Nhận diện “comment bẩn” từ thực tiễn online

Thứ hai, 22/05/2023 - 05:36

Lợi dụng mặt trái của mạng xã hội, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị cố tình tán phát các thông tin xấu độc, không đúng sự thật lên không gian mạng, rồi tạo ra các bình luận nhằm lôi kéo, kích động cộng đồng mạng tham gia, thành lập các hội, nhóm tự phát để bàn tán, chỉ trích, xuyên tạc, bôi nhọ danh dự, uy tín người khác.

Mục tiêu của họ là gieo rắc các nhận thức sai lầm, tâm lý hoài nghi, tâm trạng bất an, bức xúc trong xã hội và cộng đồng; ngấm ngầm kích động các tư tưởng bất tuân, chống đối luật pháp, chuẩn mực xã hội, cộng đồng; xúi giục các hành vi bạo loạn, bạo lực... Nhiều người gọi đây là những “comment bẩn”.

Nguy hại "comment bẩn"

Trên thực tế, “comment bẩn” có khá nhiều dạng. Dạng dễ nhận thấy nhất là những comment tục tĩu. Những “comment bẩn” dạng này thường là những lời nói bậy bạ, vô văn hóa, văng tục, chửi thề, song thường thì câu từ không có nhiều ý nghĩa cụ thể mà chỉ nhằm mục đích a dua phá hoại. Loại này có thể dễ dàng gặp ở những diễn đàn không có người quản lý trực tiếp (admin) hoặc những trang mạng có bộ lọc ngôn từ không cao. Tuy nhiên, số lượng comment loại này thường rất nhiều nên dễ vượt quá sự kiểm soát.

Dạng “comment bẩn” thứ hai tinh vi hơn, dễ lọt lưới kiểm soát hơn vì nhìn thoáng qua tưởng chừng vô hại. Những kẻ thường xuyên tung “comment bẩn” dạng này bỏ thời gian để theo dõi xem những người còn lại trong diễn đàn đang nói về điều gì để bắt lỗi, chất vấn... những bình luận này thường gay gắt hơn mức bình thường. Người đưa ra bình luận luôn sẵn sàng đối đáp kịch liệt với “chủ thớt” (cách gọi của cư dân mạng để chỉ người lập ra topic) để chứng minh nhận xét của mình, cứ như vậy sẽ tạo nên làn sóng lan truyền trên mạng.

Dạng “comment bẩn” thứ ba là những comment do chính “chủ thớt” nêu ra để làm chủ đề bàn luận cho cư dân mạng tham gia hoặc mượn một topic nào đó và đưa ra nhận xét, bình phẩm, đánh giá của mình, từ đó lôi kéo, kích động người khác cùng bình luận nhằm đạt được ý đồ. Dạng “comment bẩn” này thường được dựng lên có chủ đích rõ ràng, có thể vì mục đích chính trị, kinh tế, xã hội... Trong phạm vi bài viết này chỉ đề cập đến dạng “comment bẩn” của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lợi dụng mạng xã hội, truyền thông xã hội để xuyên tạc, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, xúc phạm danh dự các vị lão thành cách mạng, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội...

Tranh của MẠNH TIẾN. 
Tranh của MẠNH TIẾN. 

Những người thực hiện thủ đoạn này được đào tạo khá bài bản với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin nên họ thực hiện ngày càng thường xuyên và tinh vi hơn. Đối tượng họ hướng đến là các lão thành cách mạng, lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội và những người có vị trí, vai trò, tầm ảnh hưởng lớn đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước hoặc cán bộ, đảng viên thường xuyên, trực tiếp tiếp xúc với nhân dân. Dạng thức phổ biến là: Xuyên tạc, bịa đặt về lịch sử thân thế, sự nghiệp; xúc phạm đời tư, cuộc sống gia đình, gán ghép các mối quan hệ xã hội... Để tăng hiệu quả, họ thường tung thông tin này vào những thời điểm nhạy cảm về chính trị, như: Những sự kiện chính trị trọng đại của đất nước; trước, trong và sau dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn; đại hội Đảng, bầu cử đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp...

Ngoài ra, họ còn mượn một hiện tượng, một cá nhân cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất bị pháp luật nghiêm trị để đánh tráo khái niệm, quy chụp, đánh đồng thành bản chất chế độ xã hội, bản chất của Đảng và Nhà nước. Chỉ cần một hành động, một câu nói nào đó của cán bộ, đảng viên cũng bị họ phân tích, mổ xẻ, xuyên tạc ở nhiều góc độ để thêu dệt thành những câu chuyện thị phi rùm beng. Thậm chí, họ còn cố tình dàn dựng những “cạm bẫy” nhằm kích động, làm cho những cán bộ, đảng viên thiếu bản lĩnh, kinh nghiệm, mất kiềm chế trong những tình huống cụ thể để tổ chức quay phim, chụp hình rồi cắt ghép, chỉnh sửa, thêu dệt thành những câu chuyện gây bức xúc trong “dư luận”. Hơn thế nữa, họ còn rất thạo các cách thức để thổi phồng sự việc, để thu hút người theo dõi, tạo điểm nóng trong “dư luận”. Từ một hành động nhỏ chưa phù hợp của một cán bộ, đảng viên nào đó, họ có thể "vẽ" thành một bức tranh toàn cảnh về đạo đức, lối sống, về nghệ thuật xã giao, văn hóa công vụ... của cả một cơ quan, đơn vị, của Đảng, của xã hội rồi đem so sánh với các nước khác, bất chấp sự khập khiễng. Nguy hiểm hơn, để hướng dư luận theo mưu đồ của mình, họ chặn hoặc loại bỏ những bình luận trái chiều, ý kiến đấu tranh của những người có chính kiến để tạo nên dạng thông tin một chiều có lợi cho mục đích chống phá.

Không khó để nhận ra đây là những thủ đoạn của hoạt động “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Bởi vì, thủ đoạn dù có tinh vi đến đâu, xảo quyệt thế nào thì bản chất cũng chỉ là chiêu trò “bình mới, rượu cũ”. Vấn đề đặt ra ở đây là đã có không ít người dân vì tính hiếu kỳ, nhận thức đơn giản, phiến diện, thậm chí một bộ phận cán bộ, đảng viên, trí thức, văn nghệ sĩ vô tình hoặc cố ý tham gia “góp ý” rất sôi nổi tạo nên một “làn sóng” lan truyền nhanh chóng với hàng nghìn, thậm chí hàng triệu “comments”, qua đó giúp cho các thế lực thù địch, phản động đạt được ý đồ chống phá. Vậy làm thế nào ngăn chặn là câu hỏi đặt ra cấp thiết đối với các cơ quan hữu quan, các ban, ngành và cả những người tham gia mạng xã hội.

Làm thế nào để ngăn chặn "comment bẩn"?

Thứ nhất, đối với các cơ quan hữu quan của Đảng, Nhà nước và các chủ thể quản lý pháp luật về an ninh mạng: Cần chú trọng công tác lãnh đạo, chỉ đạo tăng cường các biện pháp giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức của công dân về pháp luật, nhất là Luật An ninh mạng; các chỉ thị, quy định về cung cấp, phát triển, sử dụng các nền tảng mạng xã hội; ý thức, trách nhiệm và những nguyên tắc khi tham gia các nền tảng mạng xã hội của người dân. Hoàn thiện các quy định về quản lý thông tin trên mạng xã hội; tập trung nghiên cứu xây dựng luật về quản lý thông tin trên mạng, Luật An ninh mạng để có thể tạo ra hành lang pháp lý đầy đủ, phù hợp; tích cực xây dựng khung khổ pháp luật khoa học, tiến bộ để truyền thông xã hội hoạt động, phát triển lành mạnh, đúng hướng và quản lý tốt mạng xã hội.

