêu gọi nước ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Lê Văn Dũng từng ngông cuồng tuyên bố rằng “sắp tới, phong trào Chấn hưng nước Việt sẽ đánh sập Đài Truyền hình Việt Nam”!

Từ năm 2017 đến nay, từ “kênh 4” ban đầu, nhằm che giấu hành vi tuyên truyền, xuyên tạc để tránh bị cơ quan chức năng xử lý, đối tượng đã đổi tên “Kênh 4 phong trào chấn hưng nước Việt” thành “Thông tấn xã vỉa hè”, “Chấn hưng tivi”, “CHTV VietNam”... hoạt động livestream trực tuyến. Nội dung các đối tượng phản ánh thường tập trung xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; xuyên tạc, xúc phạm đời tư của một số lãnh đạo; kích động biểu tình, phá rối an ninh trật tự; tuyên truyền, cổ súy “xã hội dân sự”; đa nguyên, đa đảng, đào tạo, huấn luyện kỹ năng hoạt động chống đối, cách thức thực hiện “cách mạng màu”, lật đổ chế độ tại Việt Nam...

Đồng thời để tăng tương tác cho các hoạt động ghi hình trực tuyến trên, Lê Văn Dũng cùng các đối tượng còn sử dụng nhiều thủ đoạn như lợi dụng tính tò mò, hiếu kỳ của người dân dùng Internet để đặt các từ khóa nhạy cảm, lồng ghép thật giả, đúng sai, bóp méo, xuyên tạc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đưa sai lệch tình hình các điểm nóng về an ninh trật tự; xuyên tạc đời tư, học vấn, hình ảnh nhà, nhân thân của các đồng chí lãnh đạo của Trung ương, địa phương; kích động chống lại sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước. Địa điểm quay video trực tiếp của Dũng chủ yếu là tại nhà riêng, coi như một thứ “trường quay”.

Cụ thể, đối tượng sử dụng phòng khách của gia đình, dùng điện thoại thông minh và một số thiết bị thu âm, sử dụng tính năng livestream của facebook để thực hiện các video clip. Sau đó, đối tượng móc nối, lôi kéo người dân khiếu kiện kéo dài ở nhiều địa phương để thực hiện livestream theo hình thức phỏng vấn trực tuyến. Trong quá trình livestream, đối tượng thường xuyên sử dụng những lời nói xuyên tạc, bôi nhọ chính quyền, lãnh đạo các địa phương nhằm mục đích câu like, sự ủng hộ của số đối tượng phản động, chống đối.

Có lẽ bản chất của Lê Văn Dũng chỉ thực sự lộ tẩy khi kênh video trên Facebook có một lượng người theo dõi nhất định, bước đầu đã mang về lợi nhuận cho Dũng. Đó chính là việc trục lợi bất chính từ những người dân cả tin, bị Lê Văn Dũng và đồng bọn lừa đảo, hoặc chính từ những kẻ cùng hội, cùng thuyền.

Đến nay, trên các trang mạng xã hội tự lập, Lê Văn Dũng cùng đồng bọn đã thực hiện hàng nghìn video clip xuyên tạc, bóp méo sự thật về các vấn đề như: Quy hoạch bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), sân bay Tân Sơn Nhất (TP Hồ Chí Minh); vụ việc phức tạp tại trạm BOT Cai Lậy (Tiền Giang)… Hầu hết các video clip này đều được các tổ chức phản động lưu vong, các báo, đài, nước ngoài có thái độ thù địch với Việt Nam khai thác, cổ súy.

Thậm chí khi vụ việc xảy ra tại Đồng Tâm (Mỹ Đức, Hà Nội), Lê Văn Dũng cùng nhiều đối tượng chống đối trong, ngoài nước đã liên hệ với số đối tượng cốt cán của “Tổ đồng thuận” để “hỗ trợ pháp lý”, hướng dẫn cách thức đăng tải, cập nhật tình hình Đồng Tâm; viết đơn, thư gửi các tổ chức quốc tế, chính giới các nước nhằm kêu gọi sự hỗ trợ. Và cũng chính nhờ các buổi livestream đó mà những đối tượng chống đối có cơ hội nhận được sự hỗ trợ từ các thế lực phản động để phạm tội “giết người”, “chống người thi hành công vụ”.

