LỢI DỤNG FACEBOOK – MỘT TRÒ HÁI TIẾN CỦA RẬN CHỦ

Phụ Nữ News: LỢI DỤNG FACEBOOK – MỘT TRÒ HÁI TIẾN CỦA RẬN CHỦ: Hiện nay, mạng xã hội facebook đang được giới trẻ rất ưa dùng và đang trở nên khá phổ biến trong thế giới ảo. Đây cũng là môi trường để ch...

Quản lý "xã hội ảo" trên Internet: Khó cũng phải làm

Internet là một "thế giới ảo" nhưng lại tác động không nhỏ vào đời sống thật. Bước vào thế giới này, người ta không phải xuất trình… hộ chiếu hay visa. Chẳng ai biết ai là ai nên từ đó đã nảy sinh những vấn đề phức tạp, rắc rối không chỉ trong đời sống xã hội, mà còn tác động đến cả lĩnh vực an ninh quốc gia. Do vậy, việc quản lý "xã hội ảo" trên Internet là việc làm cần thiết, dù khó đến mấy cũng phải thực hiện bằng được. 
Thông tin trên Internet cần được quản lý chặt chẽ, phù hợp với quy định của pháp luật. Ảnh: N.Đ. Hùng

Nhiều vấn đề đáng lo
Những năm qua, công nghệ Internet ở nước ta đã có những bước phát triển nhảy vọt. Theo một thống kê, Việt Nam hiện đứng trong top 20 quốc gia có người sử dụng Internet nhiều nhất trên thế giới, trong đó, chủ yếu lớp trẻ, tuổi đời từ 15-25 chiếm khoảng 42%, từ 25-34 khoảng 32%. Trong bối cảnh các thế lực phản động đã và đang xây dựng, duy trì rất nhiều các trang thông tin trên mạng Internet có nội dung khiêu khích, lôi kéo, kích động, chống phá Nhà nước ta, thì những con số trên cho thấy, có nhiều điều đáng lo bởi, bên cạnh mặt tích cực của "tấm huy chương Internet", mặt trái của nó còn chứa đựng rất nhiều vấn đề gây phương hại cho an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Trong thời gian gần đây, không chỉ các tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài lợi dụng Internet để chống đối, phá hoại Nhà nước, Chính phủ Việt Nam, mà các phần tử bất mãn, chống đối trong nước cũng lợi dụng công cụ này để hoạt động. Chúng thường lợi dụng quyền tự do ngôn luận, quyền tự do báo chí để thu thập, đăng tải những thông tin "đen" dựng chuyện, bịa đặt, xuyên tạc để vu cáo Đảng, Nhà nước Việt Nam.
Với sự đồng lõa, tiếp tay của các tổ chức, cơ quan truyền thông nước ngoài thiếu thiện chí với Việt Nam, các trang thông tin phản động do các đối tượng trong nước duy trì trái phép tràn ngập các tin, bài kích động sự hằn thù dân tộc, vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền và tự do tín ngưỡng. Đặc biệt, chúng triệt để lợi dụng các tệ nạn xã hội, nhất là nạn tham nhũng, suy thoái đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên, để khai thác, khoét sâu, thổi phồng lên nhằm chống phá, bôi đen chế độ ta. Sự thù địch lộ rõ ở các trang web phản động này là cố tình bỏ qua những thành tựu to lớn cả về chính trị và kinh tế của những năm đổi mới ở Việt Nam, chuyển tải những thông tin xuyên tạc, gây hoài nghi trong nhân dân.
Thủ đoạn "câu view" của các trang web "đen" rất đa dạng và tinh vi, ví dụ như được thiết kế với hình thức bắt mắt, đăng tải nhiều hình thức thông tin theo kiểu "quý hiếm" để lôi kéo người dân trong nước truy cập vào, rồi sau đó cài vào các thông tin phản động. Đôi khi, các thông tin đánh lạc hướng là những thông tin rất có giá trị như các tin tức kinh tế, thương mại, các tài liệu tra cứu, sách vở... trong kho tàng tri thức chung nhằm làm cho người đọc mất cảnh giác khi đến với các nội dung độc hại. Mục đích lớn nhất của những người sở hữu và duy trì các trang web "đen" là bóp méo, xuyên tạc dẫn đến làm sai lệch cách nhìn nhận của cộng đồng quốc tế cũng như dư luận xã hội trong nước về Đảng, Nhà nước và xã hội Việt Nam.
