Để người trẻ không chệch hướng sáng tạo

Thứ năm, 26/12/2024 - 05:38

Thời gian gần đây, đời sống văn học-nghệ thuật (VHNT) xuất hiện khá nhiều tác giả trẻ được công chúng quan tâm, chú ý. Nhiều người bày tỏ lạc quan, kỳ vọng về sự bứt phá của thế hệ văn nghệ sĩ trẻ với những nhân tố xuất sắc. Để góp phần đưa VHNT nước nhà phát triển, hội nhập quốc tế đòi hỏi phải có sự nhận thức đúng đắn và chiến lược xây dựng, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ có đức, có tài, đấu tranh ngăn chặn nguy cơ chệch hướng...

Ý thức sáng tạo và tâm lý học đòi

Một nhà văn lão thành khá nổi tiếng ở phía Nam vừa chia sẻ với chúng tôi câu chuyện rất đáng suy ngẫm. Ông kể, có một tác giả trẻ nhờ ông viết lời giới thiệu cho cuốn sách sắp in. Vốn rất kỳ vọng và chờ đợi những nhân tố mới trong nghề, ngay khi nhận được bản thảo, ông đã dành thời gian đọc kỹ.

Theo cảm nhận của ông, đây là một cây bút có triển vọng. Cách tiếp cận đề tài, những góc nhìn hiện thực và các thao tác ngôn từ cho thấy tác giả là cây bút có nội lực, tác phẩm thể hiện những góc nhìn tươi mới, có tính phát hiện cao về hiện thực cuộc sống.

Nhưng khi đọc xong, ông thấy “gợn gợn” về một số chi tiết, nhân vật. Đáng chú ý là nhân vật người cha (dù chỉ là nhân vật phụ, đã qua đời, xuất hiện trong tác phẩm thông qua ký ức và lời thoại của những người con, người thân trong gia đình) được tác giả xây dựng là một sĩ quan ngụy quân, tử nạn trước ngày 30-4-1975.

“Nếu thay đổi thân phận nhân vật bằng một dạng khác như nông dân, ngư dân, người làm thuê... có đời sống vất vả, khổ cực thì nội dung tác phẩm cũng không bị ảnh hưởng gì. Tại sao lại phải “ấn” vào nhân vật cái “mác” lính ngụy để nói về cái khổ và nỗi đau thân phận trong khi nguồn cơn, bản chất của cái khổ, cái đau ấy không liên quan gì đến việc người cha có từng là lính ngụy hay không? Đưa một chi tiết văn học vào tác phẩm mà nó chẳng giúp ích gì, ngược lại còn có thể gián tiếp gây hại thì đó không phải là mục đích và thao tác sáng tạo của nhà văn. Những chi tiết đó cần phải sửa, bởi nếu để như vậy dễ tạo ra những suy diễn tiêu cực, tạo cớ cho các thế lực xấu lợi dụng bóp méo, xuyên tạc đời sống xã hội, nhất là trong lúc cả dân tộc đang hướng về đại lễ kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tôi nói với cháu, nếu sửa thì tôi sẽ viết lời giới thiệu, còn không thì tôi đành phải từ chối...”, nhà văn cao niên bày tỏ.

Theo lời nhà văn thì sau khi được ông góp ý, tác giả trẻ đã lễ phép cảm ơn và nói sẽ tiếp thu để chỉnh sửa bản thảo.

Để người trẻ không chệch hướng sáng tạo
 Ảnh minh họa: doanthanhnien.vn

Những chuyện tương tự như câu chuyện nhà văn lão thành kể diễn ra không hiếm trong môi trường văn học-nghệ thuật. Trong giới chuyên môn, người ta thường gọi đó là kiểu sáng tác ám chỉ, bóng gió... lấy tình tiết văn chương, nghệ thuật để ám chỉ về chính trị hoặc chỉ trích, bôi xấu, hạ bệ cá nhân, tổ chức. Việc này đến từ hai nguyên nhân chủ yếu. Một là từ ý định, ý thức chủ quan của tác giả.

Đây là biểu hiện rất nguy hại, thể hiện sự suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của văn nghệ sĩ. Những người có lối tư duy, khuynh hướng sáng tác kiểu này cần được nhận diện từ sớm, từ xa để có biện pháp chấn chỉnh, đấu tranh. Khâu biên tập, kiểm duyệt, xuất bản cần phải làm chặt, không để lọt vào đời sống VHNT những tác phẩm có nội dung tư tưởng xấu độc, phương hại đến nền tảng tư tưởng của Đảng và lợi ích quốc gia, dân tộc.

Hai là từ sự vô ý thức, có tâm lý học đòi, muốn làm cho mới, cho lạ, cho khác người để được chú ý. Biểu hiện này dễ xảy ra ở một bộ phận người trẻ, khi bản lĩnh tư tưởng và trải nghiệm thực tiễn còn non, thiếu hụt vốn sống và cái phông văn hóa, trình độ lý luận chính trị còn hạn chế, kèm theo đó là tâm lý sính ngoại, bài nội, cổ xúy văn hóa lai căng...

Cùng với kiểu lấy VHNT ám chỉ chính trị, thực tiễn đời sống VHNT thời gian gần đây còn có những biểu hiện hư cấu thái quá làm sai lệch sự thật, làm méo mó các nhân vật lịch sử. Biểu hiện này có mấy dạng chủ yếu. Một là khai thác, hư cấu đời tư của các nhân vật nổi tiếng trong dân gian theo hướng “hài, nhảm”, khiến nhân vật bị méo mó, thậm chí trở nên dị dạng, dị biệt.

Hai là hư cấu, làm “biến dạng” các nhân vật lịch sử có công với nước, dẫn đến sai lệch về những sự kiện lịch sử. Ba là thổi phồng thành tích, công lao của một số nhân vật từng là tội đồ của dân tộc, biến họ thành “vĩ nhân”. Đây là những biểu hiện của “tẩy sử”, “lật sử”, làm cho công chúng, nhất là giới trẻ hiểu sai lệch về lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ nước, kháng chiến giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc...

Dù xuất phát từ nguyên nhân nào và biểu hiện ở hình thức nào thì khi người trẻ sáng tạo theo hướng này sẽ dễ trở thành đối tượng bị các phần tử cực đoan, bất mãn và các thế lực thù địch lợi dụng, tác động, lôi kéo. Nguy cơ chệch hướng trong đời sống VHNT là hiện hữu, nguy hại khó lường...

Giúp người trẻ không bị chệch hướng

Những biểu hiện chệch hướng trong tư duy, tư tưởng sáng tạo VHNT không phải hiện nay mới diễn ra mà đã được Đảng ta chỉ ra và cảnh báo từ lâu. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã đặt ra yêu cầu: Đồng thời “xây” phải đi đôi với “chống” những tư tưởng, hành vi, sản phẩm văn hóa lệch lạc, sai trái, lạc hậu, phản động... Nâng cao tính chiến đấu, chống mọi mưu toan lợi dụng văn hóa để thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “đổi màu”...

Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ đã chỉ rõ một trong những biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống là: Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước... Xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước...

Tại Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021, Đảng ta đã thẳng thắn nhìn nhận những hạn chế, tồn tại trong lĩnh vực văn hóa, VHNT: Chưa coi trọng đúng mức và có biện pháp tích cực để giữ gìn, bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp, đặc sắc của dân tộc; nhiều khi bắt chước nước ngoài một cách lố lăng, phản cảm, không có chọn lọc (nói nặng ra là vô văn hóa, phản văn hóa)...

Như vậy, để nhận diện, phòng ngừa, ngăn chặn những biểu hiện chệch hướng, “đổi màu” trong lao động sáng tạo của văn nghệ sĩ, nhất là người trẻ, không hề là việc dễ dàng. Cảm thụ, thẩm định tác phẩm VHNT là công việc thiên về cảm tính.

Để đi đến sự thống nhất về nhận thức, mục tiêu, khuynh hướng sáng tạo theo quan điểm của Đảng trong tư duy, tư tưởng sáng tạo của người trẻ hiện nay là vấn đề khó khăn, phức tạp. Ở tầm vĩ mô, chiến lược, Đảng ta đã có định hướng rõ ràng. Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021 xác định: Đặc biệt chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ làm công tác văn hóa, VHNT. Đội ngũ này có vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp văn hóa nói riêng và trong sự nghiệp cách mạng nói chung...