Con đường của kẻ mưu cầu chống phá từ ngoại bang

Trước những hành vi vi phạm pháp luật nói trên, Lê Văn Dũng đã nhiều lần bị Cơ quan An ninh điều tra Công an TP Hà Nội triệu tập để làm việc. Tuy nhiên, Lê Văn Dũng không chấp hành và có biểu hiện coi thường kỷ cương phép nước.

Mới đây, ngày 16/3/2021, Lê Văn Dũng tiếp tục bị Cơ quan An ninh điều tra Công an TP Hà Nội triệu tập nhưng y thể hiện thái độ trốn tránh làm việc, thoái thác bằng cách ủy quyền luật sư thay mình đi làm việc với Cơ quan An ninh điều tra. Lê Văn Dũng tìm cách nguỵ biện rằng để “né” các buổi làm việc với điều tra viên.

Có lẽ vì kiếm tiền khá dễ, nổi tiếng trên mạng xã hội quá nhanh, lại được sự cổ súy từ các đối tượng phản động trong và ngoài nước nên Lê Văn Dũng nghĩ mình là kẻ “không ai dám động đến”, rằng có bàn tay nâng đỡ từ bên ngoài thì cơ quan điều tra “không dám làm gì”. Do đó, Dũng ngày càng thể hiện hành vi phạm pháp một cách ngang nhiên, bất chấp các khuyên răn. Khi Cơ quan An ninh điều tra ra quyết định tố tụng, Lê Văn Dũng đã bỏ trốn. Cơ quan An ninh điều tra Công an TP Hà Nội đã phát lệnh truy nã để truy bắt Dũng. Với những hành vi phạm pháp đã lật tẩy bản chất của một người tự phong mình là “nhà báo”, tự cho mình quyền chà đạp lên lợi ích của dân tộc, mưu cầu chống phá từ ngoại bang vì mưu lợi đê hèn.

Người xưa nói “lưới trời lồng lộng”, sự trốn tránh nào cũng sẽ là định khung tăng nặng trước pháp luật. Bởi vậy, đây cũng là lời cảnh tỉnh cho những ai đang rắp tâm đi theo con đường sai trái như Lê Văn Dũng, hãy biết dừng lại để ngẫm sự phải trái, nếu trót “nhúng chàm” thì như dân ta vẫn nói, “quay đầu là bờ”, biết sám hối để nhận sự khoan hồng của luật pháp.

Bình Nguyên - Hoàng Ly

Không gì có thể phủ nhận tấm lòng yêu nước thương dân của Nguyễn Tất Thành

03/06/2021 20:19

Gần đây, có một số người chỉ dựa vào thư của Nguyễn Tất Thành viết ngày 15-9-1911 gửi Tổng thống Pháp xin vào học Trường Thuộc địa (École Coloniale) ở Paris và sự từ chối của giám đốc trường này để rồi quy chụp rằng “Nguyễn Tất Thành, bỏ nước ra đi chỉ với mục đích tìm đường làm quan, để giải quyết chuyện cơm ăn áo mặc của riêng mình, chứ không hề có ý định cứu nước giúp dân…”.

Đó là lập luận với ý đồ xấu nhằm hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh. Là một nhà nghiên cứu lịch sử, PGS, TS Vũ Quang Hiển (Đại học Quốc gia Hà Nội) đã có bài viết gửi Báo Quân đội nhân dân Điện tử phản bác quan điểm sai trái trên. 

Không gì có thể phủ nhận tấm lòng yêu nước thương dân của Nguyễn Tất Thành
Ảnh tư liệu. 

