Nhận thức đúng giá trị thiêng liêng của Chiến thắng 30-4-1975

Thứ năm, 17/04/2025 - 05:32

Hiện nay, bên cạnh đại đa số nhận thức đúng thì vẫn có những cán bộ, đảng viên có nhận thức lệch lạc về giá trị, ý nghĩa của Chiến thắng 30-4-1975 - Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Họ đã ăn phải "bả độc" thông tin của các thế lực thù địch, để từ đó có những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", sai lệch trong nhận thức và hành động.

Vừa qua, tôi đã có một cuộc tranh luận khá gay gắt với một người bạn làm quản lý tại một tờ báo điện tử có tiếng, nhiều người đọc. Trong các sản phẩm báo chí của báo điện tử này, khi đưa, nhắc tới ngày 30-4-1975 thì chỉ viết rằng đây là “Ngày thống nhất đất nước”. Tưởng báo có chút nhầm lẫn, tôi đã gọi điện nhắc người bạn của mình làm ở đó rằng phải gọi chính xác về kỷ niệm ngày 30-4-1975 là kỷ niệm “Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”.

Nhưng đáng tiếc, bạn tôi trả lời rằng, họ không nhầm lẫn, mà đây là chủ trương, quan điểm của Ban biên tập tờ báo trên khi định nghĩa ngày 30-4-1975. Ngay cả “Lễ kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”, tờ báo trên cũng chỉ ghi là “Lễ kỷ niệm 50 năm Ngày thống nhất đất nước”.

Nhận thức đúng giá trị thiêng liêng của Chiến thắng 30-4-1975
Xe tăng Quân Giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập. Ảnh tư liệu

Tôi nói rằng: “Các bạn đã vi phạm đạo đức báo chí, vì nhà báo không được quyền thay đổi tên gọi của một sự kiện, một lễ kỷ niệm để từ đó làm thay đổi cách hiểu về bản chất của nó”. Sau đó, tờ báo ấy chỉ chấp nhận sửa lại đúng tên gọi về lễ kỷ niệm quốc gia sắp được tổ chức là “Lễ kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”. Còn trên các bản tin của họ thì vẫn đề ngày 30-4-1975 là Ngày thống nhất đất nước! 

Có thể những người quản lý tại tờ báo điện tử nọ nghĩ rằng họ làm vậy với ý nghĩa "khép lại quá khứ" để hướng tới tương lai, nêu cao tinh thần hòa hợp dân tộc... Tuy nhiên, cách làm ấy của họ chính là làm thay đổi bản chất của sự kiện, chính là một kiểu lật sử, xúc phạm công lao, xương máu của thế hệ đi trước. Bởi vì phần lớn chúng ta đều hiểu rằng, không có “giải phóng miền Nam” thì sao có “thống nhất đất nước” được!

Có những người đặt câu hỏi theo kiểu vặn vẹo rằng: Nói là “giải phóng miền Nam”, vậy thì ai giải phóng ai?

Có thể thấy rõ ràng là: Dân tộc Việt Nam, đồng bào, chiến sĩ cả hai miền Nam-Bắc đã mang sức mình để tự giải phóng mình khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai phản động tại miền Nam Việt Nam.

Tại sao phải “giải phóng miền Nam” thì mới “thống nhất đất nước”? Chúng ta cần phải thấy rằng, “thống nhất đất nước” là một thành tựu vĩ đại, là một đích đến của mấy chục năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước tính từ khi đất nước bị chia cắt sau Hiệp định Geneva năm 1954. Thành tựu này chỉ đạt được sau Chiến thắng vĩ đại 30-4-1975, khi quân và dân hai miền Nam-Bắc đã giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của thực dân kiểu mới là đế quốc Mỹ và tay sai là ngụy quyền. Như thế, “giải phóng miền Nam” là điều kiện tiên quyết để “thống nhất đất nước”. Sau khi miền Nam được giải phóng thì hai miền Bắc-Nam đã tiến hành Hội nghị hiệp thương chính trị để thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước.

Lại có người lý sự rằng, "có nhất thiết phải thống nhất đất nước Việt Nam bằng các hành động quân sự, có nhất thiết phải đổ máu không? Liệu có giải pháp hòa bình để thống nhất đất nước không?".

Có thể thấy, từ các nhà lãnh đạo cho tới mỗi người dân Việt Nam, không ai muốn có chiến tranh, không ai muốn phải đổ máu. Hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc luôn là những điều mỗi người Việt Nam ước mong, ấp ủ. Đấu tranh bằng biện pháp chính trị, bằng biện pháp ngoại giao để thống nhất đất nước luôn được Đảng ta đặc biệt coi trọng.  

Tuy nhiên, thống nhất đất nước tại Việt Nam chỉ có được sau những kết quả về đấu tranh quân sự. Với những chiến thắng dồn dập về quân sự của quân và dân cả nước trước kẻ địch, mà đỉnh cao là Chiến thắng 30-4-1975, chúng ta mới có thể kết thúc chiến tranh. Và cũng chỉ vì thua trên chiến trường, mà quyết định là sau thất bại của trận tập kích đường không 12 ngày đêm “Điện Biên Phủ trên không” trên bầu trời Hà Nội tháng 12-1972 thì đế quốc Mỹ mới chịu ký Hiệp định Paris năm 1973 và rút quân chủ lực khỏi miền Nam Việt Nam. Như vậy, thực tế là giải pháp chính trị chỉ đạt được kết quả khi đối phương thất bại trên chiến trường.

Cũng đã có những cơ hội để thống nhất đất nước Việt Nam bằng các giải pháp hòa bình, tổng tuyển cử, nhưng đế quốc Mỹ và tay sai luôn tìm mọi cách phá hoại các giải pháp hòa bình để thống nhất Việt Nam, hòng giữ được sự thống trị của mình tại miền Nam Việt Nam.

Nếu như không có sự can thiệp của đế quốc Mỹ và sự tráo trở của chính quyền Ngô Đình Diệm thì đất nước ta có thể sẽ thống nhất bằng một cuộc tổng tuyển cử hòa bình vào năm 1956 như trong nội dung của Hiệp định Geneva. Tuy nhiên, đế quốc Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm đã phá hoại Hiệp định Geneva, cố tình không tổ chức hiệp thương tổng tuyển cử trên cả nước để thống nhất đất nước. Bởi lúc đó, Mỹ-Diệm định lượng được rằng, nếu tổng tuyển cử diễn ra thì chiến thắng sẽ dễ dàng về tay Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Bởi lúc đó, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa rất lớn, hợp lòng dân, đã lãnh đạo nhân dân đánh thắng thực dân Pháp xâm lược với Chiến thắng Điện Biên Phủ "chấn động địa cầu". Thậm chí, tình báo Mỹ đã kết luận rằng, nếu có tổng tuyển cử thì kết quả tốt nhất cho Mỹ-Diệm là ít nhất khoảng 80% dân số sẽ bầu cho Chủ tịch Hồ Chí Minh.   

Năm 1973, ngụy quyền cũng không hề muốn ký Hiệp định Paris để chấm dứt chiến tranh, nhưng dưới sức ép của Mỹ (do Mỹ không thể kham nổi cuộc chiến nữa) nên buộc phải ký. Trong Hiệp định Paris có các điều khoản về cam kết tôn trọng ngừng bắn, giữ vững hòa bình ở miền Nam Việt Nam, giải quyết các tranh chấp bằng thương lượng và tránh mọi xung đột bằng vũ lực.

Hiệp định Paris cũng quy định vấn đề thống nhất nước Việt Nam bằng phương pháp hòa bình, thời gian thống nhất sẽ do miền Bắc và miền Nam Việt Nam thỏa thuận. Tuy nhiên, ngay sau khi Hiệp định Paris được ký kết, ngụy quân đã lập tức vi phạm hiệp định khi thực hiện hàng loạt cuộc hành quân đánh phá, nống lấn vào vùng giải phóng. Thậm chí giới lãnh đạo ngụy quyền còn lên kế hoạch toàn diện, lâu dài giai đoạn 1973-1978 hòng bình định miền Nam Việt Nam, tiếp tục đàn áp, dìm nhân dân miền Nam trong bể máu.

Tổng thống ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố rằng: “Đừng nói giải pháp chính trị, giải pháp chính trị rồi đưa tới cộng sản.... Hễ nó (Quân giải phóng) giỏi, nó thắng mình chịu. Mình thắng, nó phải chịu. Không có cái chánh phủ liên hiệp tiên quyết... Sẽ không có tổng tuyển cử, sẽ không có chính phủ liên hiệp, sẽ không có phân chia vùng kiểm soát, sẽ không có lực lượng thứ ba và không có một Chính phủ Cách mạng lâm thời nào”.

Với tính chất phản động của ngụy quyền, thì vấn đề hòa giải, hòa hợp dân tộc, khả năng tổng tuyển cử để thống nhất đất nước đối với dân tộc Việt Nam trở nên phi thực tế. Nếu như không có sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng ta, tài thao lược của các tướng lĩnh Quân đội ta, sự anh dũng của quân dân ta để làm nên Chiến thắng 30-4-1975 thì sẽ không thể có đất nước Việt Nam hòa bình, thống nhất và phát triển của ngày hôm nay. Sự đầu hàng của chính quyền Dương Văn Minh là sự đầu hàng vô điều kiện.  

