Đừng "té nước theo mưa"!

QĐND - Những ngày qua, trong dư luận xã hội cũng như trên báo chí, nhất là báo mạng "nóng" lên câu chuyện chặt cây ở Hà Nội. Báo chí trước hết là phản ánh dư luận xã hội, tiếp đến và đồng thời là sự thể hiện quan điểm, tấm lòng, cảm xúc của nhà báo trước các sự kiện. Công bằng mà nói, có người vì quá bức xúc nên đã có những suy luận, bình luận chưa thật khách quan, công bằng. Chẳng hạn có bài viết xem vụ chặt cây là “có tổ chức”, là “đô tặc” (phá hoại Thủ đô)… Song, nếu đọc kỹ những bài báo nói trên, cho dù câu chữ, ngôn từ có gay gắt nhưng người ta vẫn thấy được tấm lòng của tuyệt đại đa số người cầm bút với xã hội, với văn hóa, con người Thủ đô.
Ảnh minh họa / qdnd.vn
Thế nhưng, lợi dụng câu chuyện của báo chí trong nước, không ít báo nước ngoài cũng “té nước theo mưa” làm nóng thêm vấn đề. Một số người suy luận, bình luận, thậm chí bóp méo nhằm “lái” những bức xúc, bất bình của người dân sang bôi nhọ cấp ủy, chính quyền, phủ nhận chế độ xã hội XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đồng thời, họ dẫn dắt tình cảm, suy nghĩ của mọi người đến mô hình xã hội “dân chủ đa nguyên, tam quyền phân lập” ngoại nhập. Họ nói rằng: “Nguyên nhân quan trọng (dẫn đến vụ chặt cây sai lầm) là do sự thiếu vắng các hội đoàn dân sự…”. Có kẻ lại nói: “Muốn bảo vệ môi trường cần phải có… tự do ngôn luận, tự do báo chí”, “tự do lập hội, lập đảng”… Có kẻ còn trắng trợn nói cần phải thay đổi chế độ xã hội, chế độ đó phải “có nhiều hơn một đảng”...
Không ai phủ nhận việc thực hiện “Đề án thay thế cây xanh ở Hà Nội” có những thiếu sót, nhất là trong quá trình triển khai. Nhưng việc họ suy diễn, tuyên truyền rằng, vụ chặt cây này chỉ là “chuyện nhỏ” còn các dự án “hàng chục tỷ đô-la đã, đang và sẽ được vẽ ra, thông qua một cách khuất tất để lấy tiền dân chia nhau”… Rõ ràng, đó là một thủ đoạn chính trị nhằm kích động những bức xúc của người dân trong vụ việc này nhằm phá hoại chế độ ta. Thậm chí một số vấn đề chẳng có mối quan hệ gì đến chuyện chặt cây xanh cũng được họ đề cập đến như một “giải pháp”. Chẳng hạn từ chuyện cây xanh Hà Nội, họ nói chỉ khắc phục được vấn đề này trong chế độ xã hội “dân chủ, đa nguyên”... Đã quá rõ ràng, với họ, việc bàn luận, “tư vấn” về vụ chặt cây ở Hà Nội chỉ là cái cớ để họ xuyên tạc, bôi nhọ chế độ xã hội, hướng lái những suy nghĩ, tình cảm của người dân vào phủ nhận bản chất của chế độ, vai trò lãnh đạo của Đảng ta.
Nếu khách quan xem xét, "Đề án thay thế cây xanh ở Hà Nội" là một ý tưởng hợp lý, nhất là khi Hà Nội đang triển khai nhiều dự án liên quan đến cơ sở hạ tầng. Chẳng hạn như: Xây dựng đường sắt trên cao, mở rộng một số tuyến phố… và hằng năm, nhất là vào mùa mưa bão, Hà Nội vẫn còn không ít vụ tai nạn do cây gãy cành, bật gốc... gây thương vong cho người dân… Đáng tiếc là việc nghiên cứu, triển khai đề án này chưa được công khai đầy đủ, kịp thời.
Tuy nhiên, có thể thấy lãnh đạo Hà Nội đã có những quyết định khá nhanh chóng, thẳng thắn khẳng định sẽ làm rõ trách nhiệm của cá nhân, tổ chức liên quan đến vụ việc. Xin được điểm lại một số quyết định của lãnh đạo Hà Nội: Ngày 20-3, Chủ tịch UBND TP Hà Nội quyết định: “Dừng việc chặt hạ, thay thế cây”. Trong quyết định này, Lãnh đạo Hà Nội yêu cầu cụ thể: “Những cây đã hạ chuyển thì trồng ngay cây thay thế… Chỉ thay thế những cây có nguy cơ đổ gãy ảnh hưởng đến giao thông, an toàn tính mạng và tài sản của nhân dân... Việc chỉnh trang trồng bổ sung thay thế cây xanh đô thị phải thực hiện theo đúng quy trình quy định; đồng thời thông tin kịp thời, đầy đủ, công khai minh bạch và tiếp thu ý kiến đóng góp của các chuyên gia, các nhà khoa học, nhân dân, tạo sự đồng thuận trước khi thực hiện”. Ngày 23-3, Thường trực Thành ủy Hà Nội đã họp về vụ việc trên. Ngày 25-3, theo chỉ đạo của Thành ủy, UBND thành phố đã quyết định thành lập Đoàn thanh tra liên ngành để làm sáng tỏ vụ việc: “Thiếu sót ở đâu, do ai và biện pháp sửa chữa, khắc phục cụ thể” như thế nào… Trên đây có lẽ chưa phải là tất cả những gì mà cấp ủy Đảng và chính quyền Hà Nội đã và đang làm xung quanh vụ việc nói trên.
Qua diễn đàn báo chí về vụ việc này cho thấy, ở Việt Nam không phải là “không có tự do báo chí, tự do ngôn luận” như nhiều trang mạng đang rêu rao tuyên truyền. Có thể nói, những kẻ suy luận, gán ghép rằng nguyên nhân của những sai trái trong vụ việc chặt cây xanh ở Hà Nội là do chế độ xã hội, là do Đảng Cộng sản “độc quyền” chỉ là thủ đoạn chính trị “té nước theo mưa” rẻ tiền.

CAO THÁI

Mạo danh khoa học để tuyên truyền "chống cộng"