Giải pháp căn cơ, lâu dài, bền vững cho vấn đề này chính là công tác giáo dục-đào tạo, bồi dưỡng thế giới quan, nhân sinh quan. Đặc biệt là bồi dưỡng lý luận chính trị, đạo đức cách mạng cho nguồn nhân lực VHNT. Đây là sự nghiệp phải tiến hành thường xuyên, liên tục, tuyệt đối không được sao nhãng, coi nhẹ.

Thời gian gần đây, chúng ta tập trung đẩy mạnh các hoạt động sáng tác, quảng bá tác phẩm VHNT hướng đến những ngày lễ lớn của đất nước trong năm 2025. Việc xuất hiện thái độ ám chỉ, bóng gió, lấy VHNT để xuyên tạc lịch sử, đả kích chính trị, làm phương hại đến nền tảng tư tưởng của Đảng... không thể xem thường. Cùng với việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác biên tập, xuất bản, kiểm duyệt... của các cơ quan chức năng; các tổ chức hội, đoàn cần đa dạng hóa các hình thức sinh hoạt, tọa đàm, giao lưu nghiệp vụ...

Người trẻ rất cần những sân chơi bổ ích để được tiếp nhận, trao truyền lửa nghề, ý thức chính trị trong lao động nghề nghiệp. Sứ mệnh của VHNT là bảo tồn tâm hồn, bản sắc dân tộc và trách nhiệm, bổn phận của văn nghệ sĩ là phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, luôn biết đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết và trước hết. Đó cũng là môi trường, điều kiện sinh nở, nuôi dưỡng tác giả lớn và tác phẩm xuất sắc...

PHAN NGUYỄN

VOA hàm hồ về tình hình chính trị Việt Nam năm 2024

 

VOA hàm hồ về tình hình chính trị Việt Nam năm 2024

 Tháng Mười Hai 29, 2024

Năm 2024 đang bước nhanh ở điểm cuối, với tình hình thế giới và trong nước đầy biến động, nhân đó các trang mạng xã hội cũng vội vàng rao bán món hàng “dân chủ” giữa không gian đen.

Ngày 19/12/2024, VOA bày trò hội luận thứ năm hàng tuần “Năm 2024: Sự kiện nào nổi bật nhất trong năm với VN?”; có các bình luận thường thấy mặt, như: Quốc Phương (DCT của VOA), Võ Thị Hảo (ngụ cư ở Đức), Từ Thức (ngụ cư ở Nhật Bản), Đoàn Xuân Kiên (ngụ cư tại Anh), Nguyễn Huy Vũ (đang du ngoạn ở Ecuado), Đặng Đình Mạnh (tá túc tại Mỹ). Trên cái phông chung, bọn họ đăng ảnh cố TBT Nguyễn Phú Trọng, TBT Tô Lâm và một vài nhân vật gắn liền với một số sự kiện mà bọn họ cho là gây “tiếng vang” trên chính trường và dư luận xã hội. Hàm ý đen mà các vị này xoáy vào có mấy ý đáng phản bác, đó là: (1)Sự kiện ông Nguyễn mất và ông Tô lên ngôi, đẩy VN vào cảnh “thanh trừng, đoạt quyền hỗn loạn”; (2)Ông Nguyễn thì bảo thủ gây trì trệ cải biến dân chủ, còn ông Tô thì cấp tiến thay đổi chính trị theo hướng CA trị; (3)Cuộc đại cách mạng mà ông Tô đang làm sẽ khó thành công, vì thiếu cơ sở thực tế.

Những trò hề hội luận chính trị như trên chẳng qua là chiêu thức “bưới lá tìm sâu”, xuyên tạc chế độ. Nhân việc này, có mấy lời phản biện:

1.Việc ông Tô lên thay ông Nguyễn xét về luật đời là lẽ đương nhiên, vì thế hệ trước đặt tiền đề, nền tảng cho thế hệ sau nối đời, nối nghiệp. Người xưa có câu “Tre già măng mọc” là như thế. Trong xã hội, ông Nguyễn là bậc đàn anh của ông Tô, thậm chí còn là bậc cha chú (xét về tuổi), là người có bề dày kinh nghiệm sống, tích lũy nhiều giá trị văn hóa, trong đó có giá trị văn hóa cao đẹp nhất là một đời cống hiến cho đất nước, vì nhân dân. Trong Đảng, ông Nguyễn là người đứng đầu, có thời gian tại vị chỉ sau ông Ba Duẩn, tiêu biểu nhất trong thời kỳ đổi mới. Dưới thời ông Nguyễn, ông Tô từng bước được trọng dụng, trưởng thành, có nhiều công lao trong “chống giặc nội xâm”, giữ được thanh danh của Đảng. Tuy không nói ra trong hội nghị của Đảng, song quan sát cách dùng người của ông Nguyễn đối với ông Tô kể từ Đại hội XII, cũng đủ thấy tầm nhìn của ông Nguyễn về ứng viên người kế nhiệm khá rõ, ông Tô thuộc tốp ứng viên sáng giá, dư luận xã hội cũng đồn đoán như thế. Về điểm này thì Huy Vũ nói có lý hơn các vị khác. Còn sự xuyên tạc rằng, ông Tô có nhiều nhược điểm (chẳng hạn như liên quan vụ Đồng Tâm hoặc bò dát vàng) thì thực sự là bốc bùn bôi chân quân tử. Kể từ sau khi lên nắm quyền, ông Tô chẳng những không để nguội lò chống tham nhũng, mà còn đẩy mạnh, mở rộng sang chống lãng phí, đấy không phải là “thanh trừng nội bộ”, bởi trong công cuộc làm trong sạch Đảng và hệ thống chính trị thì đương nhiên không thể không va chạm. Khi ông Nguyễn ốm yếu, dân lo nhất là liệu rồi có ai đủ tầm thay ông Nguyễn để giữ cho lò cháy rực. Việc ông Tô đã và đang làm há chẳng phải là hợp lòng dân hay sao?

2.Đúng là ông Nguyễn chính trực, thanh liêm, giàu lý luận, trung thành với chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhìn lại các di cảo của ông Nguyễn đều thấy đáng khâm phục, ông không chỉ hệ thống hóa vốn lý luận đã có mà còn bổ sung, phát triển, làm phong phú nhiều quan điểm phát triển toàn diện về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Đọc các tác phẩm của ông Nguyễn, người có bản lĩnh chính trị cảm thấy được bồi đắp thêm tính kiên định chính trị. Giá trị cốt lõi trong các tác phẩm lý luận của ông Nguyễn là làm mới thanh danh của Đảng, bồi đắp cơ đồ dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của dân tộc dựa vào khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế, mọi sự phát triển đều hướng đích làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, dân là chủ thể phát triển, đảng là chủ thể lãnh đạo, nhà nước là chủ thể kiến tạo, phụng sự nhân dân. Cuốn sách cuối cùng mà ông Nguyễn cầm trên tay là cuốn “Ngàn năm văn hiến quốc gia Việt Nam”; đó không phải là sự ngẫu nhiên, mà chắc là một chủ ý, giống như Cụ Hồ trước lúc mất muốn được nghe một làn điệu dân ca. Ông Nguyễn là người con của Thủ đô ngàn năm văn hiến, cho nên, ông muốn được mang theo những giá trị văn hiến dân tộc, thực sự ông xứng đáng được vinh danh là một ngôi sao sáng trên bầu trời văn hiến Việt Nam thời hiện đại. Còn việc ông Tô “cấp tiến”, “CA trị” không thể coi đó là sự trái ngược với ông Nguyễn, mà đó là một bổ sung cho sự kiến tạo nền quản trị quốc gia có cả truyền thống, đạo lý và đề cao tính thượng tôn pháp luật.

