Không làm gương cho con cháu, sao còn bẻ lái ngược đường

10:04 25/05/2020
Trong một số vụ việc gần đây, các đối tượng cố tình gán ghép các chữ “nhà yêu nước”, “đấu tranh vì tự do, dân chủ” để vu cáo “bị bắt vì bày tỏ lòng yêu nước”! Các thông tin này xâu chuỗi một số đối tượng phạm pháp bị bắt gần đây rồi xuyên tạc rằng đang có đợt trấn áp, bắt người “bất đồng chính kiến” trước Đại hội Đảng, từ đó suy diễn những vấn đề này có liên quan đến “đấu đá chính trị trước đại hội”...
Ngày 24-5, cơ quan An ninh điều tra (ANĐT) Công an TP Hồ Chí Minh cho biết, đang tiếp tục mở rộng điều tra vụ án “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam” do Phạm Chí Dũng cầm đầu.
Trước đó, ngày 18-5-2020, Cơ quan ANĐT Công an TP Hồ Chí Minh đã ra quyết định khởi tố bị can, lệnh bắt bị can để tạm giam, lệnh khám xét đối với Nguyễn Tường Thụy.
Bị can Nguyễn Tường Thụy (SN 1950, tại Nam Định; trú tại phường Thanh Xuân Trung, quận Thanh Xuân, Hà Nội) bị bắt về tội “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam”, quy định tại Điều 117, Bộ luật Hình sự. Các quyết định, lệnh trên đã được Viện KSND TP Hồ Chí Minh phê chuẩn.
Ngày 23-5, Cơ quan ANĐT Công an TP Hồ Chí Minh đã thực hiện lệnh bắt bị can để tạm giam và khám xét nơi ở đối với Nguyễn Tường Thụy. Quá trình bắt, khám xét đã được tiến hành theo đúng quy định pháp luật và thu giữ nhiều tài liệu, vật chứng có liên quan đến hành vi phạm tội phục vụ công tác điều tra vụ án.
Trước khi cơ quan ANĐT có thông tin chính thức, trên một số trang mạng ngoài nước và facebook của các đối tượng chống phá trong nước đã ngay lập tức lan truyền những thông tin thất thiệt, bóp méo bản chất sự việc. Một số đối tượng đến khu vực nhà riêng bị can, quay clip để các trang mạng nước ngoài “tường thuật trực tiếp”, phỏng vấn người nhà, người “chứng kiến” với nội dung vu cáo chính quyền, Công an “tra tấn”, “bắt người vô cớ”…
Những clip, bài viết này nhanh chóng lan truyền trên mạng xã hội, gây nhiễu thông tin. Các trang mạng thù địch ngoài nước giật những tít như “Nhà báo độc lập Nguyễn Tường Thụy bị bắt trong đợt trấn áp của Công an”, nói rằng nhà báo Thụy bất ngờ “bị trấn áp” trong hoàn cảnh nhà báo và gia đình không hay biết vì sao bị bắt. Thậm chí, những bài viết này còn đôn thêm các câu từ gây sốc cho người đọc như: “Bị tra tấn dã man”, “bị xốc nách đi mà không cần lệnh, không cần biên bản”…
Cũng như một số vụ việc gần đây, các đối tượng cố tình gán ghép các chữ “nhà yêu nước”, “đấu tranh vì tự do, dân chủ” để vu cáo “bị bắt vì bày tỏ lòng yêu nước”! Các thông tin này xâu chuỗi một số đối tượng phạm pháp bị bắt gần đây rồi xuyên tạc rằng đang có đợt trấn áp, bắt người “bất đồng chính kiến” trước Đại hội Đảng, từ đó suy diễn những vấn đề này có liên quan đến “đấu đá chính trị trước đại hội”.
Mục đích những bài viết nhằm đánh vào tâm lý người đọc, nếu không tra cứu nguồn cẩn thận, dễ bị hiểu lệch lạc thành cơ quan Công an vô cớ bắt người, không lệnh, không lý do, từ đó kích động tâm lý chống đối, nhằm vào cơ quan Đảng, chính quyền và Công an. Đây là những kiểu thông tin bóc vỏ thay ruột, biến việc làm bình thường theo tố tụng hình sự của cơ quan điều tra thành những kiểu “đàn áp”, “vây ráp”, hô hào nhân quyền, dân chủ.
Thực ra, thủ đoạn đánh lận bản chất để vu cáo nói trên là chiêu bài truyền thống của các thế lực xấu nhưng khi gắn với một đối tượng, một vụ việc cụ thể, các đối tượng lại tung hoả mù theo chiến dịch, tạo thành làn sóng gây nhiễu thông tin hết sức nguy hiểm. Chúng ta biết rằng, ngay cả những công dân trong nước nếu đọc thông tin trên mà thiếu tỉnh táo, thiếu kiểm chứng còn có thể bị dụ lạc thì người nước ngoài, nếu chỉ tiếp cận tin một chiều của các thế lực chống phá sẽ hiểu sai lệch như thế nào. Do đó, trong bối cảnh mạng internet “thế giới trong lòng bàn tay”, việc thông tin đúng, đọc đúng, hiểu đúng là vấn đề rất quan trọng.
Trong vụ việc này cần thấy rõ:
Thứ nhất, không có chuyện cơ quan ANĐT vô cớ bắt giam, không lệnh, không biên bản, kiểu hỏa mù “bắt bất chấp” như luận điệu các đối tượng tung lên. Cơ quan ANĐT đã thông tin rõ: Bị can Nguyễn Tường Thụy bị bắt về tội “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam”, quy định tại Điều 117, Bộ luật Hình sự.
Về thủ tục tố tụng, các quyết định, lệnh trên đã được Viện KSND TP Hồ Chí Minh phê chuẩn. Quá trình bắt, khám xét đã được tiến hành theo đúng quy định pháp luật và đã thu giữ nhiều tài liệu, vật chứng có liên quan đến hành vi phạm tội phục vụ công tác điều tra vụ án. Như vậy, không hề có việc mập mờ, bắt giữ vô cớ như các trang mạng xấu rêu rao.
Thứ hai, về bản chất vụ án, cơ quan ANĐT đã nêu rõ, việc bắt bị can để tạm giam về tội danh quy định tại Điều 117, Bộ luật Hình sự. Nội dung cụ thể như thế nào còn phải qua quá trình điều tra, làm rõ. Tuy nhiên, căn cứ các tài liệu thu thập được đã có đủ cơ sở để khởi tố, bắt tạm giam bị can về tội danh trên theo quy định của Bộ luật Hình sự.
Thứ ba, với người đọc trên mạng internet, ông Nguyễn Tường Thụy không phải là một cái tên xa lạ gì. Ông Thụy cùng những đối tượng như Phạm Thành, Trần Đức Thạch vốn là “người quen” trên các trang viết chống phá Nhà nước, nhân dân. Ông Nguyễn Tường Thụy tham gia vào tổ chức tự xưng là Hội Nhà báo Độc lập và giữ chức Phó Chủ tịch của hội này. Một số bài viết trên trang mạng chống phá đã liệt kê những người này để quy rằng “Có một vài điểm chung của 3 nhà yêu nước, các ông đều sinh năm 1952”, từ đó nại lý do “yêu nước” nên “hành động theo bản năng”.
Nhiều bài còn cổ suý với những câu từ xuyên tạc, xảo trá như: “Chính họ là những người hiểu hơn ai hết về chế độ cộng sản. Họ biết rõ ngày nào đất nước còn bị cai trị bởi một chế độ độc tài cộng sản thì người dân sẽ không bao giờ được hưởng các quyền căn bản của con người, và chủ quyền đất nước sẽ bị lâm nguy. Chính vì vậy mà họ đã hành động”…
Trên mạng, ông Thụy tung ra các bài viết, các luận điệu đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc, câu kết với các tổ chức chống phá bên ngoài, gây bất ổn cho xã hội. Trước đây, ông từng tự ứng cử tham gia đại biểu Quốc hội, tuy nhiên lai lịch của ông thì nhân dân địa phương không lạ.
Chính quyền địa phương nơi cư trú trước đây (xã Vĩnh Quỳnh) nhận xét vào lý lịch như sau:“UBND xã Vĩnh Quỳnh xác nhận: ông Nguyễn Tường Thụy có hộ khẩu thường trú tại xã Vĩnh Quỳnh. Trong thời gian sinh sống tại xã không tham gia sinh hoạt bất kỳ các tổ chức chính trị xã hội nào của xã. Bản thân ông Nguyễn Tường Thụy năm 2012 đã 2 lần bị Công an quận Hoàn Kiếm ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính mức phạt cảnh cáo, đồng thời có lời nói và việc làm không ủng hộ chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước”.
Thứ tư, với ông Nguyễn Tường Thụy, ở cái tuổi ông bà, chứng kiến những người cùng trang lứa cống hiến, hy sinh cho Tổ quốc, cho dân tộc này giữ được độc lập, hoà bình, lẽ ra hơn ai hết, ông phải là người hiểu phải làm gì cho phải đạo. Mới đây, tại lễ kỷ niệm 130 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, người xem buổi truyền hình trực tiếp thực sự xúc động trước phát biểu của ông Nguyễn Văn Đoàn, nguyên cận vệ Bác Hồ.
Ông Đoàn sinh năm 1947, hơn ông Thụy 5 tuổi. Ông Đoàn  chia sẻ: “Những tháng năm cùng đồng đội được phục vụ, bảo vệ Bác Hồ, cũng là ngần ấy thời gian với những kỷ niệm thiêng liêng của tôi về Người, là những trang đẹp nhất, may mắn và hạnh phúc nhất trong cuộc đời tôi… Hơn nữa, là một trong số ít người may mắn được lựa chọn vào làm cảnh vệ cho Bác Hồ, tôi luôn tự nhủ mình phải không ngừng rèn luyện, xứng đáng với sự tin cậy của cấp trên, xứng đáng với Bác và xứng đáng với truyền thống của những người con cố đô nghìn năm văn hiến”.
Cùng một thế hệ như ông Đoàn, cũng ở mảnh đất kinh kỳ, trải qua những năm tháng gian nan thử thách của đất nước do chiến tranh, rồi thời kỳ bao cấp đói khổ, vậy mà ông Thụy lại tự chuyển hoá, rẽ ngược lối, ngược đường, chống lại sự nghiệp phát triển đất nước, chống lại chính những tâm huyết của những người từng đồng cam cộng khổ.
Chớ nên nguỵ biện, ông Thuỵ hay những người có tư tưởng, hành động như ông cần phải lấy gương ở chính cuộc sống, chính thực tiễn mà những lời tâm huyết trên của ông Nguyễn Văn Đoàn là minh chứng sống động.
Học hỏi đó, chứ đâu xa!
Đăng Minh