Ngày nay, khi in-tơ-nét (internet) đã trở thành "sân chơi" của nhiều người thì sự ra đời, tồn tại một website nào đó cũng là điều bình thường. Do vậy, sự có mặt của một website tiếng Việt có tên gọi gắn với "triết học" cũng không có gì đáng ngạc nhiên và cũng không phải phê phán nếu trên thực tế, xu hướng "chống cộng" của website này đang lôi cuốn một số người tham gia.
Ra đời vào năm 2011, đến năm 2013, địa chỉ giao lưu tương tác với người hâm mộ (fanpage) gắn với hai chữ "triết học" nhưng lại ở đường phố (!) và trang web cùng mang tên này của Nguyễn Hoàng Huy - hiện đang sống tại Mỹ, vẫn chưa được nhiều người quan tâm, ngay cả khi anh ta xuất hiện trên một, hai tờ báo trong nước để tự quảng bá cho thứ "triết lý đường phố" của mình. Nhưng hơn một năm nay, số người theo dõi, bình luận trên website này tăng rất nhanh, trong đó có nhiều bạn trẻ ở trong nước. Phải chăng Nguyễn Hoàng Huy đã thành công với quan niệm: "Nhiều người vẫn nghĩ triết học, triết lý phải cao siêu, phức tạp, khó hiểu nên mình muốn phá vỡ thành kiến đó"? Hay vì anh ta đã và đang cố biến website của mình trở thành "một thương hiệu chống cộng" dưới vỏ bọc truyền bá tri thức?
Thời gian đầu, website của Nguyễn Hoàng Huy không có gì nổi bật. Anh ta tự nhận chỉ là người thích đọc, sưu tầm những câu danh ngôn, châm ngôn, triết lý cho nên lập fanpage để chia sẻ điều mình tâm đắc. Thực tế trên facebook cũng có một số trang của người Việt Nam có nội dung y hệt, hay na ná như thứ "triết học" Nguyễn Hoàng Huy đã diễn tả (một trang web đã bị Bộ Thông tin và Truyền thông rút giấy phép vĩnh viễn đôi khi cũng có một số triết lý kiểu này). Rồi anh ta và mấy "triết gia tự phong" bắt đầu thay đổi chiến thuật. Tháng 12-2013, website này cho ra đời mục "hàn lâm" trong chuyên mục "triết học". Ðặc điểm chung của nhóm bài đăng ở đây là đều trực tiếp, gián tiếp xuyên tạc, hạ thấp Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Chủ nghĩa Cộng sản trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Tiếng là "hàn lâm" nhưng nhiều tác giả dường như cũng "ngoại đạo" về triết học cho nên chữ nghĩa của họ rất ngô nghê, dẫn chứng bịa đặt, lập luận chắp vá. Mở đầu loạt bài tùy tiện, bậy bạ trong mục này là bài bàn về học thuyết Các Mác - V.I.Lê-nin. Có lẽ vì tay nghề của Chu Chi Nam - một kẻ chống cộng, quá yếu kém trong khi mục đích thâm hiểm lại lộ rõ cho nên lập tức bị tác giả Nguyễn Vương Tuấn vạch trần. Tuy nhiên, không hiểu sao bài viết của Nguyễn Vương Tuấn, dù rất có tính học thuật, lại chỉ được xếp vào mục bài liên quan thay vì phải ở mục "hàn lâm" như vị trí xứng đáng của nó? Không lẽ Nguyễn Hoàng Huy và người cùng chí hướng với anh ta lại nhầm lẫn? Chắc không phải vậy, bởi cũng trong mục "hàn lâm" này, anh ta đăng tải rất nhiều bài viết của các tác giả chống cộng là người Việt. Trong đó, có thể kể đến mấy cái tên như Mặc Lâm ở RFA, hay Nguyễn Hưng Quốc - blogger trên VOA...
Kể từ khi đăng tải các bài kiểu này, website của Nguyễn Hoàng Huy "nổi tiếng" lên hẳn. Ðể thoát khỏi ảnh hưởng của mấy cây bút chống cộng kỳ cựu và tạo "bản sắc riêng" cho website của mình, Nguyễn Hoàng Huy và đồng nghiệp bắt đầu thử sức. Dù hầu như rất thiếu hiểu biết cơ bản về triết học, nhưng mấy người này vẫn tự xếp bài vở của họ vào chủ đề triết học như để nói mớ cho oai! Chẳng vậy mà trong bài nhan đề "Gửi Việt Nam và Hong Kong, dân chủ không phải là cái chúng ta cần đấu tranh", Nguyễn Hoàng Huy hùng hồn đưa ra những định nghĩa chỉ anh ta mới có, đại loại như: dân chủ là đa số thắng thiểu số, dân chủ là 51% được quyền đưa ra quyết định cho 49% những người còn lại... Phải nói rằng đó là những ý kiến hết sức phiến diện, ngớ ngẩn về dân chủ. Có lẽ cũng biết trí lực có hạn, vừa viết Nguyễn Hoàng Huy vừa rào trước đón sau: "Tác giả có nói trước là sẽ không trả lời bình luận hay phản biện cho bài viết này. Ðây chỉ là một bài viết đọc tham khảo cho biết" và để chắc ăn, anh ta vô hiệu hóa luôn quyền bình luận bài viết này! Thế nên, dù website của Nguyễn Hoàng Huy luôn giơ cao khẩu hiệu "tiếng nói của những người trẻ tự do", thì đọc bài vở của nó sẽ phải đặt câu hỏi: Phải chăng ở đó "tự do" bị bó hẹp theo ý muốn của người chủ trì và người tham gia chỉ biết chăm chăm tin vào những thứ được đăng tải?
Trên website này, xăng xái hơn Nguyễn Hoàng Huy là người có nick Ku Búa. Ku Búa tỏ ra là một kẻ giỏi "câu like" và "chịu ăn gạch" (như ngôn từ của giới trẻ). Càng viết Ku Búa càng tự chứng tỏ bản thân rất kém về nhiều mặt, từ khả năng tư duy, cách viết bài, lấy tư liệu dẫn chứng đến dịch thuật. Ngược lại, Ku Búa lại khá năng nổ khi đều đặn công bố bài viết trên các mục của website bất chấp bị cộng đồng mạng chê bai. Quá chán với đề xuất của Ku Búa, độc giả có nick là thanha phải phàn nàn: "Chưa biết triết học tới đâu, chứ thấy kinh tế mà phán một cách ngắn tủn và yếu kém như thế, thôi đừng làm chủ đất nước cho em yên ổn!". Thẳng thắn hơn, độc giả Cao Vũ viết: "Xin lỗi chứ bạn là một người không biết một tí gì về thuế, quản lý thuế và ngân sách nhà nước. Thậm chí kiến thức cơ bản của kinh tế cũng không biết". Ðó là sở đoản của Ku Búa, còn sở trường về triết học, chính trị của anh ta còn thảm hại hơn. Thay vì đọc tận cùng, thấu đáo một tác giả triết học hay trào lưu, xu hướng triết học nào đó để rút ra kết luận, thì bắt chước Nguyễn Hoàng Huy, Ku Búa chỉ là người lên các trang danh ngôn lấy mấy câu mình thích rồi đem về dịch. Cái nhìn về cuộc sống của Ku Búa thì đúng là thảm họa. Có lẽ bị ảnh hưởng nhiều bởi những bài báo phiến diện như "choáng" với cái này, "sốc" với cái kia,... Ku Búa hùng hồn viết "23 điều vô lý chỉ có ở Việt Nam". Nhưng hóa ra 23 điều ấy chỉ có mỗi Ku Búa cùng một số người thấy vô lý còn hầu hết đều diễn ra ở rất nhiều quốc gia văn minh trên thế giới!
Trong nội quy trang web và những lời bộc bạch của mình, Nguyễn Hoàng Huy luôn khẳng định: "Ðể được đăng bài trên trang web, tất cả các bài viết phải đạt được những tiêu chuẩn, chi tiết nhất định, những ai làm việc chung với tôi lâu ngày đều biết tôi là một người rất chú ý tới chi tiết, một dấu chấm, dấu phẩy sai quy tắc cũng khiến tôi khó chịu. Nên những ai không thật sự nghiêm túc sẽ khó có thể đạt được những tiêu chuẩn đó". Nhưng căn cứ vào những gì anh ta đã thể hiện trên website thì đó chỉ là làm dáng, một cách nói lấp liếm nhằm che giấu khiếm khuyết tri thức và sở học của cá nhân. Hơn nữa, Nguyễn Hoàng Huy lại sẵn sàng xóa nhiều comment của độc giả chỉ vì "vì tính tôi không thể chịu được những người thiếu hiểu mà khoái phát biểu lung tung" như khi một độc giả nghi ngờ về tác dụng của chất gây ảo giác Ayahuasca trong bài viết "Tôi đã gặp thần chết (nghĩa đen) và sống sót trở về sau 5 hits DMT (Ayahuasca)". Ngược lại, theo mục đích hoặc trình độ của mình, Nguyễn Hoàng Huy và đồng nghiệp sẵn sàng bỏ qua rất nhiều lỗi sai của các bài viết khác? Ðiển hình là bỏ qua nhầm lẫn cơ bản trong bài viết của Hồ Nhất Duy. Bài viết chống cộng này đề cập một câu nói của Ngô Ðình Diệm, mà thật ra đó lại là câu nói của Nguyễn Văn Thiệu! Và cũng phải sau mấy ngày, chủ trang mới nhận ra sai sót sau phản ánh của độc giả Cao Vu: "Câu nói này hình như của Nguyễn Văn Thiệu chứ đâu phải Ngô Ðình Diệm do đó tôi nghi ngờ trình độ "sinh viên" của bạn. Thứ hai, việc bạn kết nạp Ðoàn không còn bắt buộc nữa, bạn có quyền từ bỏ và chẳng ai bắt bạn kết nạp Ðảng cả, kể cả có làm công chức. Bạn làm ở khu vực tư nhân hay nước ngoài thì ai bắt bạn kết nạp Ðảng mà thăng với chả tiến. Tôi cũng không biết bạn có đi Mùa hè xanh hay chưa mà phát biểu như thế, nếu bạn đi rồi mà vẫn nói như thế thì bạn cũng chẳng hơn cái đám đi mà tự sướng như bạn nói đâu".
Việc admin của website xóa ý kiến bất đồng với quan điểm họ diễn ra thường xuyên, bất chấp hầu hết trong số đó là góp ý chân thành, có văn hóa; ngược lại thì nhiều bình luận văng tục, chửi bậy, nói càn vẫn nhởn nhơ. Ðiều này gây bức xúc đến nỗi tác giả KR phải viết bài "5 nhận định về cách lập luận chính trị ở Việt Nam", trong đó khuyên các thành viên của website: "Không nên tranh luận theo kiểu cãi bướng, cứ đinh đinh cái định kiến rằng bên mình luôn đúng và bên kia luôn sai (...) tranh luận là giải quyết vấn đề bằng ngôn ngữ, lập luận, chứ không phải cãi nhau ngoài đường, bên nào chửi cho bên kia im miệng là thắng (...) thứ chúng ta tranh luận là những vấn đề hiện nay, với những cá nhân sống trong thời đại này chứ không phải vào thời nào đó. Cho nên việc lôi lịch sử ra để xuyên tạc phán xét là hành động không hợp lý và mang tính thù địch hơn là tranh luận".
Ngày 19-9-2013, trong bài viết đã đăng trên một trang mạng ở trong nước, Nguyễn Hoàng Huy không giấu ý định sẽ biến website của anh ta trở thành một thương hiệu sinh lời. Tuy nhiên, xét đến cùng thì website đó không phải là "sân chơi triết học", mà đó đích thực là diễn đàn của tham vọng chính trị thông qua thái độ chống cộng, và cổ xúy cho loại ý kiến ngô nghê, ngông cuồng... Do vậy, nếu các bạn trẻ muốn xây dựng cho mình một tư duy lành mạnh thì hãy tìm đến các vấn đề triết học nghiêm túc, và cơ quan báo chí nào muốn quảng bá cho Nguyễn Hoàng Huy cũng cần tìm hiểu anh ta là ai, anh ta đã và đang làm gì.
VIỆT QUANG