Chiến thắng 30-4-1975 đã được ghi vào lịch sử là chiến thắng vĩ đại của dân tộc Việt Nam để thống nhất đất nước, được thế giới công nhận và khâm phục. Do vậy, thế hệ hôm nay, khi nhắc tới công lao của cha ông cần hết sức trân trọng và biết ơn. Cần phải tìm hiểu lịch sử với thái độ tôn trọng và thận trọng, nhất là đối với các sự kiện lớn, các nhà lãnh đạo đã được ghi danh vào lịch sử, không được tự ý thay đổi các tên gọi của các sự kiện lịch sử. Đặc biệt là cần tìm hiểu lịch sử từ các nguồn chính thức, chính thống, tránh bị tiêm nhiễm, ảnh hưởng từ các nguồn thông tin không rõ ràng, bởi đằng sau các thông tin, đánh giá về các sự kiện lịch sử từ các nguồn không chính thống đều có thể tiềm ẩn những mưu đồ chính trị. 

HỒ QUANG PHƯƠNG 

Tỉnh táo trước các luận điệu xuyên tạc sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng

Thứ hai, 14/04/2025 - 05:47

Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trung thành và vận dụng sáng tạo những nguyên tắc của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, Đảng ta luôn giữ vững sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, giữ gìn và phát huy nguồn sức mạnh vô địch của Đảng như “giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Đó là tiền đề ánh sáng để Đảng thực hiện sứ mệnh soi đường dẫn lối cho cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đồng thời, đó cũng là cơ sở bác bỏ hoàn toàn mọi ý đồ, mưu toan xuyên tạc, phủ nhận tinh thần đoàn kết thống nhất trong Đảng của các thế lực thù địch.

1. Những năm qua, lợi dụng tình hình thế giới, khu vực diễn biến hết sức phức tạp, khó lường và lợi dụng những hạn chế, khuyết điểm trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, các thế lực thù địch, phản động cố tình bịa đặt, tung tin xuyên tạc sai sự thật về sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng Cộng sản Việt Nam. Họ cho rằng: “Sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay chỉ còn là hình thức, là vỏ bọc bên ngoài”.

Nguy hiểm hơn, trước thềm đại hội đảng các cấp hay vào mỗi thời điểm có quyết định nhân sự quan trọng của Đảng, Nhà nước, họ lại tung tin thất thiệt, quy chụp nhận định không khách quan về đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ của Đảng hòng gây tâm lý bất ổn, hoang mang trong xã hội. Họ rêu rao rằng, thực chất của cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong bộ máy chính trị ở Việt Nam là quá trình “đấu đá nội bộ”, “giành giật quyền lực chính trị, lợi ích kinh tế giữa các phe phái”; còn việc miễn nhiệm, thôi chức của một số cán bộ lãnh đạo cấp cao chỉ là “bình phong” của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm che giấu những rạn nứt trong nội bộ Đảng.

Những luận điệu đó là bịa đặt với ý đồ chính trị hắc ám nhằm gây phân rã tư tưởng trong nội bộ Đảng cũng như gây sự hoài nghi, mâu thuẫn giữa Đảng với nhân dân, tiến tới phủ nhận, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội.

2. Quá trình ra đời, xây dựng, phát triển, trưởng thành của Đảng ta cũng như thực tiễn lãnh đạo cách mạng 95 năm qua đã chỉ ra, đoàn kết thống nhất là gốc rễ cội nguồn sức mạnh của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Kế thừa các giá trị tốt đẹp của truyền thống đoàn kết dân tộc, quán triệt và vận dụng sáng tạo học thuyết Mác-Lênin về chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân vào xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặc biệt coi trọng xây dựng và bảo vệ sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Người khẳng định: Sức mạnh của Đảng là ở sự đoàn kết nhất trí. Mỗi cán bộ, đảng viên phải nâng cao ý thức tổ chức và kỷ luật, nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, tôn trọng nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng.

Đoàn kết, thống nhất là một nguyên tắc tổ chức và hoạt động quan trọng hàng đầu của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bất cứ một tổ chức nào, đoàn kết thống nhất đều là nền tảng, cội nguồn sức mạnh của tổ chức đó. Học thuyết Mác-Lênin về xây dựng Đảng đã chỉ rõ đoàn kết, thống nhất là một nguyên lý, nguyên tắc xây dựng chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.

Từ khi mới ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã gắn bó chặt chẽ với dân tộc, hòa mình cùng dân tộc, lớn lên và trưởng thành trong dân tộc. Tập hợp trong hàng ngũ của Đảng là những người xuất thân từ nhiều thành phần, giai cấp và tầng lớp xã hội, trong đó chủ yếu là công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức, nhưng tất cả đều có chung một lý tưởng, mục tiêu và lợi ích. Lý tưởng đó là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Mục tiêu đó là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Lợi ích đó là phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, ngoài ra Đảng ta không có lợi ích nào khác. Chính lý tưởng chung, mục tiêu chung và lợi ích chung là cơ sở của sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng.

Trong quá trình lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước vào những năm cuối thập niên 1980, đầu thập niên 1990, dù tình hình phong trào cộng sản thế giới có sự biến động, hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, nhưng Đảng ta vẫn kiên trì, kiên định giữ vững nguyên tắc đoàn kết thống nhất, coi đây là vấn đề sống còn của cách mạng, của chế độ; là cơ sở, nền tảng, là hạt nhân để đoàn kết giai cấp, đoàn kết dân tộc và là điều kiện để đoàn kết toàn dân, đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi. Đảng ta luôn thấu suốt đoàn kết thống nhất là một nguyên tắc cơ bản có vị trí quan trọng hàng đầu trong tổ chức và hoạt động của Đảng; đồng thời, coi sự chia rẽ trong nội bộ Đảng là tội ác, là kẻ thù lớn nhất đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của Đảng.

3. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (năm 1976) đến nay, Đảng ta luôn quan tâm đến vấn đề phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, coi đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đảng ta nhiều lần khẳng định, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực không phải “ngày một, ngày hai” mà đây là công việc vô cùng khó khăn, phức tạp, lâu dài, đòi hỏi sự kiên quyết, kiên trì, quyết tâm của Đảng, Nhà nước, nhân dân cũng như bản thân đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Những kết quả nổi bật trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở nước ta thời gian qua đã góp phần làm cho Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh; giúp đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức, có quyền “tự soi, tự sửa”, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện cả về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống. Đây cũng là cơ sở để giúp các tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị xây dựng ngày càng vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Thực tế cho thấy, dù phải xử lý kỷ luật một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm kỷ luật, pháp luật, nhưng truyền thống và tinh thần đoàn kết, thống nhất trong Đảng ta vẫn luôn bảo đảm, giữ vững. Sinh thời, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Mục tiêu của công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là nhằm làm trong sạch Đảng và bộ máy nhà nước, để phát triển đất nước. Đây là cuộc đấu tranh chống “giặc nội xâm”, không phải là cuộc đấu giữa các “phe cánh” hay “đấu đá nội bộ” như có người không hiểu hoặc cố tình xuyên tạc với động cơ sai, dụng ý xấu”.

Trên cơ sở ban hành Quy định số 41-QĐ/TW ngày 3-11-2021 của Bộ Chính trị “Về việc miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ”, Đảng đã có những điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện các quy định về miễn nhiệm và từ chức. Quy định này góp phần thể chế hóa chủ trương của Đảng về vấn đề miễn nhiệm, từ chức thành các quy định cụ thể; đồng thời là cơ sở để thực hiện văn hóa ứng xử trong miễn nhiệm, từ chức, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, phù hợp với mong muốn, kỳ vọng chính đáng của nhân dân.

Việc cho thôi chức đối với một số cán bộ lãnh đạo cấp cao thời gian qua là bước tiến rất lớn, góp phần để phương châm “có lên, có xuống, có vào, có ra” trong công tác cán bộ được triển khai sâu rộng, đồng bộ, hiệu quả từ Trung ương đến địa phương; để xu hướng đó trở thành một việc làm bình thường trong quá trình “xây” kết hợp với “chống”, làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh. Mặt khác, khi cán bộ có hạn chế, khuyết điểm và thấy năng lực công tác của mình không còn phù hợp với vị trí công tác đảm nhiệm thì cán bộ mạnh dạn, tự nguyện từ chức cũng là việc bình thường, hợp lý, hợp pháp, hợp lòng người. Chính vì vậy, những luận điệu xuyên tạc về vấn đề này hòng phủ nhận nguyên tắc đoàn kết, thống nhất trong Đảng càng chứng tỏ ý đồ hắc ám của những kẻ chống phá.

Trong bất luận hoàn cảnh nào, Đảng ta luôn kiên trì, kiên định với các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, trong đó đặc biệt là nguyên tắc đoàn kết thống nhất. Hiện nay, để thực hiện vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng ta và tổ chức đảng các cấp luôn thấu suốt phương châm nhất quán là: “Tiền hô hậu ủng”, “nhất hô bá ứng”, “trên dưới đồng lòng”, “dọc ngang thông suốt”. Đó chính là một trong những cơ sở, động lực để góp phần thực hiện hiệu quả công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đẩy lùi tình trạng tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, qua đó tạo ra luồng sinh khí mới trong đời sống tinh thần xã hội để huy động, nhân lên sức mạnh của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.

Trải qua 95 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trung thành và vận dụng sáng tạo những nguyên tắc của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, Đảng ta luôn giữ vững sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, giữ gìn và phát huy nguồn sức mạnh vô địch của Đảng như “giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Đó là tiền đề ánh sáng để Đảng thực hiện sứ mệnh soi đường, dẫn lối cho cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đồng thời, đó cũng là cơ sở bác bỏ hoàn toàn mọi ý đồ, mưu toan xuyên tạc, phủ nhận tinh thần đoàn kết thống nhất trong Đảng của các thế lực thù địch.