Ở Việt Nam không có cái gọi là “tù nhân lương tâm”

25/05/2020 05:00

Không phải tới bây giờ, mà nhiều năm qua, các thế lực thù địch dường như không biết bấu víu vào vấn đề gì hơn là lợi dụng những vấn đề về dân tộc, tôn giáo, nhân quyền… để chống phá sự nghiệp cách mạng của Việt Nam.

Mũi nhọn mà họ tập trung vào là vấn đề nhân quyền với nhiều hình thức tinh vi, thâm độc, xảo trá. Vậy, sự thật những người mà họ gọi là “tù nhân lương tâm” là những ai? Cần khẳng định rằng: Ở Việt Nam không bao giờ có cái gọi là “tù nhân lương tâm” mà thực chất đó chỉ là những người vi phạm pháp luật.
Ai được các thế lực thù địch gọi là “tù nhân lương tâm” ở Việt Nam?
Sẽ chẳng phải là những cái tên quá xa lạ, bởi những con người ấy đã được báo chí nhắc đến không ít lần. Tuy nhiên, với tuyệt đại đa số người Việt Nam thì những con người ấy chỉ đơn giản là đối tượng vi phạm pháp luật và phải chịu các hình thức xử lý theo quy định của pháp luật. Vậy, họ là những ai? Đó là Cù Huy Hà Vũ, Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Tiến Trung, Lê Công Định, Lê Thăng Long; là Trần Anh Kim, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Đài… Với người dân Việt Nam, thì các vụ án liên quan đến những đối tượng này chỉ là những vụ án hình sự đơn thuần; họ đều bị các cơ quan bảo vệ pháp luật của Việt Nam truy tố, xét xử do phạm tội “Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo quy định tại Điều 88 Bộ luật Hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Xin được nêu lại một trường hợp cụ thể để minh chứng rõ hành vi phạm tội của những người được các thế lực thù địch gọi là “tù nhân lương tâm” ở Việt Nam. Cù Huy Hà Vũ, một người được học hành cơ bản, có nhận thức cao và được thừa hưởng nhiều sự ưu ái của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Tuy nhiên, do thiếu tu dưỡng, rèn luyện, ảo tưởng với danh vọng, quyền lực, nên Vũ đã lầm đường, lạc lối, có nhiều hành vi đi ngược lại lợi ích của Đảng, Nhà nước và dân tộc Việt Nam. Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an phát hiện Vũ đã làm ra nhiều tài liệu có nội dung chống Nhà nước Việt Nam để tuyên truyền, xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân, tuyên truyền luận điệu chiến tranh tâm lý, đòi lật đổ chế độ, thực hiện đa nguyên, đa đảng, kêu gọi nước ngoài can thiệp. Không những vậy, Cù Huy Hà Vũ còn có quan hệ với các đối tượng có tư tưởng chống đối Nhà nước Việt Nam; thực hiện nhiều cuộc trả lời phỏng vấn các đài, báo của các đối tượng phản động chống Việt Nam ở nước ngoài có nội dung chống Nhà nước và chuyển tải các tài liệu do Vũ làm ra để chúng sử dụng chống phá Nhà nước Việt Nam… Những hành vi nêu trên của Cù Huy Hà Vũ đã vi phạm nghiêm trọng Điều 88 Bộ luật Hình sự.
Ở Việt Nam không có cái gọi là “tù nhân lương tâm”
Cù Huy Hà Vũ thời điểm bị xét xử. Ảnh: TTXVN
Như vậy, với những chứng cứ hết sức rõ ràng, Cù Huy Hà Vũ đã vi phạm pháp luật của Nhà nước Việt Nam và bị các cơ quan bảo vệ pháp luật của Việt Nam xử phạt theo đúng các quy định của pháp luật. Với kiến thức về pháp luật và được đào tạo bài bản, chắc chắn Cù Huy Hà Vũ nhận thức đầy đủ hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, ngay tại phiên tòa Vũ đã phải cúi đầu nhận tội và nói những lời ăn năn, hối cải. Tuy nhiên, đáng tiếc, do ảo tưởng và sự tham vọng quyền lực, cùng với sự lóa mắt trước những cám dỗ vật chất tầm thường, nên sau khi được hưởng sự khoan hồng của Nhà nước, Vũ lại "ngựa quen đường cũ", chống phá đất nước, quê hương của mình, đi ngược lại truyền thống dân tộc và truyền thống gia đình, dòng họ.
Điều rất đáng bàn là những người được các thế lực thù địch gọi là “tù nhân lương tâm” ở Việt Nam khi bị bắt và khai trước tòa hầu hết đều thừa nhận rằng do không có kiến thức pháp luật, không lường hết hậu quả của những việc đã làm, do nhận tiền và bị xúi giục, thậm chí bị đe dọa nên buộc phải tham gia. Ví như, tại phiên tòa, hai bị cáo Lê Công Định và Nguyễn Tiến Trung đều thành khẩn khai báo, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đã vi phạm pháp luật. Nguyên nhân là do các bị cáo tiếp thu những quan điểm sai trái về “dân chủ”, “nhân quyền” của các thế lực thù địch chống chủ nghĩa xã hội và sự nhìn nhận chủ quan về các hiện tượng tiêu cực xảy ra trong xã hội. Tại phiên xét xử phúc thẩm diễn ra ngày 11-5-2010, Lê Thăng Long tỏ rõ sự ăn năn, hối cải và nói: “Tôi biết ơn Đảng và Nhà nước đã nuôi dưỡng, giúp đỡ tôi trưởng thành. Tôi không bao giờ muốn xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tôi mong Hội đồng xét xử khoan hồng cho tôi sớm được trở về với gia đình”.
Còn nhiều trường hợp khác mà chúng tôi không thể dẫn giải hết trong bài viết này để cho thấy họ là những “tù nhân lương tâm” theo cách gọi của các thế lực thù địch, phản động hay là những người vi phạm pháp luật Việt Nam.
Vậy, phải chăng, chỉ có ở Việt Nam mới xử lý những người chống đối nhà nước? Trả lời câu hỏi này, chỉ cần một vài thao tác hết sức đơn giản thông qua công cụ tìm kiếm Google trên internet cũng cho ra hàng trăm nghìn kết quả. Đành rằng, mỗi nước tùy theo những quy định của pháp luật của nước mình để xử lý các hành vi vi phạm của công dân. Ví như, tại Singapore, các hành vi tuyên truyền kích động nhằm mục đích chống phá nhà nước, tung tin giả mạo, thao túng môi trường trực tuyến, gây ảnh hưởng đến lợi ích chung của cộng đồng, mức phạt lên tới 100.000SGD hoặc thời hạn tù 10 năm. Hoặc kể từ ngày 1-1-2018, các trang mạng xã hội ở Đức nếu để người dùng đăng tải những nội dung, thông điệp mang tính thù hận dân tộc, gây nguy hại đến an ninh quốc gia, lợi ích đất nước đều bị xử lý với nhiều hình thức tùy thuộc vào tính chất, mức độ… Thậm chí ở một số nước, chưa nói đến lợi ích chung của quốc gia-dân tộc, mà chỉ cần tung tin, giả mạo có tính sỉ nhục cá nhân cũng đã bị các cơ quan bảo vệ pháp luật xử lý một cách nghiêm khắc.
