Không thể xuyên tạc bản chất chiến thắng lịch sử 30- 4

07:48 30/04/2018
Dịp kỷ niệm Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước năm nay (30/4/1975 - 2018), nhân dân ta có thêm nhiều niềm vui mới. 
Kinh tế - xã hội năm 2017 và quý I-2018 đạt nhiều thành tựu. Xuất khẩu, đầu tư trực tiếp nước ngoài, thành lập mới doanh nghiệp cao hơn dự kiến. Khách du lịch đến Việt Nam lên đến 13 triệu lượt, tăng 29,1%. Khu vực nông nghiệp mặc dù chịu tác động nặng nề của thiên tai, bão lũ nhưng vẫn tăng 2,9%, kim ngạch xuất khẩu trên 36 tỷ USD. Với mức tăng trưởng GDP đạt 6,81%, cao nhất kể từ năm 2007, Việt Nam thuộc nhóm nước tăng trưởng cao nhất trong khu vực và toàn cầu. 
Hoạt động đối ngoại với điểm nhấn là Năm APEC 2017 đã nâng cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 185 nước, hình thành 26 khuôn khổ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện, trong đó có 5 nước ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc; có quan hệ kinh tế với 224 quốc gia và vùng lãnh thổ.
 Thế nhưng trên một số trang mạng xã hội, những thế lực thù địch ở trong và ngoài nước, những kẻ tự xưng là “người yêu nước”, “người bất đồng chính kiến” lại tìm cách xuyên tạc, bóp méo giá trị lịch sử, ý nghĩa thời đại ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. 
Có kẻ còn viết về thất bại của Hoa Kỳ rằng: “Đó là sự nhân nhượng của Chính phủ Mỹ” chứ không phải là chiến thắng của Việt Nam; Hoa Kỳ “đưa quân” vào Việt Nam không phải nhằm thống trị Việt Nam mà muốn “đưa Việt Nam  về với thế giới tự do”. Thậm chí xuyên tạc thành “Cuộc chiến tranh xâm lược của miền Bắc với miền Nam”!
Năm 2017, bộ phim “Chiến tranh Việt Nam” (The Vietnam War) được phát trên kênh truyền hình PBS và đưa lên Internet (có phụ đề tiếng Việt), trong đó, nhóm tác giả đưa nhiều hình ảnh tang thương, chết chóc trong chiến tranh mà bất cứ cuộc chiến tranh nào trên thế giới cũng không thể tránh khỏi, rồi bình luận, đổ tất cả lỗi lầm, những tổn thất về sinh mạng, của cải  lên quân dân ta. 
Một số di tản ở nước ngoài còn nguỵ biện rằng, đó là: “Cuộc chiến tranh Việt Nam mang tính chất ủy nhiệm”; “cuộc chiến tranh mang tính ý thức hệ”,… Những bình luận đó hoàn toàn là những luận điệu xuyên tạc sự thật, đổi trắng thay đen, phủ nhận sự thật lịch sử một cách lố bịch với âm mưu, ý đồ chính trị đen tối. 
Về bản chất, chiến thắng 30/4 bắt nguồn từ đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, từ truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát thành một chân lý của thời đại “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Về mặt lịch sử, cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược là sự tiếp nối cuộc Cách mạng tháng Tám, bảo vệ nền độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, ngoài ra không có bất cứ một lý do nào khác.
Với Hoa Kỳ, nguyên nhân thất bại của họ bắt nguồn từ giới cầm quyền hiếu chiến thời kỳ đó đã đánh giá sai nội dung của thời đại ngày nay. Đó là thời đại, các dân tộc đã nhận thức được quyền dân tộc tự quyết, về quyền lựa chế độ xã hội, lựa chọn con đường phát triển của mình mà không có bất cứ một thế lực nào có thể cản trở.
Ngược dòng lịch sử chúng ta thấy, cuộc chiến tranh Việt Nam (theo cách gọi của phương Tây) là một cuộc chiến tranh xâm lược do Mỹ khởi xướng, với sự tiếp tay của ngụy quyền Sài Gòn. Trong suốt 21 năm chiến tranh, với quyết tâm chiếm bằng được miền Nam Việt Nam, Mỹ đã thay đổi 5 chiến lược quân sự, huy động tới hơn nửa triệu quân, cùng hàng vạn quân Đồng minh làm xương sống cho hơn 1 triệu quân nguỵ. Trong thời kỳ này, Hoa Kỳ cũng đã nhiều lần dùng thủ đoạn ngoại giao, hòa hoãn với nhiều nước lớn XHCN để rảnh tay xâm lược Việt Nam.
Trong cuộc chiến tranh này, Mỹ đã sử dụng tất cả những vũ khí, kỹ thuật quân sự tiên tiến nhất, kể cả hàng rào “điện tử”, pháo đài bay B52, vũ khí sinh học, hóa học, hòng đưa Việt Nam trở về “thời kỳ đồ đá”. Trong cuộc chiến tranh này, Hoa Kỳ đã ném xuống Việt Nam 7,8 triệu tấn (gấp hơn 3 lần số bom, đạn Mỹ sử dụng trong chiến tranh thế giới thứ hai và gấp 12 lần so với chiến tranh Triều Tiên). 
Mỹ cũng đã rải xuống miền Nam Việt Nam 85 triệu lít chất độc hóa học điôxin. Hậu quả là hơn một nửa diện tích rừng của Việt Nam đã bị thiêu rụi và đến nay di chứng của chất độc trên con người và đồng ruộng vẫn còn tồn tại. 
Trong cuộc chiến tranh này, Mỹ đã mất trên 58.000 binh sỹ (chết và mất tích), tiêu tốn 676 tỷ USD, đưa cuộc chiến tranh Việt Nam trở thành một trong những cuộc chiến tranh tổn thất nhiều sinh mạng và tốn kém nhất trong lịch sử nước Mỹ.
Đối với dân tộc ta, để giành được thắng lợi trong cuộc chiến tranh khốc liệt đó, hơn 3 triệu đồng bào, chiến sĩ cả nước đã ngã xuống; hàng ngàn làng mạc, thành phố đã bị san phẳng, đến nay nhiều di chứng chất độc trên đã chuyển sang thế hệ thứ hai, thứ ba.
Nhân dân Việt Nam không bao giờ quên sự giúp đỡ chí tình, to lớn của nhân dân các nước XHCN, nhất là nhân dân Liên Xô, Trung Quốc và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới. Song chiến thắng của dân tộc ta bắt nguồn từ đường lối chính trị đúng đắn, sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại; bắt nguồn từ truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc. 
Thực tế cho thấy hoàn toàn không có chuyện nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân xâm lược, bảo vệ độc lập dân tộc, thống nhất đất nước để thực hiện vai trò “ủy nhiệm” của một lực lượng chính trị nào đó, cũng không có chuyện cuộc chiến tranh này “mang tính ý thức hệ”; càng không có chuyện cuộc chiến chống ngoại bang xâm lược là cuộc chiến “nồi da, nấu thịt”.
Thất bại của Hoa Kỳ còn bắt nguồn từ đánh giá sai về bản chất chính trị của họ. Họ đã lẫn lộn mục tiêu cuộc đấu tranh bảo vệ giá trị dân tộc ta với vai trò của ý thức hệ. Điều này, chính Robert McNamara, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, người được xem là “kiến trúc sư” của cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của Mỹ viết trong cuốn hồi ký mang tựa đề “Hồi tưởng” xuất bản năm 1995 thừa nhận. 
Ở phần tổng kết ông đã rút ra/thừa nhận 11 sai lầm mà Mỹ đã vấp phải. Theo ông, đó là những “sai lầm một cách tồi tệ”. Về chính trị, đáng chú ý có những sai lầm sau:
“1. Chúng ta (Mỹ) đã đánh giá sai khi đó (và từ đó đến nay) những chủ đích địa chính trị của các đối thủ là mở rộng làn sóng đỏ xuống Đông Nam Á và chúng ta đã phóng đại những mối nguy hại từ hành động của họ đối với nước Mỹ; 2. 
Chúng ta xem xét nhân dân và lãnh đạo của miền Nam Việt Nam chỉ bằng trải nghiệm của chúng ta... Chúng ta đánh giá sai hoàn toàn những lực lượng chính trị trong đất nước đó (có thể Hoa Kỳ đã đánh giá sai uy tín của chính quyền Sài Gòn); 3. Chúng ta đánh giá thấp sức mạnh của tinh thần của một dân tộc có thể huy động và sự hy sinh vì đức tin về giá trị của họ; 8. 
Chúng ta không chịu thừa nhận rằng, nhân dân lẫn lãnh đạo của chúng ta đều không thông suốt mọi sự… Chúng ta không được Thượng đế ban phát cho quyền được nhào nặn một dân tộc theo hình ảnh của chúng ta hay theo cách mà chúng ta lựa chọn” (“11 sai lầm của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam” Robert McNamara. Dân Trí, 22-4-2005).
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta đã làm thức tỉnh lương tri của nhân loại. Không ít cựu chiến binh tham gia cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam đã trở lại Việt Nam với những tâm trạng khác nhau. Ông Lawrence Colburn, là xạ thủ trên máy bay trực thăng thuộc Đại đội Charlie (Mỹ), người lính Hoa Kỳ đã cố gắng chống lại cuộc thảm sát 504 thường dân ở Mỹ Lai 16-3-1968. Năm 2008, tức 30 năm sau sự kiện Mỹ Lai, ông được Chính phủ Mỹ trao tặng Huân chương Người lính, phần thưởng cao quý nhất của nước Mỹ cho sự dũng cảm trong các nhiệm vụ không trực tiếp chiến đấu (vì ông đã cố cứu những nạn nhân ở Mỹ Lai). Sau 40 năm, lần này đến Việt Nam ông “gửi lại Bảo tàng Sơn Mỹ Huân chương anh hùng ấy” (“Người lính Mỹ ngăn chặn thảm sát Mỹ Lai qua đời”. Zing.Vn 10:55 18-12-2016).
Tất nhiên vẫn còn không ít người lính trong đội quân xâm lược Việt Nam không được thanh thản như Lawrence Colburn, mà giờ đây với sự thức tỉnh lương tri của nhân loại tiến bộ, cũng như lòng ăn năn day dứt của chính họ, cùng với thời gian giúp  họ gác lại quá khứ, hướng tới tương lai… 
Kỷ niệm 43 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, chúng ta bày tỏ tinh thần khoan dung, hòa hiếu của một dân tộc có bề dày truyền thống lịch sử, văn hóa, anh hùng chống giặc ngoại xâm, nhưng không cho phép bất cứ ai, với danh nghĩa gì được phép xuyên tạc, bóp méo ý nghĩa lịch sử mà cả dân tộc đã hy sinh bao xương máu mới giành được.
Tiến sĩ Cao Đức Thái