Thượng tá, TS LÊ VIẾT THÔNG 

Nhận diện các luận điệu xuyên tạc chủ trương của Đảng về kinh tế tư nhân trong giai đoạn phát triển mới

Thứ Hai, 14/04/2025, 07:35

Hiện nay, khi Đảng ta nhấn mạnh vai trò của kinh tế tư nhân (KTTN), coi đây là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển đất nước thì các thế lực xấu nhân cơ hội này xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, cho rằng việc thừa nhận vai trò quan trọng của KTTN là Đảng Cộng sản Việt Nam “thừa nhận sự thất bại của kinh tế Nhà nước” và “đang hướng lái theo CNTB”. Từ đó chúng rêu rao rằng, đã đến lúc bỏ cụm từ “theo định hướng XHCN”, để KTTN tự do phát triển.

    Cần hiểu đúng về vai trò, vị trí của KTTN, cảnh giác thủ đoạn đánh tráo bản chất

    Trên Internet, xuất hiện luồng quan điểm xuyên tạc việc Đảng Cộng sản Việt Nam coi KTTN là một động lực quan trọng của nền kinh tế là “thừa nhận bóc lột, thừa nhận quan hệ sản xuất TBCN”, là Đảng đang “từ bỏ mục tiêu CNXH để đi theo quỹ đạo TBCN”. Các đối tượng cổ xuý rằng, những ai đang tin tưởng đi theo CNXH thì đây là chỉ dấu để “thay đổi cách nghĩ”, “Đảng thừa nhận sai lầm, thất bại về con đường đi lên CNXH”. Từ đó, các đối tượng ra sức tung hô, ca tụng thành tựu hào nhoáng của CNTB, đồng thời miệt thị những nước đi theo CNXH, phỉ báng nền kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, ra sức ca tụng KTTN.

    Nhận diện các luận điệu xuyên tạc chủ trương của Đảng về kinh tế tư nhân trong giai đoạn phát triển mới -0
    Kinh tế tư nhân được đặt nhiều kỳ vọng bứt phá và phát triển, đưa kinh tế đất nước vững mạnh bước vào kỷ nguyên mới. (Ảnh: TTXVN)

    Tổ chức khủng bố Việt Tân tiếp tục ca tụng cái gọi là “văn kiện 50: Việt Nam nửa thế kỷ tụt hậu và lối thoát cho tương lai”, cho rằng Đảng phải giảm vai trò của nhà nước trong kinh tế, phải “bỏ đuôi theo định hướng XHCN” để cạnh tranh lành mạnh, nền KTTN mới có sáng tạo, giới trí thức mới sẵn sàng đóng góp cho những công trình nghiên cứu công nghệ cao. Từ việc tung hô kinh tế tư bản tư nhân, chúng bôi lem đời sống kinh tế, xã hội Việt Nam, vu cáo nửa thế kỷ tụt hậu do sai lầm của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ đó đòi Đảng “phải thừa nhận đã bất lực trong việc đưa đất nước đi lên thoát cảnh nghèo đói, lạc hậu”.

    Với luận điệu sai trái đó, các đối tượng quy kết rằng, muốn chuyển đổi xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam không có lựa chọn nào khác là dân chủ hoá đất nước, xoá bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin, thay đổi thể chế!

    Những luận điệu sai trái nói trên vốn quá cũ kỹ, nay chỉ là chiêu trò làm nóng vấn đề, thổi phồng sự việc khi Đảng ta đưa ra các chủ trương, đường lối xác định vai trò quan trọng của KTTN trong giai đoạn phát triển mới. Ở đây cần thấy rằng, việc thừa nhận và tạo điều kiện cho KTTN phát triển là yêu cầu khách quan. Dựa trên lý luận kinh tế của Chủ nghĩa Mác-Lênin và thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam, chúng ta có đủ cơ sở khoa học để khẳng định rằng, chủ trương phát triển KTTN không phải là từ bỏ mục tiêu CNXH mà ngược lại là sử dụng chính KTTN để tạo động lực phát triển, rút ngắn chặng đường ở thời kỳ quá độ (TKQĐ) đi lên CNXH.

    Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ, trong TKQĐ cần thiết phải sử dụng các thành phần kinh tế phi XHCN cho mục đích xây dựng CNXH. Về xây dựng quan hệ sản xuất trong TKQĐ lên CNXH, Lênin chỉ ra một số hình thức CNTB nhà nước như tô nhượng, đại lý, cho thuê xí nghiệp, khu mỏ... Cả về lý luận và thực tiễn xây dựng CNXH ở nước Nga Xô viết, Lênin cũng đã chỉ dẫn rằng, trong TKQĐ cần phải sử dụng cả thành phần kinh tế phi XHCN như tư bản nhà nước, tư bản tư nhân cho mục tiêu phát triển lực lượng sản xuất, coi đó là biện pháp tối ưu để khơi dậy động lực, giải phóng sức sản xuất, tăng năng suất lao động… Nhờ đó, Liên Xô thời kỳ đó giải quyết được khó khăn kinh tế sau chiến tranh, đồng thời từng bước xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH.

    Ở nước ta, nền kinh tế thị trường được xác định là nền kinh tế có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế. Các thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Cần thấy rằng, Việt Nam thừa nhận KTTN, coi đây là động lực phát triển song không đồng nghĩa với xác lập địa vị thống trị của quan hệ sản xuất TBCN. Thừa nhận KTTN không có nghĩa là chúng ta thừa nhận bóc lột và tạo điều kiện cho quan hệ bóc lột được hiện diện trong các quan hệ kinh tế ở nước ta. Mục tiêu nhất quán của cách mạng nước ta là xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất công, xây dựng một xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

    Và để KTTN phát triển lành mạnh, là động lực của nền kinh tế nhưng không gây ra các hệ luỵ tiêu cực như bất công, bóc lột, chèn ép sức lao động… đòi hỏi phải được quản lý theo định hướng XHCN, đó là điểm khác biệt với việc để KTTN phát triển một cách tự nhiên, không kiểm soát. KTTN được tự do cạnh tranh bình đẳng trong khuôn khổ thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Do vậy, quan hệ sản xuất hình thành trong thành phần KTTN phải chịu sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý, điều tiết của Nhà nước nhằm giữ vững định hướng XHCN.

    Đồng thời cần thấy rằng, việc coi KTTN là một động lực quan trọng của nền kinh tế không đồng nghĩa từ bỏ hay coi nhẹ vai trò của kinh tế Nhà nước. Đại hội XIII của Đảng định hướng rõ sự phát triển của từng thành phần kinh tế ở nước ta, trong đó chỉ rõ: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; KTTN là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển”.

    Vai trò của từng thành phần kinh tế được xác lập theo đúng tính chất, vị trí. Thành phần kinh tế nhà nước nắm giữ nguồn lực vật chất quan trọng, then chốt được khẳng định là công cụ, lực lượng vật chất để nhà nước ổn định vĩ mô, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường. KTTN được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, trong đó có khuyến khích sự hợp tác liên kết với doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, kinh tế hộ gia đình, ngoài ra còn khuyến khích phát triển các công ty cổ phần có sự tham gia rộng rãi của người lao động.

    Như vậy, cần hiểu đúng về vai trò, vị trí của KTTN và mối quan hệ của KTTN trong các thành phần kinh tế ở nước ta. KTTN là một động lực quan trọng của nền kinh tế song phải đảm bảo tính định hướng XHCN. Do đó, thành phần KTTN cũng không thuần túy như trong chế độ TBCN mà có sự đan xen, giao thoa, liên kết, hợp tác với các thành phần kinh tế XHCN, đảm bảo cùng tương hỗ nhau để phát triển, vì mục đích xây dựng nền kinh tế Việt Nam vững mạnh. Đó là những cơ sở về lý luận và thực tiễn bác bỏ các luận điệu sai trái của các thế lực xấu khi Đảng ta xác định vai trò quan trọng của KTTN trong giai đoạn phát triển mới.

    Khẳng định vai trò, vị trí KTTN trong giai đoạn phát triển mới

    Trong bài viết “Phát triển KTTN – đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng”, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nêu rõ tầm quan trọng và những giải pháp trọng tâm để KTTN phát triển mạnh mẽ, đóng góp xứng tầm trong kỷ nguyên mới của đất nước. Tổng Bí thư khẳng định, KTTN không chỉ là một thành phần của nền kinh tế mà còn là động lực hàng đầu thúc đẩy tăng trưởng và đổi mới sáng tạo. Hiện nay, khu vực này đóng góp khoảng 51% GDP, hơn 30% ngân sách nhà nước và tạo ra hơn 40 triệu việc làm, cho thấy vai trò không thể thay thế.

    Bài viết nêu rõ, hướng đến tầm nhìn chung của đất nước, KTTN cũng cần xác định rõ hơn về sứ mạng và tầm nhìn của mình. KTTN phải là lực lượng tiên phong trong kỷ nguyên mới, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa nền kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh quốc gia, có trách nhiệm xã hội, góp phần nâng cao đời sống nhân dân, tham gia xây dựng xã hội văn minh, hiện đại, góp phần xây dựng một Việt Nam năng động và hội nhập quốc tế. KTTN cần phấn đấu trở thành lực lượng chủ lực, đi đầu trong ứng dụng công nghệ và đổi mới, sáng tạo để đạt mục tiêu đóng góp khoảng 70% GDP vào năm 2030. 

