Ai vô ơn, bạc nghĩa?

QĐND - Không khí vui tươi, phấn khởi của ngày Tết Độc lập đang lan tỏa đến mọi vùng, miền của Tổ quốc. Tại các căn cứ địa cách mạng, các vùng đất chiến khu xưa, niềm vui lại được nhân thêm bởi các hoạt động về nguồn, tình nghĩa… thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc ta. Ấy vậy mà trên một số trang mạng xã hội lại có những thông tin lệch lạc cho rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam đã vô ơn bạc nghĩa...
Từ Thủ đô của Khu Giải phóng…
Chúng tôi có mặt tại xã Tân Trào, huyện Sơn Dương (tỉnh Tuyên Quang) vào đúng ngày 70 năm trước tại đây đã diễn ra sự kiện lịch sử: Quốc dân Đại hội Tân Trào quyết định Tổng khởi nghĩa trong phạm vi cả nước. Với “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, lịch sử đã chọn Tân Trào làm Thủ đô của khu giải phóng. Từ đây, lệnh Tổng khởi nghĩa đã được phát đi toàn quốc để đấu tranh giành lại chính quyền.
Cụ Nông Thị Mơ, 91 tuổi, ở thôn Tân Lập, xã Tân Trào là một trong những người đã tham gia phục vụ cơm, nước cho cán bộ trong những ngày diễn ra Đại hội tại Tân Trào nay mắt đã mờ, chân đã chậm, nhưng cụ Mơ vẫn nhớ như in không khí của những ngày lịch sử năm ấy. Cụ rất vui khi thấy quê hương mình đổi thay nhanh chóng trong những năm gần đây. Cụ kể với chúng tôi rằng, trước đây quê hương của cụ nghèo lắm, cơm không đủ ăn, áo quần không đủ mặc. Vậy mà giờ đây, cả xã chẳng còn hộ nào thiếu ăn, nhà nào cũng có ti vi. “Cán bộ chúng nó hay đến thăm mẹ lắm”, cụ phấn khởi nói với chúng tôi như vậy. 
Đồng chí Trần Đức Hạnh, Chủ tịch UBND xã Tân Trào cho biết: Tân Trào là 1 trong 3 xã đại diện cho 3 miền trong cả nước được Chủ tịch nước Trương Tấn Sang bảo trợ về huy động nguồn lực thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Bằng sự giúp đỡ của cấp trên và nội lực của nhân dân, xã đã hoàn thành đầy đủ các tiêu chí xây dựng nông thôn mới vào cuối năm 2014, trở thành xã đầu tiên của tỉnh Tuyên Quang được nhận danh hiệu “Nông thôn mới”. 
Trong chuyến công tác tại khu căn cứ địa cách mạng Tân Trào, chúng tôi đã đến thăm gia đình anh Trần Văn Vần, dân tộc Tày ở thôn Tân Lập, xã Tân Trào. Gia đình anh Vần vừa xây dựng xong ngôi nhà sàn 3 gian, 2 chái, với tổng vốn đầu tư 400 triệu đồng, trong đó Nhà nước, các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức trong và ngoài tỉnh hỗ trợ 200 triệu đồng. Anh Vần phấn khởi cho biết, trong thôn của anh cũng có nhiều hộ gia đình dân tộc Tày khác được hỗ trợ để bảo tồn nhà sàn, giúp các hộ dân vừa để ở vừa kết hợp phát triển du lịch. “Chúng tôi cảm ơn Đảng, cảm ơn Nhà nước nhiều lắm”, anh Vần liên tục nói như vậy với chúng tôi. 
Chúng tôi cũng đến thăm gia đình anh Phùng Văn Minh, thôn Mỏ Ché, xã Tân Trào. Anh Minh cho biết, cách đây hơn 2 năm, gia đình anh được Dự án hỗ trợ xóa nhà tạm của xã hỗ trợ 32 triệu đồng, cùng số tiền tiết kiệm và vay mượn của anh em, bạn bè, gia đình anh đã xây dựng được ngôi nhà kiên cố. Từ khi có nhà mới, gia đình anh yên tâm lao động, sản xuất, vươn lên thoát nghèo.