Ngăn chặn kịp thời những thông tin xuyên tạc, bịa đặt, ác ý trên mạng internet

Internet ra đời đã góp phần rất tích cực vào sự phát triển của xã hội hiện đại. Tuy nhiên, mặt trái của nó cũng ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống xã hội. Vì vậy, rất cần những giải pháp và hành lang pháp lý hữu hiệu để đấu tranh với những mặt tiêu cực.
Trong thời gian gần đây, trên một số trang web, các trang mạng xã hội tràn ngập những thông tin bôi xấu, vu khống, suy diễn nhằm hạ thấp uy tín một số tổ chức và cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước.
Thực ra, những “chiêu trò” này không lạ, không mới của những kẻ “ném đá giấu tay”. Bởi ngay từ thời chưa có mạng internet, những chuyện “buôn dưa lê” như thế này thường được truyền tai nhau bằng cách này cách kia. Những thông tin xấu, độc hại thường được in ấn từ nước ngoài, chuyển vào Việt Nam và được lan truyền bằng các tờ rơi từ người này sang người khác. Khi ấy, để ngăn chặn những tài liệu xấu, chỉ cần có lực lượng đủ mạnh kiểm soát ở các cửa khẩu đường biển, đường hàng không, đường bộ. Hay trước kia, muốn tụ tập đông người, phải rất tốn công sức, tiền của, thời gian để tuyên truyền, vận động, tổ chức, sắp xếp…
Ảnh minh hoạ
Ảnh minh hoạ
Thời nay, trước sự bùng nổ mạnh mẽ của internet, hằng ngày, hằng giờ, hằng phút những tài liệu như thế có thể được phát tán khắp nơi phát trên mạng. Chỉ cần một cái máy tính, một cái điện thoại cầm tay kết nối internet thì sẽ có vô vàn thông tin. Những thông tin độc hại thường xuyên xuất hiện tràn lan trên các mạng xã hội, trên blog cá nhân, trên phần phản hồi (comment)… Nhiều khi những thông tin này được phát tán thành từng đợt theo ý đồ riêng và lan truyền theo kiểu “đánh hội đồng”. Những thông tin độc hại, bịa đặt này thường nặc danh với mục đích chửi bới, nhục mạ, thậm chí là kích động người khác với những ý đồ xấu.
Những người thường sử dụng mạng internet đã được chứng kiến nhiều lần những thông tin xấu về lãnh đạo nọ, quan chức kia và những mối quan hệ phức tạp giữa họ. Điều đáng nói là sự bịa đặt này nghe chừng rất lố bịch nhằm phá hoại về nhiều mặt, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, gây tâm lý bức xúc nhưng vẫn để lại không ít tác động tiêu cực đến đời sống xã hội.
Để tăng cường xử lý những thông tin xấu, độc trên mạng trên internet, Bộ Thông tin - Truyền thông vừa ban hành Chỉ thị số 82 về việc ngăn chặn tin nhắn rác, tin nhắn lừa đảo và tăng cường quản lý thông tin trên mạng. Tuy nhiên, những biện pháp này vẫn là chưa đủ. Bộ cần có những chế tài xử lý thật nặng, thật nghiêm túc với các nhà mạng để xảy ra các thông tin xấu, độc mà không có biện pháp ngăn chặn.
Về mặt lâu dài, cần có các biện pháp đồng bộ ngăn chặn, xử lý những trang mạng xấu độc. Ví dụ, đối với những thông tin vu khống, bịa đặt, xuyên tạc cần được kiểm soát chặt chẽ và có chế tài cụ thể bằng pháp luật vì nó vi phạm đến nhân phẩm, uy tín cá nhân, quyền công dân của người khác. Các cơ quan chức năng cũng cần trang bị cho người dân các kiến thức cần thiết để có thể tự sàng lọc, nắm bắt thông tin đúng, chính thống, chính xác, tin cậy. Bên cạnh đó, cần chú trọng đến công tác đấu tranh phản bác những thông tin không đúng sự thật, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc...
Đáng lưu ý, các cơ quan truyền thông cần tập trung tuyên truyền toàn diện thành tựu, kết quả, tạo đồng thuận xã hội, và cả những mặt khiếm khuyết, khuyết điểm trên tinh thần xây dựng. Bởi chúng ta tin rằng, người dân trong nước đọc và tin cậy những thông tin báo chí chính thống. Và, khi công chúng được đáp ứng đủ nhu cầu thông tin thì họ không cần phải tìm kiếm ở bên ngoài.
Điều quan trọng nhất là cần phải có một cơ chế cung cấp thông tin thật nhanh và chính xác cho các cơ quan báo chí chính thống trong nước. Điều này cũng đã được Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đề cập tại hội nghị trực tuyến của Chính phủ với các địa phương ngày 29-12-2014 vừa qua. Thủ tướng nêu rõ: “Quan trọng nhất là chúng ta chủ động cung cấp thông tin, nêu những điểm tốt, đúng đắn để phát huy, chỉ rõ hạn chế yếu kém, giải pháp khắc phục, đồng thời hạn chế thông tin không chính xác, không có lợi. Trên cơ sở đó tạo sự đồng thuận, nhất trí chung sức, chung lòng thực hiện thắng lợi toàn diện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2015”.
Đã thành quy luật, cứ vào dịp chúng ta tổ chức đại hội Đảng các cấp, bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp là những thông tin xấu, độc lại được thế lực xấu, những người bất mãn tung ra nhằm bôi nhọ lãnh đạo, gây chia rẽ nội bộ, làm lung lay niềm tin của nhân dân… Hiện sắp đến kỳ đại hội Đảng các cấp, tình trạng tán phát thông tin xuyên tạc, bôi nhọ, làm ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân lại đang có xu hướng tái diễn với mức độ ngày càng nguy hiểm, tinh vi và mật độ ngày càng dầy đặc…
Chính vì vậy, việc ngăn chặn, đẩy lùi thông tin xuyên tạc, bịa đặt, xấu độc trong giai đoạn hiện nay càng trở nên cần thiết và cần sự vào cuộc của các cấp, các ngành và sự ủng hộ của các tầng lớp nhân dân.
Theo Thu Hà (dangcongsan.vn )