    Nhìn lại tiến trình phát triển chúng ta thấy, trước đổi mới, KTTN được coi là đối tượng trực tiếp của chủ trương cải tạo XHCN và hạn chế phát triển. Từ khi đổi mới đến nay, quan điểm của Đảng về phát triển KTTN luôn nhất quán và ngày càng được hoàn thiện, góp phần thúc đẩy sự phát triển của khu vực này. Vị trí và vai trò KTTN từng bước được thừa nhận qua từng giai đoạn, từ chỗ chỉ là thành phần kinh tế cần cải tạo bằng những bước đi thích hợp, đến nay trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế.

    Gần 40 năm đổi mới cho thấy, thành tựu đạt được có sự đóng góp rất quan trọng của khu vực KTTN. Nếu như trong giai đoạn đầu đổi mới, KTTN chỉ giữ vai trò thứ yếu, nền kinh tế chủ yếu dựa vào khu vực nhà nước và vốn đầu tư nước ngoài (FDI) thì trong hai thập niên trở lại đây, nhất là khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 09 năm 2011 và Trung ương ban hành Nghị quyết 10 năm 2017, khu vực kinh tế này đã phát triển mạnh mẽ, trở thành một trong những trụ cột quan trọng hàng đầu của nền kinh tế và ngày càng thể hiện là động lực quan trọng nhất để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế quốc gia. Với gần một triệu doanh nghiệp, khoảng 5 triệu hộ kinh doanh cá thể, khu vực KTTN hiện đóng góp khoảng 51% GDP, hơn 30% ngân sách nhà nước, tạo ra hơn 40 triệu việc làm, chiếm hơn 82% tổng số lao động trong nền kinh tế, đóng góp gần 60% vốn đầu tư toàn xã hội.

    Tại Hội nghị Trung ương 5 khóa XII, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW về “Phát triển KTTN trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”. Nghị quyết đã đưa ra một số quan điểm chỉ đạo như: cần tiếp tục đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức về phát triển KTTN, coi đây là yêu cầu tất yếu, khách quan trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thực tiễn, dù KTTN có bước phát triển mạnh mẽ song còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém. Hệ thống pháp luật, các cơ chế, chính sách khuyến khích KTTN phát triển còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ…

    Quan điểm chỉ đạo của Đảng ta là, phát triển KTTN lành mạnh theo cơ chế thị trường là một yêu cầu khách quan, vừa cấp thiết, vừa lâu dài trong quá trình hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. KTTN là một phương sách quan trọng để giải phóng sức sản xuất. Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với KTTN là nòng cốt để phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ.

    Trước yêu cầu của thời kỳ mới, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định một nền kinh tế cường thịnh không thể chỉ dựa vào khu vực nhà nước hay đầu tư nước ngoài mà phải dựa vào nội lực là khu vực tư nhân vững mạnh, đóng vai trò tiên phong trong đổi mới và phát triển đất nước. Nền kinh tế quốc gia chỉ thực sự cường thịnh khi toàn dân tham gia lao động tạo ra của cải vật chất, một xã hội mà người người, nhà nhà, ai cũng hăng say lao động. Do đó, nhất quán quan điểm “mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”, xây dựng chính sách làm yên lòng các nhà đầu tư, doanh nghiệp và doanh nhân, cần tạo dựng niềm tin mạnh mẽ hơn giữa Nhà nước và khu vực KTTN, qua đó khuyến khích doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư, đổi mới sáng tạo và tham gia vào các lĩnh vực kinh tế có tính chiến lược.

    Nguyễn Thành 

    Bản lĩnh, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trước mỗi bước ngoặt quan trọng

    Thứ năm, 10/04/2025 - 05:43

    Trong lịch sử cách mạng Việt Nam, mỗi bước ngoặt quan trọng đều đặt ra những lựa chọn đòi hỏi bản lĩnh, trách nhiệm, thậm chí là tinh thần dũng cảm chấp nhận hy sinh lợi ích của mỗi cá nhân.

    Hiện nay, cuộc cách mạng sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị lại tiếp tục đặt ra những đòi hỏi ấy đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên và mỗi người Việt Nam yêu nước...

    Cách đây 50 năm, Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, miền Nam được giải phóng, non sông nối liền một dải, một kỷ nguyên mới mở ra với dân tộc Việt Nam-kỷ nguyên hòa bình, độc lập, thống nhất, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Như một sự lựa chọn của lịch sử, sau ngày giải phóng miền Nam tròn nửa thế kỷ, chúng ta lại vững bước tiến vào kỷ nguyên mới-kỷ nguyên phát triển giàu mạnh và thịnh vượng.

    Để tạo đà vươn, sức bật, củng cố nền tảng thực hiện thành công những mục tiêu chiến lược trong giai đoạn mới, Đảng ta đang quyết liệt, khẩn trương lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện một cuộc cách mạng mới-cuộc cách mạng sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.

    Từ khi có chính quyền, dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã vượt qua muôn vàn thác ghềnh, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác để Việt Nam "chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay". Vậy nhưng, không có chiến thắng nào được “trải bằng hoa hồng”, mà đòi hỏi những người dấn thân với cách mạng và những người Việt Nam yêu nước phải kiên gan, bền chí, dám chấp nhận hy sinh lợi ích cá nhân vì mục tiêu chung của cả dân tộc.

    Bản lĩnh, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trước mỗi bước ngoặt quan trọng
    Ảnh minh họa / Vietnam+ 

    Với cuộc cách mạng sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy hiện nay cũng vậy. Tuy không phải đối đầu với kẻ thù thực dân, đế quốc nhưng vẫn đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân cần phải kiên định, bản lĩnh, trách nhiệm trước những đòi hỏi từ bước ngoặt lịch sử của dân tộc.

    Việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị đã được Đảng, Nhà nước, các cấp chính quyền xác định chủ trương, xây dựng kế hoạch với lộ trình, bước đi cụ thể và công khai tới toàn thể nhân dân. Mục đích của sắp xếp, tinh gọn nhằm nâng cao hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy; giảm bớt đầu mối tổ chức, giảm tầng nấc trung gian, giảm biên chế; tiết kiệm chi ngân sách, nâng cao chất lượng thực hiện các nhiệm vụ chính trị và phục vụ người dân, doanh nghiệp, đồng thời mở rộng không gian phát triển của mỗi địa phương... Vì vậy, sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách, có ý nghĩa sống còn đối với sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới.

    Với sự chỉ đạo quyết liệt của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, sự vào cuộc thực hiện nghiêm túc của các ban, bộ, ngành, địa phương, theo thông tin được Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung ương công bố đầu tháng 3-2025, công tác sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy đã đạt được những kết quả đáng kể: Giảm 4 cơ quan Đảng trực thuộc Trung ương; 25 ban cán sự đảng; 16 đảng đoàn trực thuộc Trung ương; 5 cơ quan Quốc hội; 5 bộ và 3 cơ quan trực thuộc Chính phủ; 30 đầu mối cấp tổng cục; 1.025 đơn vị cấp cục, vụ và tương đương; 4.413 đầu mối cấp chi cục, phòng và tương đương; 240 đơn vị sự nghiệp. Cùng với đó, tại các địa phương cũng đã giảm 466 sở, ngành và cấp tương đương; 644 đoàn, đảng đoàn và ban cán sự đảng; 3.984 đơn vị cấp phòng và tương đương; 27 đảng bộ cấp trên trực tiếp và các tổ chức cơ sở đảng. Hiện nay, việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh, tổ chức lại đơn vị hành chính cấp xã và thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp đang được triển khai khẩn trương, quyết liệt.

    Một kết quả có ý nghĩa quan trọng khác là cuộc cách mạng sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy nhận được sự đồng tình, ủng hộ của đông đảo cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân; nhiều người đã đạt được nhận thức chung rằng, đây chính là thời điểm, thời cơ lịch sử đưa đất nước phát triển mạnh mẽ. Việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy của chúng ta cũng được bạn bè quốc tế đánh giá cao, có những quốc gia coi đây là mô hình để nghiên cứu, học hỏi. Ở các ban, bộ, ngành, địa phương, thời gian qua, nhiều cán bộ có chức vụ đã tự nguyện xin nghỉ hưu trước tuổi để tạo điều kiện đẩy nhanh tiến độ và nâng cao chất lượng, hiệu quả sắp xếp bộ máy cơ quan, đơn vị, địa phương mình.

    Tuy nhiên, thực tế quá trình sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy cũng xuất hiện những vấn đề liên quan đến nguyện vọng, tâm tư, tình cảm, nhất là những tổ chức, cá nhân chịu ảnh hưởng trực tiếp. Đó là những vấn đề đã được lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các cơ quan chức năng đánh giá, dự liệu từ sớm để xây dựng cơ chế, chính sách hợp lý, nhằm giải quyết thấu tình, đạt lý. Nhìn ở góc độ khác, có nhiều ý kiến tích cực cho rằng, quá trình sắp xếp, tinh gọn cũng là cơ hội để nhiều người bước ra khỏi “vùng an toàn”, thể hiện bản lĩnh, khả năng và sự năng động, sáng tạo ở những lĩnh vực mới, môi trường mới. Về vấn đề sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp xã, không tổ chức đơn vị hành chính cấp huyện, dư luận xã hội cũng xuất hiện những băn khoăn, như nên sáp nhập đơn vị nào với đơn vị nào; nên đặt tên tỉnh, xã mới thế nào; việc sáp nhập liệu có làm mai một hay mất đi lịch sử, truyền thống, văn hóa của các địa phương?...