3.Cuộc đại cách mạng về tinh gọn, hiệu quả bộ máy, tổ chức do ông Tô đang chỉ đạo quyết liệt, thực chất không phải duy ý chí, mà là đòi hỏi khách quan. Sau 40 năm đổi mới, việc cải cách hành chính, thay đổi phong cách điều hành, quản trị quốc gia cho tương thích với xu thế quản trị số không phải là phát minh của Việt Nam, mà là chiếc áo quản trị quốc gia đã quá lỗi thời, nên cần được canh tân. Chế độ một đảng cầm quyền lâu nay vẫn bị các thế lực thù địch xuyên tạc, đả phá, nhưng thử hỏi nếu xóa bỏ vai trò cầm quyền của ĐCSVN (tức xóa bỏ Điều 4 trong Hiến pháp) thì điều gì sẽ xảy ra? Cảnh tượng sụp đổ mô hình chế độ XHCN ở Liên xô và Đông Âu chắc chỉ làm hài lòng các thế lực chống cộng. Nếu tiếp tục kéo dài sự song trùng cơ quan đảng với cơ quan nhà nước thì chẳng những làm cho bộ máy tổ chức cồng kềnh, chồng lấn, mà còn tạo sức ỳ và kiềm chế giữa cơ quan đảng với cơ quan nhà nước, cho nên tinh, gọn, hiệu lực, hiệu quả là cần thiết. Cuộc cách mạng nào cũng có cái giá phải trả, cuộc đại cách mạng này chắc chắn không ngoại lệ, nhưng đã thấy đúng, trúng, thì cần quyết tâm cao, có một bộ phận sẽ không còn ở trong bộ máy, tổ chức, hệ thống, nhưng nếu còn tâm trí với dân, với nước thì chắc lẽ họ vẫn còn có ích cho sự nghiệp chung. Nếu ông Tô không dám đối mặt và không đủ bản lĩnh lãnh đạo cuộc đại cách mạng lần này, thì biết đợi đến khi nào? Giả sử đợi sau Đại hội XIV thì sẽ làm xáo trộn bộ máy tổ chức trong đảng, nhà nước, còn tâm trí đâu mà lãnh đạo, chỉ đạo đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Cho nên làm ngay từ bây giờ cũng là để dọn đường, mở lối đưa cách mạng VN lên tầm cao mới. Trong bối cảnh hiện nay, cần nhất là sự hy sinh lợi ích cục bộ của cán bộ, đảng viên có chức, có quyền, còn người dân sẽ có lợi vì họ sẽ được khích lệ tinh thần tự chủ, tự lực, tự cường, làm tăng nội lực quốc gia, tăng tốc con tàu VN tiến cùng thời đại. Vì thế, thay vì “oán trách” ông Tô thì nên ủng hộ, cảm phục ông Tô.

Nhân đây xin dẫn lại chỉ dẫn của Cụ Hồ: “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”. Lời này được nêu ngay từ trong quá trình vận động sáng lập Đảng, đến nay vẫn còn nguyên giá trị với người cộng sản chân chính, chỉ nghịch nhĩ với những kẻ chống cộng.

Luận điệu xuyên tạc, hạ uy tín khi Việt Nam tiếp tục ứng cử Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2026 – 2028

Thứ Năm, 26/12/2024, 08:02

Ngày 12/12, phái đoàn Việt Nam tại Liên hợp quốc (LHQ) đã tổ chức lễ công bố Việt Nam tái ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2026-2028.

Sự kiện được tổ chức vào dịp kỷ niệm Ngày Nhân quyền quốc tế đã thu hút sự quan tâm, tham dự của đông đảo đại sứ, đại diện các phái đoàn thường trực và quan sát viên tại LHQ. Việc tiếp tục ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2026 – 2028 khẳng định vị thế và uy tín của Việt Nam đối với quốc tế, cũng như sự ghi nhận đối với thành tựu và đóng góp của Việt Nam trong đảm bảo quyền con người.

Những luận điệu xuyên tạc, vu cáo

Tuy nhiên, ngay sau tuyên bố của đại diện Việt Nam, các phương tiện truyền thông, mạng xã hội của các tổ chức thù địch, phản động lưu vong đã tung ra nhiều bài viết công kích, xuyên tạc, vu cáo tình hình nhân quyền Việt Nam. Đồng thời, họ kêu gọi sự can thiệp của các tổ chức quốc tế nhằm gây sức ép, cản trở Việt Nam ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2026-2028.

Luận điệu xuyên tạc, hạ uy tín khi Việt Nam tiếp tục ứng cử Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2026 – 2028 -0
Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Đỗ Hùng Việt phát biểu tại Lễ công bố. Ảnh: BNG

Nếu như đọc qua bài viết trên trang RFA Tiếng Việt với tiêu đề  “Nhiều tổ chức nhân quyền phản đối Việt Nam tái ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ”, nhiều người sẽ lầm tưởng về việc có nhiều tổ chức quốc tế lên tiếng đối với vấn đề này. Tuy nhiên, trong nội dung bài viết chỉ nêu ý kiến của duy nhất một thành viên thuộc tổ chức Liên minh xã hội dân sự toàn cầu (Civicus) với vài thông tin sơ sài cũng như thêm thắt một số thông tin xuyên tạc có chủ đích nhằm hạ thấp uy tín của Việt Nam. Tổ chức Civicus cũng là cái tên quen thuộc thường xuyên có hoạt động xuyên tạc, vu cáo Việt Nam về tình hình nhân quyền. Như vậy, không hề có chuyện “nhiều tổ chức nhân quyền phản đối” mà chỉ là một số tổ chức, nhóm cá nhân có hoạt động chống phá Việt Nam đã lợi dụng việc này để “té nước theo mưa”.

Ngoài ra, VOA Tiếng Việt dẫn nguồn tin từ tổ chức Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF) về việc tổ chức này “bày tỏ quan ngại trước sự gia tăng đàn áp của chính quyền Việt Nam đối với các nhóm tôn giáo độc lập”. Tuy nhiên, nội dung bài viết đều là những thông tin, căn cứ mơ hồ, nội dung phản ánh sai trái như cho rằng Việt Nam có phân biệt đối xử của xã hội đối với người dân tộc thiểu số, vu cáo chính quyền hành hung người dân tộc thiểu số theo tôn giáo ở Tây Nguyên và Tây Bắc, bày tỏ quan ngại về việc người dân tộc thiểu số theo đạo Tin lành ở Tây Nguyên bị hạn chế hoạt động, áp dụng luật pháp không nhất quán dẫn tới nhiều khó khăn trong việc đăng ký với chính quyền cấp tỉnh của các giáo xứ vùng sâu, vùng xa. Điều đáng nói là những thông tin trên lại xuất phát từ một số phần tử chống đối trong nước tích cực tham gia hội luận trực tuyến do bên ngoài tổ chức, số này xuyên tạc rằng “chính quyền Việt Nam cướp đất của người Khmer, đàn áp người dân tộc”… Những thông tin bịa đặt như vậy nhưng lại được đưa vào báo cáo nhân quyền, tạo cớ chống Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Tổ chức khủng bố Việt Tân thì rêu rao về các cuộc biểu tình của người Việt tại một số quốc gia như Na Uy, Đức, Úc, Canada… để vu cáo Việt Nam “đàn áp nhân quyền”. Các đối tượng lồng ghép những biểu ngữ sai sự thật về tình hình nhân quyền tại Việt Nam, vu cáo “dưới chế độ độc tài, người dân Việt Nam không có dân chủ, tự do” và cho rằng chính quyền Việt Nam đang thực hiện những hành vi đàn áp đối với những người bất đồng chính kiến; miệt thị, xuyên tạc Việt Nam “bịt miệng” quyền tự do báo chí và quyền tự do ngôn luận. Tuy nhiên, nhìn những hình ảnh được chính tổ chức này lan truyền trên mạng xã hội, không khó để thấy những cuộc biểu tình trên thực chất chỉ là sự tập trung của một nhóm nhỏ với những gương mặt chống đối quen thuộc, hoàn toàn không có chuyện “biểu tình rầm rộ” như thông tin họ đưa ra.