Do thiếu phương pháp luận khoa học, nhất là quan điểm lịch sử cụ thể và quan điểm toàn diện, họ đã lấy cái cá biệt thay cho cái toàn thể, lấy một hiện tượng thay cho bản chất. Đó là thuật ngụy biện, dẫn đến những kết luận sai lầm và mang nặng tính chủ quan. Nhưng điều tệ hại hơn, những kết luận đó được không ít những người khác lợi dụng để tuyên truyền xuyên tạc, gây hoài nghi về tấm lòng giúp dân, cứu nước của Nguyễn Ái Quốc, nhằm “hạ bệ thần  tượng Hồ Chí Minh”, làm lung lạc niềm tin của nhân dân Việt Nam đối với lãnh tụ của mình.

Đã có nhiều bài viết phản bác luận điểm trên, thiết nghĩ không cần phải bàn thêm. Nhưng khảo cứu lại điều kiện lịch sử lúc đó, tôi muốn làm sáng tỏ thêm một vấn đề căn cơ hơn: Vì sao Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước? Xin tóm tắt như sau:

Trước hết, xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc.

Không gì có thể phủ nhận tấm lòng yêu nước thương dân của Nguyễn Tất Thành

Bến Nhà Rồng trong một bưu thiếp thời thuộc địa. Ảnh tư liệu 

Từ khi Pháp xâm lược Việt Nam, phong trào đấu tranh chống Pháp của nhân dân Việt Nam đã diễn ra liên tục và anh dũng, với tinh thần “người trước ngã, người sau đứng dậy”. Nhiều phong trào yêu nước và con đường cứu nước theo các khuynh hướng phong kiến và tư sản diễn ra liên tiếp cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, nhưng đều không thành công. Sự nghiệp cứu nước lâm vào một “tình hình đen tối tưởng như không có đường ra”, đặt ra yêu cầu cấp thiết là phải tìm một con đường cứu nước mới.

Đất nước mất độc lập, nhân dân mất tự do. Độc lập tự do là khát vọng cháy bỏng của mọi người Việt Nam yêu nước, thôi thúc nhiều người ra đi tìm đường cứu nước, trong đó có Nguyễn Tất Thành.

Thứ hai, do sự hấp dẫn của văn minh nhân loại, nhất là khẩu hiệu “Tự do – Bình đẳng – Bác ái” của cách mạng Pháp.

Sinh ra và lớn lên trong một nhà Nho giàu lòng yêu nước, Nguyễn Tất Thành sớm chịu ảnh hưởng của gia đình và truyền thống văn hoá của quê hương xứ Nghệ, có sự am hiểu về Nho giáo. Chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hoá phương Đông, nhưng ở Nguyễn Tất Thành không có sự chối bỏ, hay mâu thuẫn với văn hoá phương Tây. Với tư duy văn hoá mở, Nguyễn Tất Thành cảm nhận được sự phong phú của các nền văn hóa, hướng tới một thế giới năng động và sáng tạo, nhất là nơi có khoa học, kỹ thuật phát triển và những tư tưởng mới.

Tháng 9-1905, vào tuổi 13, Nguyễn Tất Thành và Nguyễn Tất Đạt được thân phụ Nguyễn Sinh Huy xin cho theo học lớp dự bị (préparatoire) Trường tiểu học Pháp - bản xứ ở Vinh. Tại đây, Nguyễn Tất Thành được tiếp xúc với khẩu hiệu TỰ DO – BÌNH ĐẲNG – BÁC ÁI và “muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy”[1]. Trong thời gian làm thầy giáo ở Trường Dục Thanh, Phan Thiết (1910), Nguyễn Tất Thành được đọc Tân thư trong gia đình cụ Nguyễn Thông, tiếp cận với các thuyết nhân quyền, dân quyền, tự do, bình đẳng, bác ái do những triết gia và văn hào Pháp khởi xướng như J.J. Rousseau, Ch. De Montesquieu, Fr. Voltaire… Nguyễn Tất Thành được đọc một số tờ báo phát hành sang Việt Nam, nên “nảy ra ý muốn sang xem “mẫu quốc” ra sao”[2].