Ảnh minh họa.
Đến sự đổi thay của các vùng quê cách mạng
Không chỉ có Tân Trào mà tất cả những vùng quê cách mạng khác trong cả nước đều có sự đổi thay nhanh chóng trong mấy năm gần đây. 
Xóa đói giảm nghèo là một chủ trương lớn, một quyết sách lớn và nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam. Chủ trương này được hình thành ngay từ những ngày đầu khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và ngày càng được hoàn thiện hơn trong quá trình phát triển. Chủ trương đó không những đáp ứng được nhu cầu, nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân Việt Nam mà còn phù hợp với xu hướng chung của thời đại, phù hợp với các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ mà Liên hợp quốc đề ra. Trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo, Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến các vùng quê cách mạng, vùng đất chiến khu xưa. Tỷ lệ hộ nghèo ở các vùng này liên tục được giảm theo hằng năm và giảm nhanh hơn so với mức bình quân của cả nước. 
Chỉ tính riêng tại tỉnh Tuyên Quang, để giúp đồng bào ở 19 xã vùng căn cứ cách mạng (ATK) ở 3 huyện: Sơn Dương, Yên Sơn, Chiêm Hóa cải thiện đời sống, tỉnh Tuyên Quang đã và đang thực hiện Dự án điều chỉnh, bổ sung định hướng phát triển kinh tế-xã hội vùng căn cứ cách mạng, với tổng vốn đầu tư gần 506 tỷ đồng. Dự án tập trung phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, xây dựng các công trình giao thông, thủy lợi, đưa điện lưới đến tất cả các thôn, bản thuộc các xã vùng căn cứ cách mạng; đầu tư phát triển du lịch vùng căn cứ cách mạng; đầu tư xây dựng Trường THPT Kim Bình, huyện Chiêm Hóa; Trường THPT ATK Tân Trào, huyện Sơn Dương đạt chuẩn Quốc gia; xây dựng hoàn thiện bệnh viện đa khoa khu vực Tân Trào, huyện Sơn Dương; bệnh viện đa khoa khu vực ATK (xã Trung Yên, huyện Yên Sơn), trạm y tế các xã khu vực ATK; đầu tư xây dựng các trạm truyền thanh, trạm phát lại truyền hình cho các xã chưa phủ sóng phát thanh, truyền hình; xây dựng và thực hiện Đề án giảm nghèo cho từng vùng… 
Chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó có đồng bào ở các vùng căn cứ địa cách mạng hiện nay khá đầy đủ, toàn diện trên các lĩnh vực và phủ kín địa bàn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng đặc biệt khó khăn, vùng căn cứ địa cách mạng. Hiện có khoảng 94 chính sách đặc thù hỗ trợ vùng dân tộc thiểu số và vùng đặc biệt khó khăn được thể chế qua 3 Nghị định, 1 Nghị quyết của Chính phủ và 90 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Cơ chế, chính sách đã từng bước thay đổi về quan điểm, tư duy, phân cấp mạnh cho địa phương trên cơ sở công khai, minh bạch trong công tác xây dựng và lập kế hoạch, từ hỗ trợ trực tiếp cho hộ chuyển dần sang hỗ trợ cho cộng đồng, nhóm hộ, từ “cho không” chuyển sang cho vay…
Uống nước phải nhớ tới nguồn
Đó là đạo lý của dân tộc Việt Nam và cũng là quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Để có nước nhà độc lập, nhân dân ta được tự do như hôm nay, chúng ta không bao giờ quên công lao của các thế hệ cha ông thuở trước, cũng không thể quên được sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế và các vùng đất đã nuôi dưỡng, che chở các cơ sở cách mạng, các cán bộ cách mạng. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, do những hạn chế về vị trí địa lý, vùng căn cứ cách mạng thường ở vùng sâu, vùng xa, giao thông đi lại khó khăn, nên tốc độ phát triển kinh tế còn chậm, nhiều nơi đời sống nhân dân vẫn còn nghèo khó so với mặt bằng chung của vùng đồng bằng, đô thị. Một số chính sách đối với đồng bào vùng căn cứ cách mạng còn thiếu đồng bộ. Hiệu quả và tác động của chính sách còn chưa đạt yêu cầu. Việc phân công quản lý, chỉ đạo, điều hành một số chính sách còn chồng chéo...