Dẫn lại một vài điều trên để nhằm khẳng định rằng: Ở bất kỳ quốc gia nào, những người vi phạm pháp luật cũng sẽ bị xử lý theo đúng các quy định của pháp luật. Đó là một thực tế mà chúng tôi tin rằng, những người lợi dụng vấn đề về dân chủ, nhân quyền nhằm mục đích chống phá Nhà nước Việt Nam hẳn không thể không biết?
Pháp luật của Nhà nước Việt Nam thể hiện ý chí của nhân dân Việt Nam
Những dẫn chứng nêu trên cho thấy, bất kỳ quốc gia nào cũng đều sử dụng công cụ thông qua hệ thống pháp luật để quản lý xã hội. Mọi hành vi của các tổ chức, cá nhân đều phải tuân thủ những quy định của pháp luật do nhà nước ban hành. Pháp luật của mỗi quốc gia tuy có chung mục đích là để quản lý xã hội, điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân, tổ chức, nhưng chắc chắn sẽ có những điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau, bởi phụ thuộc vào chế độ chính trị, kinh tế-xã hội và những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Vì vậy, không thể lấy pháp luật của nước này để áp dụng đối với công dân của nước kia và ngược lại. Hơn nữa, hệ thống pháp luật của Việt Nam được xây dựng trên cơ sở ý chí, nguyện vọng của nhân dân với mục tiêu cao nhất là bảo đảm mọi quyền lợi, lợi ích cơ bản, chính đáng của nhân dân. Hệ thống pháp luật Việt Nam không dành riêng để bảo vệ một người hoặc một nhóm người, mà duy trì mọi hoạt động chung của xã hội, là công cụ quan trọng để nhà nước bảo vệ trọn vẹn quyền và lợi ích hợp pháp của mọi công dân trong xã hội.
Điều 15 Hiến pháp 2013 của Nhà nước Việt Nam đã hiến định: “1. Quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân. 2. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác. 3. Công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội. 4. Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác”. Căn cứ theo quy định nêu trên, mọi công dân đều có quyền của riêng cá nhân mình, nhưng quyền phải luôn gắn liền với nghĩa vụ. Pháp luật Việt Nam luôn bảo vệ quyền lợi chính đáng của mọi công dân, nhưng cũng luôn đòi hỏi mọi công dân phải tuân thủ các quy định của pháp luật. Thực hiện quyền công dân, nhưng không cho phép bất cứ người nào xâm phạm đến lợi ích quốc gia-dân tộc.
Nói vậy, chắc có người cho rằng, người viết chỉ dựa vào hệ thống pháp luật Việt Nam để chứng minh là thiếu khách quan. Vì thế, chúng tôi xin trích dẫn Khoản 2, Điều 29 “Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền năm 1948” nêu rõ: “Trong khi hành xử những quyền tự do của mình, ai cũng phải chịu những giới hạn do luật pháp đặt ra nhằm bảo đảm những quyền tự do của người khác cũng được thừa nhận và tôn trọng, những đòi hỏi chính đáng về đạo lý, trật tự công cộng và an lạc chung trong một xã hội dân chủ cũng được thỏa mãn”.
Nhìn rộng ra thế giới, một trong những nguyên lý đã được khẳng định: Không có bất kỳ quốc gia nào có thể tồn tại mà thiếu hệ thống pháp luật và luật pháp không thể phát huy hiệu lực của mình nếu không có sức mạnh của bộ máy quốc gia. Để quản lý xã hội, nhà nước phải dùng nhiều công cụ, nhiều biện pháp, nhưng luật pháp là công cụ cơ bản, quan trọng, thiết yếu nhất. Luật pháp và nhà nước luôn có quan hệ khăng khít với nhau. Khi luật pháp phản ánh đúng nguyện vọng, bảo vệ lợi ích chính đáng của dân tộc, của quần chúng nhân dân thì dù chế độ nhà nước nào cũng phải tôn trọng và tuân thủ. Theo đó, mọi hành vi đi ngược với lợi ích quốc gia-dân tộc không chỉ bị nhân dân phản đối, mà cần phải kiên quyết xử lý.
Một bộ máy nhà nước lành mạnh là một tổ chức trong đó các quyết sách phải được thực thi một cách nghiêm minh, nhất quán từ trên xuống dưới mà không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của bất kỳ cá nhân nào trong xã hội. Luật pháp chính là những mắt xích giúp cho bộ máy nhà nước có thể hoạt động nhịp nhàng, đồng bộ, hiệu quả. Suy cho cùng, pháp luật cũng là để phục vụ người dân, đối với người dân pháp luật chính là lẽ phải, sự công bằng, là môi trường pháp lý bình đẳng giúp người dân yên tâm làm ăn, sinh sống.
Tinh thần thượng tôn pháp luật cùng với một hệ thống pháp luật hoàn thiện thống nhất sẽ là động cơ mạnh mẽ giúp bộ máy nhà nước vận hành trơn tru, thúc đẩy đất nước phát triển. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; nhà nước của dân, do dân và vì dân. Hệ thống pháp luật của Việt Nam là thể hiện ý chí, nguyện vọng của toàn dân Việt Nam. Vì vậy, việc tuân thủ pháp luật, thượng tôn pháp luật của mọi tổ chức, mọi công dân là vấn đề tất yếu. Đó cũng chính là cách để Nhà nước Việt Nam bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mọi công dân. Theo đó, xử lý những người vi phạm pháp luật cũng là lẽ bình thường, đâu phải là chuyện riêng của Việt Nam. Vì vậy, cần khẳng định rằng: Ở Việt Nam không có cái gọi là “tù nhân lương tâm” mà chỉ có những đối tượng vi phạm pháp luật, bị xử lý theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam.
LÊ LONG KHÁNH