Việt Nam không vi phạm tự do báo chí, tự do ngôn luận và dân chủ, nhân quyền

Hiện nay, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị đã và đang ráo riết lợi dụng vấn đề “tự do báo chí, tự do ngôn luận, dân chủ, nhân quyền” để tuyên truyền, kích động, xuyên tạc, chống phá cách mạng nước ta, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Chúng ta cần cảnh giác và đấu tranh vạch trần “bộ mặt thật” của chúng.
Ảnh minh họa
Vừa qua, tổ chức “Ngôi nhà tự do” (FH)  cho ra bản “Phúc trình tự do thế giới năm 2015”, trong đó đã xếp Việt Nam vào danh sách các nước “không có tự do”. Trước đó, một số tổ chức, như: “Ủy bản bảo vệ ký giả” (CPJ), “Phóng viên không biên giới” (RSF) đã liên tục cho ra các “Báo cáo”, “Thông cáo”,… cùng với những luận điệu xuyên tạc, đánh giá thiếu khách quan, phản ánh sai lệch tình hình tự do báo chí, tự do ngôn luận, dân chủ, nhân quyền tại Việt Nam. Họ còn trắng trợn vu cáo Việt Nam gia tăng bỏ tù các nhà báo, đàn áp, bắt giữ tùy tiện các blogger. Đồng thời, can thiệp vào tình hình nội bộ của Việt Nam, yêu cầu Việt Nam “hủy bỏ” những điều luật trong Bộ luật Hình sự mà họ cho là “những điều luật mơ hồ xúc phạm quyền con người ” và kêu gọi trả tự do vô điều kiện cho các cá nhân mà họ gọi là “nhà báo”, “nhà hoạt động nhân quyền”, “blogger bị bắt giữ tùy tiện” tại Việt Nam,.. còn đặt bịa ra là tại sao FH, CPJ, RSF đưa ra những đánh giá hồ đồ, sai lệch trên trong khi sự thật thì hoàn toàn ngược lại? phải chăng họ thiếu thiện chí với Việt Nam? Có thể, nhưng cũng không chỉ đơn giản là vậy, mà điều dễ nhận thấy ở đây là luận điệu họ đưa ra nhuốm màu thù địch. Bởi, nếu không thù địch thì hẳn sẽ không xuyên tạc trắng trợn đến vậy.
Thực tế trong những năm qua, khi các cơ quan chức năng của Việt Nam bắt giữ để điều tra, đưa ra xét xử công khai một số đối tượng phạm tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, ngay lập tức các tổ chức FH, CPJ,  RSF đã vội “chụp” cho các đối tượng này chiếc mũ “nhà dân chủ”, “cây viết độc lập” và đưa ra “Thông cáo” xuyên tạc, đòi Việt Nam phải trả tự do vô điều kiện cho họ. Không những thế, các tổ chức này còn thường xuyên tổ chức các cuộc trao giải thưởng “tự do báo chí quốc tế” để tôn vinh, động viên những cá nhân có quan điểm chống đối Việt Nam. Đặc biệt, một số đối tượng, trong đó có cả những người đã từng hoạt động trong cơ quan báo chí lợi dụng danh nghĩa nhà báo, tự do dân chủ, tự do ngôn luận, tự do báo chí, mạng in-ter-net, lập ra các trang blog,... để đăng tải nhiều bài viết có nội dung xuyên tạc, tuyên truyền phỉ báng sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và cá nhân một số cán bộ cấp cao, cũng như thông tin sai lệch hoạt động của bộ máy quản lý, điều hành của chính quyền. Hơn thế, số này đã uốn cong ngòi bút, chuyển sang viết những lời thóa mạ, lạc lõng, cơ hội, vụ lợi, cổ súy cho những hành vi vi phạm pháp luật của một số đối tượng, đi ngược lại ý chí và nguyện vọng của nhân dân, dân tộc; đồng thời, gieo rắc vào suy nghĩ người đọc rằng “chính quyền xử tội những nhà dân chủ, những thanh niên, sinh viên yêu nước”. Những hành vi này, đã vi phạm quy định tại Điều 258, Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Mặc dù khi làm việc với các cơ quan chức năng, tất cả các đối tượng này đã khai nhận toàn bộ hành vi vi phạm và xin được hưởng sự khoan hồng của pháp luật. Thế nhưng, FH, CPJ, RSF đã không ít lần thể hiện “sự quan tâm đặc biệt” với số này và đưa ra những đòi hỏi vô lối yêu cầu Việt Nam phải “trả tự do vô điều kiện” cho họ. Thực chất, đây rõ ràng là sự can thiệp phi lý vào nội bộ của Việt Nam và cổ súy cho các đối tượng xấu chống Đảng, Nhà nước Việt Nam; thể hiện cái nhìn thiếu thiện chí của FH, CPJ, RSF… về tình hình tự do, dân chủ, nhân quyền ở nước ta.
Có thể nói, tất cả các trường hợp “điển hình” mà các tổ chức FH, CPJ, RSF,… thường lấy làm dẫn chứng cho sự vi phạm về tự do, dân chủ, nhân quyền đều là những cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật của Việt Nam. Và sự thật đã rõ, các “Báo cáo”, “Thông cáo”,… mà một số tổ chức, trong đó có FH, CPJ, RSF đưa ra, thực chất chỉ là những bản đánh giá sai lệch về bản chất, thiếu tính khách quan khi chỉ dựa vào một số cá nhân vi phạm pháp luật của Việt Nam, để từ đó hồ đồ đưa ra cái gọi là “Báo cáo”, “Thông báo” của mình. Chính FH, CPJ, RSF đã tự biến mình thành trò hề trong “cuộc chơi” tự do, dân chủ, nhân quyền mà một số cá nhân, tổ chức có quan điểm thù địch với Việt Nam thường xuyên sử dụng như một “liều thuốc đặc trị”, nhằm chống Đảng, Nhà nước Việt Nam. Thực chất, đằng sau cái gọi là “vi phạm nhân quyền”, “vi phạm tự do báo chí”, “đàn áp, bắt giữ các blogger, nhà báo”,… mà một số tổ chức, cá nhân, trong đó có FH, CPJ, RSF thường “gán” cho Việt Nam chỉ là một “màn kịch” đã được dựng sẵn, nhằm kích động, tiếp tay, cổ súy cho các phần tử xấu chống Đảng, Nhà nước Việt Nam.
Hiện nay, Việt Nam đang xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, mọi hoạt động của xã hội được quản lý và điều chỉnh theo luật pháp. Ở Việt Nam, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, nếu vi phạm pháp luật đều bị xử phạt theo quy định; pháp luật phải được thượng tôn, không ai đứng ngoài pháp luật, đứng trên pháp luật. Một số trường hợp, như: Trần Huỳnh Duy Thức, Tạ Phong Tần, Lê Quốc Quân, Hoàng Khương, Nguyễn Hữu Vinh (Anh Ba Sàm), Trương Duy Nhất, Võ Thanh Tùng,... cũng không phải ngoại lệ. Như vậy, trên thực tế, ở Việt Nam không có phóng viên hay nhà báo nào bị bỏ tù mà chỉ có người vi phạm pháp luật bị xử lý theo quy định của pháp luật.
Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, trong đó có quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận của mọi công dân. Và cũng như các quốc gia khác, nhằm giữ gìn kỷ cương, bảo đảm sự ổn định để phát triển, Nhà nước Việt Nam không cho phép lợi dụng những quyền này để tuyên truyền, kích động lật đổ chính quyền, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trên thực tế, Ðảng và Nhà nước Việt Nam luôn lắng nghe, tôn trọng ý kiến đóng góp của mọi tầng lớp nhân dân đối với việc xây dựng, thực thi chính sách, pháp luật, thông qua các hình thức phản biện xã hội, qua hệ thống báo chí, truyền thông. Nhân dân được tạo điều kiện thực hiện quyền phản biện thông qua đại diện của mình là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể, như: Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Ðoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, v.v. Ðây là cầu nối giữa nhân dân với Ðảng và chính quyền các cấp, Mặt trận và các đoàn thể xã hội. Thông qua đó, để tuyên truyền, phổ biến, động viên nhân dân chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các quy định của địa phương, cơ quan, đơn vị; thực hiện nghiêm Quy chế Dân chủ cơ sở để người dân phát huy quyền làm chủ trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, tạo cơ hội để họ phản ánh nguyện vọng chính đáng của mình.
Hiện nay, Việt Nam có 845 cơ quan báo chí in, trong đó có 199 cơ quan báo in, 646 tạp chí và 01 hãng thông tấn quốc gia (tăng 07 cơ quan báo chí in so với năm 2013); 98 báo, tạp chí điện tử (tăng 06 báo, tạp chí điện tử so với năm 2013); 67 đài phát thanh, truyền hình Trung ương và địa phương;180 kênh phát thanh, truyền hình trong nước và 40 kênh phát thanh, truyền hình ở nước ngoài; 05 đơn vị phát sóng truyền hình số mặt đất và 03 nhà cung cấp dịch vụ truyền hình vệ tinh; 27 nhà cung cấp dịch vụ truyền hình cáp. Số lượng thuê bao truyền hình số mặt đất đạt 7.000.000, tăng gấp đôi so với năm 2013; 973.000 thuê bao truyền hình số vệ tinh và 4.300.000 thuê bao truyền hình cáp. So với các quốc gia khác, Việt Nam có số lượng người dùng in-tơ-nét nhiều thứ 8 trong khu vực châu Á và đứng vị trí thứ 3 ở khu vực Đông Nam Á. Việt Nam hiện có gần 18 nghìn nhà báo được cấp thẻ Nhà báo và hơn 19 nghìn hội viên nhà báo cùng cộng tác viên trên khắp cả nước, là bộ phận xã hội hết sức quan trọng, thường xuyên bám sát thực tiễn cuộc sống, phản ánh một cách trung thực tình hình kinh tế - xã hội của đất nước, những tấm gương điển hình tiên tiến, gương “người tốt, việc tốt” trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; luôn đi đầu trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí. Từ đó, đề xuất, phản biện một cách khoa học về các chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Báo chí Việt Nam thật sự là một kênh thông tin, phản biện xã hội rộng rãi, công khai, dân chủ, nhanh chóng, có hiệu quả.
Về vấn đề dân chủ, nhân quyền, Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm tới việc phát huy dân chủ, quyền con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Điển hình là Hiến pháp năm 2013 đã dành sự ưu tiên đặc biệt đến quyền con người và thể hiện sự tiến bộ rõ nét trong nhận thức về quyền con người. Trong đó, đã dành 38 điều quy định về quyền con người, đồng thời đưa chương quy định về Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân lên vị trí trang trọng (Chương II) ngay sau chương Chế độ chính trị (Chương I). Đồng thời, khẳng định nguyên tắc nhà nước “công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”; “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng”. Nội dung tiến bộ và dân chủ này đã thể hiện rõ quan điểm tiên quyết của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong việc đề cao trách nhiệm, giải quyết mối quan hệ giữa quyền con người và quyền công dân. Mặt khác, nó cũng “đóng khung”, “ngăn chặn” hành vi xâm phạm, hạn chế quyền công dân từ phía các cơ quan, nhân viên công quyền. Đây cũng là một hành động cụ thể, thể hiện Việt Nam tiếp thu quy định của Công ước quốc tế về quyền chính trị, dân sự; quyền kinh tế, văn hóa và Tuyên ngôn nhân quyền năm 1948, phù hợp với giai đoạn phát triển mới của đất nước, đánh dấu bước tiến bộ toàn diện hơn trong lịch sử lập hiến, lập pháp của Việt Nam. Từ đó có thể khẳng định, nhận thức, quyết tâm và hành động nghiêm túc của Việt Nam về vấn đề quyền con người và việc phát triển, hoàn thiện quyền con người luôn là mục tiêu, động lực trong định hướng phát triển đất nước ở Việt Nam.
Vừa qua, Việt Nam đã phát động Chương trình Hành động quốc gia “không còn nạn đói”. Tại buổi lễ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã khẳng định: việc Việt Nam tham gia Sáng kiến “không còn nạn đói” không chỉ thể hiện trách nhiệm của Việt Nam tích cực hưởng ứng các hoạt động của Liên hợp quốc, mà còn đáp ứng các yêu cầu thực tế của Việt Nam. Tham gia Sáng kiến “không còn nạn đói” sẽ giúp Việt Nam làm tốt hơn công tác xóa đói giảm nghèo, đảm bảo an ninh lương thực và an ninh dinh dưỡng ở các vùng nông thôn, nhất là những vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Trước đó, tại Diễn đàn Đối tác phát triển Việt Nam 2014 (VDPF 2014), Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã khẳng định: việc hoàn thiện nhà nước pháp quyền, đảm bảo quyền tự do, dân chủ của người dân và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo Hiến pháp năm 2013 là động lực và giải pháp chủ yếu để nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam. Đồng thời, Thủ tướng nêu rõ, Chính phủ Việt Nam sẽ tiếp tục làm tốt hơn việc bảo đảm tiến bộ công bằng xã hội, thực hiện có hiệu quả các Mục tiêu Thiên niên kỷ.
Nhân dịp kỷ niệm 85 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và đón Xuân Ất Mùi 2015, trả lời phỏng vấn Thông tấn xã Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: mọi chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước ta đều phải hướng tới mục tiêu cuối cùng là vì nhân dân, để đời sống nhân dân ngày càng tốt hơn, sung túc hơn. Như vậy, thực tế đã rõ, vấn đề tự do, dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam luôn được Đảng, Nhà nước Việt Nam hết sức quan tâm, chú trọng và đặt lên hàng đầu, mọi công dân Việt Nam đều có quyền bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Không có cái gọi là “vi phạm dân chủ, nhân quyền”, “bắt giữ tùy tiện” nhằm vào những nhà báo hay blogger mà một số tổ chức đã đưa ra.
Việt Nam là một đất nước có tự do, độc lập, con đường phát triển của dân tộc Việt Nam do chính người dân Việt Nam lựa chọn. Việt Nam không bao giờ chấp nhận một thế lực bên ngoài can thiệp, sắp đặt và lại càng không để cho bất cứ ai xuyên tạc, phỉ báng, kích động gây rối nội bộ, kìm hãm sự phát triển của đất nước. Thiết nghĩ, những ai đó luôn cho rằng tự do báo chí, tự do ngôn luận là “tối thượng” và lợi dụng quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, dân chủ, nhân quyền để hô hào, cổ súy cho những hành động đi ngược lại lợi ích của dân tộc Việt Nam thì tự họ phải xem xét lại.
ANH VŨ