Nhằm giải quyết những tồn tại, hạn chế đối với chính sách đặc thù hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn, vùng căn cứ cách mạng nói riêng và chính sách giảm nghèo nói chung, mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ủy ban Dân tộc và các bộ, cơ quan liên quan nghiên cứu, đề xuất điều chỉnh, bổ sung cơ chế, chính sách mới, bảo đảm thiết thực, hiệu quả. Trong đó, Thủ tướng yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu sửa đổi cơ chế quản lý và điều hành các Chương trình mục tiêu quốc gia theo hướng đồng bộ hóa tổ chức quản lý, gắn Chương trình mục tiêu quốc gia với kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội; thể chế hóa quy trình lập và triển khai kế hoạch đầu tư cấp xã có sự tham gia của người dân thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững và xây dựng nông thôn mới. Bộ Tài chính nghiên cứu, xây dựng cơ chế tài chính chung để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và giảm nghèo bền vững, tạo điều kiện cho việc lồng ghép nguồn lực được thuận lợi và nghiên cứu, đề xuất tăng định mức xây dựng chính sách nói chung và chính sách giảm nghèo nói riêng theo nguyên tắc tính đúng, tính đủ chi phí xây dựng chính sách. Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội sửa đổi Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững nhằm đồng bộ hóa, tập trung nguồn lực, theo hướng: Phân nhóm, gồm chính sách hỗ trợ đầu tư kết cấu hạ tầng và chính sách hỗ trợ phát triển sinh kế; thực hiện chính sách dựa vào cộng đồng, gắn sản xuất với thị trường nhằm tăng cường giám sát nội bộ, khuyến khích tự vươn lên thoát nghèo bền vững; giao nhiệm vụ cho bộ, ngành đúng đắn, bảo đảm không trùng lặp về nội dung và địa bàn.
Trước đó, tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 7-2015, các thành viên Chính phủ đã nhất trí với báo cáo đề xuất của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về Chương trình 135 (chương trình xóa đói giảm nghèo vùng đặc biệt khó khăn, vùng căn cứ cách mạng) giai đoạn 2016-2020. Chương trình này ngoài hai hợp phần hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ phát triển sản xuất như hiện nay, sẽ bổ sung thêm hợp phần hỗ trợ đào tạo nâng cao năng lực cho cán bộ cơ sở, cộng đồng và giao cho Ủy ban Dân tộc quản lý, chỉ đạo. Chủ trương tiếp tục thực hiện Chương trình 135 giai đoạn 2016-2020 sẽ là một tin vui lớn với đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, vùng căn cứ cách mạng, củng cố thêm niềm tin của đồng bào đối với Đảng và Nhà nước trong công cuộc xóa đói giảm nghèo tại vùng nghèo nhất cả nước.
Thực tế việc quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với những vùng căn cứ cách mạng đã quá rõ ràng, thể hiện qua những chính sách, những việc làm, những công trình cụ thể. Vậy mà vẫn có người do không hiểu thực tế hoặc cố tình không hiểu đã đưa các thông tin sai lệch về chủ trương này của chúng ta, chính họ mới là người “vô ơn bạc nghĩa” với Tổ quốc, với non sông gấm vóc và các thế hệ người Việt đi trước.