Ý tưởng đi sang phương Tây để tìm hiểu tình hình các nước và học hỏi thành tựu văn minh nhân loại từng bước lớn lên trong tâm trí Nguyễn Tất Thành, thể hiện sự mong muốn tiếp thu giá trị văn hoá nhân loại, là bước khởi động để đưa Việt Nam hội nhập vào các trào lưu tiến bộ của thời đại.

Thứ ba, nhờ trí tuệ và sự nhạy cảm về chính trị chính trị, Nguyễn Tất Thành nhận thấy sự cần thiết phải tìm một con đường mới.

Nguyễn Tất Thành nhận thấy hạn chế trong phong trào cứu nước của các vị tiền bối. Phong trào Đông Du tan rã, chứng tỏ không thể dựa vào Nhật để đánh Pháp, điều đó chẳng khác gì “đuổi hổ cửa trước, rước beo cửa sau”. Thất bại của phong trào Duy tân cũng cho thấy việc trông chờ vào thiện chí cuả người Pháp để được trao trả nền độc lập cũng chẳng khác gì “xin giặc rủ lòng thương”. Khởi nghĩa của Hoàng Hoa Thám tuy có phần thực tế hơn, “nhưng vẫn mang nặng cốt cách phong kiến". Chính vì thế, mặc dù rất khâm phục tinh thần cứu nước của các vị tiền bối, nhưng Nguyễn Tất Thành không theo con đường của họ.

Được theo phụ thân đi nhiều nơi gặp những người cùng chí hướng để bàn luận về thời cuộc, Nguyễn Tất Thành có điều kiện mở rộng tầm nhìn, tầm suy nghĩ, thấy rõ sự thống khổ của nhân dân, nên “sớm có  chí đuổi thực dân Pháp giải phóng đồng bào” và không khỏi băn khoăn khi thấy nhiều cuộc nổi dậy của nhân dân không thành công. Làm thế nào để cứu nước là câu hỏi sớm được đặt ra trong tâm trí người thiếu niên yêu nước Nguyễn Tất Thành.

Năm học 1908-1909, Nguyễn Tất Thành vào học Trường Quốc học Huế, tận mắt chứng kiến cảnh thực dân Pháp khinh rẻ, bóc lột, hành hạ người Việt Nam, được nghe kể về những hành động của những ông vua yêu nước như Thành Thái, Duy Tân và những bàn luận của những sĩ phu yêu nước về con đường cứu nước.

Ngày 4-12-1908, Nguyễn Tất Thành tham gia cuộc biểu tình chống thuế của nông dân Thừa Thiên. Họ đi tay không, chỉ đòi giảm thuế. Để tỏ tình đoàn kết nhất trí, họ đều cắt tóc ngắn và gọi nhau là “đồng bào”.  Vì những hoạt động yêu nước, Nguyễn Tất Thành bị người Pháp để ý theo dõi. Ông Nguyễn Sinh Sắc cũng bị chính quyền thuộc địa khiển trách vì để con trai có những hoạt động bài Pháp. Nguyễn Tất Thành được chứng kiến thực dân Pháp khinh rẻ, bóc lột, hành hạ người Việt Nam, nhà trường ca ngợi chế độ thực dân phong kiến; được nghe kể về hành động của những ông vua yêu nước như Thành Thái, Duy Tân và những bàn luận về con đường cứu nước trong các sĩ phu yêu nước…  

Không gì có thể phủ nhận tấm lòng yêu nước thương dân của Nguyễn Tất Thành
PGS, TS Vũ Quang Hiển. 

Một lần trả lời nhà văn Mỹ Anna Luyxơtơrông, Nguyễn Ái Quốc nói: “Nhân dân Việt Nam, trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”[3].

Thứ tư, một quyết định lịch sử của cá nhân Nguyễn Tất Thành

Được chứng kiến thất bại của các phong trào yêu nước chống Pháp, từ lòng yêu nước và khát vọng giải phóng dân tộc, năm 1911 Nguyễn Tất Thành quyết định ra đi tìm đường cứu nước.