Đi tìm thuốc giải cho “cơn mê sảng” về tôn giáo

11/05/2020 05:0

Ủy ban Hoa Kỳ về tự do tôn giáo quốc tế (USCIRF) mới đây đưa ra Báo cáo tình hình tự do tôn giáo thế giới 2020-một bản báo cáo có thể nói là “đáng thất vọng”, trong đó đại ý nhận định rằng, Việt Nam vẫn chưa có tự do tôn giáo thật sự, đồng thời muốn đưa Việt Nam vào danh sách các quốc gia đáng quan tâm đặc biệt về vấn đề tôn giáo.

Dù ghi nhận việc Báo cáo tình hình tự do tôn giáo thế giới 2020 của USCIRF đã đề cập đến những nỗ lực và tiến triển tích cực trong việc bảo đảm và thúc đẩy đời sống tôn giáo, tín ngưỡng của Việt Nam, song Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng vào cuối tuần qua cho rằng, báo cáo vẫn còn một số nội dung thiếu khách quan và trích dẫn những thông tin sai lệch, chưa được kiểm chứng về Việt Nam. Đáng buồn hơn nữa, USCIRF tiếp tục khuyến cáo đưa Việt Nam vào danh sách các quốc gia đáng quan tâm đặc biệt về vấn đề tôn giáo.
Trước hết, phải khẳng định rằng, Việt Nam là quốc gia có nhiều tôn giáo và nhiều loại hình tín ngưỡng, cụ thể là có tổng cộng hơn 40 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được công nhận và cấp đăng ký hoạt động với 55.000 chức sắc, 145.000 chức việc, 29.000 cơ sở thờ tự; 95% dân số có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó có 26 triệu tín đồ, chiếm 27% dân số cả nước. Đời sống sinh hoạt tôn giáo tại Việt Nam ngày càng phong phú với khoảng 8.500 lễ hội tín ngưỡng, tôn giáo được tổ chức mỗi năm. Hiện nay, các cá nhân, tổ chức tôn giáo ngày càng tham gia vào nhiều hoạt động giao lưu, hợp tác và các hoạt động tôn giáo quốc tế lớn, điển hình như Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc Vesak. Các tổ chức tôn giáo được công nhận xây dựng và thực hiện đường hướng hành đạo phù hợp với văn hóa truyền thống, gắn bó, đồng hành cùng dân tộc.
Đi tìm thuốc giải cho “cơn mê sảng” về tôn giáo
Ảnh minh họa/ tuyengiao.vn.
Cũng có thể khẳng định rằng, tình hình tôn giáo ở Việt Nam thời gian qua ổn định, đời sống tôn giáo có những biến đổi sâu sắc cả về số lượng lẫn phạm vi hoạt động, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo được tôn trọng, bảo đảm trước hết là nhờ chủ trương “tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo” của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Đây là những thông tin không mới, đã được đề cập nhiều lần, song vẫn cần tiếp tục nhắc lại, bởi vẫn còn không ít người chưa hiểu hoặc cố tình không hiểu.
Nói đến tôn giáo, nên nhớ rằng không có hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo nào đứng ngoài pháp luật nhà nước, và chẳng riêng gì tại Việt Nam, thực tiễn trên thế giới đã chứng minh điều đó. Ở Việt Nam, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân được quy định rõ trong Hiến pháp, pháp luật. Nói cách khác, cho dù là ai, ở đâu và lúc nào thì cũng cần xác định rõ “ranh giới không thể bị xóa nhòa” giữa hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo với các hành vi lợi dụng, vi phạm pháp luật.
Hiểu rõ, hiểu đúng về tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, chúng ta nhận thấy một thực tế rằng, tôn giáo lâu nay đã bị biến thành chiếc “mũi dùi hoen gỉ” trong chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, mà dễ thấy nhất là những hành động núp bóng tôn giáo để rao giảng các thông tin xuyên tạc, bôi đen về tình hình đất nước, từ đó kích động người dân đấu tranh chống đối chính quyền. Sau vỏ bọc về vấn đề tôn giáo cũng là những mưu đồ tiến hành thành lập, xây dựng lực lượng, hình thành nên tổ chức chống đối. Và còn rất nhiều mưu đồ thâm hiểm, oái oăm khác dưới cái bóng mờ ảo của “ngọn cờ tôn giáo” ấy.
Trở lại với báo cáo của USCIRF, ngay trong phần mở đầu, văn bản này đã đưa ra đánh giá sặc mùi kỳ thị khi cho rằng trong năm 2019, tình trạng tự do tôn giáo ở Việt Nam nói chung vẫn có khuynh hướng như năm trước đó. Theo báo cáo, các cộng đồng dân tộc thiểu số ở Việt Nam phải chịu nhiều áp bức, kể cả bị hành hung, bắt giữ hoặc trục xuất ra khỏi địa bàn vì họ hành đạo một cách ôn hòa. Nghe qua đã thấy vô lý, vì nếu đã hành đạo ôn hòa, thì cớ gì để ai áp bức, trong khi thực tiễn lâu nay đều cho thấy, Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và thực hiện nhất quán chính sách bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, quyền theo hoặc không theo tôn giáo của người dân, bảo đảm sự bình đẳng, không phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo, tín ngưỡng, bảo hộ hoạt động của các tổ chức tôn giáo bằng pháp luật.
Hay như trong phần “các phát hiện chính”, báo cáo cho rằng “ở một số tỉnh Đông Bắc, nhà chức trách đốt phá ít nhất 35 nhà tang lễ, những nơi được coi là quan trọng cho các lễ lạt cốt yếu của giáo phái Dương Văn Mình”; hoặc “vào năm 2019, Chính phủ Việt Nam tiếp tục bắt giữ và bỏ tù nhiều lãnh tụ tôn giáo ôn hòa cũng như các cá nhân bênh vực tự do tôn giáo”, điển hình trong số đó có Nguyễn Bắc Truyển-“một người đấu tranh cho Phật giáo Hòa Hảo bị kết án 11 năm tù…”. Trong khi đó, ít ai không biết rằng giáo phái Dương Văn Mình vốn gắn liền với những hoạt động, chiêu trò gây mất ổn định an ninh chính trị, đòi thành lập quốc gia ly khai tự trị cho dân tộc Mông ở Tây Bắc. Còn Nguyễn Bắc Truyển là một trong những đối tượng khởi xướng, thành lập tổ chức, xây dựng cương lĩnh, điều lệ, quy chế hoạt động và chỉ đạo, điều hành hoạt động của tổ chức gọi là “Hội anh em dân chủ”. Lợi dụng việc đấu tranh cho “dân chủ, nhân quyền”, “xã hội dân sự”, Truyển cùng đồng bọn muốn che giấu mục đích hoạt động của “Hội anh em dân chủ” nhằm lật đổ chính quyền.
Vậy nên, việc đưa tội danh của những đối tượng này ra trước ánh sáng thực chất là hành động chứng minh cho sự thượng tôn pháp luật, chỉ cho họ thấy cái ranh giới bất khả xâm phạm giữa tự do tín ngưỡng, tôn giáo với các hành vi lợi dụng, vi phạm pháp luật.
Tiếc rằng, thay vì nhìn vào thực tế tình hình tự do tôn giáo ở Việt Nam để có cái nhìn đầy đủ và đúng đắn, những người soạn thảo báo cáo của USCIRF lại dễ ràng bị ru ngủ bởi liều thuốc tạp nham được tung ra bởi chính những kẻ mà họ đang cố dang tay bảo vệ. Và việc báo cáo đưa ra những nhận định, đánh giá chủ quan, phiến diện, không đúng sự thật về tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam cũng là điều dễ hiểu.
Trong nỗ lực thúc đẩy quan hệ đối tác toàn diện đang phát triển tốt đẹp giữa hai nước, Chính phủ Việt Nam đã nhiều lần phát đi thông điệp rằng, Việt Nam sẵn sàng trao đổi với Hoa Kỳ về các vấn đề hai bên cùng quan tâm, trong đó có vấn đề tôn giáo, trên tinh thần thẳng thắn, cởi mở và tôn trọng lẫn nhau. Thế nhưng, để bắt đầu điều đó, những người được coi là tác giả báo cáo của USCIRF cần rũ bỏ vai trò “cứu tinh” cho những kẻ lợi dụng khái niệm tự do tín ngưỡng, tôn giáo để quấy phá và sớm thức tỉnh sau “cơn mê sảng về tôn giáo” kéo dài bấy lâu nay.
VŨ HÙNG

Hồ Chí Minh: Người theo chủ nghĩa dân tộc hay chiến sĩ cộng sản?

18/05/2020 05:00

Hiện nay, trong khi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta và bạn bè quốc tế đang tổ chức các hoạt động trọng thể kỷ niệm 130 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh thì các thế lực phản động, cơ hội chính trị lại tăng cường các luận điệu xuyên tạc, bịa đặt, nhằm phủ định tư tưởng và “hạ bệ thần tượng” Hồ Chí Minh. Một trong số đó là cáo buộc vô căn cứ khi cho rằng: Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc theo ý nghĩa tiêu cực.