Vị trí địa chính trị của Việt Nam với đường lối quốc phòng

QĐND - Gần đây, một số người tỏ ra “cởi mở”, “chân thành” tư vấn cho lãnh đạo Việt Nam, nhưng thực chất là tán phát quan điểm xuyên tạc đường lối chính trị của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam, gây ra sự ngộ nhận trong xã hội về vấn đề phát huy vị trí địa chính trị để bảo vệ Tổ quốc. Dư luận cần hết sức tỉnh táo trước những lý lẽ của họ.
Là quốc gia có vị trí địa lý quan trọng trong khu vực, Việt Nam là cầu nối trên đất liền giữa phần lớn nhất của lục địa Á, Âu với khu vực Đông Nam Á, đa sắc tộc, giàu tài nguyên; Hoàng Sa, Trường Sa nằm trên tuyến hành lang đường biển thuận tiện, với 50% khối lượng hàng hóa luân chuyển của thế giới đi qua vùng biển này. Cùng với tài nguyên phong phú, dân số khá lớn… những điều kiện này đã khiến Việt Namtrở thành một trong những quốc gia có vị trí địa chính trị quan trọng bậc nhất trong khu vực và trên thế giới.
Hiện nay, nhiều cường quốc xem khả năng kiểm soát Biển Đông là “lợi ích cốt lõi” của mình. Chính vì vậy mà Biển Đông đã trở thành một trong những “điểm nóng” lớn nhất về lợi ích giữa nhiều nước lớn. Trong thế kỷ 20, nhiều quốc gia phát triển đã sớm nhận thấy vị trí địa chính trị quan trọng của Việt Nam. Từ những quốc gia xa xôi trên thế giới, thậm chí bên kia đại dương đã “vươn” tới Việt Nam, mong muốn sớm thiết lập quan hệ thân thiện. Song chính vì vị trí địa chính trị đó mà dân tộc Việt Nam đã thường xuyên phải đương đầu với các cuộc chiến tranh xâm lược, và do đó có rất ít thời gian hòa bình để xây dựng đất nước. Tuy nhiên, dân tộc ta một mặt đã không sợ hy sinh xương máu để giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, mặt khác luôn luôn phát huy trí sáng tạo trong chính sách, chiến lược hòa hiếu, “cân bằng” với các nước để có hòa bình xây dựng đất nước.
Ảnh minh họa/Nguồn: QĐND
Thế nhưng trong không gian mạng với cái gọi là tự do tư tưởng, tự do “phản biện” ồn ào, một số người “bất đồng chính kiến” đã “cởi mở”, “chân thành” tư vấn cho lãnh đạo Việt Nam, mà thực chất là tán phát quan điểm xuyên tạc đường lối chính trị của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam, gây ra sự ngộ nhận trong xã hội. Họ cho rằng: Chỉ có liên minh quân sự với một cường quốc thì Việt Nam mới giữ được chủ quyền biển, đảo. Họ cũng nhấn mạnh rằng Việt Nam đang có “cơ hội” này. Về “thực trạng” chính trị ViệtNam hiện nay họ cho rằng: “Chỉ có hai cách tránh họa xâm lăng: (Một) là … nhắm mắt chờ đợi một biến cố nào đó xảy ra, (hai) là cam chịu mọi sự ép bức trong đó mất dần chủ quyền biển, đảo”.
Thực tế có phải như họ nói hay không? Lý lẽ nói trên của họ có gì mới không?
Trước hết, về mặt lịch sử trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược của dân tộc ta trong thế kỷ 20, sở dĩ nhân dân ta đã giành được thắng lợi to lớn, bảo vệ được độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, thống nhất đất nước là nhờ đường lối chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đường lối đó đã phát huy được sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, đồng thời tranh thủ được sự giúp đỡ, ủng hộ to lớn của nhân dân các nước trên thế giới, trong đó có các nước XHCN và nhân dân các nước tư bản chủ nghĩa, kể cả nhân dân Pháp và nhân dân Mỹ.
Chúng ta cũng không phủ nhận rằng, trong một số sự kiện cách mạng Việt Nam, một số nước lớn đã lợi dụng vị trí địa chính trị của Việt Nam, thỏa hiệp với nhau vì lợi ích dân tộc hẹp hòi của họ. Tuy nhiên, ngày nay những trang lịch sử đó đã đi vào quá khứ, việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam với nhiều mức độ (như “đối tác chiến lược”, “đối tác toàn diện”)… đều dựa trên lợi ích của cả hai bên. Thực tế cho thấy, trên thế giới chưa bao giờ một nước nào có thể hy sinh lợi ích của dân tộc mình chỉ vì lợi ích của một dân tộc khác. Cho nên những ý kiến "tư vấn" của người “bất đồng chính kiến” rằng: Ngày nay Việt Nam cần thiết phải lập một liên minh (chính trị-quân sự) “bằng cách nắm lấy bàn tay” của quốc gia phát triển nào đó để “giữ lấy Biển Đông…” thiết nghĩ là tư duy chính trị chưa ngang tầm.
Thứ hai, về mặt thực tiễn, phải chăng lãnh đạo Việt Nam hiện nay đang ngồi nhìn nguy cơ bị xâm lấn theo hai “kịch bản” như họ vẽ ra ở trên?
Thiết nghĩ, tất cả những người yêu nước chân chính đều có quyền chia sẻ những bức xúc của mình trước những hành vi vi phạm chủ quyền biển, đảo nước ta. Nhưng cho rằng lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta chỉ “nhắm mắt chờ đợi một biến cố nào đó xảy ra” hoặc: “Cam chịu mọi sự ép bức trong đó mất dần chủ quyền biển, đảo” là không đúng sự thật, nếu không muốn nói là “vu oan, giá họa cho người khác”.
Không phải ngẫu nhiên mà trong chuyến thăm Trung Quốc năm 2011, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng và Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Hồ Cẩm Đào đã ký văn kiện "Những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển”, trong đó hai bên nhất trí: “Kiên trì thông qua hiệp thương hữu nghị, xử lý và giải quyết thỏa đáng vấn đề trên biển, làm cho Biển Đông trở thành vùng biển hòa bình, hữu nghị, hợp tác, đóng góp vào việc phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc, góp phần duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực”(1).
Chẳng lẽ trong các thỏa thuận quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện giữa Việt Nam với các nước trong những năm qua lại cho phép các nước lớn chèn ép, lấn chiếm lãnh thổ, biển, đảo của Việt Nam? Việc một lực lượng chính trị, hoặc quân sự cực hữu, hiếu chiến nào đó lợi dụng các quan hệ tốt đẹp được ghi trong các văn kiện chính trị mà Việt Nam ký kết với một quốc gia khác vì những mục tiêu đen tối của chúng thì điều đó thuộc về trách nhiệm của họ đối với lịch sử. Tất nhiên trong các cuộc trao đổi chính thức, lãnh đạo của Việt Nam cũng như nhiều đại diện của các quốc gia luôn ghi nhận nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước quốc tế về Luật Biển 1982.
Thêm nữa, chiến lược xây dựng tiềm lực quốc phòng của Việt Nam với việc tập trung nguồn lực tiến thẳng lên hiện đại cho các lực lượng hải quân, phòng không-không quân… là nhằm phòng ngừa cho những tình huống “bất khả kháng” - những điều chúng ta hoàn toàn không mong đợi! Từ lãnh đạo cho đến mọi người dân Việt Nam đều thấy rõ bảo vệ không gian sinh tồn của dân tộc, trong đó có bảo vệ chủ quyền biển, đảo là thiêng liêng, là nhiệm vụ tối thượng của tất cả người dân Việt Nam,
Thứ ba, phải chăng liên minh (quân sự) với nước thứ ba là giải pháp tối ưu của Việt Nam để bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ?
Xem xét đường lối bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ từ kinh nghiệm lịch sử cũng như sự phân tích logic, việc tìm kiếm “liên minh quân sự” không phải là giải pháp tối ưu, có hiệu quả trong bối cảnh chính trị quốc tế và đặc điểm về địa chính trị của Việt Nam hiện nay. Nếu như trong lý luận quân sự nói chung thì khái niệm “liên minh quân sự” là một nguyên lý quan trọng. Tuy nhiên kinh nghiệm lịch sử lại cho thấy đã có không ít sự kiện, một số nước lớn đã lợi dụng quan hệ của mình với nước nhỏ để mặc cả với nhau nhằm phục vụ cho lợi ích chiến lược của họ.
Trong lịch sử cũng như lý luận quân sự Việt Nam cho đến nay không có khái niệm “liên minh quân sự” để chống lại nước thứ ba, hoặc như là một giải pháp để bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ. Không lựa chọn chiến lược “liên minh quân sự” với một cường quốc không có nghĩa là không thể phát triển quan hệ hợp tác về quốc phòng và an ninh với tất cả các nước để bảo vệ Tổ quốc. Thay cho khái niệm liên minh quân sự, Việt Nam có những khái niệm khác. Chẳng hạn: “Phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại…”; “Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc”; “Mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng-an ninh”(2). Cần lưu ý rằng, hợp tác quốc tế về quân sự của Việt Nam cũng chỉ nhằm bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước, ngoài ra không có một mục đích nào khác.
Điểm đặc sắc trong lý luận quân sự Việt Nam là sự kết hợp sức mạnh quân sự với phát triển hợp tác quốc tế trên cơ sở “đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế…”(3). Hiện nay, Việt Nam đang mở rộng quan hệ hợp tác về quốc phòng, an ninh với nhiều quốc gia, trong đó có Liên bang Nga, Hoa Kỳ, Ấn Độ, Ô-xtrây-li-a… Nội dung của sự hợp tác bao gồm mua sắm vũ khí, thiết bị quân sự; chuyển giao công nghệ; cứu hộ, cứu nạn; đào tạo nhân lực...
Trong bối cảnh chính trị quốc tế ngày nay, khi cộng đồng quốc tế đã nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của môi trường hòa bình, của luật pháp quốc tế thì việc thực hiện nhất quán đường lối quốc phòng, an ninh gắn chặt với đường lối đối ngoại nói trên là một tất yếu khách quan, nhất là khi Việt Nam có một vị trí địa chính trị quan trọng, nhạy cảm đối với khu vực và trên thế giới.
TS BẮC HÀ
---------------------
(1) - Nguyên tắc giải quyết vấn đề trên biển Việt-Trung
 (2) - Văn kiện Đại hội XI, tr.233
 (3) - Văn kiện Đại hội XI, tr.83