Đại thắng mùa xuân năm 1975 - Động lực để Việt Nam vươn ra biển lớn

30/04/2018 04:00

LTS: Đại thắng mùa xuân năm 1975 là mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc, có ý nghĩa và giá trị to lớn cả về chính trị, quân sự, ngoại giao. Sự thật lịch sử rất rõ ràng, vậy mà cứ vào dịp chúng ta tổ chức các hoạt động kỷ niệm Ngày chiến thắng là trên một vài trang mạng lại xuất hiện những giọng điệu mang tư tưởng thù địch xuyên tạc sự thật, phủ nhận ý nghĩa, giá trị lịch sử của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975. Nhằm đấu tranh phản bác những luận điệu sai trái ấy, khẳng định giá trị của Chiến thắng 30-4 trong thời kỳ mới, Báo Quân đội nhân dân giới thiệu loạt bài: "Đại thắng mùa xuân năm 1975-Động lực để Việt Nam vươn ra biển lớn".

Bài 1: Giá trị lịch sử của chiến thắng là không thể xuyên tạc
Đại thắng mùa xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đánh dấu sự kết thúc một thời kỳ lịch sử đau thương của dân tộc Việt Nam, đưa dân tộc ta bước sang kỷ nguyên mới-kỷ nguyên độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH). Song từ đó đến nay, các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội chính trị luôn tìm mọi cách xuyên tạc, bôi nhọ chiến thắng vĩ đại này của dân tộc Việt Nam. Vì vậy, đấu tranh bóc trần những luận điệu dối trá, xuyên tạc lịch sử bằng các chứng cứ lịch sử, trong đó có những lời thú nhận của chính phía đối phương tham chiến và đánh giá của các nhà nghiên cứu phương Tây, để qua đó khẳng định giá trị và ý nghĩa thời đại của Đại thắng mùa xuân năm 1975.
Nhân dân Sài Gòn diễu hành mừng thành phố được giải phóng (ngày 15-5-1975.)(Ảnh: Tư liệu TTXVN)