    Có thể khẳng định, việc sắp xếp đơn vị hành chính đã được các cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu kỹ lưỡng, bảo đảm phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội của từng địa phương, khu vực, vùng miền; có tính toán, cân nhắc cụ thể những yếu tố lịch sử, văn hóa; có nghiên cứu, tham khảo mô hình chính quyền của một số quốc gia... Cũng phải thẳng thắn rằng, thỏa mãn mong muốn của tất cả mọi người trong sắp xếp đơn vị hành chính là bất khả thi và dễ dẫn đến tình trạng “đẽo cày giữa đường”, trong khi những đòi hỏi từ thực tiễn không cho phép chúng ta có thể chậm trễ hơn, mà ngược lại, phải nỗ lực, khẩn trương theo tinh thần “vừa chạy vừa xếp hàng”. Thực tiễn cũng đã chứng minh, những trầm tích lịch sử, văn hóa truyền thống đã ăn sâu, bén rễ, tích tụ trong mỗi vùng đất, hiện hữu sinh động trong sinh hoạt và đời sống xã hội, luôn tồn tại trong nhận thức, tình cảm của mỗi người dân, sẽ trường tồn cùng năm tháng nếu mỗi người biết giữ gìn, phát huy, lan tỏa, không dễ mất đi chỉ vì việc sáp nhập, đổi tên vùng đất ấy.

    Dịp kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, hẳn nhiều người sẽ nhớ đến video clip từng lan truyền trên mạng xã hội, gây xúc động lòng người, trong đó có hình ảnh một người mẹ liệt sĩ móm mém, bật khóc khi nhớ người con đã hy sinh, nhưng vẫn khẳng định rằng: “Nếu giữ con thì mất nước”. Cũng trong dịp này, một vị Trung tướng, Anh hùng LLVT nhân dân đã chia sẻ với phóng viên báo chí rằng, ngày 29-4-1975, trên đường tiến vào giải phóng Sài Gòn trên cương vị đại đội trưởng xe tăng, khi cấp trên hỏi ông rằng: “Cậu có sợ chết không?”, không do dự, ông trả lời ngay: “Báo cáo, chết thì ai cũng sợ, nhưng thủ trưởng giao nhiệm vụ, tôi sẵn sàng hoàn thành!”. Rồi ông được giao nhiệm vụ chỉ huy đơn vị tiến lên giữ cây cầu phía trước không bị đánh sập, để quân ta tiến qua. Ông đã chỉ huy 4 xe tăng của đơn vị đánh thắng 24 xe tăng địch. Thời khắc đầu tiên sau giải phóng, ngồi trên xe tăng, điều trước tiên mà ông nghĩ đến là sẽ về quê thăm bố mẹ. Dẫu biết mọi sự so sánh đều khập khiễng, nhưng vẫn cần dẫn giải như vậy để thấy rằng, ở mỗi thời khắc đòi hỏi sự cống hiến cho Tổ quốc, người Việt Nam luôn sẵn sàng gác lại lợi ích riêng. Từ hai câu chuyện trên lại càng thêm thấm thía ý nghĩa sâu xa trong phát biểu của Tổng Bí thư Tô Lâm tại cuộc làm việc với Tiểu ban Kinh tế-Xã hội Đại hội XIV của Đảng ngày 17-3-2025. Sau khi chia sẻ với tâm trạng của nhân dân trong vấn đề sắp xếp địa giới đơn vị hành chính, người đứng đầu Đảng ta đã gửi gắm đến mọi người: “Đất nước là quê hương!”.

    Để cuộc cách mạng sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị được tiến hành hiệu quả, cùng với phát huy trách nhiệm của các cấp, ngành, địa phương và các cơ quan chức năng trong tổ chức thực hiện, cần tuyên truyền, giáo dục, động viên để mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, hưởng ứng, tích cực tham gia bằng tinh thần xây dựng và những việc làm cụ thể, thiết thực. Song song với đó, cần thực hiện nghiêm chỉ đạo của lãnh đạo Đảng, Nhà nước về việc chống tư tưởng vụ lợi, chống “chạy chọt” trong sắp xếp, tinh gọn; chống thái độ làm việc cầm chừng, chờ đợi; chống tư tưởng cục bộ địa phương sau sáp nhập; chống biểu hiện nói trong hội nghị khác, nói ngoài hội nghị lại khác... Đặc biệt, kiên quyết không để các hoạt động chỉ đạo, điều hành cũng như các dịch vụ công đối với người dân bị đứt gãy, gián đoạn trong quá trình sắp xếp, tinh gọn; đồng thời phải lựa chọn được những người có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ, trách nhiệm cao, bảo đảm cho bộ máy hệ thống chính trị hoạt động hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả sau sắp xếp, tinh gọn...

    Những bước chân thần tốc của các cánh quân 50 năm trước đã mang lại một nước Việt Nam hòa bình, độc lập và thống nhất. Ở thời điểm mang tính bước ngoặt lịch sử này, mỗi người, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, đảng viên cần nêu cao bản lĩnh, trách nhiệm để vững vàng hòa cùng bước đi thần tốc của cuộc cách mạng sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị, góp phần đưa đất nước vững bước vào kỷ nguyên mới-kỷ nguyên giàu mạnh và thịnh vượng.

    PHẠM HOÀNG HÀ 

    Cẩn trọng trước thủ đoạn lợi dụng chính sách thuế của Mỹ để vu cáo, chống phá Việt Nam

    Thứ Năm, 10/04/2025, 05:47

    Việc Tổng thống Donald Trump tuyên bố áp thuế 46% lên hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ là một quyết định rất đáng tiếc - nó không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến quan hệ kinh tế giữa hai quốc gia mà còn làm dấy lên những lo ngại về sự ổn định của chuỗi cung ứng toàn cầu, trong đó Việt Nam là một mắt xích quan trọng.

    Lợi dụng sự việc trên, các thế lực thù địch và các tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài đã triệt để xuyên tạc, kích động hòng gây mất ổn định chính trị, xã hội, tạo cớ chống phá và làm giảm uy tín của Đảng, Nhà nước ta trên trường quốc tế.

    Cẩn trọng trước những thông tin xuyên tạc, chống phá

    Việc Mỹ áp mức thuế nhập khẩu 46% lên hàng hóa Việt Nam sẽ ảnh hưởng nhiều mặt đối với kinh tế Việt Nam. Xuất khẩu sang Mỹ sẽ sụt giảm, đe dọa mục tiêu tăng trưởng kinh tế quốc gia, các ngành sản xuất định hướng xuất khẩu sẽ chịu nhiều thiệt hại... Lợi dụng thông tin trên, các trang tin của những hội nhóm, tổ chức phản động tiến hành “tọa đàm, hội luận”, thậm chí một số đối tượng chống đối còn thể hiện sự hả hê của mình trước việc Việt Nam bị áp thuế cao.

    Trang RFA rêu rao “Cái Việt Nam cần không phải đặc khu mà là cởi trói nền kinh tế”; RFI hả hê “Việt Nam, bạn hay thù trong chính sách thuế quan của Trump”; trang Chân trời mới Media kích động “hạ thấp kinh tế nhà nước có phải là phá bỏ thành trì cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản”; BBC Tiếng Việt thì rêu rao “thuế ông Trump thổi bay 40 tỷ USD chứng khoán Việt Nam”…

    Lợi dụng tình hình này, tổ chức khủng bố Việt Tân lên chuỗi bài trên Fanpage với nội dung chế giễu “ngoại giao kiểu Chí Phèo”; “tham vọng tăng trưởng 8% năm của Việt Nam có bị dập tắt”, “nền kinh tế quốc gia lao đao”…

    Thậm chí, các đối tượng còn tổ chức livestream dưới dạng “hội luận” với thành phần tham gia được gắn cái mác như chuyên gia, luật sư, tiến sĩ với chủ đề “Việt Nam nửa thế kỷ tụt hậu và lối thoát cho tương lai” do Lý Thái Hùng (Chủ tịch của tổ chức khủng bố Việt Tân) làm diễn giả chính… Mục đích không gì khác của chiêu trò này là bôi đen, đả phá nền kinh tế cũng như chính sách đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta, cổ súy việc áp thuế, thậm chí kêu gọi nước Mỹ gia tăng các biện pháp trừng phạt lên nền kinh tế Việt Nam.

    Đồng thời, chúng lồng ghép các thông tin “góp ý” rằng, việc muốn không bị áp thuế, muốn phát triển phải dựa vào nước này để chống nước kia, rồi phải có sự chuyển hướng, thay đổi thể chế chính trị tại Việt Nam, loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, chuyển sang đa nguyên, đa đảng thì mới có thể phát triển. Song song với đó, một số đối tượng chống đối, cơ hội chính trị nhân dịp này đã lập ra các tổ chức, diễn đàn núp dưới danh nghĩa “nhân dân” để nêu ra các “yêu sách”, “kiến nghị” đối với Đảng và Nhà nước trong giải quyết các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh, môi trường, thực chất là để tự nâng mình lên, đồng thời hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước.

    Những luận điệu trên bộc lộ mưu đồ xuyên tạc đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta; gây tâm lý dao động, lung lạc niềm tin của một bộ phận cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân, làm ảnh hưởng xấu đến sự thống nhất nhận thức, tư tưởng trong xã hội. Từ đây, chúng đòi Đảng ta phải công khai tuyên bố lựa chọn mô hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, mà thực chất là đòi Đảng từ bỏ con đường xây dựng CNXH để đưa đất nước theo quỹ đạo tư bản. Đây là những luận điệu hết sức sai trái, cần đấu tranh loại bỏ.