Một vấn đề hết sức nghiêm trọng là hiện nay, người sử dụng Internet có thể truy cập tất cả các nguồn thông tin trên mạng một cách dễ dàng, trong đó có cả thông tin độc hại. Trong khi đó, các cơ quan quản lý Nhà nước chưa có biện pháp ngăn chặn triệt để hiện tượng này. Từ những kẽ hở đó, đã có nhiều đối tượng, tổ chức lợi dụng Internet để hoạt động tuyên truyền chống phá Đảng và Nhà nước ta, gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia trong thời gian qua mà điển hình là Tạ Phong Tần, Nguyễn Văn Hải (Điếu Cày), Nguyễn Hữu Vinh (Anh Ba Sàm)... về các hội, nhóm thì có cái gọi là  "Hội Nhà báo độc lập", "Văn đoàn độc lập Việt Nam"...
Cần tăng sức đề kháng
Theo một báo cáo khảo sát của Trung tâm nghiên cứu dư luận xã hội, thì có tới 33% đối tượng cán bộ, 45% đối tượng nhân dân được hỏi cho rằng, các thông tin xuyên tạc, vu cáo, bịa đặt, nói xấu Đảng, chế độ, bôi nhọ lãnh đạo của các thế lực thù địch đã tác động không nhỏ dẫn đến sự phai nhạt lý tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa trong xã hội ta. Như vậy, rõ ràng, việc nhận diện các trang web phản động độc hại, để đấu tranh ngăn chặn là một đòi hỏi rất bức xúc của dư luận.
Tuy nhiên, với ưu thế của kỹ thuật hiện đại, thông tin trên các trang web độc hại dễ dàng xâm nhập, lan truyền với tốc độ nhanh trên mạng internet khiến công tác quản lý của các cơ quan chức năng gặp nhiều khó khăn, bởi sự phát triển của công nghệ thông tin luôn tìm cách vượt qua sự kiểm soát, biến đổi tinh vi và khôn lường. Song, không thể vì khó mà chúng ta "buông tay", trái lại, cần phải tích cực vào cuộc để đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Đặc biệt, khi các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng văn hóa, công nghệ thông tin, văn học nghệ thuật để tiến hành âm mưu "Diễn biến hòa bình" nhằm phá hoại tư tưởng, văn hóa, cần nhanh chóng hoàn thiện môi trường pháp lý, rà soát lại các văn bản qui phạm pháp luật hiện hành, bổ sung và sửa đổi nhằm tăng cường hiệu quả, hiệu lực của công tác thực thi pháp luật trong lĩnh vực an ninh mạng, quản lý thông tin trên Internet.
Bên cạnh đó, các bộ, ngành chức năng cần tăng cường công tác phối hợp trong quản lý thông tin trên Internet, bảo đảm an ninh mạng, trong đó, công tác tuyên truyền, giáo dục phải được xác định là khâu then chốt, giúp người dân phân biệt, chọn lọc các sản phẩm văn hóa có lợi, nâng cao nhận thức và cách ứng xử trước những thông tin độc hại. Trong giáo dục, cần chú ý bồi dưỡng giá trị thẩm mỹ, những giá trị văn hóa tốt đẹp truyền thống, lòng yêu nước và sâu xa hơn là cuộc đấu tranh tạo sức đề kháng bảo vệ nền văn hóa dân tộc.
Cùng với những mặt công tác trên, biện pháp quan trọng để tăng tính hiệu quả trong phòng chống các hoạt động "Diễn biến hoàn bình" của các thế lực thù địch thông qua mạng Internet là cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc giáo dục, tăng cường tính tự giác, cảnh giác của người sử dụng, chủ động đưa thông tin của Việt Nam lên mạng Internet để góp phần tuyên truyền đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Chính những thông tin chính thống này sẽ đánh bại sự xuyên tạc, gây hiểu nhầm về chính sách của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời, có tác dụng làm suy yếu những thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá Việt Nam thông qua "Diễn biến hòa bình"... 
Nguyễn Đình Hùng