Có thể thấy, dựa vào các thông tin sai lệch về tình hình tự do tôn giáo, dân tộc và tình hình nhân quyền do một số phần tử phản động ở trong nước, một số tổ chức phi chính phủ không thiện chí với Việt Nam, tổ chức phản động lưu vong chống phá Việt Nam như Liên minh xã hội dân sự toàn cầu (Civicus); Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF), Mạng lưới nhân quyền Việt Nam (VHRN)…, trong đó có nhiều thông tin phiến diện, xuyên tạc tình hình nhân quyền ở Việt Nam. Dựa vào đó, các thế lực thù địch kêu gọi sự can thiệp của các quốc gia phương Tây nhằm đòi Chính phủ Việt Nam phải trả tự do cho tất cả những phạm nhân mà họ tự gọi là “tù nhân lương tâm”…

Đây không phải chiêu trò gì mới khi các tổ chức trên đưa những thông tin xuyên tạc, vu cáo về tình hình nhân quyền cũng như kêu gọi sự can thiệp của quốc tế nhằm chống phá Việt Nam ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ. Khi Việt Nam tuyên bố ứng cử nhiệm kỳ 2023 - 2025, các thành phần chống phá Việt Nam cũng đã dùng mọi thủ đoạn tuyên truyền xuyên tạc, hạ uy tín, cản trở Việt Nam. Dưới chiêu bài bảo vệ dân chủ, nhân quyền, các tổ chức này ra sức vận động nhằm gây sức ép lên Chính phủ Hoa Kỳ đưa Việt Nam vào danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo (CPC), sau đó Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã đưa Việt Nam vào danh sách theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo (SWL). Với chiêu trò này, họ tìm cách hạ uy tín, vị thế của Việt Nam đối với quốc tế cũng như khuếch trương thanh thế và kích động số chống đối ở trong nước tiến hành các hoạt động tụ tập, gây rối, bạo loạn lật đổ.

Chiêu trò vu cáo không thể phủ mờ thành tựu, vị thế của Việt Nam

Nhân quyền là vấn đề mang tính phổ quát của toàn cầu. Tuy nhiên, với mỗi quốc gia, dân tộc, tuỳ theo đặc điểm văn hoá, lịch sử đều có những tiêu chuẩn, quy định riêng. Việc áp đặt tiêu chí của nước này vào nước khác là không phù hợp và đó cũng là hành vi can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác, không đúng với quy định của LHQ. Trên thực tế, Việt Nam đã thể hiện bằng những hành động cụ thể thực thi quyền con người theo những Công ước mà Việt Nam đã ký kết. Cụ thể như: Bộ luật Hình sự năm 2015 tiếp tục bỏ án tử hình ở 8 tội danh; không áp dụng hình phạt tử hình với người dưới 18 tuổi, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội. Tính đến nay, Việt Nam đã phê chuẩn, gia nhập 7/9 công ước cơ bản của LHQ về quyền con người; phê chuẩn, gia nhập 25 công ước của Tổ chức Lao động quốc tế. So với nhiều nước, Việt Nam không thua kém về số lượng các công ước đã ký kết.

Từ khi Hội đồng Nhân quyền LHQ được thành lập (năm 2006), Việt Nam hai lần trúng cử vào Hội đồng này: Năm 2013, lần đầu tiên trúng cử nhiệm kỳ 2014-2016; năm 2022 trúng cử nhiệm kỳ 2023 - 2025 và đang tái ứng cử nhiệm kỳ 2026-2028 để tiếp nối những đóng góp và cam kết. Đồng thời, Việt Nam là thành viên tích cực của các thể chế nhân quyền LHQ và thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các cam kết quốc tế về quyền con người. Với tư cách là quốc gia thành viên, Việt Nam đã nội luật hóa các quy định của pháp luật quốc tế vào hệ thống pháp luật quốc gia; rà soát kết quả thực hiện và báo cáo định kỳ nghiêm túc với Hội đồng Nhân quyền LHQ.

Trong nhiệm kỳ 2023-2025, Việt Nam cùng 13 quốc gia khác đảm nhiệm vị trí thành viên của Hội đồng Nhân quyền. Trong vai trò thành viên Hội đồng Nhân quyền, Việt Nam đã thể hiện cam kết mạnh mẽ thông qua các hoạt động thực chất. Tại các diễn đàn quốc tế, Việt Nam tích cực tham gia đối thoại, thúc đẩy hợp tác giữa các quốc gia trong việc bảo đảm quyền con người. Chẳng hạn, Việt Nam đã nhiều lần phát biểu và góp ý về các vấn đề toàn cầu như bảo vệ quyền trẻ em, thúc đẩy bình đẳng giới và ứng phó với biến đổi khí hậu – những lĩnh vực có tác động trực tiếp đến quyền sống và phát triển của con người. Không chỉ dừng lại ở các diễn đàn quốc tế, trong nước, Việt Nam cũng triển khai nhiều chương trình, chính sách nhằm hiện thực hóa các cam kết về quyền con người. Đồng thời, Việt Nam đã được quốc tế ghi nhận khi có cách tiếp cận xây dựng trong thúc đẩy đối thoại trong khuôn khổ Hội đồng Nhân quyền giữa các nước liên quan, các tổ chức khu vực và các cơ chế của LHQ về quyền con người nhằm giải quyết những quan tâm cụ thể về các vấn đề liên quan đến nhân quyền, nhân đạo; gắn với việc phối hợp với các nước đang phát triển đấu tranh để bảo đảm Hội đồng Nhân quyền hoạt động đúng nguyên tắc, thủ tục, không chính trị hóa, không can thiệp vào công việc nội bộ các nước.

Tại khu vực, uy tín của Việt Nam được thể hiện qua vai trò Chủ tịch Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) 2020, đồng thời là Chủ tịch Ủy ban liên chính phủ ASEAN về nhân quyền (AICHR).

Năm 2024, một trong những thành tựu nổi bật là các chính sách an sinh xã hội được thực hiện một cách hiệu quả, đặc biệt hướng đến các nhóm yếu thế. Các chương trình hỗ trợ sinh kế cho đồng bào dân tộc thiểu số tại vùng sâu, vùng xa đã góp phần giảm nghèo bền vững, trong khi các sáng kiến thúc đẩy giáo dục hòa nhập dành cho trẻ em khuyết tật được triển khai rộng rãi. Ngoài ra, việc cải cách Luật Lao động nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động trong các ngành công nghiệp đã giúp Việt Nam cải thiện điều kiện làm việc và nâng cao mức sống cho hàng triệu người lao động. Theo Báo cáo Phát triển con người của UNDP, Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam năm 2024 tăng 8 bậc so với kỳ trước, từ 115 lên vị trí 107/193 quốc gia. Theo xếp hạng của LHQ, chỉ số hạnh phúc năm 2024 của Việt Nam tăng 11 bậc, xếp thứ 54/143; chỉ số phát triển bền vững (SDGs) của Việt Nam năm 2024 tăng 1 bậc so với năm 2023, xếp thứ 54/166. Việt Nam hiện là thành viên và tích cực tham gia các hoạt động của Hội đồng Nhân quyền LHQ, nhiệm kỳ 2023-2025. Bởi vậy, không có gì ngạc nhiên khi Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia tiến nhanh nhất trên thế giới về tăng Chỉ số phát triển con người (HDI). Chỉ trong vòng 1 thập kỷ, chỉ số phát triển con người của Việt Nam đã tăng 46%, thuộc nhóm quốc gia có tỷ lệ tăng cao nhất thế giới. Theo các tổ chức và chuyên gia quốc tế, đây là minh chứng cho thấy Việt Nam luôn đặt con người là mục tiêu, động lực cho sự phát triển.