Các nhà cung cấp dịch vụ và người sử dụng mạng xã hội thực hiện nghiêm túc Bộ quy tắc ứng xử trên mạng xã hội, hướng tới xây dựng môi trường mạng xã hội lành mạnh, an toàn tại Việt Nam. Các cá nhân, tổ chức cần phải có trách nhiệm pháp lý với các thông tin đưa lên mạng xã hội nhằm hạn chế tối đa những phát ngôn “vô tội vạ”, xâm phạm đời tư, hạ thấp uy tín, bôi nhọ danh dự của cá nhân, tổ chức trên mạng xã hội. Xây dựng và hoàn thiện các văn bản thực hiện Luật Báo chí, trong đó chú trọng việc nâng cao vai trò định hướng thông tin của các cơ quan báo chí chủ lực, tích cực, chủ động phê phán, phản bác thông tin xấu, độc trên mạng xã hội để góp phần khắc phục những mặt trái của truyền thông xã hội.

Thứ hai, đối với các chủ thể cung cấp mạng xã hội: Các nhà cung cấp, khai thác dịch vụ mạng, nhất là các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ xuyên biên giới phải có trách nhiệm tuân thủ luật pháp Việt Nam, tôn trọng chủ quyền, lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia Việt Nam. Yêu cầu các đối tác phải thể hiện rõ sự hợp tác và tuân thủ các quy định khi vào hoạt động tại Việt Nam, như: Đặt cơ quan đại diện, thiết lập tính chính danh của người dùng trong đăng ký tài khoản, phối hợp tích cực để kịp thời bóc gỡ những trang mạo danh, các topic cố tình xuyên tạc, bôi nhọ, xúc phạm các cá nhân, tổ chức, xóa bỏ triệt để các tài khoản đưa thông tin sai sự thật... Đồng thời, cần coi trọng hơn các biện pháp kinh tế, trách nhiệm của những doanh nghiệp phải tương xứng với lợi ích mà họ được hưởng.

Thứ ba, đối với các cơ quan quản lý, giám sát các phương tiện truyền thông: Cần tiếp tục hoàn thiện đồng bộ hệ thống văn bản pháp luật với các điều khoản cụ thể, rõ ràng, sát thực, phù hợp, theo kịp tốc độ biến động của truyền thông xã hội, thay vì chỉ dừng ở quy tắc điều chỉnh mang tính khuyến nghị. Tăng cường hơn nữa công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, đặc biệt là sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng có liên quan và của cả hệ thống chính trị để xử lý nghiêm những hành vi vi phạm, gây hại như: Lưu trữ, cung cấp, đăng tải, tán phát tin giả, sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, nói xấu, kích động, chống phá Đảng, Nhà nước trên internet, mạng xã hội...

Tăng cường các biện pháp kỹ thuật để ngăn chặn, bóc gỡ, loại bỏ những thông tin độc hại, xâm phạm an ninh quốc gia, chống phá Việt Nam. Đây là biện pháp rất cần thiết và hữu hiệu trong bối cảnh hiện nay. Các đơn vị chuyên trách về an ninh mạng cần kịp thời hỗ trợ với các tổ chức, cá nhân khi phát hiện dấu hiệu “lỗ hổng” bảo mật và cả khi bị tội phạm tin học tấn công để khắc phục và tạo lập môi trường mạng lành mạnh, trong sạch để người dùng yên tâm khi sử dụng mạng xã hội phục vụ nhu cầu chính đáng của cá nhân, tổ chức.

Thứ tư, đối với người tham gia mạng xã hội: Khi tham gia môi trường mạng, các “cư dân mạng” nên lan tỏa những thông tin, hình ảnh tốt đẹp về các hoạt động xã hội, hoạt động vì cộng đồng, phê phán những thói xấu, biểu hiện lệch lạc, hướng tới thông điệp nhân văn, xây dựng văn hóa ứng xử trên mạng xã hội thanh lịch, văn minh. Đồng thời, cần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, không sử dụng ngôn ngữ lai căng, tục tĩu, có tính bạo lực; chỉ đăng, phát thông tin rõ nguồn gốc, đã được kiểm chứng. Đặc biệt, không được lập nhóm, hội để nói xấu, bôi nhọ, xúc phạm người khác hoặc công kích lẫn nhau; không “vào hùa” theo đám đông khi chưa hiểu rõ về vụ việc hoặc không có căn cứ. Trong quá trình đăng tải các thông tin, các cư dân mạng không đăng những thông tin bịa đặt, thông tin vi phạm pháp luật; không sử dụng những ứng dụng không rõ nguồn gốc để tránh bị làm phiền bởi các tin rác hay bị lấy cắp thông tin tài khoản. Các “cư dân mạng” cần nắm rõ và tuân thủ các quy định của Luật An ninh mạng. Trên cơ sở đó, mỗi người cần biến tài khoản mạng xã hội của mình thành một kênh thông tin lành mạnh và thực hiện truyền thông xã hội trên tinh thần trách nhiệm cộng đồng, kịp thời phát hiện, góp ý, phê bình, phản bác... những thông tin phản động, độc hại trên mạng xã hội.

Khi tham gia mạng xã hội, các “cư dân” cần trang bị các kỹ năng tự bảo vệ thông tin cá nhân, cách thức chắt lọc, tiếp nhận thông tin. Việc người dùng nâng cao "sức đề kháng”, trang bị hiểu biết về pháp luật, bộ lọc văn hóa tốt, ứng xử văn minh trong tranh luận, phản biện, có năng lực về tin tức, đánh giá được độ tin cậy của thông tin trên mạng xã hội là rất quan trọng. Có như vậy, việc khai thác, sử dụng mạng xã hội mới hiệu quả, thiết thực và lành mạnh, người dùng mới có thể bảo vệ những giá trị của bản thân, của cộng đồng và dân tộc.

Trung tá, TS LÊ ĐỨC THẮNG (Viện Khoa học Xã hội và Nhân văn quân sự)

Không thể phủ nhận giá trị, sức sống tư tưởng Hồ Chí Minh

Thứ Hai, 22/05/2023, 11:29

Cứ vào dịp cả nước kỷ niệm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (ngày 19/5) trên một số diễn đàn, trang mạng xã hội của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lại tung ra những luận điệu sai trái, xuyên tạc về thân thế, sự nghiệp, tư tưởng của Người.

Do vậy, việc nhận diện, phản bác luận điệu sai trái, xuyên tạc không chỉ góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng mà còn khẳng định sức sống, giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, đó còn là trách nhiệm, lương tâm, tình cảm đối với lãnh tụ vĩ đại của Đảng và dân tộc Việt Nam.