Sự thật về một cuộc chiến tranh
Thực tế từ sau năm 1975 đến nay, câu hỏi “Tại sao Mỹ thất bại ở Việt Nam?” vẫn làm đau đầu các nhà chiến lược chính trị, quân sự của Mỹ và các nước phương Tây. Nhiều nhà lãnh đạo, chính khách ở Mỹ đã cố tình che giấu sự thật, tìm cách lý giải, biện minh cho âm mưu, thủ đoạn đen tối của Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam và buộc tội cho chính “cộng sản Việt Nam” gây ra. Có những kẻ hiếu chiến cho rằng: “Hoa Kỳ thất bại trong chiến tranh vì đã không thực sự cố gắng, không giữ được cho mình uy quyền và sức mạnh”; “không biết đẩy mạnh leo thang chiến tranh” để “đưa Việt Nam trở về thời kỳ đồ đá!”. Không ít học giả Mỹ và phương Tây lại đưa ra lý lẽ để biện minh cho nguyên nhân thất bại cay đắng này của Mỹ ở Việt Nam là “do quân đội Mỹ bị đưa đến chiến trường châu Á xa xôi, đầy cạm bẫy, gian nan”. Song, cũng có rất nhiều chính khách, nhà quân sự, nhà nghiên cứu đã quyết lần tìm và bóc trần sự thật này.
Khi nghiên cứu về chiến tranh Việt Nam, nhà sử học Mỹ Gabriel Kolko viết trong tác phẩm "Giải phẫu một cuộc chiến tranh", xuất bản tại New York (Mỹ) năm 1985, đưa ra đánh giá thật chua chát: “Việt Nam đã trở thành cuộc chiến tranh nước ngoài đầu tiên của Mỹ kể từ năm 1882 đã gây ra cuộc khủng hoảng xã hội, nội bộ sâu sắc và một sự phân hóa về chính trị”. Nhà báo Ezwin Knoll dày công sưu tập hơn 7.000 tài liệu của Lầu Năm Góc, trong đó phần lớn là tài liệu tuyệt mật liên quan đến cuộc chiến tranh Việt Nam. Tháng 9-1991, ông xuất bản cuốn sách "Cuộc chiến bịp bợm của Mỹ" do Nhà xuất bản Washington (Mỹ) phát hành, gây tiếng vang lớn trong xã hội Mỹ. Cuốn sách dẫn ra những tư liệu chân thực, nêu rõ âm mưu xâm lược Việt Nam được thực hiện bằng các thủ đoạn chiến tranh tàn bạo, phi nghĩa, vô nhân đạo của Mỹ; đồng thời chỉ ra dã tâm xâm lược Việt Nam mà Nhà Trắng tiến hành với những luận điệu xuyên tạc, hù dọa nhân dân Mỹ về cái gọi là “sự bành trướng của cộng sản Bắc Việt là mối đe dọa đối với lợi ích quốc gia Mỹ, đe dọa an ninh nước Mỹ”. Góp tiếng nói vào trả lời cho câu hỏi “Tại sao Mỹ thất bại ở Việt Nam?”, một phóng viên của hãng tin UPI thời kỳ chiến tranh Việt Nam là David Lamb đã lột tả sự thật trong cuốn "Vietnam, ngày nay" (Vietnam, Now), trong đó nêu rõ: “Sai lầm lớn của người Mỹ là không hiểu lịch sử, văn hóa và trạng thái tâm lý đặc trưng của Việt Nam. Họ quá tin chắc vào sức mạnh quân sự sẽ thắng cuộc chiến, không bao giờ buồn để ý đến chuyện tìm hiểu là họ chiến đấu với ai... Mỹ đã tới Việt Nam để xây dựng nhưng rút cuộc là phá hủy. Mỹ tới rừng rú Việt Nam để chiếm lòng dân, nhưng trong cuộc chiến lâu dài nhất-cuộc chiến đầu tiên mà Mỹ thất trận-đã khám phá ra rằng những dụng cụ chiến tranh không thể thay thế cho sinh khí của tinh thần quốc gia”.
Chiến thắng của chính nghĩa
Lời tự thú thất bại cay đắng của Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam với chứng cứ không thể rõ ràng, thuyết phục hơn từ chính những nhà chiến lược quân sự và nhiều tướng lĩnh lừng danh của nước Mỹ từng can dự vào cuộc chiến vô cùng tàn khốc này. Chúng ta hãy đọc một cuốn hồi ký viết về chiến tranh có tựa đề “Nhìn lại quá khứ: Tấn thảm kịch và những bài học về Việt Nam” của Robert McNamara, cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ dưới thời Tổng thống Johnson và Nixon, do Nhà xuất bản Random House phát hành tháng 4-1975, đúng vào dịp quân và dân ta đang tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trong cuốn hồi ký chỉ ra 11 nguyên nhân gây nên thảm họa cho Hợp chúng quốc Hoa Kỳ can dự vào cuộc chiến ở Việt Nam, trong đó có các nguyên nhân: Mỹ đã đánh giá thấp sức mạnh của cuộc đấu tranh hy sinh cho lý tưởng và các giá trị của CNXH; sự thiếu hiểu biết của Mỹ về lịch sử, văn hóa và chính trị của nhân dân Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam; sự nhìn nhận, đánh giá sai về sức mạnh sâu thẳm nhất của một dân tộc không nằm ở mũi nhọn quân sự mà ở sự đoàn kết của dân tộc đó... Cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ phải công khai thừa nhận: “... Chúng tôi (tức Chính phủ Mỹ) đã sai lầm, sai lầm khủng khiếp”. Đây chính là một trong những lời thú nhận thất bại cay đắng chưa từng có trong lịch sử đưa quân đội tham chiến ở ngoài nước Mỹ.