Việc tái ứng cử làm thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2026-2028 là cơ hội lớn để Việt Nam tiếp tục đóng góp tích cực vào những nỗ lực chung của LHQ cũng như của cộng đồng quốc tế trong bảo vệ và thúc đẩy những giá trị phổ quát về quyền con người, cùng phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác phát triển và tiến bộ xã hội. Các chiêu trò vu cáo không thể phủ mờ thành tựu, vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Tuệ Thiên - Bình Nguyên

Sự xuyên tạc, quy chụp và thiếu căn cứ trong phê phán sự sắp xếp lại bộ máy nhà nước ta

 

Sự xuyên tạc, quy chụp và thiếu căn cứ trong phê phán sự sắp xếp lại bộ máy nhà nước ta

Nguyễn Phù Nghĩa

Trang Tập Hợp Dân Chủ Đa Nguyên ngày 09/12/2024 đăng bài viết của ông Phạm Đình Trọng với tựa đề: “Lại hăm hở sắp xếp lại bộ máy nhà nước”. Bài viết này, ông ta phê phán việc sắp xếp lại bộ máy nhà nước theo hướng tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả của Đảng Cộng sản (ĐCS) Việt Nam, đứng đầu là Tổng Bí thư Tô Lâm. Ông Phạm Đình Trọng viết:

1. “Loài người đã bỏ lại văn minh nông nghiệp ở phía sau rất xa và đã bước đi đoạn đường rất dài trong văn minh công nghiệp tới văn minh tin học nhưng nhà nước chuyên chính vô sản ra đời lại kéo lùi lịch sử phát triển của xã hội loài người về thời văn minh nông nghiệp khi chuyên chính vô sản giành nhà nước của dân cho một đảng chính trị trở thành một giai cấp thống trị mới”. Đây là nhận định này thiếu cơ sở thực tiễn. Thực tế, dưới sự lãnh đạo của ĐCS Việt Nam, đất nước đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng có ý nghĩa lịch sử. Ví dụ:

Việt Nam đã chuyển từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu sang một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, với sự phát triển vượt bậc trong các ngành công nghiệp, công nghệ thông tin, và dịch vụ…

Những thành tựu như tăng trưởng kinh tế ổn định, xuất khẩu đứng đầu thế giới về nhiều lĩnh vực (nông sản, dệt may, điện tử), và sự hội nhập sâu rộng vào kinh tế toàn cầu đã chứng minh rằng, Việt Nam không hề “kéo lùi” mà ngược lại, đang tiến lên cùng xu hướng phát triển của thời đại.

Rõ ràng nhận định này của Phạm Đình Trọng mang tính quy chụp, bỏ qua những nỗ lực và thành quả thực tế của ĐCS trong việc đưa Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới.

2. “Với Điều 4 Hiến pháp người dân mất trắng quyền con người, quyền công dân lớn nhất là quyền làm chủ đất nước, quyền tự do ứng cử và bầu cử, mất trắng quyền tạo dựng lên nhà nước của dân”. Đây là một sự bóp méo bản chất của Điều 4 và bỏ qua vai trò thực tế của người dân trong cơ chế chính trị tại Việt Nam.

Điều 4 Hiến pháp khẳng định vai trò lãnh đạo của ĐCS Việt Nam nhưng không loại bỏ quyền làm chủ của nhân dân. Thực tế, mọi chính sách, quyết định của Đảng đều phải xuất phát từ ý chí và lợi ích của nhân dân.

Cơ chế dân chủ XHCN tại Việt Nam bảo đảm quyền bầu cử, ứng cử, tham gia vào các tổ chức chính trị – xã hội, góp ý và phản biện chính sách. Quốc hội, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước và của mỗi địa phương, được bầu trực tiếp bởi người dân.

Vì vậy, nhận định của ông Phạm Đình Trọng là phiến diện và không phản ánh đúng thực trạng hệ thống chính trị ở Việt Nam, nơi quyền làm chủ của nhân dân được thể chế hóa và thực hiện trong thực tiễn.

3. “Điều 4 Hiến pháp phủ nhận vị trí, tư thế của cá nhân trong xã hội. Người dân không còn cá nhân lại trở về bầy đàn”! Nhận định này mang tính xúc phạm, không chỉ không đúng mà còn thể hiện sự thiếu tôn trọng đối với nhân dân Việt Nam.

Thực tế, trong xã hội Việt Nam, từng cá nhân được khuyến khích phát huy năng lực và đóng góp vào sự phát triển chung. Các quyền con người như tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, quyền bình đẳng trong giáo dục, y tế, lao động đều được pháp luật bảo đảm.

Sự tham gia của người dân trong các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội ngày càng sâu rộng, chứng tỏ rằng người dân không hề bị biến thành “bầy đàn” như ông Phạm Đình Trọng cáo buộc. Điều ấy chứng tỏ ông Phạm Đình Trọng đã cố tình phủ nhận thực tế xã hội Việt Nam, nơi cá nhân và tập thể luôn có sự hài hòa và bổ trợ lẫn nhau.

4. “Mỗi người đứng đầu đảng cầm quyền lại có một ý đồ, một mô hình tổ chức bộ máy nhà nước khác nhau. Do đó những cuộc sắp xếp, tổ chức lại bộ máy nhà nước là vô cùng, vô tận theo chu kì thay đổi người đứng đầu đảng cầm quyền. ĐCS cầm quyền đã nhiều lần tháo ra, lắp lại bộ máy nhà nước. Lần này dù hăm hở, dù rầm rộ cũng chỉ là một chu kì lặp lại mà thôi”.

Việc sắp xếp bộ máy nhà nước không phải là “chu kỳ lặp lại vô tận” và chỉ phục vụ ý chí của người đứng đầu Đảng như ông Phạm Đình Trọng viết. Đó là nhận định thiếu công bằng. Vì:

Việc sắp xếp bộ máy nhà nước là một nỗ lực cụ thể để tinh gọn, nâng cao hiệu quả hoạt động và phục vụ người dân tốt hơn. Ví dụ, việc hợp nhất các cơ quan có sự trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ nhằm giảm biên chế, và cải cách hành chính giúp giảm lãng phí ngân sách và tăng tính minh bạch.

Quá trình sắp xếp được thực hiện có lộ trình, dựa trên ý kiến đóng góp từ các cơ quan, tổ chức, và nhân dân. Nó không phải là “ý chí của cá nhân” mà là kết quả của quá trình nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, và đưa ra quyết định tập thể.

Cần nhận thức rằng, cách tổ chức lại bộ máy không phải “tự phát” hay “vô tận”, mà là một phần của quá trình cải cách hành chính, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế – xã hội và yêu cầu thực tiễn.

Tóm lại, bài viết của ông Phạm Đình Trọng mang nặng tính định kiến và không dựa trên những đánh giá khách quan. Ông ta đã bỏ qua thực tiễn phát triển của Việt Nam, không nhìn nhận đúng những nỗ lực và thành tựu mà ĐCS và nhân dân Việt Nam đã đạt được. Thay vì mang tính xây dựng, những luận điểm của ông Phạm Đình Trọng chỉ là sự xuyên tạc, quy chụp và thiếu căn cứ thực tế.

Một quan điểm sai trái cần phải phê phán

 

Một quan điểm sai trái cần phải phê phán

GS,TS Đàm Đức Vượng

Trên trang mạng gần đây, đăng bài viết: “Văn hóa ơn Đảng, ơn Bác, văn hóa sợ hãi chính quyền” của một phần tử khác chính kiến. Bài viết bình luận: “Chế độ độc tài cộng sản tuyên truyền người dân Việt Nam phải ơn Đảng, ơn Bác Hồ! Chế độ làm như vậy theo kiểu phong kiến, coi người dân như nô lệ, phận kiếp người như nằm hết trong tay họ, không có họ thì không có đất nước Việt Nam”. “Chế độ độc tài toàn trị cộng sản xây dựng văn hóa ơn Đảng, ơn Bác phù hợp với văn hóa Khổng giáo (Nho giáo) tức là con người phải ơn vua hơn cả bậc sinh thành ra mình, tức là chống lại sự phản biện của dân chúng trước bất công xã hội, dù vua chúa có sai cũng phải im lặng”. “Chẳng qua chế độ độc tài lợi dụng người dân Việt Nam thiếu hiểu biết, xây dựng một nền văn hóa ơn huệ thông qua các hoạt động tuyên truyền rầm rộ, thông qua các bài hát công ơn của Đảng, Bác, tránh chống đối của người dân trước bất công xã hội, oan sai, tham nhũng tràn lan, tạo ra tâm lý không có Đảng thì làm gì có cơm no, áo ấm, nhà cửa, xe cộ, được sang nước ngoài sinh sống, học tập nên người”. “Nên nhớ người dân nuôi cả bộ máy chính quyền nhà nước cộng sản từ trung ương đến địa phương bằng hàng trăm thứ thuế, rồi chi lương nuôi cả hệ thống chính trị Đảng Cộng sản, nên sòng phẳng với nhau, không có ai cho không ai mà phải ơn huệ”. Rồi bài viết đề nghị một cách ngạo nghễ: “Muốn xây dựng văn hóa văn minh bắt buộc phải xóa bỏ văn hóa “ơn Đảng ơn Bác” và thói quen sợ hãi chính quyền khi mình làm đúng”…

Rõ ràng là không đúng khi ông ta viết những dòng trên đây. Sự thật thì vấn đề là Đảng không bao giờ bắt buộc người dân phải ca ngợi Đảng. Đó là sự tự nguyện của người dân. Người dân thấy Đảng anh minh sáng suốt đã mang lại độc lập, tự do cho Tổ quốc, cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, nên người dân mới ca ngợi Đảng, ca ngợi Bác Hồ. Đó là sự thật hiển nhiên, là sự tự nguyện của người dân đối với Đảng và Bác Hồ kính yêu.