Trước khi đi, Tất Thành bàn với một người bạn thân: “Tôi muốn đi ra ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta. Nhưng nếu đi một mình, thật ra cũng có điều mạo hiểm, ví như khi đau ốm… Anh muốn đi với tôi không?”. Khi người bạn hỏi “lấy đâu ra tiền mà đi?”, Nguyễn Tất Thành vừa nói, vừa giơ hai bàn tay một cách tự tin và kiên quyết: “Đây, tiền đây… chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi”[4].

Ngày 3-6-1911, Nguyễn Tất Thành với tên gọi Văn Ba được một thuỷ thủ dẫn lên tàu Đô đốc Latútsơ Tơrêvin (Amiral Latouche Tréville), một con tàu lớn của hãng Sácgiơ Rêuyni (Charge Réuni), vừa chở khách, vừa chở hàng, gặp thuyền trưởng Maixen (Maisen) và được nhận làm phụ bếp trên tàu. Chuyến đi được xác định.

Ngày 5-6-1911, con tàu Amiral Latouche Tréville nhổ neo, rời bến cảng Sài Gòn đi Marseille. Với hành trang là chủ nghĩa yêu nước, cuộc hành trình đi tìm chân lý của Nguyễn Ái Quốc bắt đầu. Đó là chuyến đi một mình, không theo một tổ chức nào, cũng không có nguồn tài trợ của bất cứ ai. Từ đây, Nguyễn Ái Quốc vượt qua các đại dương đầy sóng gió, tự lao động để kiếm sống, đến với nhân loại cần lao đang tranh đấu ở nhiều châu lục và quốc gia trên thế giới, ở cả phương Đông và phương Tây, cả các nước tư bản và thuộc địa.

Một thời kỳ mới trong cuộc đời hoạt động của Nguyễn Ái Quốc - thời kỳ khảo nghiệm và tìm kiếm chân lý cứu nước bắt đầu.

Sự kiện Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước (5-6-1911) không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên, mà là một quyết định lịch sử, khởi đầu từ ý tưởng “làm quen với nền văn minh Pháp” xuất hiện từ thuở thiếu thời, khi được nghe các vị tiền bối luận bàn về phương thức cứu nước, cứu dân; được thôi thúc bởi thực tiễn phong trào yêu nước của nhân dân và sự đàn áp khốc liệt của thực dân Pháp. Sự kiện đó thể hiện thiên tài trí tuệ và nhãn quan chính trị sắc bén của Nguyễn Ái Quốc trước những thử thách khắc nghiệt của vận nước và sự biến chuyển của thời đại. Đó là quyết định mang tính nhân văn sâu sắc, nhằm vươn tới một chân trời mới, đưa đất nước hội nhập vào trào lưu tiến hoá của nhân loại, hướng tới giải phóng triệt để con người khỏi sự áp bức về mặt dân tộc, sự bóc lột về mặt giai cấp và sự nô dịch về mặt tinh thần.

Bản lĩnh Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, ngay từ quá trình tìm đường cứu nước, đã khởi đầu một hướng đi mới cho dân tộc Việt Nam, mà Ô. Manđenxtam cảm nhận “như nghe thấy ngày mai, như thấy sự yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái toàn thế giới”[5].

PGS, TS VŨ QUANG HIỂNĐại học Quốc gia Hà Nội

[1] Đây là lời kể với nhà văn Liên Xô Ôlíp Manđenxtam vào năm 1923 (Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 1, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 477).

[2] Đây là lời Nguyễn Ái Quốc trả lời phỏng vấn của phóng viên Giôvanni Giécmanéttô (báo L’UNITÀ của Đảng Cộng sản Italia (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sdd, t. 1, tr. 465).

[3] Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Sđd, tr. 25-26.

[4] Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb, Chính trị quốc gia và Nxb. Trẻ, Hà Nội, 2005, tr. 13-14.

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sdđ, t. 1, tr. 463.