Lời thú nhận về nguyên nhân thất bại trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam còn được dẫn liệu trong cuốn hồi ký “Tường trình của một quân nhân” của Đại tướng, nguyên Tổng tư lệnh Quân đội Mỹ giai đoạn 1964-1968 (nhà xuất bản Trẻ, TP Hồ Chí Minh, phát hành năm 1988), trong đó có đoạn viết: “Lịch sử rất có thể đánh giá rằng nhảy vào Việt Nam là một trong những sai lầm lớn nhất của đất nước Mỹ”. Nhà sử học Stanley Karnow là một trong số ít các phóng viên nước ngoài có mặt ở Việt Nam từ đầu đến cuối cuộc chiến tranh đã viết cuốn sách “Vietnam A History”, được coi như một cuốn sử về nước Việt Nam hiện đại. Ông khái quát rất cô đọng và thấm thía về sự sai lầm của các Chính phủ Mỹ đương thời là “xuất phát từ sự không hiểu biết gì về lịch sử Việt Nam, một lịch sử dài và đau đớn những cuộc chiến, những xung đột và điều chỉnh đã tạo cho người Việt Nam một ý thức sâu sắc về dân tộc họ. Cũng những xung đột và điều chỉnh ấy đã làm nên một đảng tiên phong bản lĩnh và trí tuệ, luôn biết đổi mới kịp thời vào những thời điểm quyết định với nỗ lực và kỳ vọng được đồng hành cùng đất nước”. Chính vì những sai lầm và thiếu hiểu biết của Mỹ về lịch sử, văn hóa, chính trị ở nước Việt Nam mà các đời Tổng thống Mỹ khi đó đã đẩy nước Mỹ sa lầy trầm trọng vào một cuộc chiến tranh phi nghĩa khi tiến hành chiến tranh xâm lược một đất nước với tiềm lực kinh tế, quân sự thua kém rất nhiều lần so với cường quốc Hoa Kỳ. Vậy xin viện dẫn lời của tướng Maxwell Taylor, cựu Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn và cũng từng là cố vấn đặc biệt của Tổng thống Mỹ L.B. Johnson, đã phải thốt lên rằng: “Tất cả chúng ta đều có phần của mình trong thất bại của Mỹ ở Việt Nam và chẳng có gì là tốt đẹp cả. Chúng ta không hề có một anh hùng nào trong cuộc chiến tranh này, mà chỉ toàn là một lũ ngu xuẩn. Chính tôi cũng nằm trong số đó” (Báo Mỹ “Sao và vạch”, ngày 14-5-1975). Đúng vậy, một đất nước được thế giới coi là rất hùng mạnh, lại đem quân đi xâm lược một quốc gia có độc lập, chủ quyền, lại kém mình gấp nhiều lần về tiềm lực kinh tế và quân sự, thì làm gì có anh hùng, như lời tự vấn của tướng Maxwell Taylor.
Những lời thú nhận của các chính khách, các nhà lãnh đạo, cùng nhiều tướng lĩnh Mỹ và phản ánh của các phóng viên chiến trường ở một số hãng thông tấn nổi tiếng các nước phương Tây đã góp phần bóc trần sự thật về một cuộc “chiến tranh bẩn thỉu” mà chính phủ Mỹ đương thời đã dã tâm tiến hành trong hàng chục năm chống nhân dân Việt Nam. Lịch sử chiến tranh thế giới đương đại vẫn hiển hiện và lưu truyền mãi một bức tranh ảm đạm đối với nước Mỹ trong những ngày tháng 4-1975. Có thể khẳng định, sai lầm lớn nhất của Mỹ khi tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam là không thấy được một dân tộc Việt Nam luôn luôn có khát vọng hòa bình, tự do và hạnh phúc, nên sẵn sàng “đốt cháy cả dãy Trường Sơn” để đạt tới khát vọng hòa bình cao cả đó. Bởi thế, những dân tộc đang đấu tranh để giành độc lập, những người có lương tri trên toàn thế giới, trong đó có đông đảo nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý ở nước Mỹ, khi nghe tin Việt Nam tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 và giành toàn thắng, họ đã coi thắng lợi của nhân dân Việt Nam như thắng lợi của chính mình. Đó là niềm tự hào kiêu hãnh của dân tộc Việt Nam trong lịch sử hàng nghìn năm chống giặc ngoại xâm, không một thế lực nào có thể phủ nhận được.
Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã khép lại cánh cửa chủ nghĩa thực dân mới, làm tiêu tan mọi mưu đồ thâm hiểm của các thế lực thù địch hòng thôn tính, đô hộ, nô dịch, ngăn cản sự phát triển mạnh mẽ của dân tộc Việt Nam. Đó là kết quả của biết bao sự tích lũy, trải nghiệm của cách mạng, dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam; sự hy sinh to lớn của cả dân tộc, của các thế hệ, của sức mạnh tổng hợp và tổng lực của toàn dân, toàn quân ta. Khẳng định chiến thắng vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà đỉnh cao là Đại thắng mùa xuân năm 1975, để nhân lên gấp bội tinh thần yêu nước và niềm tự hào dân tộc chân chính, tạo nguồn động lực cho sự phát triển mới của đất nước trong bối cảnh đẩy mạnh hội nhập quốc tế, chứ không nhằm khoét sâu, làm đau đớn thêm vết thương chiến tranh do cuộc chiến phi nghĩa, tàn bạo mà đế quốc Mỹ gây ra.
Khẳng định giá trị, ý nghĩa và tầm vóc lịch sử của Đại thắng mùa Xuân năm 1975, chúng ta cũng đồng thời đấu tranh phê phán, bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc sự thật lịch sử với những thiên kiến lệch lạc, những ác ý thâm độc của các thế lực thù địch và cả những ngộ nhận, mơ hồ trong sự nhìn nhận, đánh giá lịch sử chiến tranh cách mạng thiếu khách quan, cụ thể, đi ngược lại tinh thần khoan dung, đồng thuận, đại đoàn kết dân tộc của toàn dân ta. Đảng, Nhà nước ta đã chủ động đề ra và thực hiện phương châm “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai”, “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”, nhưng trong bối cảnh mới, hoàn cảnh mới, mỗi người dân của “con Lạc cháu Hồng” dù ở trong nước hay đang định cư, học tập, công tác ở nước ngoài, không bao giờ được lãng quên lịch sử hào hùng chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam; càng không được vào hùa với các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội, bất mãn để bóp méo, bôi nhọ, xuyên tạc, đòi đánh giá lại lịch sử, phủ nhận tầm vóc vĩ đại của Đại thắng mùa xuân năm 1975 nhằm phục vụ cho những mưu đồ đen tối.
ĐỨC THẮNG - QUANG PHƯƠNG - KIM NGỌC