Việc người dân ca ngợi Đảng, Bác hoàn toàn không phải theo kiểu phong kiến và nền văn hóa ơn huệ như người viết bài đã nêu trên, mà là quan hệ với tinh thần Đảng – Dân – Dân – Đảng, kết thành một khối thống nhất vững chắc để tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nếu nói là văn hóa thì đó là văn hóa ơn Đảng, ơn Bác.

Phải hiểu rằng, chế độ cộng sản hoàn toàn khác hẳn với chế độ phong kiến. Chế độ phong kiến là một kiểu hình thái kinh tế – xã hội, thay thế chế độ chiếm hữu nô lệ và có trước chủ nghĩa tư bản; là chế độ người bóc lột người. Cơ cấu kinh tế của chế độ phong kiến, mặc dù có những hình thức hết sức khác nhau và trong những thời gian khác nhau, nhưng có đặc điểm là tư liệu sản xuất chính, tức ruộng đất, thuộc quyền sở hữu độc quyền của giai cấp thống trị là chúa phong kiến, địa chủ và kinh tế được tiến hành bằng những sức lực và bằng và những phương tiện kỹ thuật của giai cấp bị bóc lột, giai cấp nông dân. Quan hệ kinh tế chủ yếu của chế độ phong kiến được thể hiện trong địa tô phong kiến, tức là trong sản phẩm thặng dư bị chế độ phong kiến lấy của những người trực tiếp sản xuất là nông dân. Sự đối kháng của xã hội phong kiến xây dựng trên sự bóc lột nông dân với nhiều hình thức. Đặc điểm của hệ tư tưởng phong kiến là dựa trên tôn giáo như đạo Cơ đốc, đạo Hồi, đạo Phật, đạo Khổng,… Thời kỳ cuối của chế độ phong kiến được đánh dấu bằng sự ra đời những công trường thủ công, mầm mống của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, báo hiệu những cuộc cách mạng tư sản đầu tiên sắp diễn ra.

Còn chế độ cộng sản không phải là chế độ độc tài, mà là biểu hiện giai đoạn cao nhất của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất; là hình thái kinh tế – xã hội mà sự phát triển toàn diện, không hạn chế của mỗi người trở thành mục đích trực tiếp của sự phát triển nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Khi hình thái cộng sản chủ nghĩa chuyển sang giai đoạn phát triển cao thì những quy tắc thống nhất được mọi người thừa nhận của chế độ cộng sản chủ nghĩa sẽ được thiết lập, và việc tuân theo những quy tắc đó sẽ trở thành nhu cầu bức thiết của mọi người; các dân tộc sẽ ngày càng xích lại gần nhau cho tới khi mọi sự khác biết giữa họ không còn nữa. Chủ nghĩa cộng sản là một chế độ xã hội không có giai cấp, trong đó chỉ có chế độ sở hữu toàn dân duy nhất về tư liệu sản xuất và mọi thành viên trong xã hội đều được bình đẳng về mọi mặt; trong đó, đi đôi với sự phát triển toàn diện của con người, các lực lượng sản xuất cũng sẽ phát triển trên cơ sở của một nền khoa học và kỹ thuật luôn phát triển; tất cả mọi nguồn của cải của xã hội đều dồi dào, nhân dân thật sự có cuộc sống độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc.

Có thể nói, chủ nghĩa cộng sản là một quần hợp cộng đồng, trong đó, đạt được và thực hiện được đầy đủ những quan hệ hài hòa giữa cá nhân và xã hội.

Chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu, giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản. Cơ sở của sự khác biệt giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội là mức độ chín muồi về kinh tế – xã hội. Mức độ chín muồi về kinh tế – xã hội của chủ nghĩa cộng sản cao hơn chủ nghĩa xã hội. Đặc điểm của quan hệ sản xuất dưới chế độ xã hội chủ nghĩa không phải là sự thống trị và sự lệ thuộc nữa, mà là sự hợp tác trên tinh thần đồng chí và giúp đỡ nhau giữa những con người đã thoát khỏi chế độ bóc lột. Về mặt này không có sự khác nhau giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Nhưng dưới chủ nghĩa xã hội, chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất tồn tại dưới hai hình thức: sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể (hợp tác xã, nông trang); còn dưới chủ nghĩa cộng sản thì chỉ có một chế độ sở hữu duy nhất, đó là chế độ sở hữu toàn dân. Dưới chủ nghĩa xã hội vẫn còn tồn tại những sự khác biệt giữa giai cấp công nhân và nông dân; những sự khác biệt này sẽ mất đi cùng với việc xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội là mỗi người làm theo năng lực hưởng theo số lượng và chất lượng lao động và theo nguyên tắc của chủ nghĩa cộng sản là mỗi người làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu. Cùng với việc xây dựng chủ nghĩa xã hội phát triển, chủ nghĩa xã hội được hoàn thiện trên cơ sở của bản thân mình.

Việc chủ nghĩa xã hội chuyển dần thành chủ nghĩa cộng sản sẽ diễn ra trong một thời gian lịch sử rất dài, và trong tiến trình của nó sẽ diễn ra việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật trên cơ sở đẩy nhanh tiến bộ khoa học và kỹ thuật. Đây là khâu quyết định trong tất cả những nhiệm vụ kinh tế – xã hội, phát triển quan hệ xã hội và xây dựng con người mới, con người phát triển toàn diện, kết hợp hài hòa sự phong phú về vật chất và tinh thần, trong sạch về đạo đức và hoàn thiện về thể lực.

Hiện nay, trên thế giới chưa có nước nào đạt tới chủ nghĩa xã hội phát triển và chủ nghĩa cộng sản, nhưng tương lai của nó nhất định sẽ có những nước đạt tới chủ nghĩa xã hội phát triển và chủ nghĩa cộng sản. Việt Nam hiện đang ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, phải trải qua thời kỳ chủ nghĩa xã hội phát triển rồi mới tiến đến chủ nghĩa cộng sản được. Hy vọng một ngày nào đó, chủ nghĩa xã hội phát triển và chủ nghĩa cộng sản sẽ được thực hiện ở Việt Nam.

Về chế độ cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa cũng khác hẳn với Khổng giáo (Nho giáo), tuyệt đối không thể đánh đồng hai cái đó là một. Khổng Tử  (Đạo Khổng, Nho giáo) là một trong những trào lưu tư tưởng chính của Trung Quốc cổ đại, có nhiều đóng góp quan trọng cho đời về đạo học, đạo làm quan, đạo làm người. Người sáng lập ra Đạo Khổng là Khổng Tử (551-479 trước Công nguyên). Trong nhiều thế kỷ, Đạo Khổng là hệ tư tưởng thống trị của Trung Quốc phong kiến. Đạo Phật hướng mạnh về cứu giúp những người nghèo khổ. Còn Đạo Khổng lại hướng về các tầng lớp trên, không cứu giúp những người nghèo khổ. Đây là chỗ hạn chế nhất của Đạo Khổng so với Đạo Phật. Trong cách dùng người, Khổng Tử ít nói đến tài năng, mà chỉ nói về đạo đức.

Có lẽ người đánh giá khá đầy đủ về nhân vật Khổng Tử chính là Nguyễn Ái Quốc. Ngày 20-2-1927, tại Quảng Châu, Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc viết bài: “Khổng Tử” đăng trên báo Thanh Niên, số 80. Nguyễn Ái Quốc viết: “Khổng Tử sống ở thời Chiến quốc1. Đạo đức của ông, học vấn của ông và những kiến thức của ông làm cho những người cùng thời và hậu thế phải cảm phục. Ông nghiên cứu và học tập không mệt mỏi, ông không cảm thấy xấu hổ tí nào khi học bề dưới, còn việc không được mọi người biết đến, đối với ông chẳng quan trọng gì”. “Đạo đức của ông là hoàn hảo, nhưng nó không thể dung hợp được với các trào lưu tư tưởng hiện đại, giống như một cái nắp tròn làm thế nào có thể đậy kín được cái hộp vuông”. “Khổng giáo dựa trên ba sự phục tùng: quân – thần; phụ – tử; phu phụ và 5 đức chủ yếu: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín”. “Nói tóm lại, ông rõ ràng là người phát ngôn bênh vực những người bóc lột chống những người bị áp bức”2.   