Luận điệu sai trái, xuyên tạc

Một số hội nhóm, tổ chức, cá nhân phản động, bất mãn lấy danh nghĩa là “nghiên cứu cuộc đời, sự nghiệp và tư tưởng Hồ Chí Minh” đưa ra luận điệu: “thực chất Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc”, “chủ nghĩa dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi”. Họ giải thích tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là tư tưởng cách mạng giải phóng dân tộc, không có tư tưởng đấu tranh giai cấp, không có tư tưởng về cách mạng xã hội chủ nghĩa. Từ đó, họ ngụy biện rằng, Hồ Chí Minh không phải là người theo chủ nghĩa cộng sản; tư tưởng Hồ Chí Minh đối lập với chủ nghĩa Mác-Lênin, đối lập với đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam vì tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa dân tộc, còn đường lối của Đảng là theo tư tưởng đấu tranh giai cấp…

Đây thực chất là một cách diễn đạt sai lệch. Cách diễn đạt này dù vô tình hay hữu ý đã bỏ qua tính giai cấp, làm mờ đi lập trường, quan điểm giai cấp của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam. Với cách diễn đạt ấy đã tước bỏ tính đảng và lập trường cách mạng chân chính trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thực chất là để phủ nhận tư tưởng của Người.

Thậm chí, những kẻ chống phá, cơ hội cố tình bóp méo, xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin, chia rẽ, phá vỡ từng bộ phận cấu thành trong nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.

Mục đích của các thế lực thù địch nhằm để thực hiện mưu đồ chính trị chống phá Đảng ta trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận là nhằm làm cho Đảng xa rời, từ bỏ nền tảng tư tưởng, từ bỏ thế giới quan, phương pháp luận khoa học, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng, dẫn đến từ bỏ mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Thực tế, nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như thực tiễn thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng của giai cấp vô sản, là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.

Kế thừa, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin để giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc với giai cấp

Từ khi thực dân Pháp xâm lược (1858) và đặt ách thống trị ở nước ta cho đến đầu thế kỷ XX, các ngọn cờ cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và tư sản đã chiến đấu rất quyết liệt và anh dũng, song tất cả đã bị đàn áp đẫm máu và thất bại. Thực tiễn đó cho thấy, không thể giải quyết vấn đề dân tộc, giành độc lập dân tộc dựa trên những quan điểm phong kiến hay tư sản.

Trong điều kiện lịch sử ấy, Nguyễn Tất Thành với lòng yêu nước, thương dân, với nhãn quan chính trị sắc sảo đã nhận thấy không thể cứu nước và giải phóng dân tộc theo con đường của các bậc tiền bối và Người đã quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Điểm xuất phát và là động lực tinh thần của sự ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân của Hồ Chí Minh là chủ nghĩa yêu nước chân chính. Người đặt cho mình cái tên Nguyễn Ái Quốc là để luôn nhắc nhở bản thân và cổ vũ đồng bào mình lòng yêu nước.

Năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Luận cương chỉ rõ, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản. Đó là chân lý của thời đại, là giải đáp cho điều mà Nguyễn Ái Quốc đang trăn trở, tìm tòi. Từ đây, Nguyễn Ái Quốc xác định “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” ¹ . Lúc này Người có sự chuyển biến từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống sang chủ nghĩa yêu nước theo lập trường giai cấp vô sản. Năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định, đối với các dân tộc thuộc địa ở phương Đông, “chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”. Người đánh giá cao động lực của chủ nghĩa dân tộc nhưng chủ nghĩa dân tộc theo quan niệm của Người phải theo lập trường vô sản.

Tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, tự nhận là học trò của C. Mác, V.I Lênin nhưng Nguyễn Ái Quốc không thụ động mà dùng lập trường, quan điểm, phương pháp luận mác xít để vận dụng và phát triển những nguyên lý, quy luật chung của cách mạng thế giới vào đặc điểm tình hình các nước thuộc địa, trong đó có Việt Nam. Người luận giải, những luận điểm về chủ nghĩa đế quốc như một con đỉa có hai vòi; tính chủ động chủ yếu của cách mạng thuộc địa; nội dung chủ yếu của cách mạng thuộc địa; quy luật thành lập đảng ở các nước thuộc địa… Đó là những cống hiến lý luận to lớn của Người đối với phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam và trên thế giới.

Nắm vững học thuyết về cách mạng vô sản và học thuyết giai cấp, đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời bám sát đặc điểm của thực tiễn Việt Nam và thế giới, Nguyễn Ái Quốc đã phát hiện ra những nét đặc thù của Việt Nam so với các quốc gia khác, đặc biệt là các nước phương Tây. Người nhận thấy, nếu như ở phương Tây, mâu thuẫn giai cấp đã trở nên sâu sắc thì ở Việt Nam, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với chủ nghĩa thực dân Pháp và bè lũ tay sai là mâu thuẫn hàng đầu, đấu tranh giải phóng dân tộc mới là vấn đề gay gắt và nóng bỏng đối với cách mạng Việt Nam chứ chưa phải là đấu tranh giai cấp như trong các xã hội tư bản chủ nghĩa phương Tây. Quan điểm này của Người được thể hiện rõ ở “Chính cương vắn tắt”, “Sách lược vắn tắt” và “Điều lệ tóm tắt” trong Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930, đó là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” 2. Trong đó, nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền là đánh đổ chủ nghĩa đế quốc và bọn phong kiến “làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”, nhân dân được tự do, tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc làm của công và chia cho nông dân nghèo, quốc hữu hoá toàn bộ xí nghiệp của tư bản đế quốc, lập chính phủ công - nông - binh và quân đội công nông...

Quan điểm này tiếp tục khẳng định tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (Khóa I, tháng 5/1941): “Trong lúc này quyền lợi dân tộc cao hơn hết thảy... nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập tự do cho dân tộc thì chẳng những còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp vạn năm cũng không đòi lại được. Đó là nhiệm vụ của Đảng ta trong vấn đề dân tộc”³.

Đây chỉ là một phần dẫn chứng nhưng đủ để cho thấy tư tưởng và hành động nhất quán để giải quyết đúng đắn, sáng tạo mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp; kết hợp đúng đắn đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp của Hồ Chí Minh. Chính điều đó đã thực sự trở thành chiến lược chỉ đạo toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam, cũng nhờ đường lối đúng đắn đó mà đã huy động được toàn thể nhân dân Việt Nam muôn người như một chống lại kẻ thù chung, giành độc lập cho dân tộc.

Thắng lợi của cách mạng Việt Nam khẳng định giá trị, sức sống tư tưởng Hồ Chí Minh

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đến chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, kết thúc những năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Thời kỳ đất nước tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 -1975), Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn dân tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, nhằm thực hiện mục tiêu chung trước mắt của cả nước là giải phóng miền Nam, hoà bình, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Trong công cuộc đổi mới đất nước, hội nhập quốc tế hiện nay, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nước ta đã vươn lên trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình; văn hoá, xã hội tiếp tục phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện; công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị có bước đột phá; khối đại đoàn kết toàn dân tộc không ngừng được củng cố; chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng - an ninh, độc lập, chủ quyền được giữ vững; vị thế và uy tín của đất nước ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Đến nay, Việt Nam đã tham gia hầu hết các tổ chức quốc tế, trở thành một thành viên tích cực, có trách nhiệm trong các hoạt động của cộng đồng quốc tế. Thêm một lần nữa khẳng định sức sống mãnh liệt và giá trị vô cùng to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam.