ĐỖ PHÚ THỌ

Không thể phủ nhận giá trị của Cách mạng Tháng Tám: Thắng lợi của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc

QĐND - Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công do Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh lãnh đạo đã thực hiện tốt đường lối đoàn kết toàn dân tộc, liên hiệp mọi lực lượng yêu nước, không phân biệt tôn giáo, xu hướng đảng phái chính trị, giai cấp, đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Dân tộc thống nhất cùng đứng lên đánh đuổi đế quốc Pháp và phát xít Nhật, lật đổ ách thống trị của đế quốc thực dân gần 100 năm, giành chính quyền về tay nhân dân, giành độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc. Đây chính là thắng lợi của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc biết chớp thời cơ, vùng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội. Thế nhưng, đây đó vẫn có một số người cố tình xuyên tạc, bóp méo tính chất và ý nghĩa về vấn đề lịch sử này.
Do không nhận thức được vai trò, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhất tề vùng lên, triệu người như một dưới sự lãnh đạo của Đảng mà một số người cho rằng, đó là hành động "bột phát, vô thức" của người dân phẫn uất do bị áp bức, bóc lột đứng lên giành chính quyền. Khi nhìn nhận về vai trò của các tầng lớp, các giai cấp trong Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, họ cho rằng giai cấp nông dân Việt Nam đã nhận thức được “mệnh trời” và vai trò của mình. Từ cái nhìn hẹp hòi, thiển cận đó, theo cách nói của họ, vai trò nổi dậy của giai cấp nông dân Việt Nam mới là quyết định thắng lợi của cuộc cách mạng.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là biểu tượng tuyệt vời của tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc. Ảnh tư liệu
Giọng điệu trên cũng không nằm ngoài mục tiêu phủ nhận giá trị lịch sử của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, phủ nhận sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhưng họ đã lầm. Cách nhìn nhận phi lý, phản khoa học, những luận điệu sai trái của họ không thể đánh lừa được nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới và những người Việt Nam chân chính.
Thực tiễn đã chứng minh, dù cách thể hiện trong từng giai đoạn có khác nhau nhưng ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã xác định rất rõ nhiệm vụ cách mạng là đánh đổ đế quốc thực dân và phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân, đưa người dân từ thân phận nô lệ trở thành người chủ đất nước... Chính nhiệm vụ chung đó của cách mạng là sợi dây kết nối cả dân tộc Việt Nam đoàn kết lại với nhau. Trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng ta luôn nhất quán và đặt nội dung ấy vào nhiệm vụ trung tâm của cách mạng. Không thể phủ nhận rằng từ năm 1930 đến 1945, Việt Minh và Đảng ta, đứng đầu là lãnh tụ Hồ Chí Minh đã bám sát tình hình thế giới và trong nước, có rất nhiều chủ trương, đường lối, giải pháp cách mạng phù hợp để lãnh đạo toàn dân kết thành một khối đứng lên đấu tranh giành thắng lợi. Đặc biệt, trước những chuyển biến mạnh mẽ của tình hình trong nước và những biến động to lớn, mau lẹ của tình hình thế giới, tháng 5-1941, Hội nghị Trung ương lần thứ VIII của Đảng họp dưới sự chủ trì của lãnh tụ Hồ Chí Minh để quyết định sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược. Nghị quyết hội nghị đã chỉ rõ: “Trong lúc này, quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia, dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”(1). Để thực hiện được mục tiêu, nhiệm vụ đó, vấn đề đặt ra là phải tập hợp, đoàn kết được mọi lực lượng, mọi giai tầng trong xã hội vào một mặt trận dân tộc thống nhất. Để giải quyết vấn đề này, ngày 19-5-1941, Mặt trận Việt Minh đã ra đời. Trong tuyên bố của mình, Việt Minh đã chỉ rõ: “Việt Minh chủ trương liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước, không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn"(2). Bằng những chủ trương đúng đắn, chỉ trong thời gian ngắn dưới vai trò quy tụ, tập hợp của Mặt trận Việt Minh, mọi giai cấp, tầng lớp trong xã hội đã phát huy cao độ tinh thần cố kết cộng đồng, khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh anh dũng, quật cường của toàn dân tộc để góp phần vào thành công của cuộc cách mạng.