Vạch trần những nội dung báo cáo sai lệch về tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam

 09:07 01/06/2021

Báo cáo tự do tôn giáo quốc tế năm 2020 của Bộ Ngoại giao Mỹ vẫn có nhiều thông tin sai lệch thể hiện cách tiếp cận phiến diện thiếu khách quan về tình hình tôn giáo, tín ngưỡng của Việt Nam.

Báo cáo tự do tôn giáo quốc tế năm 2020 của Bộ Ngoại giao Mỹ, phần liên quan đến Việt Nam tuy có một số nội dung đánh giá tích cực hơn năm 2019, song chủ yếu vẫn có nhiều thông tin sai lệch trong đó sử dụng nhiều thông tin do “Ủy ban cứu trợ người vượt biển” (BPSOS) cung cấp, thể hiện cách tiếp cận của Mỹ vẫn phiến diện, đưa nhiều thông tin sai lệch, thiếu khách quan về tình hình tôn giáo, tín ngưỡng của Việt Nam.

Cụ thể, Báo cáo tự do tôn giáo quốc tế năm 2020 đã ghi nhận việc Chính phủ Việt Nam quan tâm hơn đến đảm bảo tự do tôn giáo như: Quan chức Chính phủ tiếp tục tham dự Đại lễ Phật đản Vesak trong bối cảnh dịch COVID – 19; gửi lời chào và đến thăm các nhà thờ trong dịp Giáng sinh và Phục sinh; Ban Tôn giáo Chính phủ đã tổ chức 46 khoá đào tạo cho hơn 8.800 cán bộ Nhà nước và lãnh đạo tôn giáo, thanh tra việc thực thi Luật tín ngưỡng, tôn giáo tại các địa phương như Nghệ An, Thanh Hoá, Quảng Ninh; một số Ủy ban của của Quốc hội cũng gặp gỡ quan chức và lãnh đạo của các nhóm tôn giáo địa phương để giám sát việc thực thi Luật; một số chính quyền địa phương tại Tây Bắc, Tây Nguyên đã cấp đăng ký sinh hoạt cho hơn 2.200 chi hội và công nhận 325 chi hội, đăng tải một số biểu mẫu đăng ký hoạt động tôn giáo lên các website chính thức để truy cập dễ dàng hơn; lãnh đạo của các tổ chức tôn giáo trên cả nước đánh giá quan hệ giữa các nhóm tôn giáo chưa được đăng ký với chính quyền các địa phương tốt hơn các năm trước, các nhóm tôn giáo đã đăng ký được tạo điều kiện thực hành tín ngưỡng mà ít bị chính quyền can thiệp; một số nhà xuất bản được cấp phép để in sách tôn giáo bằng tiếng Việt, Trung, Anh và tiếng dân tộc; tù nhân được tiếp cận tài liệu tôn giáo khi bị giam giữ nhưng có điều kiện kèm theo…

Nhà thờ Tin lành Plei Mơ Nú thuộc xã Chư Á nằm cách trung tâm thành phố Pleiku (Gia Lai) trở thành một điểm đến quen thuộc của hàng trăm bà con tín hữu dân tộc Jrai.

Tuy nhiên, Bộ Ngoại giao Mỹ vẫn tiếp tục thể hiện quan điểm thiếu khách quan về hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và việc đảm bảo quyền tự do tôn giáo tại Việt Nam như đưa ra thông tin việc Chính phủ không cho đăng ký và công nhận các nhóm tôn giáo trong năm 2020, chính quyền không công nhận bất kỳ tổ chức tôn giáo mới nào, trong đó phần lớn liên quan đạo Tin lành tại Tây Nguyên, Tây Bắc, Thiên chúa giáo, “Dương Văn Mình”.