Không chỉ nhân dân Việt Nam mà nhân dân tiến bộ trên thế giới còn ca ngợi, công nhận tư tưởng và những cống hiến của Hồ Chí Minh đã có quyết định đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam và góp phần vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Ngay từ năm 1970, nhà triết học Nhật Bản Singô Sibata đã viết cuốn sách có tiêu đề “Hồ Chí Minh, nhà tư tưởng” và cho rằng: “Nguồn gốc thắng lợi của Việt Nam, trong một mức độ lớn, bắt nguồn từ trình độ cao của triết học và lý luận mà nhân dân Việt Nam đạt được”. Báo chí Cuba coi “Hồ Chí Minh là một trong những nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thời đại chúng ta”. Cựu Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Mỹ Gớt Hôn thì cho rằng: “Đồng chí Hồ Chí Minh là một lãnh tụ và là một nhà tư tưởng Mácxít - Lêninnít vĩ đại của thế giới... Cả loài người sẽ đời đời trân trọng giữ gìn những cống hiến của Người vào kho tàng của chủ nghĩa Mác”. Còn UNESCO thì khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là hiện thân khát vọng của các dân tộc trong việc bảo vệ bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho sự thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau”.

--------------------------------------------------------------------------------

¹ Hồ Chí Minh toàn tập (2011), Nxb  CTQG, Hà Nội, tập 12, tr.30.

² Hồ Chí Minh toàn tập (2011), Nxb CTQG, Hà Nội, tập 3, tr.1.

³ Văn kiện Đảng toàn tập (2000), Nxb CTQG, Hà Nội, tập 7, tr.113.

 Thái Hòa – Đại Thắng

Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022: "Lá chắn thép" bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân

Thứ ba, 16/05/2023 - 11:00

Trong những năm qua, các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” với tính chất ngày càng gay gắt, quyết liệt. Dân chủ, nhân quyền là chiêu bài mà chúng vẫn dùng để lợi dụng kích động, gây rối, phá hoại, gây mất ổn định chính trị-xã hội, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nhưng thực tế những gì mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang làm là minh chứng rõ nét nhất, bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc, phủ nhận thành quả về dân chủ, nhân quyền ở nước ta. Đặc biệt gần đây, khi Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022 do Quốc hội ban hành đáp ứng được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; là cơ sở pháp lý quan trọng để quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện tốt hơn tại cơ sở; góp phần đập tan mọi luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch; được ví như “lá chắn thép” bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.

Nhận diện những luận điệu phủ nhận, hạ thấp giá trị và xuyên tạc Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022

Kỳ họp thứ tư Quốc hội khóa XV nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã biểu quyết thông qua Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở với tỷ lệ tán thành rất cao (443 đại biểu tán thành (88,96% tổng số đại biểu). Đạo luật là cơ sở pháp lý rất quan trọng để thể chế hóa quan điểm của Đảng ta và tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ; dân chủ xã hội chủ nghĩa; thực hiện dân chủ ở cơ sở… trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.

Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV. Ảnh: TTXVN

Quốc hội biểu quyết thông qua Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XV. Ảnh: TTXVN

Tuy nhiên, ngay sau khi Luật thực hiện dân chủ ở cơ sở được Quốc hội Việt Nam thông qua, như thường lệ, các thế lực thù địch, phần tử phản động, cơ hội chính trị liền “bổn cũ soạn lại”, tìm cách phủ nhận, hạ thấp giá trị và xuyên tạc. Chúng ra sức xuyên tạc, hạ thấp giá trị của Luật bằng những lập luận mang tính áp đặt, ngụy biện, thậm chí là “bới móc”, “mổ xẻ”, “thêm mắm dặm muối” và “sáng tạo” ra những dẫn chứng để dẫn dụ người đọc vào một “ma trận thông tin” với mục đích duy nhất mà chúng mong muốn đạt được là nhằm phủ nhận quan điểm đúng đắn của Đảng, chính sách tốt đẹp của Nhà nước ta trong bảo đảm các quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, nền dân chủ nghĩa xã hội.

Trình diễn cồng chiêng của dân tộc Jrai trong Lễ hội ăn trâu. Ảnh minh họa. Ảnh: TTXVN
Trình diễn cồng chiêng của dân tộc Jrai trong Lễ hội ăn trâu. Ảnh minh họa. Ảnh: TTXVN

Nhiều trang báo, trang thông tin từ nước ngoài như BBC Tiếng Việt, RFA…dẫn một số bài viết “lập lờ đánh lận con đen”; “đánh tráo khái niệm”; để nhằm “thao túng tâm lý” người đọc và nhằm làm cho mọi người tin rằng Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở của Việt Nam chỉ là “bình mới, rượu cũ” và chỉ mang tính chỉnh sửa về hình thức; cho rằng các quy định trên của Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở không đi theo hướng bảo vệ quyền tiếp cận thông tin của người dân, “không đúng bản chất của dân chủ”… Mục đích chung của các thế lực thù địch là làm cho người dân hoang mang nghi ngờ; cổ vũ cho chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập tại Việt Nam; kích động người dân Việt Nam phải “yêu cầu”, “đòi hỏi” Đảng và Chính phủ chấp nhận trong nền chính trị Việt Nam phải tồn tại các nhóm chính trị, các chính đảng khác nhau để đa dạng hóa đường lối cho nhân dân lựa chọn thông qua bầu cử tự do thì mới đảm bảo cho một nền dân chủ.

Thực hiện dân chủ ở cơ sở không còn là khẩu hiệu chung chung

Dân chủ là một phạm trù chính trị - xã hội xuất hiện khá sớm trong nền văn minh nhân loại, gắn liền với tiến bộ xã hội và sự phát triển của lịch sử qua các thời đại, các chế độ xã hội khác nhau với nội dung cơ bản dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Theo Karl Marx và Friedrich Engels, dân chủ là một phương tiện tất yếu để con người đạt tới tự do, giải phóng toàn diện những năng lực vốn có của mỗi cá nhân, tức quyền con người được bảo đảm và thực hiện đầy đủ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ vai trò của dân chủ, coi dân chủ là nhân tố động lực của sự phát triển; thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn. Người khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch một nước đều là phân công làm đày tớ cho dân”. Phát huy dân chủ là phát huy tài dân, muốn vậy, thì phải trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn: Phải ra sức thực hành dân chủ, thật sự tôn trọng quyền làm chủ của quần chúng, dân chủ về kinh tế, dân chủ về chính trị.

 Phường Thượng Thanh, quận Long Biên, TP Hà Nội đã tổ chức thành công Hội nghị đại biểu nhân dân năm 2023
 Phường Thượng Thanh, quận Long Biên, TP Hà Nội đã tổ chức thành công Hội nghị đại biểu nhân dân năm 2023

Dân chủ cơ sở là một bước tiến mới trong nhận thức lý luận dân chủ và dân chủ hóa ở nước ta. Trong quá trình thực thi quyền lực bao gồm quyền lực chính trị của Đảng và quyền lực nhà nước, cấp cơ sở có vai trò quan trọng bởi đây là nơi trực tiếp làm việc với Nhân dân, trực tiếp đón nhận và trực tiếp thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và cấp trên tại cơ sở. Do đó có thể khẳng định, cấp cơ sở có vị trí đặc biệt quan trọng không chỉ trong cơ cấu tổ chức quyền lực nhà nước mà còn là yếu tố chi phối mạnh mẽ đến đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của cộng đồng dân cư cùng toàn thể địa bàn; dân chủ ở cơ sở được ví như “chiếc cầu nối” giữa dân với Đảng; giữa trung ương với chính quyền địa phương. Từ quá trình triển khai trong thực tiễn, quần chúng phát hiện ra những hạn chế, bất cập trong chủ trương, đường lối, chính sách và pháp luật của Đảng, Nhà nước, nhân dân sẽ phản ánh, kiến nghị đến cấp ủy và chính quyền cơ sở đề xuất, kiến nghị đến Đảng, Nhà nước và cấp trên thực hiện điều chỉnh kịp thời.