Câu chuyện khó tin

QĐND - Mới đây trên một trang web có tên “Hãy bảo vệ người bảo vệ nhân quyền” (riêng cái tên của trang web này sẽ có dịp chúng tôi bàn sau) có đăng bài nói chuyện giữa một blogger với một bà dân biểu Hoa Kỳ tên là Zoe Lofgren. Câu chuyện đại loại xoay quanh vấn đề “dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam” và đòi thả các phạm nhân mà họ gọi là “tù nhân lương tâm”. Thú thật khi đọc bài viết này, tôi không tin lắm vào nội dung của cuộc nói chuyện giữa hai người. Bởi với một số người tự nhận là “nhà đấu tranh cho dân chủ” đang ngồi tận… Hoa Kỳ thì họ có thể vẽ ra những gì mà họ tưởng tượng và cũng không ai có thể kiểm chứng. Điều này họ đã làm và làm thường xuyên. Thế nhưng cứ coi như câu chuyện trên là có thật thì cũng có thể bàn một số vấn đề sau.
Thứ nhất là ở Việt Nam, không có cái gọi là “tù nhân lương tâm” để bà dân biểu Hoa Kỳ phải sốt sắng quan tâm đến thế. Ở Việt Nam chỉ có các phạm nhân vi phạm pháp luật và được tòa án phân xử công minh, đúng người, đúng tội. Còn những người mượn cớ “đấu tranh cho dân chủ” để chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, hòng làm rối loạn đất nước để “đục nước béo cò” thì dù kẻ đó là ai cũng không thể tha thứ được. Một đất nước muốn ổn định và phát triển thì phải có luật pháp nghiêm minh làm rường cột. Ở Hoa Kỳ hay bất cứ đất nước nào cũng đều như thế. Thêm nữa, có lẽ ở tất cả các nước trên thế giới, thực hiện bảo đảm quyền dân chủ thực sự của con người chính là duy trì quyền dân chủ đó trong khuôn khổ của luật pháp, không có quyền dân chủ nằm ngoài luật pháp. Nếu ai đó mong muốn và đòi hỏi kiểu tự do dân chủ đứng trên luật pháp, hoặc nằm ngoài luật pháp thì xưa nay người ta gọi đó là kiểu “dân chủ quá trớn” và chưa từng thấy được chấp nhận ở đâu.
Thứ hai là tôi thấy bà Zoe Lofgren (như trong bài trao đổi của bà với blogger) là một chính khách và hiểu biết về luật pháp Hoa Kỳ. Thế nhưng trong câu chuyện của bà, tôi thấy bà nhận định, đánh giá, kết luận các vấn đề liên quan tới chính trị, ngoại giao lại rất hời hợt, tùy hứng. Khi muốn bàn về những vấn đề nghiêm túc như: Thể chế, hệ thống luật pháp của một đất nước, hệ tư tưởng của nhân loại, mối quan hệ của các quốc gia… thì phải nghiên cứu thật thấu đáo. Vậy nhưng, chỉ ngồi trao đổi chốc lát với một blogger, trong một câu chuyện gói gọn chưa đến nghìn chữ mà bà đã vội dốc hết những vốn liếng hiểu biết của mình về những phạm trù đó thì thật… hài hước.
Từ hai vấn đề trên có thể nói rằng, câu chuyện của một blogger với bà Zoe chỉ là trò cũ và thiếu nghiêm túc của những người mượn danh “đấu tranh cho dân chủ”. Những người có suy nghĩ chắc sẽ không bao giờ tin vào những câu chuyện như thế.

TRẦN THÔN

“Nền chính trị ổn định tạo cho Việt Nam có được một nền hòa bình và thịnh vượng”

QĐND - Âm mưu và sự chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam, chống phá Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam của các thế lực thù địch thông qua chiến lược “diễn biến hòa bình” suy cho cùng hòng làm cho tình hình chính trị ở Việt Nam mất ổn định. Đây là “bài học” mà các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đã dành nhiều thời gian, công sức “nghiên cứu, đúc kết” từ những cuộc xung đột chính trị xảy ra ở một số quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới những năm gần đây. Tuy nhiên, trên thực tế, không cần phải mất quá nhiều thời gian nghiên cứu, phân tích cũng đủ thấy: Sự bất ổn về chính trị xảy ra ở một số quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới thời gian qua, nguyên nhân sâu xa đều “khởi nguồn” từ việc tranh giành quyền lực chính trị; mâu thuẫn lợi ích giữa các đảng phái hoặc ngay nội bộ của đảng cầm quyền. Hậu quả việc bất ổn chính trị không chỉ là nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia mà còn gây ra rất nhiều đau thương, bất hạnh cho nhân dân, thậm chí còn dẫn đến cảnh “huynh đệ tương tàn”. Ở những quốc gia, vùng lãnh thổ không giữ được sự ổn định về chính trị thì người gánh chịu hậu quả nặng nề nhất chính là nhân dân, những người lao động trong xã hội.
Đề cập đến vài nét khái quát như trên để thấy rõ những hậu quả nặng nề, tác hại ghê gớm do sự bất ổn về chính trị gây ra đối với mỗi quốc gia, dân tộc. Nói như vậy để hiểu rõ hơn một điều là vì sao sự chống phá của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lại hướng trọng tâm vào mục tiêu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước Việt Nam, đối với xã hội Việt Nam. Chiêu thức nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam mà các thế lực thù địch, cơ hội chính trị tiến hành là tập trung thực hiện các đòn chiến tranh tâm lý, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; lợi dụng những hạn chế, yếu kém trong quản lý xã hội và những vấn đề bức xúc trong đời sống nhân dân để lôi kéo, kích động gây ra sự bất ổn ở cơ sở. Chúng tác động vào nhận thức, tư tưởng, tình cảm của một bộ phận nhân dân, với nhiều chiêu bài, như “hỗ trợ kinh phí để thực hiện việc khiếu kiện”; “hỗ trợ nhân đạo kèm theo những điều kiện bắt buộc như tham gia hội hè, tham gia tọa đàm, hội thảo...”; “kích động những người bất mãn với xã hội viết bài xuyên tạc, bôi nhọ cán bộ, công kích cấp ủy, chính quyền địa phương với mức trả thù lao rất cao”… Tóm lại, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị tập trung lợi dụng việc nhận thức hạn chế của một bộ phận nhân dân; kích động, gây bức xúc, hoặc lợi dụng sự bức xúc trong đời sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên; dùng các thủ đoạn tác động vào lợi ích trước mắt để mua chuộc lòng tham của con người, hòng đạt tới mục tiêu gây ra sự bất ổn về chính trị, gây sự hoài nghi về vị trí, vai trò, khả năng lãnh đạo xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam, từng bước hạ thấp vai trò của Đảng, phủ nhận lịch sử; tiến đến xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với xã hội, từ đó làm thay đổi chế độ chính trị, nhằm tạo ra cơ hội chính trị và lợi ích cho chính bản thân họ mà không hề mang lại lợi ích gì dù là nhỏ nhất cho tuyệt đại bộ phận các tầng lớp nhân dân trong xã hội.