Chủ nghĩa dân tộc là gì?
Theo Chủ nghĩa cộng sản khoa học-Từ điển quan niệm: Chủ nghĩa dân tộc-tâm lý, hệ tư tưởng, thế giới quan và chính sách thích những dân tộc này hơn những dân tộc khác, tán dương dân tộc mình, gây căm thù dân tộc và thù hằn chủng tộc” (1). Theo đó, chủ nghĩa dân tộc có nhiều thứ, từ chủ nghĩa sôvanh phát xít trắng trợn cho đến chủ nghĩa dân tộc tinh tế được che đậy bằng những lời lẽ Marxist sáo rỗng. Nó là chủ nghĩa sôvanh nước lớn của một dân tộc đi áp bức và khinh miệt các dân tộc khác, lại cũng là chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi của dân tộc bị áp bức, biểu hiện trong khuynh hướng khép kín và không tin vào các dân tộc khác. Mặt trái của chủ nghĩa dân tộc là chủ nghĩa thế giới của bọn đế quốc, tuyên truyền cho việc hòa tan các dân tộc và các sắc tộc vào trong các dân tộc “kiểu mẫu” (các dân tộc thống trị).
Về nguồn gốc và bản chất của chủ nghĩa dân tộc. Các quan hệ tư hữu và bóc lột đẻ ra chủ nghĩa dân tộc. Những đại diện của nó là giai cấp tư sản và tiểu tư sản. Chủ nghĩa dân tộc xa lạ với bản chất của giai cấp vô sản là giai cấp đại diện cho chủ nghĩa quốc tế. Về bản chất, chủ nghĩa dân tộc là thù địch với chủ nghĩa xã hội (CNXH), với thế giới quan Marxist-Leninist, nó mâu thuẫn với quá trình khách quan của sự phát triển và sự xích lại gần nhau của các dân tộc xã hội chủ nghĩa (XHCN).
Về thái độ của người cộng sản chân chính đối với chủ nghĩa dân tộc. Đấu tranh chống chủ nghĩa dân tộc cũng là một tất yếu khách quan của cách mạng XHCN, của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; là sự bảo đảm thắng lợi cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của các dân tộc bị áp bức. Đúng như Lênin đã chỉ rõ, cuộc đấu tranh chống những thành kiến dân tộc chủ nghĩa “càng có ý nghĩa trọng đại khi vấn đề chuyển nền chuyên chính vô sản từ phạm vi quốc gia (tức là mới tồn tại ở trong một nước và không có khả năng quyết định được chính trị thế giới) thành chuyên chính vô sản trên quy mô quốc tế (tức là chuyên chính vô sản ít nhất cũng ở một số nước tiên tiến và có khả năng tác động quyết định đến toàn bộ chính trị thế giới), ngày càng trở nên bức thiết” (2).
Tìm đáp án câu hỏi “Chủ nghĩa dân tộc là gì?” ở trên và đối chiếu với trả lời nhà báo quốc tế vào tháng 12-1965 của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nói rằng lúc còn thanh niên, tôi theo “chủ nghĩa dân tộc”, có lẽ không đúng. Vì hồi đó tôi chỉ biết thương đồng bào tôi, chứ chưa biết “chủ nghĩa” gì cả. Khi đi sang châu Phi, tôi thấy nhân dân thuộc địa ở đây cũng cực khổ, cũng bị áp bức, bóc lột như nhân dân Đông Dương. Khi sang các nước châu Âu, tôi thấy ở đó cũng có một số người rất giàu, “ngồi mát ăn bát vàng”, và lớp người nhân dân lao động rất nghèo khổ. Tôi suy nghĩ nhiều lắm. Trong lúc đó thì Cách mạng Tháng Mười vĩ đại thành công ở Nga. Lênin tổ chức Quốc tế Cộng sản. Rồi Lênin phát biểu Luận cương cách mạng thuộc địa. Những việc đó làm cho tôi thấy rằng: Nhân dân lao động Đông Dương, nhân dân các thuộc địa và nhân dân lao động muốn tự giải phóng thì phải đoàn kết lại và làm cách mạng. Vì vậy, tôi trở nên người theo Chủ nghĩa Mác-Lênin” (3) là luận cứ khoa học quan trọng nhằm bác bỏ luận điệu sai trái: Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc khi họ đồng nhất “chủ nghĩa dân tộc” trong tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa dân tộc sôvanh, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, mang bản chất của giai cấp tư sản. Về vấn đề này, không ai khác và hơn ai hết, Hồ Chí Minh là người kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa dân tộc tư sản; vì vậy, tán thành bản Tuyên bố của Hội nghị đại biểu các Đảng cộng sản và công nhân các nước XHCN, họp ở Moscow từ ngày 14 đến 16-11-1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Bản Tuyên bố nhắc nhở chúng ta cần phải tăng cường giáo dục theo tinh thần Chủ nghĩa Mác-Lênin và đấu tranh chống những khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa như chủ nghĩa dân tộc tư sản, chủ nghĩa sôvanh, chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa xét lại, đặc biệt là chủ nghĩa xét lại” (4).
Hồ Chí Minh: Người theo chủ nghĩa dân tộc hay chiến sĩ cộng sản?
Nhân dân bản Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng vui mừng chào đón Bác Hồ về thăm, ngày 20-2-1961. Ảnh: Tư liệu TTXVN.
Hồ Chí Minh có phải người theo chủ nghĩa dân tộc không?
Câu trả lời dứt khoát là “CÓ”-nhưng đó là chủ nghĩa dân tộc vô sản-tức là không như các thế lực phản động, các phần tử cơ hội chính trị, thoái hóa, bất mãn ở trong, ngoài nước vẫn xuyên tạc và cáo buộc. Cùng quan điểm này, tác giả Dương Quốc Dũng đã kết luận thực chất đó trong bài viết cùng tên Chủ nghĩa dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh thực chất là chủ nghĩa dân tộc vô sản đăng trên Tạp chí Cộng sản, ngày 19-5-2011; đồng thời khẳng định sự sai lầm về nhận thức, tính phản động về tư tưởng và sự nguy hại của luận điệu trên: “Kết luận trên cũng có nghĩa là luận điểm “thực chất tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa dân tộc” là một cách hiểu và diễn đạt không chính xác, không đầy đủ và xuyên tạc tư tưởng của Người. Luận điểm sai trái ấy đi ngược lại lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH-tư tưởng chỉ đạo chiến lược lớn xuyên suốt cả quá trình cách mạng Việt Nam. Rõ ràng luận điểm ấy muốn Việt Nam từ bỏ ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH, từ bỏ con đường mà dân tộc ta đã lựa chọn và quyết hy sinh phấn đấu trong hơn 80 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam” (5). Theo đó, cũng rút ra kết luận Chủ tịch Hồ Chí Minh là chiến sĩ cộng sản chân chính.
Đâu là sự thật? Chỉ có một sự thật là: Chủ nghĩa dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh thực chất là chủ nghĩa dân tộc vô sản. Chính vì vậy, từ rất sớm, năm 1924, trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, tại mục "D. Chủ nghĩa dân tộc", Nguyễn Ái Quốc lần đầu tiên đề cập và khẳng định vai trò của chủ nghĩa dân tộc chân chính: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước. Chính nó đã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho những người cu li biết phản đối; nó làm cho những người “nhà quê” phản đối ngầm trước thuế tạp dịch và thuế muối. Cũng chủ nghĩa dân tộc đã luôn luôn thúc đẩy các nhà buôn An Nam cạnh tranh với người Pháp và người Trung Quốc; nó đã thúc giục thanh niên bãi khóa, làm cho những nhà cách mạng trốn sang Nhật Bản và làm vua Duy Tân mưu tính khởi nghĩa năm 1917…” (6).
Về mặt thực tiễn, chính chủ nghĩa dân tộc chân chính đã làm nên sức mạnh Việt Nam Độc lập Đồng minh (tên chính thức trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương), còn gọi là Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội, hay gọi tắt là Việt Minh, là liên minh chính trị do Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập ngày 19-5-1941 với mục đích công khai là “Liên hiệp tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn thể dân chúng yêu nước, đang cùng nhau đánh đuổi Nhật-Pháp, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, dựng lên một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”-một tổ chức có mục tiêu lý tưởng cao cả. Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tán thành và dẫn lại lời Giáo sư Giugơlát khi cho rằng: “Pháp không thể tẩy được Việt Minh một lẽ là vì chính trị Pháp lu mờ. Lực lượng của Việt Minh trước hết là một lực lượng tinh thần, họ là xương thịt của chủ nghĩa dân tộc Việt Nam. Một lực lượng nữa của Việt Minh là những lãnh tụ của nó chẳng những hy sinh tất cả cho lý tưởng của họ mà lại có tài chỉ huy, thạo cách điều khiển chính quyền, và cực kỳ liêm khiết” (7). Đó là lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, lý tưởng cao đẹp nhất mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.
Trong bài viết Con đường dẫn tôi đến Chủ nghĩa Lênin đăng trên Báo Nhân Dân, số 2226, ngày 22-4-1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định một sự thật không thể xuyên tạc được, đó là: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác-Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có CNXH, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Ở nước ta và ở Trung Quốc cũng vậy, có câu chuyện đời xưa về cái “cẩm nang” đầy phép lạ thần tình. Khi người ta gặp những khó khăn lớn, người ta mở cẩm nang ra, thì thấy ngay cách giải quyết. Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới CNXH và chủ nghĩa cộng sản” (8).
Đây không chỉ khẳng định Chủ tịch Hồ Chí Minh là người luôn kiên trì theo chủ nghĩa dân tộc vô sản và bản thân Người được nhân loại tiến bộ thừa nhận là chiến sĩ lỗi lạc trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; mà còn là bằng chứng đanh thép, là cơ sở khoa học để bác bỏ luận điệu cho rằng Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc. Do vậy, khi cho rằng "tư tưởng Hồ Chí Minh thực chất là chủ nghĩa dân tộc" là một cách diễn đạt thiếu chính xác, không đầy đủ, là sai lầm về mặt lý luận, phản động về mặt thực tiễn và đã bị thực tiễn bác bỏ.
----------------------
(1) A.M.Ru-mi-an-txép (chủ biên), Chủ nghĩa cộng sản khoa học-Từ điển, Nxb. Tiến Bộ, M.1986, tr.106.
(2) V.I.Lê-nin, Toàn tập, tập 26, Tiếng Việt, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1980, tr.202-203
(3) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011; Sđd, Hồ Chí Minh, tr.699-700
(4) Sđd, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 11, tr.189-190
(5) http://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chi-tiet-tim-kiem/-/2018/12006/chu-nghia-dan-toc-trong-tu-tuong-ho-chi-minh-thuc-chat-la-chu-nghia-dan-toc-vo-san.aspx
(6) Sđd, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, tr.511
(7) Sđd, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, tr.161
(8) Sđd, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, tr.563
Thượng tá, NCS NGUYỄN HỒNG HẢI
Trung tá, TS HÀ SƠN THÁI

Không thể vơ đũa cả nắm, phủ nhận sạch trơn

16/05/2020 22:41

Lợi dụng việc một số cán bộ quân đội có sai phạm bị xử lý, các thế lực thù địch, phản động, đối tượng chống đối, cơ hội chính trị cố tình tìm mọi cách xuyên tạc, bôi nhọ nhằm hạ thấp uy tín của Quân đội nhân dân Việt Nam. Nhưng ai cũng biết rằng, không thể đánh tráo giữa bản chất và hiện tượng, đừng thấy cây mà không thấy rừng. Bản chất, truyền thống tốt đẹp của quân đội và sự thật các vụ việc không cho phép chúng thực hiện được hành vi vơ đũa cả nắm, phủ nhận sạch trơn đó…