Thực hiện dân chủ ở cơ sở là phương thức phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, để công dân, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động được thông tin, thể hiện ý chí, nguyện vọng, chính kiến của mình thông qua việc thảo luận, tham gia ý kiến, quyết định và kiểm tra, giám sát các vấn đề ở cơ sở theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, quan điểm xuyên suốt của Đảng ta là: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”. Đại hội VI của Đảng mở đầu công cuộc đổi mới đã đề ra phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” và đúc kết bài học kinh nghiệm: Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Tinh thần đó xuyên suốt các kì Đại hội tiếp theo của Đảng ta.

Đại hội XIII của Đảng tiếp tục kế thừa phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát” song nhấn mạnh và bổ sung thêm yếu tố “dân thụ hưởng” - nghĩa là dân làm thì dân phải được thụ hưởng, nếu làm mà không được thụ hưởng thì không tạo động lực để dân làm. Động lực chính là lợi ích; lợi ích phải hài hòa giữa lợi ích của người dân, doanh nghiệp và Nhà nước với phương châm tổng quát và tạo thành một “vòng tròn khép kín”, đó là: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

Ngày 18-2-1998, Bộ Chính trị (khóa VIII) ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW, “Về xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở” - coi đây là một khâu quan trọng và cấp bách để phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở - nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, nơi thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất. Đặc biệt, ngày 10-11-2022, tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XV đã thông qua Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở. Với 6 chương, 91 điều, Luật đã thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 vào cuộc sống, khẳng định trên thực tế quyền con người, quyền công dân, chủ quyền của nhân dân theo nguyên tắc hiến định: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân”.

Đây là đạo luật cụ thể hóa phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng. Cụ thể là, những nội dung công khai để dân biết (đó là các quy định liên quan đến nội dung và hình thức công khai thông tin để dân biết ở tất cả các loại hình cơ sở theo hướng cập nhật, bổ sung các quy định tương ứng trong các luật chuyên ngành có liên quan); những nội dung dân bàn và quyết định (tại thôn, tổ dân phố; tại cơ quan, đơn vị và tại tổ chức có sử dụng lao động); những nội dung dân tham gia ý kiến (các quy định liên quan đến nội dung và hình thức nhân dân tham gia ý kiến ở tất cả các loại hình cơ sở phù hợp với các luật chuyên ngành có liên quan); những nội dung dân kiểm tra, giám sát (để phát huy được sự tham gia và vai trò của từng người dân trong việc kiểm tra, giám sát đối với cán bộ, công chức và cơ quan công quyền, phát hiện, đấu tranh với các hành vi tham nhũng, tiêu cực, phát huy dân chủ, tăng tính phản biện và sức sáng tạo của nhân dân trong việc thực hiện dân chủ ở cơ sở) và những nội dung dân thụ hưởng (người dân được nhà nước và pháp luật công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, các quyền về thực hiện dân chủ ở cơ sở theo quy định của Luật và quy định khác của pháp luật có liên quan; được thông tin đầy đủ về các quyền và lợi ích hợp pháp, chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội theo quy định của pháp luật và của chính quyền địa phương mà mình được hưởng; được thụ hưởng thành quả đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội, chế độ an sinh xã hội và sự an toàn, ổn định của đất nước, của địa phương và ở cộng đồng dân cư nơi sinh sống; thành quả đổi mới, phát triển của cơ quan, đơn vị, tổ chức có sử dụng lao động nơi làm việc; được tạo điều kiện để tham gia học tập, công tác, lao động, sản xuất, kinh doanh, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của bản thân, gia đình và cộng đồng).

Với đạo luật này, thực hiện dân chủ ở cơ sở không còn là khẩu hiệu chung chung mà đã trở thành quy phạm pháp luật quy định cụ thể về quyền của người dân, nhân dân đã có công cụ pháp lý vững chắc để thực hiện quyền làm chủ của mình. Người dân được biết, được bàn, được giải phóng sức sản xuất và sáng tạo, được kiểm tra, giám sát, tài chính công khai, minh bạch hơn, từ đó nhân dân có điều kiện thực tế để thụ hưởng những thành tựu mà dân chủ mang lại.

 “Lá chắn thép” bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, bảo vệ bản chất tốt đẹp của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tới năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, việc Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở được ban hành và thực hiện trên thực tế là rất thiết thực, thể chế hóa quan điểm của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, hiện thực hóa ý nguyện, tâm tư của người dân về quyền làm chủ của nhân dân. Với mục tiêu, quan điểm và những quy định mới trong thực hiện dân chủ ở cơ sở, chúng ta không cho phép bất cứ thế lực nào phủ nhận, xuyên tạc, hạ thấp giá trị của Luật này.

Thực tế những gì đang diễn ra tại Việt Nam đang khẳng định bầu không khí dân chủ trong Đảng, trong xã hội mở rộng hơn. Dân chủ trực tiếp ở cơ sở được mở rộng, nhân dân được bàn và quyết định những công việc quan trọng, thiết thực, gắn liền với lợi ích của mình; quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân được bảo vệ.

Cử tri phát biểu ý kiến, kiến nghị tại buổi tiếp xúc cử tri Đoàn ĐBQH khóa XV tỉnh Lâm Đồng vào ngày 25-4. Ảnh: Lâm Đồng online 
Cử tri phát biểu ý kiến, kiến nghị tại buổi tiếp xúc cử tri Đoàn ĐBQH khóa XV tỉnh Lâm Đồng vào ngày 25-4. Ảnh: Lâm Đồng online 

Tuy nhiên, dân chủ ở cơ sở vẫn còn tồn tại những hạn chế, yếu kém như: “Có nơi vẫn còn tình trạng dân chủ hình thức, ý kiến của nhân dân chưa thực sự được lắng nghe; quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm. Vẫn còn tình trạng lợi dụng dân chủ, gây mất an ninh, trật tự, gây mất đoàn kết, chia rẽ nội bộ. Tệ quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân nhiều nơi chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở chưa đồng đều ở các khu vực, loại hình cơ sở”, như Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đã chỉ rõ.

Vậy chúng ta cần phải làm gì để tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện dân chủ ở cơ sở ở nước ta hiện nay?

Trước hết, các cơ quan chức năng cần sớm ban hành ngay văn bản hướng dẫn thi hành Luật Thực hành dân chủ cơ sở năm 2022 để Luật nhanh chóng được triển khai trong thực tiễn, bảo đảm cho nhân dân thực hiện các quyền dân chủ ở cơ sở. Ngày 01-7-2023, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở năm 2022 bắt đầu có hiệu lực, do đó, việc các cơ quan chức năng cần sớm ban hành ngay văn bản hướng dẫn thực hiện Luật là giải pháp “tối ưu” trước nhất để Luật sớm được thực thi trong thực tiễn, theo đúng tinh thần pháp luật vì con người, bảo đảm đầy đủ các quyền và lợi ích hợp pháp của con người, công dân trong đó có các quyền thực hiện dân chủ ở cơ sở.