Đề cập đến vị trí, vai trò của sự ổn định chính trị đối với sự phát triển của đất nước, mới đây, khi trả lời báo chí nhân dịp dự Diễn đàn Phát triển châu Á lần thứ 5 được tổ chức tại Hà Nội, Chủ tịch Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) Takehiko Nakao đã đánh giá cao sự ổn định chính trị và ổn định về kinh tế vĩ mô ở Việt Nam. Ông cho rằng đó là điều kiện, là cơ sở vững chắc để Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và tăng trưởng đồng đều. Từ những thành quả đạt được trong phát triển kinh tế mà nền tảng bắt nguồn từ sự ổn định chính trị, Chủ tịch Ngân hàng Phát triển châu Á hy vọng, Việt Nam sẽ tăng trưởng ở mức 5,6% trong năm 2014; đồng thời khuyến khích đạt mục tiêu trở lại mức tăng trưởng 7-8% trong những năm tiếp theo.
Sự phối hợp chặt chẽ của các lực lượng ở cơ sở góp phần đảm bảo an ninh-quốc phòng, giữ vững ổn định chính trị trên địa bàn Tây Nam Bộ. Ảnh minh họa. Nguồn: qdnd.vn.

Cũng đề cập đến vai trò, vị trí của sự ổn định chính trị đối với quá trình phát triển kinh tế-xã hội ở Việt Nam, trả lời phỏng vấn phóng viên Đài Tiếng nói Việt Nam, Tiến sĩ kinh tế người Pháp Philippe Delalande khẳng định: Sự ổn định chính trị là một trong những yếu tố không thể thiếu, góp phần giúp Việt Nam có thể kiên trì chính sách phát triển kinh tế. Nền chính trị ổn định tạo cho Việt Nam có được một nền hòa bình và thịnh vượng. Nếu nhìn sang một số quốc gia trong khu vực, dễ thấy rằng, trừ Xin-ga-po, thì từ năm 1990 trở lại đây, hầu hết các nước trong khu vực đều trải qua các cuộc đảo chính hay khủng hoảng chính trị. Trong khi đó, nền chính trị của Việt Nam luôn ổn định, đây là một đảm bảo cho sự gắn kết để thực hiện chính sách kinh tế nhất quán. Tiến sĩ Philippe Delalande cho rằng: Thành công của sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam cũng là dựa trên sự ổn định chính trị.
Chúng ta không phủ nhận những hạn chế, yếu kém vẫn còn tồn tại hiện nay. Những hạn chế, yếu kém cả trong phát triển kinh tế, chăm lo đời sống nhân dân; cả trong xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, xây dựng đội ngũ cán bộ đều đã được Đảng nhận rõ, thẳng thắn nêu lên. Nhận rõ những hạn chế, yếu kém trong đời sống xã hội, Đảng, Nhà nước, Quốc hội đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, giải pháp cụ thể để sửa chữa, để khắc phục. Những trường hợp cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, vi phạm pháp luật ở mọi cấp đều được điều tra, xử lý kịp thời đúng người, đúng tội mà không có trường hợp ngoại lệ. Các vụ án kinh tế phức tạp được các cơ quan chức năng đưa ra xét xử công khai, được nhân dân đồng tình, ghi nhận. Những cán bộ thoái hóa, biến chất, sách nhiễu nhân dân, lợi dụng chức vụ vun vén lợi ích cá nhân đều được cấp ủy, chính quyền các cấp xem xét có hình thức kỷ luật thích đáng. Những chủ trương, giải pháp trên cho thấy quyết tâm chính trị rất cao của cấp ủy, chính quyền các cấp; của toàn Đảng và cả hệ thống chính trị trong việc loại bỏ, từng bước hạn chế những khuyết điểm, yếu kém gây ảnh hưởng đến sự ổn định, phát triển của đời sống xã hội.