Trên đây, tôi đã phân tích về sự khác nhau hoàn toàn giữa chế độ phong kiến với chế độ cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa để bác lại những nội dung của người khác chính kiến viết; đồng thời, cũng đã phân tích rõ ảnh hưởng của Khổng giáo (Nho giáo) đối với con người Việt Nam như thế nào, có đúng như Tác giả bài viết “Văn hóa ơn Đảng, ơn Bác, văn hóa sợ hãi chính quyền” không? Người viết bài cho rằng, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam giống với chế độ phong kiến và chế độ Đạo Khổng ở Việt Nam là một sự so sánh khập khiễng, hoàn toàn không đúng, nhất định bị dư luận xã hội lên án.

——

1. Sự thực thì Khổng Tử sống ở thời Xuân thu, chứ không phải thời Chiến quốc. Mạnh Tử mới sống ở thời Chiến quốc. Có thể người dịch nhầm hoặc Tác giả viết nhầm.

2. Hồ Chí Minh Toàn tập, 15 tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 2, tr. 561, 562.

Phản bác luận điệu xuyên tạc chủ trương, tinh gọn tổ chức bộ máy theo Nghị quyết 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII

Thứ hai, 23/12/2024 - 16:48

Chủ trương tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị với quan điểm “Tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả” dưới sự chỉ đạo của Đảng ta, đứng đầu là Tổng Bí thư Tô Lâm nhận được sự quan tâm, đồng tình ủng hộ, ý chí, quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị và đông đảo quần chúng nhân dân. Thế nhưng, như thường lệ, trước, trong và sau khi diễn ra nhưng sự kiện chính trị quan trọng của đất nước, các thế lực thù địch luôn lợi dụng triệt để không gian mạng để tuyên truyền những thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch về chủ trương tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị nhằm chống phá Đảng và Nhà nước ta. Bởi vậy, cần nhận diện rõ bản chất, kiên quyết đấu tranh, bác bỏ những luận điệu, quan điểm sai trái, phản động, những thông tin xấu độc làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, Nhà nước và lợi ích của quốc gia, dân tộc.

Trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của đất nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn thể hiện tư tưởng nhất quán, đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác cán bộ và cán bộ. Người luôn khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”, do vậy, “Công tác cán bộ phải có vai trò quyết định trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ vừa hồng vừa chuyên” [1].

Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ và cán bộ, Đảng ta đã luôn quan tâm đến công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ. Văn kiện Hội nghị lần thứ ba, Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Đảng ta đã xác định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”. Điều đó có nghĩa là, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt thì công tác cán bộ là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng, then chốt của then chốt.

Nhận thức rõ tầm quan trọng đặc biệt của công tác cán bộ, trong bất cứ giai đoạn cách mạng nào, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm đến đổi mới công tác cán bộ và kiểm soát thực thi quyền lực trong công tác cán bộ, đặc biệt coi trọng nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, tăng cường hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị; trong đó, công tác tổ chức bộ máy là then chốt của then chốt, quyết định to lớn đến sự phát triển của đất nước. Đây chính là một trong những yếu tố quan trọng nhất, quyết định nhất đưa Đảng Cộng sản Việt Nam trở thành người cầm lái vĩ đại, người thuyền trưởng tài ba chèo lái đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua mọi ghềnh thác, gặt hái được những thắng lợi kỳ tích vẻ vang trên con đường vinh quang đi lên chủ nghĩa xã hội. Đặc biệt, từ khi đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), Đảng ta đã xác định nhiệm vụ quan trọng song hành cần làm ngay là kết hợp đổi mới cơ chế kinh tế đồng thời với đổi mới bộ máy quản lý Nhà nước. Trong suốt 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, Đảng ta đã nhiều lần ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, kết luận để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực hiệu quả, xây dựng cơ cấu đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực ngang tầm nhiệm vụ, biên chế tổ chức hợp lý, chuẩn hóa các vị trí chức danh cán bộ.

Phản bác luận điệu xuyên tạc chủ trương, tinh gọn tổ chức bộ máy theo Nghị quyết 18-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII
Bộ phận một cửa tại Ủy ban nhân dân phường Phạm Đình Hổ (Hà Nội). Ảnh: TTXVN

Những năm qua, chủ trương tinh giản biên chế và sắp xếp lại tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị ở nước ta đã được Đảng và Nhà nước triển khai đồng bộ, mạnh mẽ, được đa số cán bộ đảng viên đồng tình hưởng ứng và đạt được một số kết quả quan trọng, bước đầu tạo chuyển biến tích cực trong đổi mới. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tiến bộ đó, với quan điểm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá khách quan và toàn diện, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Nhận thấy rõ vấn đề này, đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã có nhiều bài phát biểu, bài viết phân tích rõ thực trạng công tác cán bộ, tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị nước ta hiện nay.

Đặc biệt, ngày 5-11-2024, Tổng Bí thư Tô Lâm đã có bài viết quan trọng: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”, trong đó, người đứng đầu Đảng ta đã thẳng thắn chỉ rõ: Việc đổi mới công tác cán bộ vẫn chưa có đột phá lớn; nhận thức và hành động của một số cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu chưa đầy đủ và sâu sắc, quyết tâm chưa cao; tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn cồng kềnh; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn nhiều cơ quan, bộ phận còn trùng lắp, chồng chéo, tinh giản biên chế mới tập trung giảm số lượng, chưa gắn với nâng cao chất lượng, nhất là chi phí vận hành hệ thống tổ chức quá lớn, chiếm tới 70% tổng ngân sách chi tiêu thường xuyên của Nhà nước… Đây là nguyên nhân dẫn đến tệ tham ô, tham nhũng, gây thất thoát, lãng phí rất lớn nguồn lực xã hội, làm giảm nguồn lực cho đầu tư phát triển và nhiều hệ lụy tiêu cực khác, những hạn chế bất cập này nếu không giải quyết triệt để sẽ là lực cản to lớn kìm hãm quá trình đổi mới, phát triển đất nước.

Từ việc phân tích rõ thực trạng hạn chế, bất cập còn tồn tại, Tổng Bí thư Tô Lâm đã một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng, tính tất yếu phải đẩy mạnh sắp xếp, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo quan điểm bảo đảm “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”, xác định đây là nhiệm vụ chính trị hệ trọng, yêu cầu cả hệ thống chính trị phải tập trung giải quyết. Tại Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: “Hiện nay đã là thời điểm, thời cơ; là sự cấp thiết, là đòi hỏi tất yếu khách quan cho cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị để bộ máy hoạt động hiệu lực, hiệu quả hay chưa? Câu trả lời là: Không thể chậm trễ hơn được nữa”.