Tiếp đó, thực hiện đồng độ các biện pháp phát huy dân chủ ở cơ sở gắn liền với tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ lớn trong đó có “mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội” là nội dung quan trọng được Ðại hội XIII của Đảng khẳng định trong định hướng phát triển đất nước đến năm 2030; theo đó, dân chủ phải gắn liền với tăng cường pháp chế và đi đôi với bảo đảm kỷ cương xã hội, chống vi phạm pháp luật; ngăn chặn những hành vi gây rối, phá hoại cuộc sống bình yên của nhân dân,...

Mỗi cán bộ, công chức, viên chức nhà nước; lực lượng vũ trang và toàn thể nhân dân cần nhận thức đúng về các quyền dân chủ và khi thực thi các quyền dân chủ cần phải hiểu rằng: dân chủ luôn đi đôi với kỷ cương, kỷ luật, chống vi phạm pháp luật; dân chủ luôn gắn với pháp chế, trật tự xã hội, tuân phủ pháp luật; có như vậy, các quy định của Luật thực hiện dân chủ ở cơ sở mới thực sự  là “lá chắn thép” để bảo vệ các quyền dân chủ cho nhân dân, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời bảo đảm cho nhân dân được thực hiện đầy đủ các quyền dân chủ của mình, ngăn chặn các hành vi vi phạm dân chủ từ bất kỳ lực lượng nào, tổ chức nào, cá nhân nào.

Đối với các cơ quan, đơn vị, cần nâng cao hiệu quả hoạt động của chế độ thực hành dân chủ nhằm phát huy quyền làm chủ của cán bộ, công chức, viên chức và nâng cao vai trò của người đứng đầu cơ quan, đơn vị; bồi dưỡng và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở, trực tiếp là cấp xã, phường, thị trấn để họ thực sự là “công bộc của nhân dân”, làm việc vì lợi ích của nhân dân, góp phần tạo dựng niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Tăng cường công tác kiểm tra, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc ở cơ quan; tăng cường công tác giáo dục rèn luyện, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạnh của cán bộ, đảng viên; thực hiện nghiêm Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Mỗi cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan, đơn vị phải luôn nhận thức rằng việc thực hiện dân chủ ở cơ sở là một nội dung công tác thường xuyên, có ý nghĩa quan trọng trong việc phát huy quyền làm chủ của mình; góp phần đẩy lùi tình trạng quan liêu, cửa quyền trong bộ máy quản lý của cơ quan, đơn vị nhằm xây dựng cơ sở Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh và thực hiện tốt cải cách hành chính.

 Đồng thời, tiếp tục tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân không ngừng nâng cao nhận thức về dân chủ và thực hành dân chủ ở cơ sở; chủ động trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch chống phá nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân. Làm cho người dân thấy rõ rằng, chỉ khi nào người dân biết sử dụng và phát huy các quyền dân chủ thì lợi ích của Nhà nước, cộng đồng, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân mới được bảo đảm.

Thượng tá, ThS NGUYỄN THỊ ĐẮC HƯƠNG - Chủ nhiệm bộ môn Luật học- Khoa Nhà nước và Pháp luật – Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng.

Vấn đề tự do báo chí và thủ đoạn “nội công, ngoại kích”

Thứ Hai, 15/05/2023, 05:40

Vừa qua, tổ chức Phóng viên không biên giới (tiếng Pháp: Reporters sans frontières, viết tắt là RSF) – một trong những tổ chức phi chính phủ luôn có cái nhìn định kiến đối với Việt Nam – đã đưa ra báo cáo “Chỉ số tự do báo chí thế giới”.

Như thường lệ, RSF tiếp tục có những nhận định sai trái, vô căn cứ về tình hình báo chí tại Việt Nam, cho rằng ở Việt Nam không có tự do báo chí, người dân không được thực hiện quyền tự do ngôn luận…

Mưu đồ chống phá

Khi bàn về đấu tranh tư tưởng, nguyên Tổng thống Mỹ Richard Nixon đã tuyên bố: “Mặt trận tư tưởng là mặt trận quyết định nhất”, “toàn bộ vũ khí của Mỹ, các hoạt động mậu dịch, viện trợ, quan hệ kinh tế sẽ không đi đến đâu nếu chúng ta thất bại trên mặt trận tư tưởng”.

Một số nhà tư tưởng của các nước phương Tây cũng nhận định: “Một đài phát thanh cũng có thể bình định xong một đất nước”, “một đô la chi cho tuyên truyền có tác dụng ngang với 5 đô la chi cho quốc phòng”… Chính bởi vậy, các thế lực thù địch đã tìm cách lợi dụng vỏ bọc “dân chủ”, “nhân quyền” để tạo cớ tấn công, chống phá mặt trận tư tưởng của ta. Hiện nay, ngoài các cơ quan báo, đài đang duy trì hoạt động, các tổ chức, cá nhân thù địch còn lập ra hàng ngàn trang web để lan truyền những thông tin sai trái, độc hại.

Thông qua vỏ bọc tự do ngôn luận, tự do báo chí, các thế lực xấu đang triệt để sử dụng chiêu trò “nội công, ngoại kích”. Một mặt, chúng tuyển lựa, đào tạo, hỗ trợ các “con buôn dân chủ” trong nước tiến hành những hoạt động công kích Đảng, Nhà nước, các cơ quan chính quyền dưới vỏ bọc “nhà báo tự do”, “phóng viên tự do”.

Mặt khác, các thế lực bên ngoài thường xuyên rêu rao về tính tuyệt đối của quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, kích động các giá trị dân chủ quá đà “nhân quyền cao hơn chủ quyền” và đồng thời gây sức ép, đưa ra các bản báo cáo, phúc trình, xếp hạng có nội dung sai sự thật về tình hình tự do báo chí tại Việt Nam; vu khống Đảng, Nhà nước Việt Nam “đàn áp” báo chí, cho rằng Việt Nam không có tự do báo chí, không có tự do ngôn luận!

Việc xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền của Việt Nam nói chung và việc thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận nói riêng không phải là mới. Đây là kịch bản cũ thường xuyên được các cá nhân, tổ chức chống đối thực hiện. Thông qua việc vu cáo Việt Nam không có tự do ngôn luận, tự do báo chí, các thế lực thù địch đã tìm cách hòng thò tay can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Thực chất, đây là một thủ đoạn trong cuộc chiến trên mặt trận tư tưởng mà các thế lực thù địch triệt để lợi dụng, nhất là trong bối cảnh bùng nổ thông tin như hiện nay.

Thực tiễn sinh động phản bác các quan điểm sai trái, thù địch

Tại Việt Nam, báo chí là phương tiện thông tin thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; là diễn đàn của nhân dân. Đảng, Nhà nước ta luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi để quyền tự do báo chí được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, các đối tượng xấu lại luôn lợi dụng chống phá, đưa ra những thông tin sai trái, vu khống Việt Nam không có tự do báo chí, tự do ngôn luận.