Quan trọng là biết sửa sai
Giữ nghiêm kỷ luật quân đội là bản chất, truyền thống tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây cũng là cội nguồn sức mạnh để quân đội ta luôn chiến thắng, trưởng thành và phát triển. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng xác định: “Bộ đội không có kỷ luật, đánh giặc nhất định thua”. Người chỉ rõ: “Quân đội mạnh là nhờ giáo dục khéo, nhờ chính sách đúng và nhờ kỷ luật nghiêm. Vì vậy kỷ luật phải nghiêm minh”. Thực hiện nghiêm chỉnh lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh,  trong hơn 75 năm qua, cán bộ, chiến sĩ quân đội nhân dân đã không ngừng rèn luyện, chấp hành nghiêm kỷ luật quân đội, đồng thời giữ vững kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước, được Đảng, Nhà nước và nhân dân trân trọng, tin tưởng. Trong xã hội đã từ lâu xuất hiện dư luận đánh giá: Môi trường quân đội rất mẫu mực, là nơi rèn luyện con người nghiêm túc nhất! Nhiều thanh niên, gia đình mong muốn bản thân và con em mình được vào quân đội để rèn luyện, thử thách, trưởng thành.
Trong hoạt động quân sự đầy gian nan, thử thách với biết bao khắc nghiệt đòi hỏi nhiều hy sinh, cống hiến, bên cạnh những chiến công, thành tích, ưu điểm của tuyệt đại bộ phận cán bộ, chiến sĩ, thì cũng có một số người mắc phải sai lầm, khuyết điểm, vi phạm kỷ luật quân đội, kỷ luật Đảng, thậm chí vi phạm pháp luật Nhà nước. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trên con đường cách mạng của mình, Đảng ta, quân đội ta cũng như mỗi đồng chí chúng ta luôn luôn có ưu điểm và không tránh khỏi có khuyết điểm. Chỉ có không ngừng đấu tranh, phê bình và tự phê bình, nhận rõ đúng, sai, phát huy cái đúng, khắc phục cái sai, mới có thể làm cho mình, cho Đảng, cho cách mạng tiến bộ mãi”. “Chúng ta không sợ sai lầm, chỉ sợ sai lầm mà không quyết tâm sửa chữa”. Thấm nhuần tinh thần ấy, quân đội luôn có quan điểm, thái độ đúng trong đánh giá, xử lý vấn đề này. Số ít cán bộ, chiến sĩ mắc sai phạm tuy chỉ là hiện tượng cá biệt, đơn lẻ, không làm phai nhạt, lu mờ hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ, không làm thay đổi bản chất tốt đẹp của quân đội. Phải hiểu rõ như vậy để chúng ta không chán nản, bi quan, hiểu sai về kỷ luật quân đội, mà cần lấy đó làm bài học kinh nghiệm răn dạy chính mình và đồng đội, không mắc vào những vi phạm tương tự. Thực tế đáng mừng là quân đội, từ Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đến các cơ quan, đơn vị trong toàn quân luôn nhất quán thống nhất kiên quyết đấu tranh, phê phán, xử lý nghiêm minh với những cá nhân, tập thể, sự việc sai phạm. Sai phạm đến mức phải xử lý là kiên quyết xử lý. Đã có một số cán bộ, chiến sĩ, kể cả cán bộ cao cấp trong quân đội bị khai trừ Đảng, tước quân tịch, lĩnh án tù, thậm chí trong kháng chiến chống Pháp từng có một cán bộ quân hàm đại tá bị tử hình vì vi phạm kỷ luật quân đội, pháp luật Nhà nước. Trong quá trình xem xét xử lý các sai phạm của một số cán bộ, chiến sĩ, quân đội cũng như  Đảng, Nhà nước, pháp luật cũng đã luôn chú ý xem xét đến những công lao, thành tích, bối cảnh, mức độ sai phạm  của người vi phạm, hài hòa giữa sự nghiêm minh và tính răn đe, giáo dục để xử lý thấu lý, đạt tình, vừa kiên quyết, vừa nhân văn. Việc Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, lãnh đạo chỉ huy các cơ quan đơn vị trong toàn quân luôn có quan điểm đúng, sự nhìn nhận đánh giá khách quan, có biện pháp xem xét, xử lý nghiêm minh, đúng người, đúng việc, đúng tội, công khai, minh bạch, không có vùng cấm, không bao che, giấu giếm… đã làm cho Đảng, Nhà nước, nhân dân hiểu hơn, đánh giá đúng hơn và thêm tin tưởng, yêu qúy, qua đó góp phần để quân đội thêm trưởng thành, vững mạnh.
Không thể vơ đũa cả nắm, phủ nhận sạch trơn
 Bộ đội Binh chủng Hóa học thực hiện tiêu độc, khử trùng tại ổ dịch Bệnh viện Bạch Mai, Hà Nội (tháng 3-2020) càng tô thắm thêm hình ảnh cao đẹp "Bộ đội Cụ Hồ". Ảnh: TRỌNG HẢI.
Không để bị lợi dụng 
Trong khi đó, các thế lực thù địch, phản động, đối tượng chống đối, cơ hội chính trị đã lợi dụng sai phạm đơn lẻ, “con sâu làm rầu nồi canh” của một số cán bộ, chiến sĩ để cố tình tiến hành âm mưu, thủ đoạn bôi nhọ, vu cáo nhằm hạ thấp uy tín quân đội. Họ thổi phồng các vi phạm, bóp méo sự việc, thậm chí là bịa đặt, vu cáo một cách vô căn cứ, theo kiểu võ đoán, áp đặt, vơ đũa cả nắm, phủ nhận sạch trơn. Xin nêu một vài ví dụ: Trong việc phòng, chống dịch Covid-19 vừa qua, quân đội đã tham gia rất tích cực, hiệu quả, được Đảng, Chính phủ và nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế đánh giá cao. Biết bao người xúc động, cảm phục trước việc cán bộ, chiến sĩ quân đội vào rừng mắc võng ở, trải chiếu dưới đất nằm để nhường chỗ cho người dân cách ly có nơi ở tốt; rồi lo chu đáo cơm ngon, áo ấm, chăm sóc, cứu chữa, nghiên cứu khoa học tìm ra những thiết bị tiên tiến… để chữa bệnh cho nhân dân, ủng hộ các nước cùng bị dịch…
Ngày 28-3-2020, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc gửi thư khen ngợi cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam, trong đó viết: “Là lực lượng nòng cốt, tuyến đầu, các đồng chí không quản ngại khó khăn, gian khổ, chấp nhận hy sinh, đối mặt với nguy cơ lây nhiễm để hoàn thành sứ mệnh cao cả, thể hiện lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc, và nhân dân, vì nhân dân phục vụ. Hình ảnh cán bộ, chiến sĩ Quân đội với những đêm ngủ ngoài trời, những bữa cơm ăn vội trong cuộc chiến chống dịch Covid-19 đã tô thắm truyền thống cao đẹp của người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng. Những hành động và đóng góp nổi bật của toàn lực lượng Quân đội được lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nhân dân ghi nhận, đánh giá cao, xứng đáng là điểm tựa tinh thần của quần chúng nhân dân, là chỗ dựa vững chắc của đồng bào, đồng chí cả nước trong công cuộc phòng, chống và quyết tâm đẩy lùi, chiến thắng đại dịch Covid-19”. Thế mà các thế lực thù địch, phản động, đối tượng chống đối, cơ hội chính trị đã lợi dụng việc một vài cán bộ quân đội có sai sót trong quá trình tham gia phòng, chống dịch để vu cáo, bôi nhọ danh dự quân đội, phủ nhận sự đóng góp tích cực, hiệu quả của quân đội trong thực hiện nhiệm vụ đột xuất, quan trọng này. Trên thực tế quân đội cũng đã kịp thời có biện pháp xử lý kiên quyết, nghiêm minh với vi phạm của một vài cán bộ đó, được dư luận chung đánh giá cao, thêm tin tưởng, yêu quý  quân đội, đồng thời bày tỏ sự bất bình, phê phán thái độ, hành động cực đoan với dụng ý không tốt của những kẻ xấu. 
Đối với sai phạm của Đô đốc Nguyễn Văn Hiến và một số đồng phạm, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã thẳng thắn, nghiêm minh trong việc xem xét, xử lý vụ việc theo thẩm quyền của mình và quy định của pháp luật (theo kế hoạch, ngày 18-5-2020, Tòa án Quân sự Quân chủng Hải quân sẽ đưa vụ án ra xét xử ). Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng đã báo cáo với Trung ương để có hình thức xử lý nghiêm khắc về Đảng và chính quyền với Đô đốc Nguyễn Văn Hiến.
Nhưng các thế lực thù địch, phản động, đối tượng chống đối, cơ hội chính trị phớt lờ thực tế đó, cố tình xuyên tạc, vu cáo quân đội bao che, lấp liếm, đấu đá nội bộ. Đặc biệt nguy hiểm khi chúng áp đặt, xuyên tạc cho rằng các sai phạm xảy ra trong quân đội là từ bản chất, đặc điểm của quân đội, quân đội không thể sửa chữa sai phạm, không thể lấy lại được danh dự, uy tín… Phải thẳng thắn thừa nhận rằng sai phạm xảy ra là do chủ quan rèn luyện, phấn đấu chưa tốt của các cá nhân, tập thể vi phạm và có cả phần trách nhiệm trong việc quản lý, giáo dục, xử lý của lãnh đạo, chỉ huy một số cơ quan đơn vị trong quân đội. Từ đó quân đội đã luôn xử lý nghiêm minh, có biện pháp ngăn chặn, khắc phục kịp thời, nên có những hiệu quả thiết thực. Nhiều cá nhân, tập thể mắc sai phạm đã sửa chữa tiến bộ, các cơ quan, đơn vị nói riêng và toàn quân nói chung vẫn không ngừng giữ vững kỷ luật, kỷ cương và trưởng thành phát triển. Điều rất hạnh phúc của quân đội là dù trong quân đội vẫn còn một số sai phạm, dù các thế lực thù địch, phản động, đối tượng chống đối, cơ hội chính trị  thường xuyên dùng các âm mưu, thủ đoạn thâm độc, tinh vi vu cáo, nói xấu…nhưng Đảng, Nhà nước và tuyệt đại bộ phận nhân dân vẫn dành cho quân đội sự tin tưởng, yêu thương. Đây là niềm tự hào, hạnh phúc, mà cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam cần trân trọng, trăn trở suy nghĩ để sống, làm việc tốt hơn, không phụ sự bao dung, tin yêu ấy.
Chúng ta cần bình tĩnh, tỉnh táo, tin tưởng vào sự nghiêm minh của kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của quân đội. Những hình thức kỷ luật cũng như các bản án nghiêm khắc, nhân văn không làm quân đội yếu đi, mà ngược lại sẽ giúp quân đội trưởng thành, phát triển hơn. Điều quan trọng là mỗi cán bộ, chiến sĩ, cơ quan, đơn vị trong quân đội phải luôn đoàn kết thống nhất, chủ động rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, chấp hành nghiêm kỷ luật quân đội, kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước, trở thành tấm gương mẫu mực để cả cộng đồng tin tưởng, yêu thương và học tập, để ngăn chặn hiệu quả sự lợi dụng xuyên tạc, chống phá. Tại Hội nghị Quân ủy Trung ương phiên họp cuối năm 2017, đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Bí thư Quân ủy Trung ương, đã phát biểu: “Phải đặc biệt giữ gìn, phát huy hình ảnh, uy tín của quân đội, giữ vững niềm tin yêu của nhân dân đối với quân đội. Muốn vậy, kỷ luật, kỷ cương phải nghiêm, quân đội phải làm gương cho các nơi khác”. Các cơ quan, đơn vị cần làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, nắm bắt tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ để tránh hiện tượng dao động, nghi ngờ, a dua, thiếu tin tưởng, mắc mưu kẻ xấu, ảnh hưởng đến tư tưởng, hành động của bộ đội. Cần thực hiện tốt những quy định về kỷ luật của quân đội, là kỷ luật tự giác, nghiêm minh; chú trọng mối quan hệ chặt chẽ giữa dân chủ và kỷ luật, cá nhân và tập thể, tự phê bình và phê bình; phát huy cao nhất tính nêu gương của đội ngũ cán bộ các cấp; kiên quyết không để xảy ra sai phạm, nếu có sai phạm thì phải kịp thời xử lý nghiêm minh, công khai, minh bạch.
CÔNG MINH