Cảnh giác trước sự dụ dỗ, lôi kéo của các thế lực phản động

27/04/2018 - 14:47Tình trạng người Mông Việt Nam di cư trái phép qua biên giới đã diễn ra nhiều năm nay, chủ yếu vì mục đích kinh tế, đoàn tụ gia đình. Tuy nhiên, những năm gần đây, nhiều người Mông vượt biên sang Lào do bị tác động từ luận điệu tuyên truyền, lừa bịp, lôi kéo tham gia “Bộ đội Mông”, thành lập “Nhà nước Mông”, “khi thành công được chia nhiều đất, được tự do theo đạo... sẽ có cuộc sống đầy đủ, sung sướng hơn” đã tham gia các hoạt động phản động, chống phá. Tình trạng này gây mất ổn định về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở khu vực biên giới, đồng thời, gây nhiều khó khăn và hệ lụy cho chính gia đình người di cư.
5ade89a122f7c706ed002cd2
Vừ A Quyền và Vừ A Tà (xã Na Tông, huyện Điện Biên) từng bị dụ dỗ vượt biên gia nhập phiến quân Mi-an-ma đã trốn thoát trở về. Ảnh: TTH
Lôi kéo thành lập “Nhà nước Mông”
Theo Cục Trinh sát BĐBP, trong những năm qua, các đơn vị BĐBP đã phát hiện hàng chục người Mông Việt Nam sang Lào tham gia các toán phỉ, chủ mưu, cầm đầu các vụ tập kích, phục kích, gây rối an ninh trật tự. Điển hình là toán phỉ do Mùa A Kỷ, trú tại huyện Bắc Yên và Vàng A Lầu, trú tại huyện Phù Yên, Sơn La cầm đầu. Cụ thể, ngày 8-12-2016, Đồn Biên phòng cửa khẩu quốc tế Tây Trang phối hợp với Phòng Trinh sát, BĐBP Điện Biên bắt giữ 2 đối tượng: Sùng A Dia, trú tại huyện Phù Yên, Sơn La và Lý A Dờ, trú tại huyện Phong Thổ, Lai Châu từ Lào xâm nhập vào biên giới Việt Nam.
Tang vật các chiến sĩ Biên phòng thu giữ gồm 1 khẩu súng ngắn, 2 hộp tiếp đạn, 89 viên đạn, 1 máy ảnh, 3 điện thoại di động cũ, 2 pin năng lượng mặt trời và một số tang vật khác. 2 đối tượng khai nhận vượt biên sang Lào từ năm 2014, tham gia toán phỉ do Kỷ và Lầu chỉ huy. Đã có 21/26 đối tượng người Mông Việt Nam tham gia toán phỉ này, hoạt động tại khu vực rừng giáp ranh tỉnh Xiêng Khoảng và Xay Sổm Bun. Toán phỉ đã tiến hành 5 vụ tập kích, phục kích làm chết 4 công an, bộ đội và một số dân thường của Lào. Thời điểm đối tượng Dia và Dờ bị bắt, còn khoảng 10 tên (6 tên người Mông Việt Nam).
Điều đáng chú ý là, trong số những người Mông di cư trái phép sang Lào, lực lượng trinh sát BĐBP đã phát hiện một số đối tượng vừa tham gia tổ chức phản động, vừa tham gia buôn bán, vận chuyển ma túy để tạo nguồn tài chính hỗ trợ hoạt động. Nổi lên là tên Su Vi Thò. Thò bị Công an tỉnh Hủa Phăn phối hợp với BĐBP Sơn La bắt ngày 12-3-2016 về hành vi mua bán, vận chuyển ma túy (20 bánh hê-rô-in). Trước khi bị bắt, Thò cầm đầu tổ chức phản động ở huyện Mường Son, tỉnh Hủa Phăn, Lào và đang có kế hoạch khôi phục “Tiểu đoàn Bộ binh 1 – Bộ đội Mông” (do tên May Hờ thành lập tháng 3-2003) với ý đồ tập hợp lực lượng, chống phá cách mạng Lào, lập “Nhà nước Mông”.
Liên quan đến vụ việc này, ngày 10-8-2016, đối tượng Giàng A Mông, trú tại xã Mường Lạn, Sốp Cộp, Sơn La theo phỉ May Hờ (từ tháng 8-2003) mang theo vợ cùng 4 con trở về bản Pu Hao và đến Đồn Biên phòng Mường Lạn đầu thú. Trinh sát Biên phòng điều tra, phát hiện trong thời gian ẩn nấu hoạt động ở khu vực biên giới Lào – Thái Lan – Mi-an-ma, tên Mông đã tham gia buôn bán, vận chuyển ma túy.
Qua các vụ việc trên, có thể thấy, vấn đề di cư của đồng bào dân tộc Mông hiện nay không hoàn toàn là tự do, tự phát mà đã có bàn tay chỉ đạo của các đối tượng cực đoan lợi dụng các vấn đề tôn giáo, dân tộc và nhân quyền để chống phá cách mạng Việt Nam và Lào.
Theo Cục Trinh sát BĐBP, thủ đoạn, ý đồ của các thế lực thù địch gồm: Tích cực tuyên truyền lừa bịp, kích động, lôi kéo người Mông các nước di cư đến các tỉnh trọng điểm Bắc Lào để tập hợp lực lượng, hình thành “khu vực toàn người Mông”, nhằm đảm bảo yếu tố dân cư, thành lập “Khu tự trị của người Mông”. Lôi kéo, khống chế người Mông Việt Nam tham gia các hoạt động phỉ, hoạt động chống phá cách mạng Lào, tạo tiếng vang, khôi phục lại các cụm phỉ, thực hiện chủ trương “hai vùng, hai lực lượng”.
Triển khai toàn diện các biện pháp đấu tranh ngăn chặn
Để đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội khu vực biên giới, tháng 9-2016, Bộ Tư lệnh BĐBP đã xây dựng Kế hoạch 3052/KH-BTL về “Phối hợp đấu tranh chống hoạt động di cư trái phép của người Mông Việt Nam sang Lào”. Trên cơ sở đó, Cục Trinh sát BĐBP xây dựng Kế hoạch số 1292/KH-CTS “Trinh sát phối hợp đấu tranh ngăn chặn hoạt động di cư trái phép của người Mông Việt Nam sang Lào”.
Thực hiện 2 kế hoạch trên, lực lượng trinh sát Biên phòng ở các đơn vị cơ sở đã sử dụng đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ rà soát địa bàn, đối tượng, thống kê số hộ, số khẩu di cư sang Lào từ năm 1986 đến nay. Đồng thời điều tra, xác minh phát hiện đường dây, đối tượng tổ chức tuyên truyền lừa bịp, lôi kéo, đưa đón người Mông tại địa bàn di cư trái phép sang Lào. Theo báo cáo của các địa phương, từ năm 1991 đến hết năm 2016, đã có khoảng 1.140 hộ với 6.883 người Mông Việt Nam di cư trái phép sang Lào. Từ khi triển khai Kế hoạch 3052 (16-9-2016) đến ngày 15-10-2017, phát hiện 61 hộ với 299 người Mông di cư sang Lào và 5 hộ với 37 khẩu di cư vào Tây Nguyên.
Với quyết tâm cao, triển khai đồng bộ các lực lượng, biện pháp, phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương và các lực lượng chức năng 2 bên biên giới, công tác đấu tranh, ngăn chặn hoạt động di cư trái phép của người Mông sang  Lào đã đạt được kết quả bước đầu đáng ghi nhận. Cùng với tuyên truyền, vận động người dân không di cư trái phép, các đơn vị BĐBP đã tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương giải quyết hiệu quả số dân di cư trái phép đến địa bàn và trả về nơi xuất cư. Kết quả, vận động được 47 hộ với 214 khẩu di cư đến địa bàn biên giới trở về quê cũ; vận động 62 hộ với 366 khẩu có ý định di cư ở lại quê hương ổn định cuộc sống.
Các đơn vị Biên phòng đã phát hiện, bắt giữ 3 hộ với 13 khẩu người Mông (Sơn La) và 4 chủ hộ người Mông (Điện Biên) đang trên đường vượt biên sang Lào. Ngoài ra, BĐBP còn bắt giữ 2 đối tượng hoạt động phỉ tại Lào đang tìm cách xâm nhập về Việt Nam; ngăn chặn 32 đối tượng vượt biên trái phép sang Trung Quốc làm thuê. Đồng thời, tiếp nhận 9 đợt với 27 đối tượng, 5 hộ với 25 khẩu người Mông vượt biên, di cư, cư trú bất hợp pháp do phía Lào và Trung Quốc bắt giữ, trao trả.
Theo Cục Trinh sát BĐBP, sau hơn một năm thực hiện Kế hoạch 3052, đến nay, tình trạng người Mông di cư trái phép sang Lào đã có dấu hiệu giảm, không có di cư số lượng lớn và chủ yếu di cư nhỏ lẻ theo hộ gia đình. Tuy nhiên, qua  nắm tình hình địa bàn, Cục Trinh sát BĐBP nhận định, tình hình an ninh vùng đồng bào dân tộc Mông tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp, khó lường. Các thế lực thù địch, phản động tiếp tục tuyên truyền luận điệu “Đảng cộng sản Mông”, “Vương quốc Mông”... kích động tư tưởng ly khai, tự trị, triệt để lợi dụng hoạt động tôn giáo, dân tộc để tập trung lực lượng, tổ chức tụ tập đông người, gây rối. Hoạt động di cư, qua lại biên giới từ các tỉnh, huyện nội địa vẫn tiếp tục xảy ra, tiềm ẩn nhiều yếu tố gây mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
Bích Nguyên
 