Tự do tôn giáo ở Việt Nam - những cái nhìn gần

QĐND - 1. Một ngày chủ nhật, nhận được email của một người bạn Anh dễ có đến hơn mươi năm quen biết. Bức thư không dài, vỏn vẹn vài dòng hỏi thăm, nhưng lại khiến người nhận chú ý, bởi chỉ một câu của tác giả: “Việt Nam đã trở thành nơi không thể nào quên và không bao giờ hết nhớ đối với tôi”. 85 tuổi, gần 30 năm gắn bó với Việt Nam, Len A-đi-xơ (Len Aldis) là một cái tên quen thuộc với nhiều người Việt Nam. Mà Việt Nam cũng quen thuộc với ông đến mức, nhắm mắt Len cũng đếm được từng bước chuyển mình của đất nước này. Trong email, Len chỉ nhắn, nếu ông có cơ hội thăm Việt Nam lần nữa, thì nhớ dẫn ông đi dạo một vòng Hà Nội. Vậy là lại nhớ vào một chủ nhật nào đấy, năm mà Len đến Việt Nam gần đây, qua khách sạn trên phố Bảo Khánh gần Hồ Gươm chở ông đi dạo, Len nói chở ông đi thăm nhà thờ. Định đưa ông ra Nhà Thờ Lớn ở gần đấy cho tiện, nhưng Len nhất quyết muốn ra Nhà thờ Cửa Bắc để nghe một buổi giảng đạo và ngắm giáo dân Hà thành đi lễ, bởi đơn giản là các nhà thờ khác ông đi rồi. Đáng ngạc nhiên là Len có thể nhớ được hầu hết các nhà thờ ở Hà Nội. Có lẽ là như lời Len nói, một phần cũng bởi vì ông chưa bao giờ thôi hết ngạc nhiên và khâm phục khả năng gìn giữ và bảo tồn các kiến trúc nhà thờ ở Việt Nam.
Bức thư điện tử của Len gợi nhớ đến một người bạn vong niên khác của Việt Nam, ông An-đrê Xau-va-giốt (Andre Sauvageot), cựu đại tá quân đội Mỹ đã từng có “thâm niên” 40 năm “quen biết” Việt Nam và 20 năm sống ở mảnh đất này. Ông cũng là một trong những người Mỹ đầu tiên trở lại Việt Nam với vai trò của một doanh nhân sau khi Việt Nam và Mỹ bình thường hóa quan hệ. Ngần ấy năm sống ở Việt Nam đã cho Xau-va-giốt cơ hội đi từ Bắc tới Nam, sống và chứng kiến Việt Nam từng bước “thay da đổi thịt” trở thành một quốc gia ngày càng phát triển. Hai thập kỷ đó cũng giúp cho Xau-va-giốt có kha khá bạn bè người Việt. Xau-va-giốt từng kể, trong số các bạn bè của ông có rất nhiều người là giáo sĩ (chủ yếu theo Thiên Chúa giáo), linh mục, tăng ni, phật tử… Những người bạn này rất trung thành với tôn giáo của mình và họ cũng tự thấy mình hoàn toàn được tự do tín ngưỡng, tham dự các lễ mỗi tuần. Trong một bài trả lời phỏng vấn gần đây về vấn đề tự do tôn giáo ở Việt Nam, Xau-va-giốt đã khẳng định: “Không có giáo dân, giáo sĩ, linh mục, sư sãi nào gặp khó khăn chỉ vì tham dự hay tổ chức lễ lạt tôn giáo, giải thích tư tưởng của các giáo chủ hay thánh nhân sáng lập đạo, miễn là không có hành vi vi hiến hay bất hợp pháp mà thôi”.
 2. Thực tế ở Việt Nam, các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật, không một tôn giáo nào hoạt động đúng pháp luật mà bị ngăn cấm. Mọi người dân Việt Nam hoàn toàn tự nguyện, tự do lựa chọn theo hoặc không theo một tín ngưỡng, tôn giáo nào, không bị ép buộc, cấm đoán. Quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân luôn được Nhà nước Việt Nam tôn trọng và đảm bảo. 
Người dân đi lễ ở chùa Quán Sứ ngày Mồng Hai Tết Ất Mùi. Ảnh: VOV
Ở Việt Nam, ngày càng có thêm nhiều tổ chức tôn giáo được công nhận và hoạt động. Số lượng các tín đồ tôn giáo tăng nhanh. Các cơ sở thờ tự liên tục được xây dựng, mở mang, tạo điều kiện cho sinh hoạt tôn giáo. Cho đến nay, theo thống kê  có  tới 95% số dân Việt Nam có đời sống tín ngưỡng, trong đó hơn 24 triệu người là tín đồ của các tôn giáo khác nhau (chiếm khoảng 27% dân số). Trên cả nước, có 26.387 cơ sở thờ tự gồm chùa, đền thờ, nhà thờ và các nơi thờ tự khác. Hoạt động in ấn, phát hành kinh sách được xuất bản tự do theo nhu cầu của các tôn giáo. Công tác giáo dục, đào tạo về tôn giáo được thúc đẩy. Các hoạt động đối ngoại về tôn giáo ngày càng được đẩy mạnh… Các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam được khuyến khích và tạo điều kiện tham gia hoạt động y tế, văn hóa, xã hội, nhân đạo,... qua đó đóng góp vào quá trình xây dựng, phát triển đất nước.
Bên cạnh đó, Nhà nước Việt Nam coi trọng việc thể chế hóa trong công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo, phù hợp với các công ước và luật pháp quốc tế, phù hợp với thực tiễn của tôn giáo ở Việt Nam, cũng như tôn trọng quan hệ của các tổ chức tôn giáo trong nước với các tổ chức tôn giáo thế giới. Quan hệ đang tiến triển tốt đẹp giữa Nhà nước Việt Nam với Va-ti-căng trong những năm gần đây có thể minh chứng cho điều này.
Có thể nói, đời sống tôn giáo ở Việt Nam chưa bao giờ sôi động như hiện nay.
Mục sư Ân Ước, Hội trưởng Hội truyền giáo Cơ đốc Việt Nam (Tin lành miền Nam), trong cuộc gặp mặt hôm 9-3 nhân kỷ niệm 40 năm Chiến thắng Buôn Ma Thuột cho biết, với sự đầu tư của Nhà nước, bà con các dân tộc Tây Nguyên cũng như bà con đạo Tin lành đã ổn định đời sống, thuận lợi trong sinh hoạt tín ngưỡng, yên tâm phát triển kinh tế. Được tự do hoạt động cũng là khẳng định của ông Nguyễn Văn Bản, Giáo vụ Giáo phận Buôn Ma Thuột. Ông Bản cho rằng, sự phối hợp tốt giữa giáo hội với các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương, đảm bảo cho những chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước đi vào cuộc sống, tạo điều kiện thuận lợi nhất để những người có đạo phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân và hội nhập quốc tế. “Đã có sự thông suốt về chính sách tôn giáo từ Trung ương đến địa phương, và chính quyền cũng thấy rõ tôn giáo là một bộ phận xây dựng sự ổn định và phát triển của xã hội. Khi ở địa phương có những vấn đề gì mà giáo dân của tôi bức xúc, chúng tôi trao đổi ngay với Ban tôn giáo của tỉnh, nhờ thế mà tôi thấy trong giáo phận của tôi ở Đắc Lắc, Đắc Nông cũng như Bình Phước, bà con giáo dân  rất phấn khởi”, ông Nguyễn Văn Bản nói. 
Theo Thượng tọa Thích Huệ Thông, Ủy viên thường trực Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, trong điều kiện hiện nay, đồng bào là giáo dân của các tôn giáo có thể vừa tự do theo tín ngưỡng của mình, vừa thực hiện tốt trách nhiệm công dân. “Tôi nghĩ rằng các tôn giáo chúng ta lấy tinh thần đoàn kết, lấy tinh thần hòa hợp làm chính và điều này thì Phật giáo Việt Nam đã làm được. Vấn đề quan trọng ở đây là làm sao chúng ta thể hiện tinh thần của một người dân đối với Tổ quốc, đối với đất nước; dù là tôn giáo nào nhưng chúng ta sống trên mảnh đất này, chúng ta được sinh ra và lớn trên mảnh đất yêu thương của dân tộc, thì bổn phận và trách nhiệm của chúng ta phải cống hiến tất cả cho Tổ quốc, cho dân tộc”, Thượng tọa Thích Huệ Thông nói.
Một thực tế nữa là các tổ chức nhân quyền và tôn giáo quốc tế nhiều lần tới làm việc và khảo sát thực tế ở Việt Nam đã thừa nhận việc bảo đảm quyền con người, trong đó có quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam đạt được nhiều tiến bộ. Báo cáo viên đặc biệt về tự do tôn giáo và tín ngưỡng của LHQ, ông Hai-nơ Bây-le-phin (Heiner Beilefeldt), người có thời gian đến Việt Nam tìm hiểu tình hình thực tế về tự do tôn giáo, trong báo cáo trình bày trước Hội đồng Nhân quyền LHQ ngày 11-3 vừa qua đã đánh giá cao sự hợp tác và tạo điều kiện của các cơ quan trong suốt thời gian chuyến thăm; ghi nhận những thành tựu mà Việt Nam đã đạt được trong việc thúc đẩy, bảo vệ quyền tự do tôn giáo, đặc biệt là sự phát triển về số lượng tín đồ, chức sắc tôn giáo cũng như các cơ sở thờ tự tại khắp các tỉnh trong những năm vừa qua. Mặc dù còn tồn tại một số khó khăn nhưng nhìn chung các cộng đồng tôn giáo trong nước đã có nhiều không gian để thực hành tôn giáo.
Chẳng phải ngẫu nhiên mà Việt Nam đã trúng cử với số phiếu cao nhất vào Hội đồng Nhân quyền LHQ (nhiệm kỳ 2014-2016). Đó là sự ghi nhận, đánh giá cao của cộng đồng quốc tế đối với chính sách, nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong bảo đảm các quyền con người, trong đó có quyền tự do tôn giáo. Đó cũng là những minh chứng mới nhất, rõ nhất cho thấy các tôn giáo của Việt Nam tự do, bình đẳng và cùng phát triển trong một đất nước hòa bình, hội nhập.
 3. Còn nhớ, An-đrê Xau-va-giốt cũng từng giải thích về vấn đề tự do tôn giáo theo góc nhìn chính trị rất thú vị. Ông nói rằng, không một chính quyền nào muốn duy trì sự lãnh đạo của mình mà lại đi đàn áp tôn giáo; làm thế chẳng khác nào tự thiêu sống mình. Phương Tây dường như là một ví dụ rõ ràng nhất. Cách đối xử không công bằng của Mỹ và phương Tây với đạo Hồi cách đây một vài thập niên đã là một trong những nguyên cớ tạo nên hiện tượng khủng bố cực đoan ghê rợn mà hiện thân là Al-Qaeda và Nhà nước Hồi giáo IS hiện nay. Giờ đây, phương Tây đã phải chi cả núi tiền cho cuộc chiến chống khủng bố. Chẳng có mấy nước lại dại dột đi đàn áp tôn giáo để rước họa vào thân.
 Như thế, lại tự vấn rằng, những người cả đời mới đến Việt Nam được có một lần, thậm chí có người chưa từng đến, cũng chưa hình dung thực tế đất nước ấy ra sao, dựa vào đâu mà phê phán và đưa ra những nhận xét thiếu tích cực về tình hình tôn giáo ở Việt Nam?! Hoặc là ăn ốc nói mò, hoặc biết rõ thực tế, nhưng vì những mục đích đen tối nào đấy mà bịa tạc, vu cáo !
KIỀU TRỊNH