Lợi dụng văn học để hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh - sự nguy hiểm cần bác bỏ

15/05/2020 15:00

Các thế lực thù địch đã và đang thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” bằng cách tập trung xuyên tạc, phủ nhận hình tượng Hồ Chí Minh, nhằm mục đích “hạ bệ”, “giải thiêng” thần tượng dân tộc, từ đó phá hoại mối đoàn kết ruột thịt giữa Đảng và nhân dân, gây ra sự đổ vỡ niềm tin của người dân vào lãnh tụ, vào Đảng và cách mạng.

Sự tác động này vừa trực tiếp vừa gián tiếp, vừa trước mắt vừa lâu dài, nhằm dẫn đến sự “thoát ly thần tượng”, làm phai nhạt tiến tới xóa bỏ sự ảnh hưởng của tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh ở một bộ phận đảng viên và quần chúng.
Văn học, nghệ thuật là một thành tố cơ bản, quan trọng hàng đầu của văn hóa-tư tưởng, là lĩnh vực nhạy cảm, có sức lan tỏa mạnh. Do vậy, các thế lực thù địch thường dựa vào đó để xuyên tạc, bôi nhọ đời tư và phủ nhận tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh. Họ lấy chính Hồ Chí Minh làm hình tượng cơ bản, chủ yếu nhưng được nhìn bằng quan niệm tiêu cực, mặt trái, bịa đặt với dụng ý tạo ra một con người Hồ Chí Minh khác hẳn, đối lập với con người Hồ Chí Minh lớn lao, trong sáng đời thường.
Dựng chuyện xuyên tạc Nhật ký trong tù
Họ bịa ra rằng, người viết tập thơ Nhật ký trong tù là một người tù đã chết, không phải là Hồ Chí Minh. Về vấn đề này, Lê Hữu Mục đã viết một tiểu luận phủ nhận Hồ Chí Minh là tác giả của Nhật ký trong tù. Động cơ viết tiểu luận này được chính Lê Hữu Mục thể hiện ở một bài phỏng vấn trong chương trình phát thanh của Hội Văn hóa Việt tại California (Hoa Kỳ): “Tôi cố gắng viết, chỉ nội trong một tháng là xong... Anh em ở hải ngoại bảo nhau phải tìm mọi cách để xóa bỏ cái huyền thoại Hồ Chí Minh”, không để cho “có chuyện Hồ Chí Minh sẽ được tôn vinh là nhà văn hóa kiệt xuất do UNESCO công nhận”. Thế là đã rõ, mục đích của ông ta và “các anh em” là không để cho UNESCO vinh danh Hồ Chí Minh.
Lợi dụng văn học để hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh - sự nguy hiểm cần bác bỏ
Ảnh minh họa.
Lập luận của Lê Hữu Mục bắt đầu từ vấn đề tên tuổi tác giả. Ông ta cho rằng, người viết xưng là “lão phu”, theo “chiều sâu văn hóa” phương Đông, như vậy, người viết Ngục trung nhật ký (Nhật ký trong tù) là một ông già. Lập luận này chỉ đánh lừa được những người ít hiểu về Hán học và văn hóa phương Đông. Chúng tôi xin phép ghi lại lời phản biện của nhà Hán học hàng đầu Việt Nam-PGS Phan Ngọc: “Dù có tự hào về Hán học đến đâu, không ai dám nói Đỗ Phủ không biết làm thơ, không hiểu phong tục cổ truyền Trung Hoa, cũng không dám chê Đỗ Phủ dốt nát. Đỗ Phủ chính là vị thầy về thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh… Ông Đỗ này luôn luôn tự xưng mình là lão (già)”(*). Học giả Phan Ngọc chứng minh Đỗ Phủ xưng “lão” trong thơ năm 38 tuổi (trong bài Đầu giản Hàm, Hoa lưỡng huyện chư tử-Thư gửi các vị hai huyện Hàm Dương, Hoa Nguyên), năm 45 tuổi (Ai giang đầu-Nỗi đau xót đầu sông), năm 51 tuổi (Đào trúc trượng-Cây gậy trúc đào)... Đó là những căn cứ của sự thật, không thể bác bỏ!
Như thế, Bác Hồ xưng “lão phu” trong Nhật ký trong tù là điều hoàn toàn tự nhiên!
Trong bài phản biện tiểu luận của Lê Hữu Mục, Phan Ngọc vạch ra “tám lỗi về hình thức”. Xin trích lại một khái quát cuối bài của PGS Phan Ngọc, một khái quát của chân lý nghệ thuật, của lẽ phải đời thường: “Theo tôi, muốn viết nổi tác phẩm này, giỏi làm thơ là chuyện nhỏ. Cái quan trọng là một ham muốn suốt đời đấu tranh cho nhân loại bị áp bức, một chí khí gang thép, nhưng chủ yếu là một tâm hồn trong sáng của Đức Phật, Xôcrat (Socrate), Giêsu (Jésus), Găngđi (Gandhi) mới làm được”.
Ngoài “tám lỗi” cơ bản mà PGS Phan Ngọc đã phản biện một cách đích đáng, đến lượt chúng tôi xin chỉ ra một vài bắt bẻ một cách rất vô lối của Lê Hữu Mục.
Để phá vỡ tính chỉnh thể thống nhất của hình tượng thơ, Lê Hữu Mục dùng thủ thuật xuyên tạc, thêm thắt và quy kết người dịch sai. Lê Hữu Mục cho rằng, người dịch Ngục trung nhật ký đã tìm mọi cách để lái câu thơ vào quỹ đạo mà họ định trước. Ví dụ, trong Thụy bất trước (Không ngủ được), người dịch đã tô thêm màu vàng vào ngôi sao năm cánh để giải thích rằng ngay trong giấc ngủ, Bác cũng chỉ nhìn thấy Tổ quốc được tượng trưng bằng ngôi sao vàng, trong khi nguyên văn chỉ nói: “Mộng hồn hoàn nhiễu ngũ tiêm tinh”, nghĩa là hồn mộng cứ luẩn quẩn loanh quanh ở chỗ ngôi sao năm cánh, trong giấc mơ, lòng chỉ hướng về ngũ tinh liên châu tức là hướng về đoàn tụ gia đình, nghĩ đến vợ con mà lâu ngày mình đã xa.
Nghĩa chữ Hán trong câu thơ “Mộng hồn hoàn nhiễu ngũ tiêm tinh” là: Hồn mộng đã quẩn quanh nơi ngôi sao năm cánh. Chê người để lôi cuốn sự chú ý của độc giả vào “cái sai” của người (người dịch), trong khi đó, chính Lê Hữu Mục lại bịa đặt nghĩa bằng cách thêm ý “lòng chỉ hướng về ngũ tinh liên châu tức là hướng về đoàn tụ gia đình, nghĩ đến vợ con mà lâu ngày mình đã xa”. Bịa đặt để lái vấn đề sang nghĩa khác: Người tù đã có vợ con rồi! Tức không phải Hồ Chí Minh làm vì Hồ Chí Minh không có vợ con! Hai chữ “tức là” của Lê Hữu Mục hoàn toàn là sự suy diễn.