Nhận diện những phương thức mới trong thực hiện âm mưu "phi chính trị hóa" quân đội

23/04/2018 05:00

Thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch dùng mọi phương thức trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội: Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại để chống phá cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, các thế lực thù địch thực hiện âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội là một trong những mũi tấn công chủ yếu nhằm tìm cách thủ tiêu, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam; làm cho quân đội không phải là “phi chính trị”, mà là từ “phi chính trị” cách mạng-chính trị vô sản chuyển sang một thứ chính trị khác-chính trị tư sản!

“Phi chính trị hoá” quân đội là âm mưu cơ bản, xuyên suốt của các thế lực thù địch trong quá trình chống phá QĐND Việt Nam. Tuy nhiên, trong từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, các thế lực thù địch thực hiện những phương thức khác nhau, phù hợp với những đặc điểm của mỗi thời kỳ lịch sử cụ thể. Trong bối cảnh tình hình thế giới hiện nay là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, nhất là Cách mạng công nghiệp 4.0, quá trình toàn cầu hóa không chỉ tiếp tục được khẳng định như một xu hướng tất yếu mà còn có xu hướng phát triển ngày càng nhanh cả về quy mô, tốc độ, tính chất và phạm vi ảnh hưởng. Những khái niệm như “biên giới mềm”, “thế giới phẳng” đang được người ta sử dụng để biện hộ cho một quan niệm phi lý rằng, thế giới ngày nay không còn có các chế độ chính trị-xã hội khác nhau, đối lập nhau, để đi tới một thế giới “phi chính trị”, mà thực chất là đem hệ tư tưởng chính trị tư­ sản áp đặt lên tất cả các quốc gia dân tộc!
Quá trình thực hiện công cuộc đổi mới đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, trước sự tác động của quá trình toàn cầu hóa, của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, bên cạnh những mặt tác động tích cực, thì quá trình mở cửa, hội nhập quốc tế không thể không chịu sự tác động từ mặt tiêu cực, không chỉ về kinh tế, mà còn về văn hóa, xã hội, thậm chí cả về chính trị tư tưởng. Đối với Quân đội ta, quá trình thực hiện phương hướng xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, nhất là quá trình từng bước hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự, đáp ứng yêu cầu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong mọi tình huống, chúng ta không thể không thực hiện quá trình mở cửa, giao lưu, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng.
Ảnh minh họa. Nguồn: qdnd.vn
Dưới tác động của những đặc điểm mới trên đây, trong thực hiện phương thức “phi chính trị hóa” Quân đội ta hiện nay, đi đôi với những phương thức quen thuộc, các thế lực thù địch đang và sẽ triệt để tận dụng những đặc điểm của bối cảnh tình hình mới đó để tấn công phá hoại trận địa tư tưởng trong Quân đội ta. Thông qua việc triệt để lợi dụng công nghệ thông tin, nhất là thông qua mạng internet toàn cầu, thông qua các trang mạng xã hội; thông qua những “đoàn ra”, “đoàn vào” của Việt Nam và của các nước, các tổ chức có quan hệ với Việt Nam; thông qua việc gửi cán bộ, nhân viên đi nghiên cứu, tham quan, học tập ở nước ngoài và việc người nước ngoài đến Việt Nam ngày càng nhiều với nhiều mục đích khác nhau, các thế lực thù địch đang và sẽ tiếp tục tấn công toàn diện vào nền tảng tư tưởng của Quân đội ta là Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Làm cho cán bộ, chiến sĩ quân đội dần dần phai nhạt niềm tin vào mục tiêu, lý tưởng XHCN, dần dần xa rời hệ tư tưởng cách mạng, khoa học, từng bước tạo ra một “khoảng trống” về ý thức hệ, pha loãng, làm nhạt dần ý thức hệ vô sản để trượt dần sang ý thức hệ tư­ sản!
Công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN của nhân dân ta trong những năm qua, đặc biệt là qua hơn 30 năm đổi mới đất nước vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH), dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự phấn đấu phi thường của toàn dân, toàn quân ta, cùng với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, chúng ta vẫn còn những hạn chế, bất cập. Hiện nay, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi mới tạo điều kiện cho chúng ta xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” quân đội, thì chúng ta vẫn đang và sẽ phải tiếp tục đối mặt với những nguy cơ, khó khăn, thách thức mới. Các thế lực thù địch đang và sẽ tiếp tục lợi dụng những đặc điểm mới của tình hình để chống phá Quân đội ta, đẩy mạnh thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội bằng những phương thức mới ngày càng tinh vi hơn, xảo quyệt hơn, khó nhận biết hơn.
Đáng chú ý là, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta ngày càng đi vào chiều sâu, bên cạnh mặt tác động tích cực đến quá trình cách mạng nước ta, thì mặt tiêu cực của nó cũng ngày càng tác động mạnh mẽ hơn, toàn diện hơn đến mọi mặt của đời sống xã hội, đến việc xây dựng quân đội cách mạng, cả về chính trị, đạo đức, lối sống, đoàn kết, dân chủ, kỷ luật. Những tiêu cực của xã hội, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí… đang có chiều hướng gia tăng; sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân; những yếu kém, bất cập trong quản lý đất nước, quản lý xã hội của một bộ phận cán bộ, công chức Nhà nước; những rạn nứt, những mâu thuẫn xã hội trong các tầng lớp nhân dân… đang và sẽ từng ngày, từng giờ tác động đến tư tưởng, tình cảm, niềm tin của các tầng lớp nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, đối với tính ưu việt của CNXH… Quá trình mở cửa, giao lưu, hợp tác quốc tế, bên cạnh mặt tích cực thúc đẩy quá trình phát triển thì mặt tiêu cực cũng tác động không nhỏ đến nước ta, nhất là sự du nhập của các giá trị phản văn hoá, sự du nhập của đạo đức, lối sống thực dụng, đề cao giá trị vật chất, coi trọng đồng tiền, đang từng ngày tác động làm băng hoại những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp trong mỗi người dân Việt Nam yêu nước, yêu CNXH.
Trong những điều kiện đó, để thực hiện âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” Quân đội ta, các thế lực thù địch đang và sẽ tiếp tục thực hiện phương thức tấn công mới. Nhận thấy việc tấn công trực tiếp vào chính trị, làm cho Quân đội ta suy yếu về chính trị khó có thể thực hiện được đối với một quân đội đã có bề dày truyền thống đấu tranh cách mạng, được tôi luyện trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, các thế lực thù địch đang và sẽ chuyển sang triển khai mạnh mẽ mũi tấn công vào đạo đức, lối sống. Đây là mũi tấn công cực kỳ thâm độc và nguy hiểm. Tính chất nguy hiểm của mũi tấn công này là ở chỗ: Chúng sẽ làm cho một bộ phận cán bộ, chiến sĩ thiếu bản lĩnh, không tích cực tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống cách mạng… sẽ dần dần bị sa đọa về đạo đức, lối sống, quen dần với cuộc sống hưởng thụ, đề cao, tuyệt đối hóa lợi ích vật chất, sao nhãng, xem nhẹ việc tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu cho mục tiêu, lý tưởng cách mạng; từ chỗ loãng dần, nhạt dần về chính trị cách mạng, chính trị vô sản để trượt dần sang chính trị tư­ sản!
Để thực hiện mũi tấn công thâm độc, nguy hiểm này, các thế lực thù địch đang và sẽ triệt để lợi dụng, khai thác những mặt tiêu cực, yếu kém trong tổ chức và con người, nhất là lợi dụng những tổ chức yếu kém; những người có quan điểm, tư tưởng thù địch, sai trái, những phần tử bất mãn, thoái hóa, biến chất; những sai lầm, khuyết điểm trong xử lý các “điểm nóng”, các vụ việc tiêu cực xã hội… để tuyên truyền, kích động, lôi kéo, mua chuộc… làm cho một bộ phận cán bộ, chiến sĩ quân đội mơ hồ, suy giảm niềm tin, lung lay tư tưởng, hoài nghi sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên… dẫn đến suy giảm về chính trị vô sản, tr­ượt dần sang chính trị tư­ sản, bắt đầu từ sự sa đọa về đạo đức, lối sống!
Những năm qua, các thế lực thù địch đã triệt để tận dụng những đặc điểm mới của tình hình quốc tế, khu vực và trong nước để thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” Quân đội ta với những phương thức mới, nhưng chúng đã không thể thực hiện được mục tiêu đề ra. Sức mạnh chiến đấu tổng hợp của QĐND Việt Nam nói chung, nhất là sức mạnh chính trị-tinh thần của QĐND Việt Nam ngày càng được củng cố vững chắc và từng bước được nâng cao. Quân đội ta vẫn rất xứng đáng là lực lượng chiến đấu, lực lượng chính trị tin cậy, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Nhà nước, với nhân dân, với Tổ quốc và chế độ XHCN thông qua việc thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất, giúp nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn. Quân đội ta đã hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó trong mọi điều kiện, mọi hoàn cảnh, mọi tình huống. Quân đội ta không hề bị các thế lực thù địch làm suy giảm chính trị vô sản, mà ngược lại, trận địa chính trị tư tưởng vô sản trong Quân đội ta ngày càng được củng cố, giữ vững và phát triển vững chắc.
Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, trước sự tác động của những đặc điểm mới của tình hình quốc tế, khu vực và trong nước, trước yêu cầu ngày càng có sự phát triển mới của nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ xây dựng, nâng cao sức mạnh chiến đấu tổng hợp của QĐND, trước hết là sức mạnh chính trị-tinh thần, trong điều kiện các thế lực thù địch đang và sẽ tích cực triển khai những phương thức mới trong thực hiện “phi chính trị hóa” Quân đội ta, chúng ta cần quân tâm làm tốt những vấn đề sau đây: Tăng cường bản chất cách mạng của quân đội, đặc biệt phải chăm lo xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tăng cường “sức đề kháng” của cán bộ, chiến sĩ để tích cực, chủ động phòng, chống âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” Quân đội ta của các thế lực thù địch. Thường xuyên giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ về những đặc điểm mới của tình hình quốc tế, khu vực và trong nước, mà các thế lực thù địch đang và sẽ lợi dụng để thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội bằng những phương thức mới để chủ động ngăn chặn, phòng ngừa. Nhận thức rõ hơn bản chất, âm mưu, thủ đoạn, phương thức chống phá mới của các thế lực thù địch, nhất là đấu tranh vạch trần tính chất phản khoa học của luận điểm “quân đội đứng ngoài chính trị”, thực chất của quan điểm “phi chính trị hóa” Quân đội ta của các thế lực thù địch để có biện pháp đấu tranh, phòng, chống có hiệu quả. 
PGS, TS NGUYỄN VĨNH THẮNG

Can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam là vi phạm nguyên tắc quan hệ quốc tế