    Những nỗ lực của Đảng, Nhà nước trong đảm bảo quan hệ đối ngoại và phát triển kinh tế

    Ngày 4/4, trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị cho biết phản ứng của Việt Nam trước việc Hoa Kỳ công bố quyết định áp mức thuế đối ứng lên các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Thu Hằng nêu rõ: “Việt Nam lấy làm tiếc trước việc Hoa Kỳ công bố quyết định áp mức thuế đối ứng lên các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ”.

    “Chúng tôi cho rằng quyết định trên chưa phù hợp với thực tế hợp tác kinh tế-thương mại cùng có lợi giữa hai nước, không phản ánh đúng tinh thần quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển, tác động tiêu cực đến quan hệ kinh tế-thương mại song phương và lợi ích của người dân, doanh nghiệp hai nước nếu được áp dụng” - Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam nêu.

    Theo Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao, thời gian qua, Việt Nam đã tích cực trao đổi, thảo luận các biện pháp cụ thể với Hoa Kỳ nhằm tháo gỡ vướng mắc, thúc đẩy hợp tác kinh tế, thương mại song phương, hướng đến thương mại công bằng, bền vững và hài hòa lợi ích của cả hai bên. Việt Nam sẽ tiếp tục phối hợp và trao đổi với phía Hoa Kỳ trên tinh thần xây dựng và hợp tác để tìm ra các giải pháp thiết thực, góp phần đưa quan hệ kinh tế song phương phát triển ổn định, bền vững, đáp ứng lợi ích của người dân và doanh nghiệp hai nước.

    Liên tiếp trong các ngày từ 3-4/4/2025 đến nay, nhiều cuộc họp, làm việc, điện đàm đã được lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta thực hiện để trao đổi, bàn giải pháp tháo gỡ rào cản thuế quan mà chính quyền Hoa Kỳ đặt ra, đảm bảo hài hòa lợi ích cho cả hai phía. Ngay sau khi Mỹ công bố chính sách thuế đối ứng, sáng ngày 3/4, Thường trực Chính phủ đã triệu tập cuộc họp khẩn để đánh giá tình hình, tác động từ chính sách thuế của Mỹ, đưa ra các giải pháp thích ứng.

    Đồng thời, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên đã có Công hàm gửi Trưởng Đại diện Thương mại Mỹ đề nghị tạm hoãn quyết định áp thuế trên để trao đổi, tìm giải pháp hài hòa; đề nghị thu xếp cuộc điện đàm trong thời gian sớm nhất để trao đổi, xử lý vấn đề này. Một tổ công tác về tăng cường hợp tác, chủ động thích ứng với điều chỉnh chính sách kinh tế, thương mại của Mỹ do Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn làm tổ trưởng cũng đã được Thủ tướng ký quyết định thành lập ngay trong ngày hôm đó.

    Tối 4/4, theo giờ Việt Nam, Tổng Bí thư Tô Lâm đã có cuộc điện đàm với Tổng thống Mỹ Donald Trump. Trong cuộc điện đàm, Tổng Bí thư khẳng định, Việt Nam sẵn sàng trao đổi với phía Hoa Kỳ để đưa mức thuế nhập khẩu về 0% đối với hàng hóa nhập khẩu từ Hoa Kỳ, đồng thời đề nghị Hoa Kỳ áp dụng mức thuế tương tự đối với hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam; tiếp tục nhập khẩu nhiều hàng hóa từ Hoa Kỳ mà Việt Nam có nhu cầu và khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để các công ty từ Hoa Kỳ tăng cường đầu tư hơn nữa vào Việt Nam.

    Để thực hiện kết luận của Bộ Chính trị và triển khai thông điệp cuộc điện đàm giữa Tổng Bí thư Tô Lâm với Tổng thống Donald Trump, ngày 6/4, trong vai trò Tổ trưởng Tổ công tác về tăng cường hợp tác, chủ động thích ứng với điều chỉnh chính sách kinh tế, thương mại của Hoa Kỳ, Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn đã tiếp Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Marc E. Knapper. Cùng với đó, các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp chuyển hướng thị trường, tăng sức chống chịu, nâng cao năng lực cạnh tranh, ổn định tỷ giá và dòng vốn cũng được đồng loạt triển khai. Những hành động này chính là sự khẳng định vai trò của Nhà nước trong việc dẫn dắt niềm tin thị trường và duy trì ổn định vĩ mô – hai yếu tố quan trọng trong bối cảnh hiện nay.

    Có thể thấy, không phải chờ đến khi Hoa Kỳ công bố chính sách thuế quan này mà trong suốt hơn 2 tháng qua, Chính phủ đã chủ động và tích cực giải quyết các mối quan tâm về thương mại của chính quyền Tổng thống Donald Trump. Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, lãnh đạo các bộ, ngành đã giao thiệp với phía Hoa Kỳ, trao đổi trên các kênh chính trị, kinh tế, ngoại giao. Đầu tháng 3 vừa qua, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã dành một buổi để lắng nghe ý kiến của các tập đoàn, doanh nghiệp lớn của Mỹ. Những động thái khẩn trương, tích cực của lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta đã truyền đi thông điệp Việt Nam hết sức thiện chí, mong muốn việc đàm phán đạt kết quả tốt đẹp, góp phần thúc đẩy quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước, như lời khẳng định của Phó thủ tướng Hồ Đức Phớc rằng “Việt Nam luôn chủ động, cầu thị và phối hợp mạnh mẽ với phía Hoa Kỳ để đàm phán thuế một cách công bằng, chống vấn đề trung chuyển hàng hóa, đẩy mạnh thương mại hai chiều theo hướng cả hai cùng có lợi”.

    Việc Mỹ siết lại thương mại có thể là một cú hích giúp Việt Nam đẩy nhanh quá trình chuyển đổi mô hình xuất khẩu. Thay vì phụ thuộc vào gia công, lắp ráp – đây là lúc chúng ta cần tăng tỷ lệ nội địa hóa, phát triển công nghiệp hỗ trợ, và tiến tới sản xuất sản phẩm có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao hơn. Việc dòng vốn FDI có thể bị ảnh hưởng trong ngắn hạn lại càng củng cố vai trò trụ cột của kinh tế tư nhân trong nước – lực lượng đang ngày càng năng động, sáng tạo và khát khao vươn lên. Điều này cũng tạo áp lực tích cực để Việt Nam sắp xếp lại chuỗi cung ứng, hướng tới sự tự chủ chiến lược. Để bảo đảm mục tiêu tăng trưởng trong bối cảnh mới, đẩy mạnh kinh tế trong nước là con đường bắt buộc. Đây là thời điểm cần có các biện pháp kích thích kinh tế mạnh mẽ và trúng đích, tập trung vào đầu tư công hiệu quả, hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, mở rộng thị trường nội địa và thúc đẩy tiêu dùng, thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển.

    Lịch sử kinh tế Việt Nam đã từng trải qua nhiều thách thức – từ cấm vận, khủng hoảng tài chính, thiên tai, dịch bệnh cho đến những thay đổi chính sách từ đối tác lớn… Chỉ tính riêng trong nhiệm kỳ này, nếu năm đầu tiên chịu tác động của đại dịch COVID-19, năm 2022 là cuộc xung đột ngay tại châu Âu, năm 2024 là siêu bão Yagi thì ngay đầu năm 2025 là chính sách thuế. Nhưng mỗi lần như vậy, chúng ta đều có những nỗ lực, cố gắng không ngừng để vượt lên khó khăn, thách thức. Trong bài viết "Vươn lên cùng hội nhập quốc tế", Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định, Việt Nam đã bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên của phát triển thịnh vượng và hùng cường, điều đó đòi hỏi đất nước phải có tâm thế mới, tư duy và cách tiếp cận mới phù hợp với yêu cầu thời đại.

    Dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Việt Nam vẫn luôn là một đối tác đáng tin cậy của Mỹ - nhất quán trong chính sách đối ngoại hòa bình, hợp tác và cùng phát triển. Việt Nam sẵn sàng đối thoại có lý, có tình, trên tinh thần xây dựng như một phương thức ứng xử quốc tế. Trong thời điểm thử thách như hiện nay, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, kiên định của Trung ương Đảng, trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Chính phủ, chúng ta giữ vững niềm tin vào tương lai và tiếp thêm năng lượng để nền kinh tế vượt qua khó khăn, đồng thời phản bác các luận điệu lợi dụng tình hình đó để xuyên tạc, chống phá.

    Liêm Chính - Bình Nguyên 

      Phản bác quan điểm sai trái, xuyên tạc vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng trước thềm Đại hội XIV

      Thứ Hai, 07/04/2025, 07:16

      Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang chuẩn bị tốt các nội dung, kế hoạch, tiến hành đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội XIV của Đảng. Đây là thời điểm vô cùng quan trọng, mang tính bước ngoặt để đưa đất nước vững bước vào kỷ nguyên mới.

      Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị, phản động lợi dụng đẩy mạnh các hoạt động xuyên tạc, hạ uy tín, chống phá, phủ nhận vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng, gây hoang mang dư luận...