Lặng thầm những chiến công

Những cán bộ, chiến sỹ (CBCS) "3 bám, 4 cùng" là cách gọi thân thương của mỗi người dân khi nhắc đến CBCS Phòng An ninh xã hội (PA88), Công an tỉnh. Trên mặt trận không tiếng súng, các CBCS đang ngày đêm kiên trì bám trụ cơ sở, đóng góp nhiều thành tích vào chiến công chung của lực lượng Công an nhân dân trên trận tuyến bảo vệ an ninh quốc gia, vì sự bình yên của nhân dân.
    Cán bộ chiến sỹ phòng PA88, Công an tỉnh tuyên truyền chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước tại vùng đồng bào dân tộc.
    Những năm qua, tình hình an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh cơ bản ổn định. Tuy nhiên, tình hình trên thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường. Các thế lực thù địch, phản động và kẻ xấu ở nước ngoài vẫn không từ bỏ âm mưu, hoạt động chống phá, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, lợi dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do tôn giáo” tăng cường móc nối để tìm cớ can thiệp vào công việc nội bộ nước ta. Phát huy tinh thần "an ninh chủ động", CBCS Phòng PA88 luôn nắm vững mọi tình huống và triển khai hiệu quả các mặt công tác đảm bảo an ninh xã hội, không để xảy ra tình huống đột xuất, bất ngờ. Tích cực phối hợp với các lực lượng tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương tham mưu Đảng ủy, Ban Giám đốc Công an tỉnh trong lãnh, chỉ đạo, triển khai thực hiện có hiệu quả các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, tỉnh và ngành về công tác dân tộc, tôn giáo và các vấn đề xã hội.
    Cấp ủy, lãnh đạo Phòng PA88 luôn quan tâm chỉ đạo, phổ biến những văn bản liên quan đến lĩnh vực đấu tranh chống phản động và yêu cầu mỗi CBCS phải nắm vững, quán triệt sâu sắc để vận dụng sáng tạo, phù hợp vào thực tiễn chiến đấu của đơn vị, phù hợp với từng nhiệm vụ được giao. Phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa lực lượng Công an các cấp cũng như các ban, ngành liên quan, nâng cao hiệu quả các biện pháp công tác nghiệp vụ, đặc biệt là công tác điều tra cơ bản và mạng lưới bí mật. Hơn nữa, do đặc thù của công tác an ninh xã hội phải thường xuyên tiếp xúc, làm việc với những đối tượng có nhân thân đặc biệt, có trình độ và phương thức hoạt động tinh vi nên việc rèn luyện cho CBCS có phẩm chất chính trị vững vàng, nắm vững pháp luật, tinh thông nghiệp vụ là đặc biệt cần thiết. Đồng thời, quan tâm động viên CBCS khắc phục khó khăn, gian khổ, bám sát địa bàn, đối tượng, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng tôn giáo, địa bàn xảy ra tranh chấp, khiếu kiện phức tạp. Chính trong thực tiễn, CBCS tự rút ra cho mình những kỹ năng, chìa khoá của thành công. Trung tá La Văn Lý, Phó trưởng Phòng PA88 là người dân tộc Mông, chính vì vậy phong tục, tập quán, ngôn ngữ dân tộc anh “nằm lòng”. Hơn 20 năm làm trinh sát an ninh, là "người con của mọi bản làng", mỗi nơi anh đến, bà con luôn coi anh như chính người thân. Anh chia sẻ: Chúng tôi đến để vận động bà con chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, bằng việc giải thích cho bà con phải sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, không để cho người khác xúi giục, làm trái với đạo đức, với phong tục của đồng bào mình.
    Đối với Đại úy Nông Đức Huy, những ngày đầu mới nhận nhiệm vụ thấy rất nhiều khó khăn vì bất đồng ngôn ngữ, điều kiện đi lại khó khăn. Cũng như CBCS trẻ khác, anh không ngừng trau dồi kỹ năng, kiến thức ngôn ngữ từ chính đồng bào trong mỗi lần "4 cùng" với bà con. Trong 5 năm làm việc tại Phòng PA88, mỗi lần đi cơ sở là một ấn tượng, kỷ niệm: Bà con dân tộc nơi đâu cũng sống rất tình cảm, chân thực. Nên việc tiếp cận cơ sở, đặc biệt là vùng sâu, vùng đồng bào khó khăn để hiểu, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng và tạo sự đồng thuận với bà con là hết sức cần thiết.
    Đại tá Lý Đức Hiếu, Trưởng phòng PA88 cho biết: Thực hiện các nhiệm vụ được giao, nhiều vụ việc, chúng tôi chọn phương pháp đối thoại. Thông qua đối thoại, nắm và chuyển tải những chủ trương, chính sách, pháp luật, quy định của Đảng, Nhà nước tới đối tượng quần chúng. Nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của bà con, thấu hiểu những khó khăn của đồng bào tạo được tiếng nói chung. Nhờ phương pháp đối thoại,  đơn vị giải quyết thành công nhiều vụ việc phức tạp.
    Công tác chỉ huy, chỉ đạo được đổi mới, CBCS luôn dựa vào dân và người có uy tín, trưởng bản để nắm tình hình, phục vụ công tác đấu tranh, phòng ngừa, ngăn chặn những đối tượng có biểu hiện vi phạm pháp luật. Thực hiện nhiệm vụ “3 bám” (bám dân, bám địa bàn, bám đối tượng), “4 cùng” (cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc), CBCS Phòng PA88 đã kịp thời tham mưu với cấp ủy, chính quyền cơ sở giải quyết những vướng mắc phát sinh, vận động nhân dân không tin, không làm theo lời xúi giục của kẻ xấu, đã tạo niềm tin trong nhân dân. Năm 2014, Phòng PA88 tiếp nhận, xử lý 172 thông tin, tài liệu liên quan, trong đó 76 nguồn tin từ các đơn vị trong lực lượng, 40 nguồn tin từ cấp ủy, chính quyền địa phương và các cơ quan, ban, ngành trên địa bàn; xử lý 56 nguồn thông tin qua biện pháp nghiệp vụ. Tham mưu cho Ban Giám đốc Công an tỉnh triển khai thực hiện 20 văn bản chỉ đạo, tổng kết 7 chuyên đề, ban hành 140 văn bản và 40 công điện chỉ đạo Công an cấp huyện. Trong năm, đơn vị đưa vào diện quản lý 6 đối tượng có tư tưởng cực đoan, chống đối. Tổ chức gọi hỏi, răn đe giáo dục trên 20 lượt đối tượng cầm đầu tổ chức trái pháp luật Dương Văn Mình và các đối tượng theo đạo trái pháp luật lôi kéo quần chúng trốn ra nước ngoài, xây dựng nhà nguyện trái phép, vận chuyển trái phép tài liệu vào địa phương; bắt và truy tố 1 đối tượng.
    Trong năm 2014, PA88 phối hợp với Công an tỉnh bạn tiếp nhận đưa về địa phương 12 quần chúng tại huyện Nguyên Bình bị kẻ xấu lợi dụng lôi kéo trốn ra nước ngoài qua biên giới tỉnh Nghệ An; xác minh và ngăn chặn 2 vụ vận chuyển hơn 2.000 cuốn sách có nội dung tuyên truyền đạo trái pháp luật, xử lý hoạt động tà đạo. Ngoài ra, làm rõ nhiều vụ việc phức tạp về an ninh xã hội xảy ra trên địa bàn.
    Cán bộ đơn vị tiếp xúc đối thoại 25 lượt trưởng, phó điểm nhóm trong Ban liên lạc lâm thời đạo Tin lành của tỉnh. Phối hợp với các đơn vị, địa phương tuyên truyền, vận động xóa bỏ tổ chức trái pháp luật Dương Văn Mình. Tranh thủ hàng trăm lượt chức sắc, chức việc trong các đạo Công giáo, Phật giáo và người có uy tín cung cấp nhiều nguồn thông tin có giá trị về an ninh trật tự, hỗ trợ trong giải quyết các vụ việc, tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân.
    Với những chiến công thầm lặng đóng góp vào thành tích chung của lực lượng an ninh, từ khi thành lập đến nay, Phòng  PA88 vinh dự được Đảng, Nhà nước tặng thưởng các danh hiệu cao quý "Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân", Huân chương Quân công hạng 3, Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng nhì. Năm 2013, Bộ Công an tặng Bằng khen 5 năm thực hiện Chỉ thị số 06 của Thủ tướng Chính phủ về phát huy vai trò người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Năm 2014, UBND tỉnh tặng Bằng khen trong triển khai thực hiện Thông báo số 160-TB/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng về chủ trương trong công tác đối với đạo Tin lành. Nhiều năm đơn vị đạt danh hiệu “Đơn vị Quyết thắng”, "Đơn vị tiên tiến", gần 100 lượt CBCS đạt danh hiệu "Chiến sỹ thi đua cơ sở", “Chiến sỹ tiên tiến". Những phần thưởng cao quý mà Đảng, Nhà nước, các cấp khen thưởng là minh chứng cho những chiến công thầm lặng của CBCS Phòng PA88.
    Bảo Bình