Đặc biệt, báo cáo đã trích dẫn nhiều thông tin sai lệch của “Ủy ban cứu trợ người vượt biển” như: cho rằng chính quyền một số tỉnh Tây Nguyên đã chất vấn, đe doạ các thành viên của một số nhóm Tin lành chưa đăng ký như “Hội thánh Tin lành đấng Christ”, “Hội thánh truyền giảng Phúc âm”, “Hội thánh Đề ga quốc tế; vu cáo việc chính quyền gây cản trở và sách nhiễu khi có sự phân công và chuyển giao công việc giữa các chức sắc tôn giáo ở các điểm nhóm địa phương chưa đăng ký như trường hợp linh mục Nguyễn Đình Thục, Đặng Hữu Nam ở giáo phận Vinh, mục sư Nguyễn Duy Tân ở giáo phận Xuân Lộc, Đồng Nai; hạn chế quyền tự do đi lại đối với các chức sắc tôn giáo và tín đồ của một số nhóm tôn giáo…

Bên cạnh đó, báo cáo đã xuyên tạc việc cơ quan chức năng Việt Nam “đàn áp, sách nhiễu” các hội, nhóm tôn giáo chưa được thừa nhận, chưa đăng ký hoạt động, “phân biệt đối xử”, cáo buộc chính quyền địa phương “duy trì quy trình đăng ký, công nhận không đúng với quy định” nhằm làm chậm, không chấp nhận, cấm các hoạt động tôn giáo của các hội nhóm tôn giáo không chấp nhận sự quản lý của chính quyền; yêu cầu các hội, nhóm này cung cấp thông tin vượt quá khả năng cho phép, thậm chí đòi hối lộ để được tạo điều kiện trong đăng ký… Nội dung cáo buộc chính quyền cấp tỉnh “gây khó khăn” với các hội, nhóm tôn giáo ở vùng sâu, vùng xa hoặc vùng các dân tộc thiểu số khi đăng ký hoạt động.

Chưa hết, báo cáo còn vu cáo chính quyền Việt Nam tiếp tục thông qua các điều luật, quy định “không rõ ràng” để kiểm soát, hạn chế” tự do tôn giáo; sử dụng điều khoản về an ninh quốc gia, các “tội danh mơ hồ” để “đàn áp, hạn chế” tự do ngôn luận, ngăn chặn các bài viết chỉ trích lãnh đạo Đảng, Nhà nước… đòi dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo.

Thực tế, đây chỉ là những luận điệu xuyên tạc, thiếu khách quan trong Báo cáo tự do tôn giáo năm 2020 của Bộ Ngoại giao Mỹ và số đối tượng xấu trong Ủy ban Tự do tôn giáo Quốc tế Mỹ (USCIRF) lợi dụng vấn đề tự do tín ngưỡng, tôn giáo để xuyên tạc, chống phá, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc.

Về các trường hợp linh mục Nguyễn Đình Thục, Đặng Hữu Nam (giáo phận Vinh), linh mục Nguyễn Duy Tân (giáo phận Xuân Lộc, Đồng Nai), thời gian qua, các linh mục này có nhiều hoạt động không phải là hoạt động tôn giáo thuần túy, đã lợi dụng tòa giảng để chống chính quyền, có nhiều phát biểu đăng trên phương tiện thông tin đại chúng xuyên tạc lịch sử Việt Nam.

Những hành vi này đã vi phạm Điều 5, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo quy định các hành vi bị nghiêm cấm các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự an toàn xã hội, gây chia rẽ dân tộc, tôn giáo.

Quy định này áp dụng đối với mọi người hoạt động tôn giáo ở Việt Nam và hoàn toàn phù hợp với khoản 3 Điều 18 của ICCPR (Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác).

Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam cũng được đảm bảo thực thi trong thực tế. Hàng năm, trong cả nước có hơn 8.500 lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo được tổ chức. Việt Nam có 53 cơ sở đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo. 

Tính đến nay, hầu hết các cơ sở thờ tự của các tôn giáo (hơn 20.000 cơ sở thờ tự, chiếm 80%) được sửa chữa, nhiều cơ sở thờ tự được xây mới. Bộ Nội vụ và Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành Thông tư liên tịch số 1646/TTLT-TCĐC-TGCP, ngày 30/10/2000 về hướng dẫn giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên diện tích đất cơ sở tôn giáo đang sử dụng.