      Những thủ đoạn “bổn cũ soạn lại”

      Mỗi kỳ Đại hội Đảng, trên các phương tiện, trung tâm truyền thông chống cộng ở hải ngoại, trang thông tin, mạng xã hội của các tổ chức phản động lưu vong lại lợi dụng đẩy mạnh tuyên truyền quan điểm sai trái, thù địch về vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Có thể nhận diện ở một số vấn đề sau đây:

      Một là, trong chiến lược “Diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch, phản động coi việc phủ nhận, bác bỏ vị trí, vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam là trọng tâm, là con đường ngắn nhất, hiệu quả nhất để xóa bỏ thành quả cách mạng, xóa bỏ con đường xây dựng CNXH ở Việt Nam, hướng lái Việt Nam phát triển theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Các đối tượng xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi Đảng ta phải thoái lui, thực hiện “đa nguyên, đa đảng”, kiến nghị xây dựng nhà nước “tam quyền phân lập”; thực hiện cái gọi là giá trị “tự do, dân chủ, nhân quyền” theo kiểu phương Tây; từ đó gây tâm lý hoài nghi, dao động, làm giảm sút niềm tin trong nhân dân vào vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

      Hai là, các đối tượng xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng, phủ nhận cơ sở lý luận về vai trò lãnh đạo, vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ra sức tuyên truyền cho luận điệu “chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời”; “chủ nghĩa Mác - Lênin là lý thuyết suông về CNXH không tưởng, không có thực”... Đây là luận điệu hết sức nguy hiểm bởi nó cố tình đánh đồng giữa vấn đề đa nguyên, đa đảng với dân chủ và phát triển. Mục đích của chúng là phủ nhận vị trí, vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với lịch sử của dân tộc, lấy cớ cổ xuý cho ý đồ xây dựng, hình thành những đảng phái chính trị đối lập, chống phá từ bên trong.

      Ba là, trên nhiều kênh trung tâm thông tin nước ngoài, các trang mạng của tổ chức phản động lưu vong và trang mạng cá nhân của các đối tượng chống đối cho rằng, việc Đảng kết hợp mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH là siêu hình, trái quy luật về xu thế phát triển của thế giới. Lại có ý kiến đưa ra lý lẽ lập lờ, nội hàm bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc mà Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là mông lung, khó khả thi vì bảo vệ Tổ quốc chỉ là bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chủ quyền quốc gia chứ không phải là bảo vệ một đảng phái, một chế độ chính trị nào. Có ý kiến quy kết “chế độ độc đảng lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam khiến Việt Nam hiện vẫn là một quốc gia nghèo nàn, lạc hậu”. Các đối tượng tiếp tục dẫn chứng sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống các nước XHCN ở Đông Âu để biện minh cho quan điểm của mình…

      Bốn là, phủ nhận vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, các thế lực thù địch, phản động còn ra sức lợi dụng những tiêu cực nảy sinh trong đời sống xã hội, các tồn tại, hạn chế trong giáo dục, y tế, môi trường, vấn đề suy thoái, tham nhũng, lãng phí… để gây nhiễu dư luận, xuyên tạc bản chất của chế độ; coi những tiêu cực đó có nguyên nhân do sự lãnh đạo của Đảng. Nguy hiểm hơn, các đối tượng đưa ra luận điệu “tham nhũng là hệ quả tất yếu của chế độ độc đảng”; việc sắp xếp tổ chức, bộ máy thực chất là “đấu đá trong nội bộ Đảng”... Từ đó, các thế lực này lớn tiếng hô hào đòi thay đổi chế độ, thực hiện “đa nguyên, đa đảng”.

      Năm là, đẩy mạnh tuyên truyền xuyên tạc, khoét sâu vào việc một số cán bộ cấp cao bị kỷ luật hoặc bị xử lý hình sự do vi phạm kỷ luật của Ðảng, pháp luật của Nhà nước. Chúng tìm mọi thủ đoạn để phát tán luận điệu coi đó là mất đoàn kết, thống nhất trong Ðảng; thổi phồng, xuyên tạc công tác sắp xếp đơn vị hành chính, tìm mọi cách xuyên tạc, tung tin, tác động, chia rẽ nội bộ ta hòng phá hoại công tác nhân sự, công tác xây dựng Đảng với những chiêu bài nguy hiểm. Chúng triệt để sử dụng các trang mạng xã hội, Internet, blog cá nhân để phát tán các thông tin xấu độc, xuyên tạc cho rằng công tác nhân sự là “tạo lập phe cánh”, “thanh trừng phe phái”. Chúng tạo cớ xuyên tạc, tung ra các quan điểm sai trái, thù địch nhằm đả kích, bôi nhọ lãnh đạo, phủ nhận thành quả cách mạng, phủ nhận giá trị tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh nhằm “hạ bệ thần tượng” của Đảng và toàn dân tộc, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên CNXH của nước ta.

      Không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng

      Trên phương diện lý luận, cuộc đấu tranh về tư tưởng, lý luận là một bộ phận quan trọng của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh chính trị. Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C. Mác và Ph. Ăngghen đã nói đến sự lo sợ của giai cấp tư sản về chủ nghĩa cộng sản như “bóng ma ám ảnh châu Âu” và sự liên kết chống phá quyết liệt của chúng. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin nhiều lần khẳng định, trong tất cả các giai đoạn phát triển, các thế hệ cách mạng trên toàn thế giới đều phải kiên quyết, kiên trì, không ngừng đấu tranh bảo vệ sự nghiệp cách mạng chân chính của giai cấp, của dân tộc, trong đó có cuộc đấu tranh về tư tưởng, lý luận bảo vệ vai trò, vị trí lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Do vậy, đây là âm mưu, bản chất, nhất là Đại hội Đảng là thời điểm các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, phản động tăng cường hoạt động chống phá.

      Về phương diện lịch sử, trong suốt chiều dài hơn một thế kỷ qua, có giai đoạn tồn tại cùng Đảng Cộng sản Việt Nam từng có Đảng Xã hội, Đảng Dân chủ... tham chính, song vì không thể đảm nhiệm được sứ mệnh lịch sử nên cuối cùng đã tự rút lui. Trong suốt hơn 95 năm ra đời, phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn được các tầng lớp nhân dân tin tưởng, đồng lòng ủng hộ, đi theo sự lãnh đạo của Đảng, góp sức và làm nên những thành tựu của sự nghiệp cách mạng. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng việc tham gia xây dựng, góp ý, hoàn thiện Hiến pháp, pháp luật.

      Về phương diện chính trị, pháp lý, vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và hệ thống chính trị được hiến định tại Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Trong Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và hiện nay, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định vai trò, vị trí lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.

      Về thực tiễn, trải qua gần 40 năm đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, quy mô GDP đã tăng hơn 100 lần, từ con số 4 tỷ USD lên hơn 470 tỷ USD năm 2024. Năm 2024, tốc độ tăng trưởng đạt 7,09% (thuộc nhóm số ít các nước có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực và thế giới); kinh tế vĩ mô tiếp tục ổn định, lạm phát được kiểm soát; GDP bình quân đầu người năm 2024 theo giá hiện hành đạt 114 triệu đồng/người, tương đương 4.700 USD, tăng 377 USD so với năm 2023. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, tình hình chính trị ổn định, kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển, an ninh, quốc phòng giữ vững, vị thế, uy tín quốc tế ngày càng nâng lên trên trường quốc tế. Nhờ đó, đời sống về vật chất, tinh thần nhân dân ngày càng cao, có cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc, an ninh, an toàn.

      Thế giới có nhiều đổi thay, diễn biến phức tạp, khó lường, đan xen giữa thời cơ và thách thức, thuận lợi và khó khăn nhưng vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong dòng chảy lịch sử của dân tộc đã, đang và tiếp tục là lực lượng chính trị duy nhất có đủ vị thế, năng lực, uy tín để cầm quyền, lãnh đạo. Trong quá trình đó, Đảng ta không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền để Đảng thật sự “là đạo đức, là văn minh” lãnh đạo nhân dân Việt Nam thực hiện toàn diện công cuộc đổi mới, xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước theo con đường XHCN. Do đó, mọi sự xuyên tạc về vai trò, vị trí, uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam tất yếu bị bác bỏ bởi những căn cứ cả về lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam.

      Lê Thế Cương 

        Bằng chứng khoa học và thực tiễn phủ nhận luận điệu xuyên tạc về thời đại ngày nay

        Thứ hai, 07/04/2025 - 06:03

        Xác định đúng tính chất thời đại là nhiệm vụ hệ trọng nhằm giúp các quốc gia, dân tộc lựa chọn được hướng đi thuận chiều lịch sử. V.I.Lenin từng khẳng định: Khi và chỉ khi hiểu đúng về thời đại, chúng ta mới có thể định ra đúng đắn sách lược của chúng ta. “Thời đại ngày nay”, “thời đại hiện nay”, “thời đại mới”, “thời đại chúng ta” là những khái niệm đồng nghĩa, có phạm vi thời gian từ Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đến nay.

        Với dã tâm ngăn chặn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) và xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) hiện tồn, các thế lực thù địch đã đưa ra các luận điệu xuyên tạc về thời đại ngày nay. Vạch trần các luận điệu sai trái đó là một nhiệm vụ quan trọng nhằm góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.

        Quan niệm Mác xít và Đảng Cộng sản Việt Nam về thời đại ngày nay

        “Thời đại” là một khái niệm khoa học dùng để phân kỳ lịch sử với các nấc thang phát triển khác nhau của xã hội loài người. Với phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, K.Marx và F.Engels coi hình thái kinh tế xã hội là cơ sở khách quan để phân chia thời đại. Theo quan niệm của hai ông, lịch sử xã hội loài người cho đến thế kỷ 19 là sự thay thế của các hình thái từ thấp đến cao: Cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tư bản chủ nghĩa. Sự chuyển biến từ hình thái kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh tế-xã hội khác tiến bộ hơn, không diễn ra một cách tự phát mà phải thông qua hoạt động của giai cấp đứng ở vị trí trung tâm và đóng vai trò là động lực chi phối sự vận động của thời đại đó.