Như vậy, tinh gọn bộ máy giờ đây đã trở thành mệnh lệnh tất yếu của cuộc sống. Nói một cách dung dị và dễ hiểu như đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm là “Nhẹ để cất cánh”, hay như các bậc tiền nhân thì “Thà ít mà tốt”. Rõ ràng, quan điểm “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” và sự chỉ đạo quyết liệt của Tổng Bí thư Tô Lâm, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị đã cho thấy quyết tâm chính trị rất lớn của Đảng, Nhà nước ta. Cần khẳng định rằng, chủ trương sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy đã đạt được sự thống nhất tuyệt đối cả về nhận thức và hành động, nhận được sự đồng tình ủng hộ cao của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, thực tiễn đó đã khẳng định chân lý: Đây là chủ trương hoàn toàn đúng đắn, kịp thời, tiến bộ, nhân văn, khách quan và khoa học, bởi nó đáp ứng được đòi hỏi bức thiết của thực tiễn cuộc sống và hội tụ đầy đủ “Ý chí của Đảng - Nguyện vọng của nhân dân”, dựa trên cơ sở vận dụng thế giới quan, phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Do vậy, tại thời điểm này, việc đẩy mạnh cải cách tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo quan điểm bảo đảm “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” hoàn toàn không phải là một chủ trương mới của Đảng, mà là phương thức tiến hành mới trên cơ sở tổng kết, tiếp nối, kế thừa, bổ sung và phát triển các quan điểm của các kỳ Đại hội trước đây của Đảng ta cho phù hợp với thực tiễn sinh động của đất nước và bối cảnh thế giới, vận dụng sáng tạo và giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, nhằm hướng tới mục tiêu tối thượng, vô cùng nhân văn và cao đẹp là nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, giảm chi phí nuôi bộ máy, ưu tiên nguồn lực cho phát triển đất nước, phục vụ nhân dân, xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu, vững bước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

Ấy vậy mà, lợi dụng việc Bộ Chính trị, Ban Bí thư quyết liệt triển khai thực hiện chủ trương tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25-10-2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” nhằm chuẩn bị tốt về mọi mặt để đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội XIV của Đảng vào đầu năm 2026, tạo điều kiện thuận lợi để đất nước vững tin bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, một số đối tượng có tư tưởng thù địch, chống đối vẫn cố tình xuyên tạc, bóp méo sự thật, tung tin bịa đặt, đánh tráo khái niệm, đưa ra những quan điểm không đồng thuận, phản biện vô nguyên tắc, phản đối gay gắt chủ trương, quan điểm của Đảng, gây hoang mang, hoài nghi trong dư luận, với âm mưu phá hoại thành quả cách mạng, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chống phá Đảng và Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Các thế lực thù địch, chống đối lợi dụng việc Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ đạo kết thúc hoạt động của một số bộ, ban, ngành cấp Trung ương do không còn phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong kỷ nguyên mới, nhằm khắc phục sự chồng lấn, trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ giữa một số bộ, ban, ngành ở Trung ương, đáp ứng yêu cầu triển khai thực hiện hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả các chỉ tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội để bóp méo, xuyên tạc bản chất chủ trương, quan điểm đúng đắn của Đảng ta. Chúng xảo biện cho rằng, “chủ trương tinh gọn chỉ là hình thức bề ngoài, thực chất vẫn chỉ là bình mới rượu cũ, tạo cơ hội chạy ghế, chạy chức, gây tốn kém tiền của của nhân dân”. Ấu trĩ đến nực cười, chúng thậm chí còn dựng lên thuyết âm mưu “tranh giành quyền lực, đấu đá nội bộ, hạ bệ đối thủ”, rêu rao rằng “tinh giản chẳng qua chỉ là cách hợp thức hóa để hạ bệ hoặc gia cố quyền lực trong hệ thống chính trị”. Một số cá nhân có quan điểm đối lập với Đảng, Nhà nước ta lại cho rằng, “đây là cơ hội để quân đội giảm quân”, “kết thúc nhiệm vụ của nhiều quân, binh chủng, lực lượng không còn phù hợp”, “giảm tiền đóng thuế của dân để ưu tiên cho phát triển đất nước”.

Họ cho rằng, hiện nay ở Việt Nam, diễn biến hòa bình đã kết thúc, “không còn đối tượng tác chiến” vì “Việt Nam đã nhích lại gần phương Tây”, “đã thân thiện với các nhà tư sản khi một số nước phương Tây đã là đối tác chiến lược toàn diện của Việt Nam” và “Việt Nam muốn làm bạn với họ”… Từ đó họ tung tin: “Lãnh đạo Việt Nam đã mở rộng cửa để tiếp nhận công nghệ, đồng đô-la và các chuyên gia phương Tây vào Việt Nam”, “Tổng Bí thư và Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đang khẩn thiết mời chào các nhà tư bản phương Tây vào Việt Nam để đầu tư, phát triển”… do đó, “giảm quân, kết thúc hoạt động của một số cơ quan, đơn vị quân đội là yêu cầu cấp bách hiện nay”.

Đây là những luận điệu vu cáo, cố tình bóp méo sự thật của các thế lực thù địch, gây ra sự nhiễu loạn về thông tin, làm gia tăng các biểu hiện “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ cán bộ, đảng viên, tạo ra khoảng trống về ý thức hệ, hòng làm phai nhạt dần lý tưởng cách mạng vô sản và bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc của quân đội, gieo rắc hạt giống hệ tư tưởng phi vô sản có cơ hội nảy mầm trong đời sống tinh thần của cán bộ, chiến sĩ và nhân dân, hướng lái dư luận theo mục đích và ý đồ đen tối, âm mưu vô cùng thâm độc của các thế lực thù địch là phủ nhận “diễn biến hòa bình” và đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ ở Việt Nam, tuyệt đối hóa sức mạnh kinh tế, ảo tưởng và tung hô tới mức thần thánh hóa sự trợ giúp của các nước phương Tây; từ xem nhẹ vai trò quân đội rồi tiến tới “phi chính trị hóa quân đội”, tách lực lượng vũ trang ra khỏi sự lãnh đạo trực tiếp và tuyệt đối của Đảng, vô hiệu hóa sức mạnh của “thanh bảo kiếm” - tấm khiên bảo vệ Đảng, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nhân dân.

Đảng mất đi chỗ dựa vững chắc, kẻ thù càng dễ bề thao túng, khi đó, đồng thời một mũi tên chúng có thể đánh trúng hai mục tiêu: Phi chính trị hóa quân đội và phi xã hội chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đây là biểu hiện rõ nhất của tư duy phi logic, siêu hình và tư tưởng phản động, chống phá vô cùng nguy hiểm, cần nhận diện làm rõ bản chất và kiên quyết đấu tranh với các âm mưu, thủ đoạn “chiến thắng không cần chiến tranh”, sử dụng biện pháp phi vũ trang để chống phá, nhằm tiến tới lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Tinh gọn bộ máy, giảm biên chế là quan điểm chỉ đạo xuyên suốt, thể hiện sự thống nhất cao độ và quyết tâm chính trị rất lớn của Đảng và Nhà nước ta, với mục đích rất rõ ràng, tiến bộ, nhân văn, cao đẹp, không hề có chuyện “làm cho có”, làm vì động cơ “tranh giành, đấu đá”... như các thế lực thù địch cố tình xuyên tạc vì ý đồ, động cơ đen tối.

Xét về bản chất, cuộc cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm là cuộc cách mạng nhân lực, nhằm cải cách toàn diện tổ chức bộ máy, góp phần “cởi trói” cho lực lượng sản xuất, giải phóng sức sản xuất, tạo điều kiện khai thác và phát huy tối đa nguồn lực con người - yếu tố quan trọng nhất quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất, tạo “lực đẩy” để đất nước ta tiến vào kỷ nguyên cất cánh, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Mục tiêu của cuộc cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy lần này là nhằm tạo ra bước đệm, tạo thế và lực để cả dân tộc chuyển mình, bứt phá mạnh mẽ, cùng hướng tới thực hiện mục tiêu cao cả, vĩ đại của dân tộc: Xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, sớm sánh vai với các cường quốc năm châu như ước nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Dẫu biết rằng, chẳng có con đường nào trải bước trên hoa hồng, đặc biệt là cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy lần này có liên quan chặt chẽ tới vấn đề lợi ích, quan hệ lợi ích; cải cách và đổi mới chẳng bao giờ là đơn giản, sẽ luôn gặp những trở lực, cách mạng nào cũng đòi hỏi phải có sự dũng cảm, thử thách và hy sinh của những người cộng sản chân chính, nhưng “lửa thử vàng, gian nan thử sức”, chúng ta hoàn toàn có cơ sở khách quan và khoa học để khẳng định và tin tưởng rằng: Dưới sự lãnh đạo tài tình, trí tuệ và đạo đức của Đảng ta, sự vào cuộc đầy trách nhiệm và quyết tâm của cả hệ thống chính trị, sự đoàn kết một lòng của cả dân tộc - trăm triệu người như một, cuộc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” tất sẽ thành công.

TS ĐẶNG THỊ THU HIỀN, Phó chủ nhiệm Khoa Lý luận chính trị, Học viện Kỹ thuật mật mã