Mặt khác, đại đoàn kết đã trở thành nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam được kiểm chứng qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. "Nước mất thì nhà tan", mỗi người dân Việt Nam luôn ý thức sâu sắc điều này và tinh thần ấy luôn thường trực trong mỗi người con đất Việt. Từ thực tiễn lịch sử, nhân dân Việt Nam cũng từng tổng kết, đúc rút, chỉ có không ngừng xây dựng, củng cố vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thì mới tập hợp phát huy được sức mạnh nội lực của đất nước, mới xây dựng, bảo vệ nước nhà được hòa bình, thịnh vượng, an vui. Chính trên nền tảng ấy mà nhân dân ta đã không cam chịu thân phận, kiếp đời nô lệ, một lòng đi theo Đảng, triệu người như một quyết vùng lên giành độc lập, tự do cho dân tộc, giành địa vị làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh cho mình.
Có thể nói, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là biểu tượng tuyệt vời của tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc. Cùng với đó cần phải khẳng định rõ rằng, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 nổ ra và thành công gắn với vai trò lãnh đạo của Việt Minh, của Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Chúng ta không phủ nhận vai trò to lớn của quần chúng nhân dân, trong đó có giai cấp nông dân. Nhưng cần phải nhớ rằng, sự nhất tề vùng lên của quần chúng nhân dân nói chung, của giai cấp nông dân nói riêng không phải là "vô thức, bột phát" vì "phẫn uất" như một số người từng xuyên tạc, mà đó là sự vùng lên có giác ngộ, có tổ chức, theo đường hướng lãnh đạo của Việt Minh, của Đảng ta.
Có thể khẳng định sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc với vai trò trung tâm của Mặt trận Việt Minh đã góp phần quyết định vào thành công của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Thành quả, giá trị của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là rất rõ ràng. 70 năm nhìn lại, chúng ta càng hiểu hơn về sự kiện vĩ đại nhất của Việt Nam trong thế kỷ XX, càng thấy rõ hơn giá trị của độc lập, tự do, hòa bình, thống nhất. Thế nhưng, đâu đó vẫn có những quan điểm sai trái, những cái nhìn thiển cận, những luận điệu xuyên tạc, bôi nhọ lịch sử, phủ nhận giá trị của Cách mạng Tháng Tám, phủ nhận vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, vai trò của Mặt trận Việt Minh, của Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Chúng ta phải có trách nhiệm kiên quyết đấu tranh phản bác để loại bỏ nó ra khỏi đời sống xã hội.
KIM NGỌC
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng. Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr.112-113.
(2) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3, tr.198.

Cuộc cách mạng nổ ra và thành công là tất yếu lịch sử

QĐND - Dựa theo quan điểm cho rằng có sự xuất hiện "khoảng trống quyền lực", một số người đã tung ra những luận điệu hết sức sai trái, xuyên tạc lịch sử. Họ cho rằng Cách mạng Tháng Tám năm 1945 nổ ra là "ngẫu nhiên"; thành công là "ăn may”, Việt Minh đã "mượn gió bẻ măng"... Mưu đồ của những luận điệu sai trái trên không gì khác là nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và lãnh tụ Hồ Chí Minh.