    Tự do phải đặt trong khuôn khổ của pháp luật

    Tự do ngôn luận, tự do báo chí. Nguồn: tuyengiao.vn
    QĐND - Gần đây, trên một số trang mạng xã hội, xuất hiện một số người tự xưng là “người yêu tự do”, “nhóm yêu tự do”. Họ cho rằng quyền tự do ở Việt Nam đang bị hạn chế. Có lẽ họ không biết hoặc cố tình không biết về bản chất của tự do chân chính ở bất cứ nhà nước pháp quyền nào cũng đều phải đặt trong khuôn khổ pháp luật; không thể có tự do “vô chính phủ”, muốn làm gì thì làm. Tại Việt Nam, quyền tự do chân chính của người dân được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. 
    Nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay được tổ chức theo mô hình nhà nước pháp quyền. Bản chất của nhà nước pháp quyền là tính thượng tôn pháp luật. Pháp luật vừa là công cụ quản lý nhà nước hữu hiệu, vừa tạo hành lang pháp lý cho sự phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quyền tự do của công dân. Quyền tự do của công dân trong nhà nước pháp quyền được bảo đảm bằng pháp luật. Mọi người sống trong nhà nước pháp quyền được tự do trong khuôn khổ của pháp luật.
    Nhắc đến quyền tự do của con người, một số người đã trích Công ước nhân quyền châu Âu (Công ước) có hiệu lực từ ngày 3-9-1953, trong đó quy định: “Tất cả mọi người đều có quyền tự do bày tỏ ý kiến. Quyền này bao gồm việc được tự do bày tỏ ý kiến và tự do trao đổi các thông tin mà không cần phải nhận được bất kỳ việc cho phép nào từ phía cơ quan công quyền và không phân biệt biên giới”. Một số người cho rằng, công dân Việt Nam chưa được hưởng quyền này. Thế nhưng họ không biết hoặc cố tình coi như không biết phần tiếp theo của Công ước đã trích dẫn ở trên nhấn mạnh: “Việc thực hiện các quyền nói trên, bao gồm cả các nghĩa vụ và trách nhiệm, hình thức, điều kiện, các hạn chế hoặc các biện pháp trừng phạt cần phải được ghi rõ trong các văn bản pháp luật có cân nhắc đến việc cần thiết đối với một xã hội dân chủ, vì lợi ích đối với an ninh quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, duy trì trật tự công cộng và ngăn ngừa tội phạm, bảo vệ sức khỏe và đạo đức, nhân phẩm hoặc danh dự của con người, ngăn ngừa việc  tán phát các thông tin mật hoặc để bảo đảm quyền lực và tính độc lập của các cơ quan tư pháp”. Như vậy, việc thực thi các quyền tự do đó và các hạn chế được cụ thể hóa trong pháp luật của mỗi quốc gia. Vì mỗi quốc gia đều cân nhắc tình hình thực tế của mình để đưa ra các đạo luật nhằm cụ thể hóa việc thực hiện quyền tự do của công dân.
    Nước Mỹ được một số người coi là “hình mẫu của tự do”, nhưng tại Điều 2385 Chương 115-Bộ luật Hình sự Mỹ đã có quy định nghiêm cấm mọi hành vi "in ấn, xuất bản, biên tập, phát thanh, truyền bá, buôn bán, phân phối hoặc trưng bày công khai bất kỳ tài liệu viết hoặc in nào có nội dung vận động, xúi giục hoặc giảng giải về trách nhiệm, sự cần thiết tham vọng hoặc tính đúng đắn của hành vi lật đổ hoặc tiêu diệt bất kỳ chính quyền cấp nào tại Mỹ bằng vũ lực hoặc bạo lực". Theo Hiến pháp Mỹ thì Tòa án tối cao được phép đưa ra những trừng phạt pháp lý khi phát hiện báo chí có hành vi phá hoại, lăng nhục, vu khống, xúc xiểm nhà nước, xã hội và cá nhân. Vì thế, hằng năm có hàng trăm các văn bản lớn nhỏ khác nhau được Tòa án tối cao ban hành để điều hành và kiểm soát báo chí ở Mỹ.
    Thực tế không một quốc gia nào trên thế giới coi quyền tự do của con người là tuyệt đối. Bởi lẽ, nếu tự do tuyệt đối thì xã hội sẽ bị loạn khi tự do bắn giết, tự do cướp bóc, tự do hãm hiếp… Quyền tự do của mỗi con người trong từng quốc gia đều được giới hạn trong khuôn khổ pháp luật của mỗi quốc gia đó.
    Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân. Quyền tự do của mọi người trên lãnh thổ Việt Nam được bảo đảm bằng pháp luật của Việt Nam. Từ sau ngày đất nước thống nhất (năm 1975) đến nay, quyền tự do, dân chủ của người dân Việt Nam ngày càng được mở rộng phù hợp với luật pháp quốc tế. Hiến pháp năm 2013 đã nâng tầm chế định quyền con người, quyền công dân thành một chương. So với hiến pháp của nhiều quốc gia, Hiến pháp năm 2013 của nước ta thuộc vào những hiến pháp ghi nhận một số lượng cao về quyền con người, trong đó có quyền tự do.  Sự tiến bộ này đã được nhiều học giả trên thế giới ghi nhận. Đặc biệt, Điều 20 và 21 của Hiến pháp năm 2013 quy định rõ, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác của mọi người đều được bảo vệ; do đó, đã mở rộng chủ thể và nội dung quyền được bảo vệ về đời tư so với Điều 73 của Hiến pháp năm 1992-chỉ quy định về quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín. Không chỉ củng cố các quyền đã được hiến định trong Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 còn chế định một số quyền mới, như quyền sống (Điều 19); các quyền về nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó (Điều 40); quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa (Điều 41); quyền xác định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp (Điều 42); quyền được sống trong môi trường trong lành (Điều 43); quyền không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác (khoản 2, Điều 17).
    Nếu Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định công dân “có quyền được thông tin” (Điều 69), thì Hiến pháp năm 2013, ở Điều 25, thay chữ “được” bằng cụm từ “tiếp cận”. Nhờ quyền tiếp cận thông tin, mọi công dân có thể tiếp cận thông tin, cả về các quyền thực định cũng như về hoạt động tư pháp, để thụ hưởng đầy đủ và bảo vệ các quyền của mình theo Hiến pháp và pháp luật.
    Triển khai và cụ thể hóa những nội dung mới của Hiến pháp năm 2013 liên quan đến quyền con người, nhằm nâng cao hơn nữa quyền tự do trong khuôn khổ pháp luật của người dân, Nhà nước ta đang khẩn trương xây dựng một số dự án luật mới như Luật Trưng cầu dân ý, Luật Về hội, Luật Biểu tình, Luật Tiếp cận thông tin... Trong đó, dự án Luật Biểu tình và dự án Luật Trưng cầu dân ý dự kiến sẽ được cho ý kiến tại kỳ họp thứ 9 (tháng 5-2015) và biểu quyết thông qua tại kỳ họp thứ 10 (tháng 10-2015) của nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII. Luật Báo chí dự kiến cũng sẽ được đưa ra sửa đổi tại nhiệm kỳ của Quốc hội này nhằm bảo đảm quyền tự do ngôn luận của người dân trong khuôn khổ của pháp luật.
    Như vậy, ở nước ta quyền tự do của người dân đã và đang được Nhà nước tôn trọng và bảo đảm trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật. Trả lời phỏng vấn của Thông tấn xã Việt Nam mới đây, Phối Sư Thượng Tám Thanh-Hội trưởng Hội đồng Chưởng quản Hội Thánh Cao Đài Tây Ninh-nói: "Có thể là do một số nước không nắm được tình hình thực tế về sinh hoạt của các tôn giáo hiện có trên đất nước Việt Nam. Cũng có thể là các nước đó đã nhận được những nguồn tin thiếu trung thực, lệch lạc, khiến họ hiểu sai về thực trạng tự do hoạt động tôn giáo tại Việt Nam". 
    Gần đây, khi một số người sử dụng mạng xã hội cũng như những hình thức thông tin khác xuyên tạc sự thật, chống phá Nhà nước và nhân dân ta bị xử lý theo pháp luật, đã có ý kiến trên mạng xã hội cho rằng, việc xử lý đó là vi phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng… và lên án gay gắt Điều 258 của Bộ luật Hình sự, đòi bỏ điều này. 
    Cần phải khẳng định rằng, Điều 258 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn phù hợp với “Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966”. Điều 258 Bộ luật Hình sự quy định những hành vi lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù. Điều luật này ban hành nhằm thực hiện quyền tự do của công dân trong khuôn khổ pháp luật cho phép, tránh những kẻ lợi dụng ý nghĩa của việc “tự do” để thực hiện những ý đồ đen tối, gây ảnh hưởng tới an ninh xã hội. Giả sử Điều 258 được bỏ đi như ý nguyện các nhà tự xưng là “tự do dân chủ” thì xã hội sẽ không thể tồn tại được bởi ai thích nói gì thì nói, có thể nói nhăng nói cuội, vu khống, bịa đặt…
    Lẽ tất nhiên, việc hoàn thiện thể chế, mở rộng hơn nữa các quyền tự do dân chủ của nhân dân, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vẫn đang là mục tiêu phấn đấu của chúng ta. Thế nhưng, dù có mở rộng “hết cỡ” các quyền tự do thì sự tự do ấy cũng phải đặt trong khuôn khổ của pháp luật.
    ĐỖ PHÚ THỌ