07:50 23/04/2018
Sau khi Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội và Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm các bị cáo Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Văn Túc và 5 đồng phạm về tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” theo quy định tại Điều 79, Khoản 1, Bộ luật Hình sự năm 1999 đã khép lại.
Tổ chức phiên tòa xét xử những công dân vi phạm pháp luật là công việc nội bộ bình thường của Việt Nam cũng như mọi quốc gia trên thế giới. Ấy vậy mà trước và sau phiên tòa, một số cá nhân, tổ chức mang danh “bảo vệ nhân quyền” với động cơ không trong sáng, bằng cái nhìn thiển cận, thiếu khách quan lại đứng ra cổ vũ, bảo vệ, rồi đòi Việt Nam trả tự do cho Nguyễn Văn Đài và các đồng phạm. Hành động ấy vừa trái với pháp luật Việt Nam, vừa vi phạm nguyên tắc quan hệ quốc tế.
Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, tại phiên tòa đã thể hiện rõ, từ tháng 3-2013 đến tháng 7-2017, Nguyễn Văn Đài, Phạm Văn Trội, Nguyễn Trung Tôn, Nguyễn Bắc Truyển là những người khởi xướng, thành lập tổ chức, xây dựng cương lĩnh, điều lệ, quy chế hoạt động và chỉ đạo, điều hành hoạt động của cái gọi là tổ chức "Hội anh em dân chủ".
Nhằm phát triển tổ chức, Nguyễn Văn Đài cùng các đồng phạm đã lôi kéo Trương Minh Đức, Lê Thu Hà và một số người tham gia tổ chức thực hiện các hành vi, như: Lập văn phòng đại diện; địa chỉ website; xây dựng "Cương lĩnh vắn tắt"; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có chiến lược đối nội, đối ngoại; hoạt động phát triển lực lượng, đào tạo hội viên…
Nguyễn Văn Đài và các đồng phạm đã lợi dụng việc đấu tranh cho "dân chủ, nhân quyền", "xã hội dân sự" để che giấu mục đích hoạt động của "Hội anh em dân chủ"; liên kết với các tổ chức trong và ngoài nước, liên kết với các tổ chức bất hợp pháp trong nước, tìm sự hậu thuẫn, tài trợ về tài chính từ nước ngoài, tuyên truyền chống Nhà nước với mục đích khi lực lượng đủ mạnh, chờ thời điểm phù hợp sẽ công khai hoạt động, đối đầu với chính quyền, thay đổi thể chế chính trị tại Việt Nam để xây dựng chế độ "đa nguyên, đa đảng", "tam quyền, phân lập"...
Còn đối với Nguyễn Văn Túc, sau khi chấp hành hình phạt 4 năm tù giam về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” trở về địa phương y vẫn chứng nào tật nấy. Ngoài tham gia vào tổ chức khủng bố “Việt Tân”, từ tháng 2-2014, Nguyễn Văn Túc đã tham gia tổ chức “Hội anh em dân chủ” với các chức vụ như phó ban đại diện “Hội anh em dân chủ” miền Bắc, Phó Chủ tịch thứ nhất của “Hội anh em dân chủ” phối hợp cùng Nguyễn Văn Đài và đồng bọn tiến hành các hoạt động trái pháp luật nhằm âm mưu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lật đổ chính quyền nhân dân. Hành vi của Nguyễn Văn Đài và đồng bọn đã vi phạm Điều 79, Khoản 1, Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định về tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”...
Tội trạng của từng bị cáo là rất rõ ràng và cơ bản các bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội, mong được hưởng lượng khoan hồng, ấy thế mà bằng cái nhìn thiển cận, chủ quan, phiến diện, một số người, một số tổ chức mang danh bảo vệ nhân quyền lại cho rằng, việc các bị cáo sinh hoạt trên mạng Internet không thuộc trường hợp bị cấm bởi pháp luật Việt Nam, việc sinh hoạt nhóm trên mạng không phải là thành lập hội...
Từ cách lập luận ấy, họ cho rằng Nguyễn Văn Đài cùng các thành viên "Hội anh em dân chủ" không có tội và đòi Việt Nam trả tự do cho những người này.
Đưa ra lập luận và đòi hỏi vô lý trên chứng tỏ những cá nhân, tổ chức mang danh "bảo vệ nhân quyền" ấy chẳng hiểu gì về bản chất vụ án, về luật pháp Việt Nam, về Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền và các Công ước quốc tế có liên quan.
Về bản chất vụ án, Hội đồng xét xử đã xác định rất rõ, việc các bị cáo thành lập nhóm kín trao đổi, sinh hoạt thông qua mạng Internet, có nhiều người tham gia, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có cương lĩnh và điều lệ hoạt động... về bản chất đó là thành lập hội, là thành lập một tổ chức. Việc sinh hoạt thông qua Internet chỉ là phương thức hoạt động của “Hội anh em dân chủ” mà thôi.
Trên thực tế, thông qua các buổi họp, sinh hoạt trên Internet, “Hội anh em dân chủ” đã triển khai các hoạt động, kiện toàn cơ cấu tổ chức chặt chẽ, lôi kéo được nhiều người tham gia. Mọi hoạt động của “Hội anh em dân chủ” đều nhằm đến một mục đích là đấu tranh nhằm thay đổi quyền lãnh đạo đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam, xây dựng chế độ "đa nguyên, đa đảng"; thực hiện "tam quyền, phân lập"...
Hành vi của Nguyễn Văn Đài và các bị cáo không phải là đấu tranh để bảo vệ dân chủ, nhân quyền mà thực chất đó là hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân. Do đó việc các cơ quan bảo vệ pháp luật khởi tố, điều tra, đưa ra xét xử Nguyễn Văn Đài và các bị cáo theo Khoản 1, Điều 79, Bộ luật Hình sự năm 1999 là hoàn toàn chính xác. Nhà nước Việt Nam không cho phép bất cứ ai được bao che, dung túng, cổ xúy cho những kẻ vi phạm pháp luật.
 Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân, trong đó có quyền tự do hội họp, lập hội. Ngay tại Điều 10, Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đã quy định công dân có quyền: "Tự do tổ chức và hội họp" .
Trên cơ sở bản hiến pháp đầu tiên ấy, ngày 20-5-1957, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa đã ký Sắc lệnh số 102/SL/L004 ban hành Luật về Hội. Các bản hiến pháp năm: 1959, 1980, 1992 và mới đây nhất là Hiến pháp năm 2013 đều kế thừa và ghi nhận quyền tự do hội họp, tự do lập hội là một trong các quyền cơ bản của công dân.
Điều 25, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Hiến pháp quy định “Công dân có quyền tự do... hội họp, lập hội” nhưng đó là sự tự do trong khuôn khổ, chứ không phải là thứ tự do vô hạn độ, tự do vô chính phủ.
Cũng như mọi quốc gia trên thế giới, pháp luật Việt Nam không cho phép bất cứ ai được lợi dụng các quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Cần nhắc lại rằng, không chỉ ở Việt Nam mà ở mọi quốc gia trên thế giới, không cho phép bất cứ công dân nào đứng trên pháp luật, đứng ngoài pháp luật.
Nếu ai đó sử dụng quyền tự do của mình để chà đạp, phá hoại, gây tổn thương đến quyền tự do và lợi ích của những người khác, đe dọa đến an ninh trật tự an toàn xã hội thì sẽ bị pháp luật nghiêm trị, bất kể người đó là ai.
 Không chỉ trái pháp luật Việt Nam, những giọng điệu của một số người, một số tổ chức mang danh "bảo vệ nhân quyền" như đã nói trên còn cho thấy họ chẳng hiểu gì về Công ước quốc tế. Điều 20, Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân quyền của Liên hợp quốc công bố ngày 10-12-1948, quy định rõ: "(1). Mọi người đều có quyền tự do họp hành và tham gia hiệp hội một cách hòa bình. (2). Không ai bị bắt buộc phải tham gia một hiệp hội nào".
Nhưng cùng với đó Khoản 2, Điều 29 của Tuyên ngôn này cũng nêu rõ: “Khi thực hiện các quyền và tự do của mình, mọi người chỉ chịu những hạn chế do luật định, nhằm mục đích duy nhất là bảo đảm sự công nhận và tôn trọng thích đáng đối với các quyền và tự do của người khác cũng như đáp ứng những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự xã hội và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ”.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, quyền tự do hội họp, lập hội là quyền cơ bản và rất quan trọng của con người trong xã hội dân sự. Tuy nhiên, về phương diện pháp luật, khi thực hiện các quyền, trong đó có quyền tự do hội họp, lập hội công dân phải tuân theo khuôn khổ pháp luật của quốc gia. Điều ấy cũng có nghĩa là, khi thực hiện quyền hội họp, lập hội phải bảo đảm không xâm hại đến lợi ích của quốc gia dân tộc, lợi ích xã hội và lợi ích của những người khác trong cộng đồng.
 Mọi sự đã rõ như ban ngày, vậy tại sao vẫn có một số người, một số tổ chức lại bảo vệ cho Nguyễn Văn Đài và các đồng phạm. Họ đang toan tính điều gì đằng sau hành động này? Dư luận chẳng lạ gì tâm địa của họ. Ở nước ngoài lâu nay vẫn có một vài cá nhân, tổ chức và một số trang mạng có quan điểm thiếu thiện chí với Việt Nam.
Họ thường lợi dụng những sự việc liên quan đến các vấn đề phức tạp, nhạy cảm, trong đó có vấn đề dân chủ nhân quyền để tuyên truyền xuyên tạc chống phá, gây sức ép đòi Việt Nam thay đổi một số điều trong Hiến pháp và Bộ luật Hình sự... Việc làm của họ không chỉ can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Việt Nam, trái với pháp luật Việt Nam, mà còn vi phạm nguyên tắc quan hệ quốc tế.
Nghị quyết Liên hợp quốc về nguyên tắc "không can thiệp vào công việc nội bộ" được thông qua năm 1965 và được ghi nhận, thể hiện trong nhiều văn bản pháp lý quốc tế quan trọng khác đó là: "Tuyên bố cấm can thiệp vào công việc nội bộ, bảo vệ độc lập và chủ quyền của các quốc gia".
Nội dung của nguyên tắc này không cho phép bất kỳ quốc gia nào dù lớn hay nhỏ, dù giàu hay nghèo, dù văn minh hay lạc hậu được quyền can thiệp vào các lĩnh vực thuộc thẩm quyền riêng biệt của mỗi quốc gia, xuất phát từ chủ quyền của mình. Chẳng lẽ một số người, một số tổ chức như đã nói không hiểu về nguyên tắc này. Hay họ đang cố tình không hiểu vì những động cơ và mục đích đen tối?
Kim Lân
 