        Bằng chứng khoa học và thực tiễn phủ nhận luận điệu xuyên tạc về thời đại ngày nay
         Ảnh minh hoạ: VOV

        Vận dụng và phát triển Chủ nghĩa Marx vào nước Nga, V.I.Lenin và Đảng Bolshevik Nga đã lãnh đạo giai cấp vô sản và nhân dân lao động Nga làm nên “mười ngày rung chuyển thế giới”. Cách mạng Tháng Mười năm 1917 không chỉ mở ra trang sử mới cho nước Nga mà còn mở ra thời đại mới trong lịch sử nhân loại. Sau Cách mạng Tháng Mười, CNXH từ lý thuyết đã trở thành thực tiễn. Chỉ trong thời gian ngắn, Liên Xô trở thành đối thủ không thể tiêu diệt của các nước tư bản. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống các nước XHCN ra đời với ảnh hưởng ngày càng gia tăng. Điều này làm cho quy mô và ảnh hưởng của chủ nghĩa tư bản (CNTB) bị thu hẹp. Từ thực tế đó, Hội nghị đại biểu các Đảng Cộng sản và Đảng Công nhân quốc tế (tháng 11-1960) đưa ra khái niệm “thời đại chúng ta” như sau: “Thời đại chúng ta mà nội dung chủ yếu là sự quá độ từ CNTB lên CNXH mở đầu bằng Cách mạng XHCN Tháng Mười vĩ đại, là thời đại cách mạng XHCN và cách mạng giải phóng dân tộc”.

        Kế thừa và phát triển những quan điểm của Chủ nghĩa Marx-Lenin về thời đại, trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định thời đại ngày nay vẫn là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với các chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới CNXH”.

        Bác bỏ luận điệu xuyên tạc về thời đại ngày nay của các thế lực thù địch

        Sự sụp đổ của chế độ XHCN ở Đông Âu và Liên Xô đã đẩy phong trào cộng sản, công nhân quốc tế lâm vào thoái trào. Lợi dụng vấn đề đó, các thế lực thù địch đưa ra các luận điệu sai trái về thời đại ngày nay, tập trung vào một số luận điệu sau đây:

        Thứ nhất, họ cho rằng, thời đại quá độ lên CNXH kết thúc khi chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ.

        Đây là sự cố tình bóp méo sự thật hòng lung lạc niềm tin của nhân loại vào CNXH. Các đối tượng chống phá thừa hiểu rằng, sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917, đi lên CNXH đã trở thành một sự lựa chọn của nhiều nước trên thế giới. Sức mạnh của Liên Xô và hệ thống các nước XHCN đã làm tổn hại lợi ích chính trị của giai cấp tư sản; CNTB không thể “làm mưa làm gió” như trước. Vì vậy, “nhổ cái gai Liên Xô”, làm cho Liên Xô và hệ thống XHCN sụp đổ là dã tâm thường trực của các thế lực đế quốc. Khi chế độ XHCN ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, kẻ thù của CNXH hí hửng rêu rao “thời đại ngày nay không còn là thời kỳ quá độ lên CNXH”. Với luận điệu này, họ đã mắc vào sai lầm mà V.I.Lenin từng cảnh báo, là lấy một sự kiện trong giai đoạn lịch sử cụ thể làm đặc trưng cho cả một thời đại. Luận điệu đó cũng thể hiện cách nhìn thiển cận, thiếu tri thức lịch sử bởi sự thay thế thời đại này bằng thời đại khác luôn là quá trình rất lâu dài, không loại trừ các “khúc quanh” và bước thụt lùi nhất định. Chẳng hạn, sự thay thế thời đại phong kiến bằng thời đại tư bản chủ nghĩa từng diễn ra trong mấy trăm năm; cách mạng tư sản Pháp phải làm nhiều lần mới thành công.

        Mặt khác, các thế lực thù địch cũng cố tình “lờ” đi một thực tế: CNXH hiện thực vẫn đứng vững với khoảng 1/5 dân số thế giới; các nước đi theo chế độ XHCN như Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Cuba... đã đạt được những thành tựu to lớn trong tiến trình cải cách, đổi mới; ở châu Mỹ Latin đã xuất hiện khuynh hướng XHCN thế kỷ 21. Rõ ràng, sự sụp đổ của chế độ xã hội ở Liên Xô và Đông Âu không làm thay đổi tính chất thời đại. Càng ra sức phủ nhận tính chất quá độ từ CNTB lên CNXH của thời đại ngày nay, các thế lực thù địch càng hiện “nguyên hình” cố tình ngăn trở bước tiến văn minh của lịch sử.

        Thứ hai, phủ nhận ý nghĩa thời đại của Cách mạng Tháng Mười. Sau đổ vỡ của Liên Xô, những kẻ chống cộng vội vã “hô hoán” rằng: Cách mạng Tháng Mười đã mất hết giá trị.

        Sự thật là những ai hiểu biết lịch sử đều phải thừa nhận cuộc cách mạng này đã mở ra một xu thế phát triển mới cho nhân loại, mở ra phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới. Nhờ đó, chủ nghĩa thực dân-“vết nhơ” trong tiến trình phát triển của nhân loại đã được loại bỏ. Nhà nước Liên Xô-sản phẩm của Cách mạng Tháng Mười đã đưa những người lao khổ lên vị trí chủ nhân của xã hội, đã cứu nhân loại khỏi thảm họa diệt vong của chủ nghĩa phát xít. Sau Cách mạng Tháng Mười, ba dòng thác cách mạng cùng tấn công CNTB, buộc CNTB phải điều chỉnh chính sách để cạnh tranh. Do đó, không chỉ nhân dân các nước XHCN mà cả nhân loại nói chung, đều được hưởng thành quả của Cách mạng Tháng Mười.

        Thứ ba, phủ định sức sống, giá trị của Chủ nghĩa Marx-Lenin trong thời đại ngày nay.

        Giáo sư người Anh Terry Eagleton trong cuốn sách “Tại sao Marx đúng” đánh giá: “Chủ nghĩa Marx là sự phê phán CNTB. Đó là sự phê phán sâu sắc, toàn diện và khắt khe nhất từ trước đến nay”. Vì lý do đó mà ngay từ khi ra đời, Chủ nghĩa Marx luôn bị các thế lực chống cộng công kích, vu cáo, xuyên tạc. Khi CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu đổ vỡ, các thế lực chống cộng hả hê quy chụp: Sự đổ vỡ này bắt nguồn từ sai lầm của bản thân học thuyết Marx-Lenin, nay mô hình Xô viết sụp đổ thì học thuyết Marx-Lenin cũng sụp đổ theo. Ở đây đã có sự “đánh đồng” khái niệm “CNXH Xô viết”-một mô hình CNXH hiện thực còn nhiều khiếm khuyết và không được sửa chữa kịp thời với khái niệm "CNXH" nói chung.

        Ngoài ra, các thế lực chống cộng còn “lập luận” rằng, “hệ thống tư bản chủ nghĩa đã thay đổi nhiều đến mức không còn nhận biết được nữa so với thời của Karl Marx và do đó, những tư tưởng của Karl Marx không còn phù hợp nữa”. Họ cố tình không nhận thấy những biến đổi đó vẫn không vượt ra ngoài những quy luật, nguyên lý chung nhất mà Chủ nghĩa Marx-Lenin đã khám phá. Họ cũng “quên” rằng, Karl Marx, Lenin với tinh thần khiêm tốn, khoa học, đã luôn nhấn mạnh, học thuyết của mình là “học thuyết mở”; nó đòi hỏi ở hậu thế một tinh thần luôn đổi mới, sáng tạo.

        Thứ tư, khuếch trương "thời đại ngày nay là thời đại của CNTB-tương lai vĩnh hằng của nhân loại".

        Luận điệu về tương lai vĩnh hằng của CNTB chứa đựng thực tại đầy mâu thuẫn, không thể hóa giải của chính CNTB. Mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất đã dẫn đến mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân với giai cấp tư sản; sự bất bình đẳng về thu nhập kéo theo sự bất bình đẳng về mọi mặt trong xã hội tư bản. Các mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển trong cuộc cạnh tranh “sống còn” vì vị thế quốc gia và lợi ích của tập đoàn tư bản đã biến thành các cuộc chiến tranh thương mại khốc liệt. Đó còn là mâu thuẫn giữa các nước tư bản và các nước đang phát triển khi các nước phát triển giữ vai trò “nhà cái”, đặt ra các “luật chơi” có lợi cho mình trong tiến trình toàn cầu hóa, làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo với các nước đang phát triển. Sự phát triển theo hướng lấy lợi nhuận tối đa làm mục đích của CNTB còn gây tác hại khủng khiếp cho môi trường toàn cầu. Một xã hội với những bất ổn trầm trọng như thế, tất yếu phải được thay thế bằng một xã hội tốt đẹp hơn; do đó, CNTB không thể là tương lai vĩnh hằng của loài người.

        Để giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh tư tưởng, bảo vệ chân giá trị của Chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam, những người cộng sản và nhân dân Việt Nam phải giữ cho mình “trí sáng, tâm trong” trong “cuộc chiến” không khói súng này. Điều quan trọng hơn, chúng ta phải đồng tâm nỗ lực xây dựng thành công CNXH vì thực tiễn là thước đo chân lý, thắng lợi trên thực tiễn sẽ phủ định mọi điều đơm đặt, xuyên tạc của các thế lực thù địch về thời đại ngày nay.

        PGS, TS TRẦN THỊ MINH TUYẾT