Vấn đề tự do báo chí và thủ đoạn “nội công, ngoại kích” -0
Báo chí trong nước và quốc tế tác nghiệp tại Hội nghị thượng đỉnh Mỹ Triều tổ chức tại Hà Nội. (Ảnh minh họa )

Quan điểm xuyên suốt và nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam là tôn trọng và bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của công dân. Điều 25, Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”.

Để thúc đẩy sự phát triển của báo chí và bảo đảm quyền tự do ngôn luận của người dân, Đại hội XIII của Đảng đề ra chủ trương “xây dựng nền báo chí, truyền thông chuyên nghiệp, nhân văn và hiện đại”. Hiện nay, các cơ quan chức năng đang tích cực thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025 và Chiến lược chuyển đổi số báo chí đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Việc đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cho lĩnh vực báo chí được quan tâm đầu tư.

Đồng thời, Nhà nước đã có chính sách đặt hàng báo chí phục vụ nhiệm vụ chính trị, an ninh, quốc phòng, thông tin đối ngoại, phục vụ thiếu niên, nhi đồng, người khiếm thính, khiếm thị, đồng bào vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo và các nhiệm vụ trọng yếu khác.

Số liệu thống kê đến cuối năm 2022 cho thấy, nước ta có 127 cơ quan báo, 670 cơ quan tạp chí (trong đó có 327 tạp chí lý luận chính trị, khoa học và 72 tạp chí văn học nghệ thuật); 72 cơ quan đài phát thanh, truyền hình. Số người đang làm việc trong lĩnh vực báo chí là 41.000 người, với 19.356 cán bộ đã được cấp thẻ nhà báo.

Cùng với các cơ quan báo chí trong nước, nhiều hãng truyền thông, thông tấn quốc tế đã có mặt tại Việt Nam như CNN, Reuters, AP, AFP, Kyodo, Hãng thông tấn Asia (Hàn Quốc), Nhật báo kinh tế Aju (Hàn Quốc) và Rossiya Segodnya (Nga)... Với lực lượng làm báo hùng hậu như trên, đời sống báo chí ở Việt Nam đã diễn ra hết sức nhộn nhịp, phản ánh mọi mặt của đời sống xã hội. Đây là nền tảng quan trọng để bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí cho mỗi người dân.

Theo quy định của pháp luật nước ta, công dân có quyền sáng tạo tác phẩm báo chí; cung cấp thông tin cho báo chí; phản hồi thông tin trên báo chí; tiếp cận thông tin báo chí; liên kết với cơ quan báo chí thực hiện sản phẩm báo chí; phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các tổ chức, cá nhân khác…

Với những quy định này, mọi người dân đều dễ dàng tham gia vào hoạt động báo chí, trở thành một nhà báo tự do tìm kiếm, phát hiện đề tài và đưa ra sản phẩm báo chí, đảm bảo quyền tự do hoạt động theo quy định của Luật Báo chí và các luật liên quan. Trong thời gian qua, báo chí đã có những đóng góp vô cùng quan trọng trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là trong công tác phòng chống tham nhũng, nhiều vụ việc tiêu cực, vi phạm đã được báo chí phản ánh và đưa ra ánh sáng, góp phần làm trong sạch bộ máy.

Tự do ngôn luận, tự do báo chí chân chính chỉ có thể tồn tại trong một quốc gia có chủ quyền, không bị lệ thuộc vào bất kỳ thế lực nào. Bởi vậy, đi liền với việc thực hiện các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, mỗi người dân cũng phải chấp hành nghiêm các quy định về nghĩa vụ của công dân để bảo đảm lợi ích của quốc gia, dân tộc.

Mọi hành vi lạm dụng, lợi dụng quyền tự do báo chí, tự do ngôn để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân đều bị nghiêm cấm và có chế tài nghiêm khắc. Không chỉ riêng tại Việt Nam, ở tất cả các quốc gia khác trên thế giới đều quy định tương tự.

Đơn cử, Tuyên ngôn về Nhân quyền và Dân quyền Pháp năm 1789 ghi nhận: “Bất kỳ công dân nào cũng có thể nói, viết và công bố tự do; tuy nhiên, họ sẽ phải chịu trách nhiệm nếu lạm dụng quyền tự do này theo quy định của pháp luật”. Hay như Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966) cũng quy định mọi người có quyền tự do ngôn luận nhưng việc thực hiện quyền này phải kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt để tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức của xã hội.

Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam luôn được tôn trọng và bảo đảm theo đúng quy định của pháp luật. Việc đưa ra bảng xếp hạng từ những con số, dữ liệu sai lệch rồi cho rằng Việt Nam không có tự do ngôn luận, tự do báo chí là những luận điệu xuyên tạc, đi ngược lại lợi ích của Việt Nam và cách làm sai trái đó khiến bức tranh tự do báo chí trên thế giới nói chung bị bóp méo, biến dạng.

Anh Tú

Bảo đảm quyền của người lao động để thúc đẩy quá trình hội nhập

Thứ hai, 15/05/2023 - 07:02

Quyền của người lao động, trong đó có các quyền như thành lập tổ chức tại doanh nghiệp, thương lượng tập thể và không bị cưỡng bức lao động, là một bộ phận của hệ thống quyền con người mà Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm và thực hiện thông qua các chủ trương, chính sách lớn.

Tuy nhiên, đây cũng là vấn đề mà các thế lực thiếu thiện chí, thù địch hay lợi dụng để bịa đặt, bôi xấu Việt Nam.

Thời gian gần đây, một số cá nhân và tổ chức phương Tây liên tục có các hoạt động vu cáo, xuyên tạc tình hình nhân quyền ở Việt Nam. Họ cáo buộc Việt Nam hạn chế quyền tự do lập hội và thương lượng tập thể của người lao động tại các doanh nghiệp; vu cáo Việt Nam không thực hiện các nghĩa vụ đã cam kết trong các hiệp định thương mại quốc tế như Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-EU (EVFTA), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), vi phạm các công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO).

Đơn cử, một số cá nhân thiếu thiện chí với Việt Nam xuyên tạc rằng Bộ luật Lao động Việt Nam có nội dung vi phạm quyền thành lập tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp. Không dựa trên cơ sở nào, không đưa ra bằng chứng cụ thể nào, các cá nhân này hết khẳng định Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam hoàn toàn không phải là một tổ chức độc lập để bảo vệ quyền lợi của người lao động, lại bịa ra rằng Việt Nam cưỡng bách lao động tù nhân, sử dụng lao động trẻ em.

Cũng với giọng điệu xuyên tạc, có tổ chức đã chỉ trích Bộ luật Lao động Việt Nam không tuân thủ các nghĩa vụ trong CPTPP liên quan đến quyền tự do lập hội và thương lượng tập thể. Một số cá nhân và tổ chức phương Tây thì dựng chuyện Việt Nam bỏ tù một số nhân vật mà họ cho là thuộc tổ chức xã hội dân sự độc lập vì đã nộp đơn tham gia nhóm tư vấn giám sát việc thực thi Hiệp định EVFTA theo quy định của hiệp định này.