Nhận thức rõ vị trí, vai trò, tầm quan trọng việc giữ vững sự ổn định chính trị; thấy rõ những thành tựu và quyết tâm chính trị của Đảng trong xây dựng Đảng, làm trong sạch nội bộ, để từ đó từng cán bộ, đảng viên và mỗi người dân bình tĩnh, phân tích cặn kẽ, khách quan các sự việc, hiện tượng xảy ra trong đời sống xã hội để có cách giải quyết, xử lý phù hợp. Đảng Cộng sản Việt Nam không sợ khuyết điểm, đồng thời luôn khuyến khích mọi tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, tích cực đấu tranh, ngăn chặn các biểu hiện vi phạm pháp luật, tiêu cực, lãng phí, tham nhũng. Vì vậy, trước từng vấn đề, từng sự việc cùng với việc kiên quyết, kiên trì đấu tranh theo đúng pháp luật thì mỗi người trong xã hội phải đặt mục tiêu cao nhất là sự phát triển toàn diện của đất nước, vì lợi ích của quốc gia, dân tộc.
Nhìn lại lịch sử dân tộc cho thấy, trước những khó khăn, chính nhờ có sự đồng thuận của nhân dân “triệu người như một”, dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc Việt Nam đã làm nên những kỳ tích có ý nghĩa thời đại. Truyền thống dân tộc, lòng tin của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng là sức mạnh vô địch để dân tộc Việt Nam tiến lên phía trước. Điều này càng được khẳng định thông qua đánh giá về tăng trưởng kinh tế năm 2014 của Chính phủ cũng như các tổ chức kinh tế quốc tế. Theo đánh giá của Chính phủ thì kinh tế tiếp tục tăng trưởng trong năm 2014. Tính chung 9 tháng đầu năm 2014, tăng trưởng kinh tế đạt 5,62%, cao hơn cùng kỳ 2 năm trước; ước cả năm 2014 đạt khoảng 5,8%. Đánh giá trên của Chính phủ cũng đúng như nhận định được nêu ra trước đó trong báo cáo của ADB, IMF, World Bank. Theo các báo cáo này thì chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế của Việt Nam năm 2014 vẫn được giữ nguyên ước đạt 5,8%; trong khi đối với nhiều quốc gia trên thế giới thì chỉ tiêu tăng trưởng đều phải hạ xuống so với dự kiến ban đầu. Vậy yếu tố nào để năm 2014, kinh tế Việt Nam vượt qua khó khăn mà cả thế giới đang tìm mọi biện pháp khắc phục nhằm đạt được chỉ tiêu? Đó là kết quả của quá trình đổi mới cơ cấu kinh tế, điều hành nền kinh tế của Chính phủ. Nhưng nền tảng vững chắc nhất để Chính phủ thực hiện tốt việc đổi mới cơ cấu kinh tế, điều hành linh hoạt các chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ... đó chính là sự ổn định chính trị. Đây là đánh giá của nhiều tổ chức chính trị, kinh tế có uy tín trên thế giới khi nghiên cứu về Việt Nam.
Ổn định chính trị, nền tảng để phát triển đất nước, chính là điều mà mỗi người trong chúng ta cần nhận thức một cách đầy đủ để có hành động đúng đắn, sáng suốt. Sự ổn định chính trị chỉ được xây dựng vững chắc trên nền tảng lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng; sự quản lý, điều hành của Nhà nước. Ổn định chính trị cũng chính là “phương thuốc” hữu hiệu nhằm tiêu diệt tận gốc những "vi-rút" xấu độc các thế lực thù địch, cơ hội chính trị gieo rắc thông qua chiêu bài “dân chủ”, "nhân quyền"... trong chiến lược “diễn biến hòa bình” mà chúng đang ráo riết thực hiện thời gian qua.
LONG VÂN

Chống "diễn biến hòa bình" để bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ

QĐND - Nhìn lại lịch sử dân tộc ta từ giữa thế kỷ XIX đến nay thì độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, thống nhất đất nước và toàn vẹn lãnh thổ không chỉ là nguyện vọng của cả dân tộc, mà còn là thành quả của các cuộc đấu tranh với không biết bao nhiêu hy sinh gian khổ của nhiều thế hệ người Việt Nam. Tuy nhiên, chỉ đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (1930) và lãnh đạo sự nghiệp đó mới đưa đến thắng lợi trọn vẹn.
Năm 1946, trong “Lời kêu gọi Liên hợp quốc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: Nhân dân Việt Nam “kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: Toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”(1).
Thực tế cho thấy, sở dĩ dân tộc ta giành được những thành quả lớn lao trong các cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược cũng như trong hòa bình xây dựng đất nước, một mặt vì nhân dân ta giàu lòng yêu nước, sẵn sàng hy sinh tính mạng và của cải của mình, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ; mặt khác còn nhờ ở vai trò dẫn dắt của Đảng Cộng sản Việt Nam với phẩm chất chính trị và bản lĩnh lãnh đạo thể hiện ở đường lối, chính sách, ở chiến lược và sách lược trong suốt chiều dài lịch sử gần ¾ thế kỷ (1930-2014). Phẩm chất chính trị và bản lĩnh lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là luôn luôn đặt lợi ích dân tộc, gắn với chế độ chính trị do nhân dân làm chủ lên trên hết.
Hệ tư tưởng của Đảng mà tư tưởng Hồ Chí Minh là một nhân tố tạo thành cũng lấy “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ”(2) là mục tiêu. Tất nhiên, tư duy chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn không ngừng được vận dụng và mài sắc thông qua thực tiễn chính trị. Chẳng hạn như lập trường kiên quyết đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ bằng phương pháp hòa bình theo Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế trong sự kiện “nóng” vừa qua ở Biển Đông là một ví dụ.
Gần 40 năm qua, từ sau khi nước nhà được hoàn toàn giải phóng cho đến nay (1975-2014), Việt Nam luôn luôn đứng trước nhiều nguy cơ, thách thức. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (từ 20 đến 25-1-1994) đã xác định các nguy cơ đó là: “Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa; nạn tham nhũng và các tệ nạn xã hội; âm mưu và hành động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch”. Đại hội XI năm 2011 đã đề cập tới các nguy cơ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay với một cách nhìn nhận mới, gắn nguy cơ “diễn biến hòa bình” với nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Văn kiện Đại hội XI viết: “Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các con bài “dân chủ”, “nhân quyền”, hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta”(3).
Theo cách hiểu thông thường, “diễn biến hòa bình” là chiến lược cơ bản của chủ nghĩa đế quốc và tay sai nhằm lật đổ chế độ chính trị đối với các nước xã hội chủ nghĩa bằng biện pháp phi quân sự. Đối với Việt Nam, âm mưu thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch đã có những thay đổi lớn, không còn theo nguyên nghĩa-chỉ là những tác động về tư tưởng, lý luận như phê phán mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu cũ, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tuyên truyền các giá trị dân chủ, nhân quyền phương Tây… Ngày nay, chiến lược đó đã chuyển sang kết hợp tác động về tư tưởng, lý luận với tiến công về chính trị-công kích trực tiếp vào vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thân thế, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh; thành quả cách mạng, thể chế quốc gia… Ngày nay, chiến lược này không dừng lại ở lĩnh vực tư tưởng, chính trị, “bất bạo động” mà còn đẩy tới kích động  tâm lý dân tộc hẹp hòi, tư tưởng cực đoan không loại trừ gây rối, bạo loạn xã hội, nhất là khi các thế lực trong nước được các lực lượng cực hữu phương Tây trợ giúp. Hai sự kiện gây rối ở Tây Nguyên năm 2001 và 2004 là những ví dụ cụ thể.
Sau sự kiện “nóng” ở Biển Đông vừa qua, trên một số trang mạng người ta cho rằng, Việt Nam thiếu nhất quán trong đường lối bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, rằng không nên “hô hoán” chống “diễn biến hòa bình” nếu muốn tranh thủ sự ủng hộ của các quốc gia phương Tây, lực lượng duy nhất có thể giúp Việt Nam bảo vệ được sự toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo. Họ nói: “Không thể tay ga, tay thắng, vừa giương cao ngọn cờ “lòng tin chiến lược”, vừa hô hoán chống “diễn biến hòa bình”. Vậy mối quan hệ giữa phòng, chống "diễn biến hòa bình" với bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ như thế nào?