Tại các địa phương, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các cơ sở tôn giáo được thực hiện đúng pháp luật. Nhiều tỉnh, thành phố giao đất với diện tích phù hợp cho các tổ chức tôn giáo, như: TP HCM đã giao 7.500 m² đất cho Tổng Liên hội Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Nam) xây dựng Viện Thánh kinh thần học; tỉnh Thừa Thiên - Huế giao 20ha đất cho Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế sử dụng; TP Đà Nẵng giao 6.000 m2 đất cho Hội truyền giáo Cơ đốc Việt Nam sử dụng; TP Hà Nội giao cho Giáo hội Phật giáo Việt Nam khoảng 11ha đất để xây dựng Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội...

Bên cạnh đó, các tổ chức tôn giáo được tạo điều kiện in ấn, phát hành kinh sách, đồ dùng việc đạo phục vụ hoạt động tôn giáo. Từ năm 2013 đến nay, đã có gần 6 ngàn xuất bản phẩm tôn giáo được xuất bản, hơn 19 triệu bản in; nhiều xuất bản phẩm được in bằng nhiều ngôn ngữ: Anh, Pháp, tiếng dân tộc; 15 tờ báo, tạp chí của các tổ chức tôn giáo đang hoạt động; phần lớn các tổ chức tôn giáo (kể cả tổ chức tôn giáo trực thuộc) có website riêng. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của đồng bào dân tộc thiểu số được đảm bảo.

Nghi thức thả hoa đăng và cầu nguyện những điều tốt lành nhân dịp lễ Phật đản 2019 tại chùa Pháp Hoa (quận 3, TP HCM). ảnh: Hữu Thắng.

Giáo hội Phật giáo Việt Nam xây dựng Học viện Phật giáo Nam Tông Khmer tại TP Cần Thơ để đáp ứng nhu cầu đào tạo của tu sỹ Phật giáo Nam Tông Khmer. Kinh sách của các tổ chức tôn giáo đã được phép xuất bản bằng 13 thứ tiếng dân tộc. Năm 2020, có 5.000 bản in Kinh thánh bằng tiếng Ê đê, 3.000 bản in Kinh thánh tiếng Jrai.

Tại khu vực các tỉnh Tây Nguyên, Bình Phước hiện có khoảng  583.000 tín đồ (97% là đồng bào dân tộc thiểu số) sinh hoạt tôn giáo tại hơn 2.000 Hội thánh, điểm nhóm. Tại khu vực miền núi phía Bắc có hơn  230.000 tín đồ là đồng bào dân tộc thiểu số sinh hoạt tôn giáo tại 1.640 Hội thánh, điểm nhóm.

Hoạt động quan hệ quốc tế của các tổ chức tôn giáo ngày càng được mở rộng. Hàng năm, có hàng trăm đoàn của tổ chức, cá nhân tôn giáo ở trong nước tham gia hoạt động tôn giáo ở nước ngoài; nhiều chức sắc nước ngoài vào Việt Nam hoạt động tôn giáo.

Nhiều hoạt động tôn giáo quốc tế lớn được tổ chức thành công ở Việt Nam: Công giáo tổ chức Tổng hội Dòng Đa Minh thế giới tại Đồng Nai; Tin lành kỷ niệm 100 năm đạo Tin lành truyền vào Việt Nam; Giáo hội Phật giáo tổ chức Đại lễ Phật đản Liên Hợp quốc năm 2019 tại Việt Nam đã thu hút sự tham dự của 3.000 đại biểu, trong đó có 1.650 đại biểu khách quốc tế đến từ 112 quốc gia và vùng lãnh thổ, 250 kiều bào là tăng ni sinh từ 40 quốc gia, trên dưới 20.000 lượt tăng ni, phật tử tham dự các hoạt động bên lề của đại lễ và được dư luận quốc tế đánh giá cao.

Sông Thương