Cảnh giác với thủ đoạn lợi dụng quyền tự do ngôn luận, xuyên tạc bản chất chế độ ta

09:50 18/04/2018
Nhiều người tự xưng là người “yêu nước”, “bất đồng chính kiến”, đấu tranh cho “dân chủ, nhân quyền Việt Nam” đã tung lên mạng xuyên tạc tình hình, vu cáo đường lối chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước ta.
Thời gian qua, lợi dụng những mặt trái của tình hình, lợi dụng tính phức tạp nhạy cảm trong quan hệ quốc tế, nhất là đối với các nước lớn đang tranh chấp vai trò, vị thế ở biển Đông, nhiều người tự xưng là người “yêu nước”, “bất đồng chính kiến”, đấu tranh cho “dân chủ, nhân quyền Việt Nam” đã tung lên mạng xuyên tạc tình hình, vu cáo đường lối chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước ta. 
Một số người đã bị các cơ quan chức năng khởi tố điều tra và đưa ra xét xử về hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận, chống Nhà nước.
Nhiều vụ đã đưa ra xét xử, chẳng hạn như vụ Vũ Quang Thuận, Nguyễn Văn Điển và Trần Hoàng Phú (Hà Nội, 31-1-2018), trước đó là vụ Trần Thị Nga (Hà Nam, 25-7-2017); vụ Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (Đà Nẵng, 30-11-2017). Đây là xét xử về tội lợi dụng quyền tự do ngôn luận, tự do internet theo Điều 88, BLHS (Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam), Điều 258 (Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân), BLHS 1999.
Một số trang mạng có máy chủ ở nước ngoài đã lập tức đưa tin xuyên tạc, vu cáo Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam “vi phạm quyền con người”. 
Ngay sau đó, nhiều hãng thông tấn báo chí phương Tây đã tán phát thông tin, vụ việc với cáo buộc “Việt Nam ngày càng gia tăng các vụ bắt giữ các nhà đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền”; rằng “Điều 88, BLHS của Việt Nam, được dùng để trấn áp các nhà tranh đấu cho nhân quyền”. 
Họ còn nói “Tất cả các nhà tranh đấu cho dân chủ, nhân quyền trên thế giới đều cho rằng điều khoản này (Điều 88, 258) quá mơ hồ và vi phạm công ước nhân quyền quốc tế về quyền con người; đã hình sự hoá việc thực hiện các quyền cơ bản, cũng như tự do ngôn luận của công dân”.
Vậy cáo buộc của những người “bất đồng chính kiến” và các hãng thông tấn báo chí phương Tây có đúng với những hành vi phạm tội của các bị can, bị cáo không? Pháp luật Việt Nam có phù hợp với “chuẩn mực nhân quyền quốc tế” không, hay đó chỉ là một thủ đoạn chính trị nhằm những mục tiêu chính trị xấu xa, thâm độc khác?
Trước hết, về những vụ án gần đây. Tại tòa, Vũ Quang Thuận, Nguyễn Văn Điển và Trần Hoàng Phúc đã thừa nhận các chứng cứ do cơ quan chức năng đưa ra. Đó là việc họ đã tham gia “Phong trào chấn hưng nước Việt”- là tổ chức chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ở nước ngoài. Họ đã phối hợp với nhau quay nhiều video clip rồi đưa lên mạng nhằm xuyên tạc, vu cáo chính quyền và các cơ quan chức năng bảo vệ pháp luật Việt Nam.
Về vụ án Trần Thị Nga, trước tòa bị cáo đã thừa nhận lập tài khoản blog, Facebook và tải trên mạng YouTube 13 video clip có nội dung xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; phỉ báng chính quyền nhân dân; tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, truyền bá những tư tưởng phản động, gieo rắc sự nghi ngờ, gây hoang mang trong nhân dân... nhằm mục đích chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam… 
Ngoài ra Nga còn viết, dán nhiều biểu ngữ có nội dung bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lực lượng Công an, tẩy chay bầu cử Quốc hội khóa 14, nhiệm kỳ 2016 - 2021.
Về vụ án Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, các cơ quan điều tra đã đưa ra nhiều bằng chứng phạm tội của bị cáo. Quỳnh lập tài khoản facebook “Mẹ Nấm”, đã đăng tải trên mạng gần 1.200 trang tài liệu do Quỳnh soạn thảo có nội dung sai sự thật, đả kích, nói xấu Đảng và Nhà nước Việt Nam, xuyên tạc lịch sử cách mạng Việt Nam, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc. 
Đặc biệt Quỳnh đã soạn tài liệu “Stop police killing civilians” (phải chấm dứt việc cảnh sát giết dân thường). Qua điều tra, hầu hết những thông tin trên mạng do “Mẹ Nấm” phát trên mạng là sai sự thật.
Qua các bằng chứng phạm tội của một số bị can bị cáo nói trên cho thấy Tòa án Việt Nam đã xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Về chuyện pháp luật Việt Nam không phù hợp với “chuẩn mực nhân quyền quốc tế”?
Theo Hiến chương Liên hợp quốc 1945, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người 1948 và các Công ước quốc tế về quyền con người, các quốc gia dân tộc đều có “quyền tự quyết”.
Với quyền của cá nhân, các văn kiện nói trên đều quy định: trong khi hưởng thụ quyền mọi người đều phải chịu một số hạn chế nhất định và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật quốc gia.
Điều 1, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị 1966 quy định: “Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến… 
Việc thực hiện những quyền quy định tại khoản 2 điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, việc này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định, tuy nhiên, những hạn chế này phải được quy định trong pháp luật và là cần thiết để: (a) Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; (b) Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức của xã hội”.
Pháp luật Việt Nam đến nay hoàn toàn tương thích với quy định nói trên. Điều 14, Hiến pháp 2013 quy định: “Ở nước CHXHCN Việt Nam, các quyền con người được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm... 
Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. Điều 15 quy định: “Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân; mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội; việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”.
Như vậy là không có chuyện pháp luật Việt Nam “mơ hồ”, “trái với chuẩn mực nhân quyền” quốc tế. Tất nhiên pháp luật Việt Nam so với pháp luật các nước có thể có sự khác nhau nào đó. Điều này bắt nguồn từ lịch sử dân tộc, tính đặc thù về văn hóa và bối cảnh chính trị.
Chế độ xã hội ta là chế độ XHCN, Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng duy nhất lãnh đạo, cầm quyền. Điều này bắt nguồn từ lịch sử cách mạng Việt Nam. Bởi vậy Hiến pháp 2013 đã quy định rõ vai trò, trách nhiệm của Đảng, mối quan hệ của Đảng với nhân dân, bao gồm cả chịu sự giám sát của nhân dân.
Điều 4 Hiến pháp 2013 quy định: “(1) Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. (2). 
Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. (3). Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Có thể nói, nội dung những bình luận trên nhiều trang mạng gần đây, nhất là về các vụ án vi phạm tội lợi dụng quyền tự do ngôn luận, tự do internet tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là vô căn cứ - nói đúng hơn là những thủ đoạn chính trị xấu xa, thâm độc. 
Qua những thông tin sai trái, không có thật, trên thế giới ảo, họ hy vọng gây ra những ngộ nhận về bản chất của Đảng và chế độ ta, phá vỡ mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân ta, từ đó từng bước chuyển hóa chế độ xã hội ta sang mô hình “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập”. Điều này có thể hủy hoại những thành quả cách mạng của dân tộc ta.
Vọng Đức