Trước hết, phòng, chống “diễn biến hòa bình” nhằm bảo vệ chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN), bảo vệ hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Không phủ nhận rằng, sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong nhiều thập kỷ qua do nhiều nguyên nhân, đã từng bị nhiều thế lực xâm lấn. Song lịch sử thế kỷ XX đã chứng minh không có bất cứ một lực lượng nào có đủ sự tin cậy về chính trị, có bản lĩnh vững vàng để lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc như Đảng Cộng sản Việt Nam. Thực tế đã chứng tỏ rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là người tổ chức, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, là người đề ra đường lối đối nội, đối ngoại, tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới, không phân biệt chế độ xã hội đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Bởi vậy, bảo vệ chế độ chính trị hiện hữu, bảo vệ hệ thống chính trị xã hội cũng có nghĩa bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Thứ hai, phòng, chống “diễn biến hòa bình” không làm phương hại đến các quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nước ta. Những ai quan niệm rằng quan hệ giữa các quốc gia ngày nay lấy hệ tư tưởng làm tiêu chí, làm điều kiện đều không còn phù hợp với thực tế. Trên thế giới ngày nay có nhiều hệ tư tưởng và chế độ xã hội khác nhau. Chẳng hạn, chế độ “Cộng hòa tổng thống”, “Cộng hòa đại nghị”, “Quân chủ nghị viện”, “Cộng hòa dân chủ nhân dân”, “Xã hội chủ nghĩa”, “Nhà nước tôn giáo” (Nhà nước Va-ti-căng)... Nhìn chung, tất cả các quốc gia với thể chế của mình (nói trên) đều có quan hệ quốc tế rộng rãi với các quốc gia khác. Kinh nghiệm lịch sử cũng như thực tế cho thấy: Sau sự kiện Liên Xô tan rã, chế độ xã hội XHCN ở Đông Âu sụp đổ, quan hệ giữa các quốc gia đều xuất phát từ lợi ích căn bản của mỗi quốc gia. Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhiều lần khẳng định: Việt Nam mong muốn “là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”(4). Theo tinh thần đó, Việt Nam đang chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Ngày nay, chính sách ngoại giao Việt Nam không chỉ hạn chế trong quan hệ kinh tế mà còn mở rộng, hội nhập quốc tế một cách toàn diện, trên tất cả các lĩnh vực, kể cả quốc phòng, an ninh với tất cả các quốc gia. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 180 quốc gia; trong đó có quan hệ với tất cả 5 nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Việt Nam là đối tác chiến lược với Trung Quốc, Nga, Anh, Pháp; là đối tác toàn diện với Hoa Kỳ. Ngoài các quốc gia thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Việt Nam còn có quan hệ đối tác chiến lược với các quốc gia khác như: Ấn Độ (2007),  Nhật Bản (2006); Hàn Quốc, Tây Ban Nha (2009), Đức (2011), I-ta-li-a, Thái Lan, In-đô-nê-xi-a, Xin-ga-po; đối tác toàn diện với Ô-xtrây-li-a (2009); Niu Di-lân (2010)...
Thứ ba, phòng, chống “diễn biến hòa bình” nhằm nâng cao khả năng bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ. Không quốc gia nào có thể áp đặt quan hệ hợp tác cho quốc gia khác. Hợp tác quốc tế là sự lựa chọn của hai bên. Sự lựa chọn đó là sự đánh giá về vai trò, vị thế và tiềm năng của quốc gia đối tác. Các quan hệ đối tác, hợp tác quốc tế ngày nay không chỉ dựa trên Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế, mà còn dựa trên tôn trọng thể chế chính trị, độc lập, chủ quyền của nhau. Sự khác biệt nào đó về chế độ chính trị, pháp luật giữa các quốc gia không phải là ranh giới không thể vượt qua trong quan hệ quốc tế ngày nay.
Cho đến nay, cộng đồng quốc tế đánh giá cao Việt Nam ở đường lối chính trị độc lập, tự chủ, yêu chuộng hòa bình, ở ý thức trách nhiệm cao với cộng đồng quốc tế và luôn ổn định về chính trị, xã hội. Sự kiện “nóng” ở Biển Đông vừa qua là một phép thử các quan hệ hợp tác của nước ta. Có thể nói các quốc gia “đối tác chiến lược”, “đối tác toàn diện” đều thể hiện cam kết bằng cách này hoặc cách khác ủng hộ Việt Nam trong việc giữ gìn chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, từ chính trị, ngoại giao đến kinh tế và quốc phòng. Chưa có một quốc gia nào đặt điều kiện về chính trị, tư tưởng với Việt Nam. Nhiều chính khách, chuyên gia cho rằng, Việt Nam hội nhập tương đối đầy đủ những tiêu chí để phát triển quan hệ hợp tác với các quốc gia khác. Bởi vậy, phòng, chống “diễn biến hòa bình” chính là để bảo vệ những giá trị đó, nhằm nâng cao khả năng bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
TS VỌNG ĐỨC
(1) “Lời kêu gọi Liên hợp quốc”, Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb ST, 1995, t.4, tr.469.
(2) Văn kiện Đại hội XI, Nxb CTQG, HN, 2011, tr.70.
(3) Văn kiện Đại hội XI, Nxb CTQG, HN, 2011, tr.29.
(4) Văn kiện Đại hội XI, Nxb CTQG, HN, 2011, tr.83

Bản chất của “hội”, “nhóm”