Liên đoàn Lao động phối hợp Tỉnh đoàn Bình Dương trao quà hỗ trợ đến công nhân. Ảnh minh họa/ qdnd.vn
Liên đoàn Lao động phối hợp Tỉnh đoàn Bình Dương trao quà hỗ trợ đến công nhân. Ảnh minh họa/ qdnd.vn

Đây hoàn toàn là những điều bịa đặt, những cáo buộc phi lý bởi nó không phản ánh thực tế khách quan, phủ nhận những nỗ lực vì con người của Việt Nam. Vấn đề quyền con người ở Việt Nam luôn được ghi nhận trong các bản Hiến pháp từ năm 1946 đến nay. Con người, trong đó có giai cấp công nhân và người lao động, được xác định là trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu và động lực phát triển. Trong hơn 30 năm kể từ thời điểm tái gia nhập ILO (năm 1992), Việt Nam luôn thể hiện nỗ lực cam kết và thực hiện các công ước quốc tế nói chung, các công ước quốc tế về quan hệ lao động nói riêng, nhằm thúc đẩy và bảo đảm tiêu chuẩn lao động cơ bản cho người lao động ở Việt Nam theo đúng các chuẩn mực quốc tế về quyền của người lao động.

Cho đến nay, Việt Nam đã tham gia 25 công ước của ILO, trong đó có 7/8 công ước cơ bản. Chỉ riêng trong năm 2019, Việt Nam đã phê chuẩn 3 công ước của ILO, bao gồm Công ước 88 về tổ chức dịch vụ việc làm, Công ước 159 về tái thích ứng việc làm cho người khuyết tật, Công ước 98 về quyền thương lượng tập thể. Đặc biệt, Bộ luật Lao động năm 2019 (có hiệu lực từ ngày 1-1-2021) thể hiện nhiều ưu việt trong việc cụ thể hóa các quy định của công ước quốc tế về lao động. Các nội dung quan trọng nhất của cả 8 công ước cơ bản của ILO đều đã được phản ánh trong các quy định của bộ luật này. Trong đó có Công ước 98 là công ước cốt lõi, bản lề của ILO trong khuôn khổ các nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động, trở thành một cấu phần quan trọng của các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP và EVFTA, cũng như trong phần lớn chính sách về trách nhiệm xã hội doanh nghiệp của các công ty đa quốc gia.

Đặc biệt, kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, Việt Nam ngày càng nhận thức rõ hơn tính tất yếu của việc cho phép thành lập tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp để đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế, cụ thể là tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và kèm theo đó là việc cam kết tuân thủ các tiêu chuẩn chung, trong đó có vấn đề quyền của người lao động, nhất là quyền tự do liên kết, quyền tự do lập hội. Ngay từ Hội nghị Trung ương 4, khóa XII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: “Bảo đảm sự ra đời, hoạt động của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp phù hợp với quá trình hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, kiện toàn các công cụ, biện pháp quản lý nhằm tạo điều kiện để tổ chức này hoạt động thuận lợi, lành mạnh theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam, phù hợp với các nguyên tắc của Tổ chức Lao động quốc tế, đồng thời giữ vững ổn định chính trị-xã hội”. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng sau khi định hướng một số nhiệm vụ lớn xây dựng giai cấp công nhân và phát triển tổ chức công đoàn đã khẳng định: “Định hướng, quản lý tốt sự ra đời, hoạt động của các tổ chức của công nhân tại doanh nghiệp ngoài tổ chức công đoàn hiện nay”.

 Những định hướng trên phản ánh quá trình nhận thức của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong vấn đề bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực lao động. Trên cơ sở đó, Bộ luật Lao động lần đầu tiên quy định cho phép người lao động được thành lập tổ chức đại diện cho mình tại doanh nghiệp, ngoài Công đoàn Việt Nam, gọi là tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp. Đây là một tổ chức mới, độc lập với Công đoàn Việt Nam, được xác lập trên cơ sở mở rộng quyền lựa chọn cho người lao động. Theo quy định của Bộ luật Lao động, công đoàn và tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong việc đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động trong quan hệ lao động. Điểm mới này có thể coi là bước tiến về công nhận quyền của người lao động tại cơ sở trong quá trình cử đại diện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của họ, bác bỏ hoàn toàn những luận điệu xuyên tạc rằng Bộ luật Lao động Việt Nam vi phạm quyền thành lập tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp.

Theo chức năng quy định, Công đoàn Việt Nam tiếp tục đóng vai trò là tổ chức chính trị-xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động, đại diện cho người lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế-xã hội; tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động; tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong khi đó, tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp được xác định là tổ chức xã hội/nghề nghiệp, làm chức năng đại diện bảo vệ quyền hợp pháp, lợi ích chính đáng của người lao động trong phạm vi quan hệ lao động.

Một bước tiến nữa trong việc bảo đảm quyền con người trong lĩnh vực lao động là việc Việt Nam phê chuẩn Công ước 105 của ILO về xóa bỏ lao động cưỡng bức vào tháng 6-2020. Trong bối cảnh vấn đề lao động cưỡng bức trên thế giới được ILO cảnh báo là “khẩn cấp”, nỗ lực này của Việt Nam đã được thế giới ghi nhận và đánh giá tích cực. Bà Corrine Vargha, Trưởng ban Tiêu chuẩn Lao động quốc tế của ILO cho rằng với việc phê chuẩn này, Việt Nam chứng tỏ cam kết mạnh mẽ trong công cuộc đấu tranh chống lại lao động cưỡng bức dưới mọi hình thức. Còn ông Chang-Hee Lee, Giám đốc ILO Việt Nam thì khẳng định: “Đây là minh chứng cho thấy Chính phủ và các đối tác xã hội của Việt Nam đã và đang nỗ lực hết sức mình để có một khung khổ pháp lý tốt hơn nhằm mở đường cho Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình cao một cách bền vững”.

Liên quan đến một số nhân vật như Mai Phan Lợi, Đặng Đình Bách mà các thế lực chống đối cho là bị Việt Nam bỏ tù vì đã nộp đơn tham gia nhóm tư vấn giám sát việc thực thi Hiệp định EVFTA, đây thực chất là những người vi phạm pháp luật và đã bị tòa án xét xử công khai. Tháng 1-2022, Tòa án Nhân dân TP Hà Nội đã tuyên án sơ thẩm bị cáo Mai Phan Lợi, Chủ tịch Hội đồng khoa học Trung tâm Truyền thông giáo dục cộng đồng (MEC) 4 năm tù vì trốn thuế gần 2 tỷ đồng. Do đã nộp tiền khắc phục hậu quả, hoàn cảnh gia đình khó khăn, bản thân bị cáo đang bị bệnh, Mai Phan Lợi sau đó đã được Tòa án Nhân dân Cấp cao tại Hà Nội giảm án xuống 45 tháng, thể hiện sự khoan hồng của pháp luật. Còn bị cáo Đặng Đình Bách, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu pháp luật và chính sách phát triển bền vững, thì bị Tòa án Nhân dân Cấp cao tại Hà Nội tuyên phạt y án sơ thẩm 5 năm tù về tội trốn thuế với tổng số tiền hơn 1,38 tỷ đồng. Tất cả thông tin này đều được báo chí đăng tải rộng rãi, nội dung rõ ràng chứ không phải như những điều bịa đặt mà các thế lực chống đối rêu rao.

Những nỗ lực chủ động và tích cực của Việt Nam vì người lao động đã củng cố uy tín của đất nước trên trường quốc tế, tạo thuận lợi cho quá trình hội nhập quốc tế và tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển và hướng đến một xã hội công bằng, nơi các lợi ích của quá trình hội nhập và phát triển được chia sẻ một cách công bằng cho người lao động, những người trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội.

TƯỜNG LINH