Vấn đề “quốc tịch” của tác giả được đặt ra để “nghiên cứu”: Lê Hữu Mục bám vào hai chữ “Hán gian” ở trong các bài Thế lộ nan (Đường đời hiểm trở): “Khước bị hiềm nghi tố Hán gian” (Thế mà bị tình nghi là Hán gian) và Nhai thượng (Trên đường phố): “Nhai thượng nhân tranh khán Hán gian” (Ngoài phố tranh nhau xem Hán gian) rồi quả quyết: “Muốn làm Hán gian thì đầu tiên phải là người Hán đã chứ, làm sao một người Việt Nam có thể làm Hán gian?”.
Logic học gọi đây là thủ thuật “đánh tráo”. “Thế mà bị tình nghi là Hán gian”. Ai nghi? Tức bọn cai ngục nghi ngờ người tù là “Hán gian”. Người khác nghi như thế chứ không phải “người tù” nhận thế. Mà người khác nghi là quyền, là việc của người ta. Nhưng Lê Hữu Mục đã đánh tráo chủ thể “nghi” từ “bọn cai ngục” (bị ẩn đi) ép sang cho tác giả câu thơ (người tù), để hiểu: Vì là người Hán nên tác giả câu thơ (tức Già Lý) rất buồn bị nghi là Hán gian!
Thế là ai cũng thấy ông ta sử dụng thủ thuật tách rời và đánh tráo khá tinh vi!
Tại sao một số người lại tập trung xuyên tạc Nhật ký trong tù? Vì đó là bảo vật quốc gia, một bảo hiểm “bằng vàng” về con người Bác Hồ đại nhân, đại trí, đại dũng, đã được cả thế giới khẳng định giá trị nội dung bất hủ và hình thức nghệ thuật điêu luyện. Kiệt tác đã được dịch ra 25 thứ tiếng trên thế giới!
Phủ nhận, hạ thấp, xuyên tạc con người và tư tưởng Hồ Chí Minh
Hạt nhân tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng đoàn kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết/ Thành công, thành công, đại thành công. Đây không chỉ là tư tưởng thời nay mà còn là chân lý lịch sử tổng kết hơn bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, sẽ mãi là nguồn sáng cho mai sau. Vì lẽ đó, nhiều “tác giả” tập trung công kích nhằm vào tư tưởng này.
Dựa vào cách xưng hô đại từ “Bác”, Vũ Thư Hiên và Bùi Tín thể hiện “băn khoăn” cho rằng, Hồ Chí Minh xưng là “Bác” khi nói chuyện với dân chúng, trong đó có cả những cụ già cao tuổi.
Để giải đáp sự “băn khoăn” của hai “tác giả” này cần phải đặt vấn đề vào hoàn cảnh lịch sử. Một là, cả nước ta gọi Chủ tịch Hồ Chí Minh là Bác Hồ, tức coi Người như là một thành viên trong mỗi gia đình người Việt. Đó cũng là ý nguyện, là tâm nguyện của Người. Thế nên Hồ Chí Minh xưng "Bác" nhưng chủ yếu là xưng hô với các cháu thanh thiếu niên. Còn với các cụ tuổi cao, có lần Bác gọi “cụ” xưng “cháu”, còn thường là gọi “các cụ” xưng “tôi”, không như sự xuyên tạc của hai “tác giả” Vũ Thư Hiên và Bùi Tín.
Bùi Tín cũng từng đặt vấn đề đúng hay sai về việc Hồ Chí Minh truyền bá mạnh mẽ Chủ nghĩa Mác-Lênin, Chủ nghĩa Stalin và Chủ nghĩa Mao ở Việt Nam…
Tuy chỉ là đưa ra những câu hỏi tưởng chừng khách quan nhưng cũng rõ cái ẩn ý thâm độc: Sự thật (Hồ Chí Minh truyền bá Chủ nghĩa Mác là chân lý lịch sử, là quy luật tất yếu) đã hiển nhiên nhưng lại tạo ra tình huống có vấn đề mới để lái sự tranh luận vào chỗ lẽ ra không đáng có mà thành có. Thứ nhất, các thế lực phản động, thù địch tập trung xuyên tạc, hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh là cách để hạ thấp vai trò lịch sử của Bác trong việc truyền bá chủ nghĩa yêu nước về Việt Nam, từ đó xuyên tạc con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là sai lầm. Thứ hai, xuyên tạc về tiểu sử, đời tư là một cách “bôi đen” thần tượng để tạo ra những cái nhìn lệch lạc dẫn tới dần xóa bỏ thần tượng trong nhận thức của một bộ phận nhân dân. Thứ ba, các thế lực phản động rất có ý thức Bác Hồ là sự kết tinh hài hòa những giá trị văn hóa truyền thống và văn hóa của nền cách mạng mới nên chúng ra sức “xây dựng” một mô hình Hồ Chí Minh khác. Thứ tư, càng thấy nhiệm vụ xây dựng, đào tạo, giáo dục đội ngũ văn nghệ sĩ cách mạng là cực kỳ quan trọng. Dưới ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật và cũng rất đúng với bản chất nghệ thuật, việc giáo dục lý tưởng cho văn nghệ sĩ nên tập trung vào 3 vấn đề trọng tâm: Tình yêu văn hóa truyền thống; niềm quý trọng nhân dân; niềm tin vào Đảng, cách mạng và tiền đồ tươi sáng của dân tộc. Từ vấn đề thứ nhất cho thấy, cần đưa văn hóa truyền thống vào chương trình giảng dạy bắt buộc ở tất cả các trường văn hóa, nghệ thuật. Vì theo lẽ tự nhiên, có thấu hiểu mới thấu cảm, mới yêu và say mê. Với vấn đề thứ hai thì biện pháp tốt nhất là tăng cường đưa văn nghệ sĩ (đi thực tế) về với nhân dân, sống đời sống của nhân dân. Có gần gũi mới hiểu để yêu thương, quý trọng. Vấn đề thứ ba là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền. Mỗi cán bộ lãnh đạo phải là tấm gương soi trong sáng nhất. Mỗi nghị quyết, chỉ thị của Đảng được thực thi một cách triệt để, kiên quyết sẽ là sự thuyết phục cao nhất với văn nghệ sĩ vốn rất nhạy cảm với chính trị.
Cuộc vận động sáng tác và quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí về Bác Hồ cần thực hiện một cách rộng rãi, quy mô, thường xuyên, liên tục. Vì Bác Hồ là một hiện tượng văn hóa mang tầm nhân loại, với tầm vóc tư tưởng và nghệ thuật lớn lao để sáng tạo đến không cùng!
Cây xanh văn nghệ sĩ hôm nay phải cắm 3 chùm rễ sâu vào 3 mảnh đất: Văn hoá dân tộc/nhân dân; văn hóa Đảng/cách mạng; văn hóa nhân loại/nhân văn và vươn cao cành lá lên bầu trời thời đại quang hợp ánh sáng tư tưởng của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để kết trái nghệ thuật phục vụ nhân dân.
Đại tá, PGS, TS NGUYỄN THANH TÚ
(*) Viện Văn học (1993). Suy nghĩ mới về Nhật ký trong tù. Nxb Giáo dục, tr. 620, 621.