(AGO) - Trên mạng internet, chúng ta gặp những cái tên “hoa mỹ”, nào là: “Nhóm công dân tự do”, “Diễn đàn dân sự”, “Văn đoàn độc lập”, “Nhóm kiến nghị 72”, “Nhóm kiến nghị 61”,… Các nhóm này gồm những ai và nội dung hoạt động của các tổ chức tự xưng này như thế nào?
Các lực lượng chống phá cách mạng nước ta từ xưa đến nay luôn núp dưới danh nghĩa “yêu nước” để vận động lập ra các “tổ chức”, “câu lạc bộ”… tập hợp lực lượng, tuyên truyền chống đối Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta. Gần đây, lợi dụng tình hình thế giới diễn biến phức tạp, tranh chấp Biển Đông gia tăng, tình hình trong nước có nhiều khó khăn do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế, công tác quản lý Nhà nước có những mặt sơ hở, yếu kém, chúng tăng cường hoạt động. Chúng mượn danh “dân chủ”, “nhân quyền”, “cải cách”, giả danh “yêu nước” tích cực vận động, lập ra các “tổ chức”, để tập hợp lực lượng và dùng “diễn đàn dân chủ” để chống đối hòng làm cho xã hội ta bất ổn.
Chúng đã lập ra đủ các loại “hội”, “nhóm”, “câu lạc bộ” với mục đích tập hợp, cái gọi là đại diện cho các thành phần xã hội. Để thu hút giới trẻ, chúng cho ra đời “Nhóm tuổi trẻ yêu nước”; để thu hút lực lượng phụ nữ, chúng lập ra “Hội phụ nữ nhân quyền Việt Nam”; để thu hút lực lượng công nhân, chúng lập “Liên đoàn lao động Việt tự do”; thu hút lực lượng nông dân có “Hội bầu bí tương thân”.
Chúng đặc biệt quan tâm lôi kéo giới báo chí, văn nghệ sĩ, trí thức, trong đó có cả những người đã từng cống hiến trong các giai đoạn cách mạng, nay vì mục đích riêng tư đã có những hành động đi ngược lại quan điểm của Đảng, lợi ích dân tộc và chúng đã tập trung khai thác triệt để sự ảnh hưởng của lực lượng này, để vận động lập ra “Hội nhà báo độc lập”, “Nhóm kiến nghị 72”, “Nhóm kiến nghị 61”; chúng đã khoét sâu vào lực lượng tôn giáo, dân tộc, có “Ngôi sao 7 cánh”, “Hội đồng liên tôn”…
Nội dung của chúng vẫn là tập trung chống phá điên cuồng, quyết liệt trên mặt trận chính trị tư tưởng, tìm mọi thủ đoạn để truyền bá các quan điểm, luận điệu phản động, xuyên tạc tình hình đất nước, lợi dụng những yếu kém, khuyết điểm để bác bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng, làm cho cán bộ, đảng viên, Nhân dân suy giảm lòng tin, hoài nghi vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Khi tình hình Biển Đông diễn biến phức tạp do Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong thềm lục địa của Việt Nam; Nhân dân trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài đã mít-tinh, tuần hành ôn hòa, bày tỏ sự bất bình, phản đối hành động xâm phạm chủ quyền và gây căng thăng trên Biển Đông của Trung Quốc; Đảng, Nhà nước, Quân đội ta đã có những biện pháp rất kịp thời, kiên trì, kiên quyết đấu tranh trên các lĩnh vực và đã giành thắng lợi trên nhiều mặt, được Nhân dân ủng hộ, cả thế giới đồng tình.
Nhưng các lực lượng phản động nói trên, nhất là đảng “Việt Tân” đã cấu kết các tổ chức phản động, lợi dụng tình hình để xuyên tạc, kích động, chúng nhận định rằng thời cơ đã đến, đưa ra “lời kêu gọi biểu tình” để kích động những đối tượng xấu “đục nước, béo cò” có những hành động phá hoại, gây rối làm mất an ninh, trật tự trong nước, gây thiệt hại về kinh tế và uy tín của dân tộc.
Hậu quả của những hành vi phá hoại do sự xúi giục của các phần tử chống đối gây ra, Nhà nước đã phải bỏ ra hàng ngàn tỷ đồng ngân sách để đền bù cho các doanh nghiệp bị thiệt hại khôi phục sản xuất; hình ảnh đất nước, con người Việt Nam thân thiện, yêu chuộng hòa bình trong con mắt bạn bè quốc tế bị giảm sút, trong khi ta rất cần sự ủng bộ của quốc tế để xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Khi pháp luật Việt Nam trừng trị những kẻ cầm đầu, xúi giục lợi dụng biểu tình để đập phá, cướp bóc tài sản trong các khu công nghiệp vừa qua thì các tổ chức này lại lớn tiếng kêu gọi tổ chức nhân quyền thế giới gây áp lực yêu cầu Chính phủ Việt Nam “trả tự do vô điều kiện” vì vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”? Điều này đã phơi bày bộ mặt thật của cái gọi là “tổ chức dân chủ, nhân quyền” nói trên. Chúng đã lợi dụng cái thiêng liêng nhất của dân tộc đó là lòng yêu nước để mưu đồ cho lợi ích cá nhân!
Công cuộc đổi mới gần 30 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng được khẳng định trong thực tiễn, mặc dù hiện tại còn gặp không ít khó khăn, nhưng cách mạng nước ta đang tiến lên từng bước vững chắc. Điều đó càng làm cho các thế lực thù địch gia tăng chống phá với nhiều hình thức, đòi hỏi mọi người Việt Nam yêu nước phải nêu cao tinh thần cảnh giác không để bị lợi dụng lôi kéo. Đồng thời, đấu tranh kiên quyết không cho bất cứ một ai lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để chống dân tộc, chống chế độ.

S.T