Chúng ta có đầy đủ cơ sở để khẳng định, nhờ có Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nhân dân ta từ thân phận nô lệ mới thực sự trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình; dân tộc ta mới có độc lập, tự do và bước vào một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 nổ ra và thành công là tất yếu và do nhiều nguyên nhân, ngoài nhân tố khách quan đóng vai trò quan trọng như: Diễn biến có lợi của tình hình thế giới và khu vực; sự ủng hộ của bạn bè quốc tế... thì sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt và khéo léo của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh là nhân tố quyết định nhất. Vai trò đó được thể hiện rõ nét trong việc xác định chủ trương, đường hướng cách mạng; đoàn kết tập hợp quần chúng tạo nên sức mạnh tổng hợp; chuẩn bị chu đáo về mọi mặt cho Tổng khởi nghĩa; dự đoán chính xác và kịp thời chớp thời cơ để phát động Tổng khởi nghĩa giành thắng lợi.
Cách mạng tháng Tám thành công đã để lại bài học về phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân. Ảnh tư liệu
Loại trừ giọng điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch phản động, sở dĩ đây đó vẫn có một số người với cái nhìn sai lệch cho rằng Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của Việt Nam nổ ra là “ngẫu nhiên”, giành thắng lợi là do “ăn may”..., vì họ đã không nhận thức được tính tất yếu trong mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp. Cũng do không nhận thức được mối quan hệ giữa yếu tố dân tộc và yếu tố giai cấp trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam, nên một số học giả nước ngoài đã không thấy rõ vai trò lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng của Đảng ta và sự hy sinh to lớn của nhân dân ta.
Ngay sau khi ra đời, vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác - Lê-nin, đường lối của Quốc tế Cộng sản và kinh nghiệm cách mạng thế giới vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, trong Cương lĩnh đầu tiên, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định con đường của Việt Nam là "làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản" (1). Bám sát diễn biến mới của tình hình, những tư tưởng, đường hướng lớn trong Cương lĩnh đầu tiên (tháng 2-1930) liên tục được Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh bổ sung, phát triển. Đặc biệt, tại Hội nghị Trung ương VIII (tháng 5-1941), Đảng ta chủ trương nêu cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, đặt quyền lợi của quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích của bộ phận, của giai cấp. Để tập hợp, đoàn kết rộng rãi quần chúng nhân dân và phát triển lực lượng chính trị, Đảng ta quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh (gọi tắt là Việt Minh). Chủ trương, đường lối của cách mạng được Đảng ta xác định là đi từ khởi nghĩa từng phần tiến tới Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Trước những biến đổi mau lẹ của tình hình thế giới, Đảng ta rất chú trọng đến phát triển tình thế cách mạng, tạo thời cơ và nắm bắt thời cơ. Những chủ trương, đường lối được xác định tại Hội nghị Trung ương VIII tiếp tục được Đảng ta phát triển, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế của cách mạng. Rõ nhất là vào tháng 3-1945, khi Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị "Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta". Rồi sau đó, đêm 13-8, Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc được thành lập. Ngay sau khi thành lập, Ủy ban đã ra Quân lệnh số 1 hạ lệnh Tổng khởi nghĩa, đồng thời Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Ủy ban Dân tộc giải phóng đã gửi thư cho đồng bào và chiến sĩ cả nước kêu gọi nổi dậy Tổng khởi nghĩa giành chính quyền... Nhờ có những chủ trương, đường lối đúng đắn, những quyết sách kịp thời của Đảng, của lãnh tụ Hồ Chí Minh mà cách mạng Việt Nam ngày càng phát triển, liên tiếp giành thắng lợi và đi đến thành công. Để đem đến thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng và nhân dân ta đã phải trải qua 15 năm đấu tranh cách mạng đầy khó khăn, gian khổ, hy sinh. Phong trào cách mạng có những lúc lâm vào thoái trào do bị giặc khủng bố trắng, đàn áp dã man. Các cao trào cách mạng do Đảng ta lãnh đạo nhân dân tiến hành trước tháng 8-1945 là các cuộc diễn tập quan trọng chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Điều này càng thêm cơ sở để khẳng định, đây thực sự là một cuộc cách mạng chứ không phải là "ngẫu nhiên" hay chỉ là một cuộc "khởi nghĩa" như luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Sau Hội nghị Trung ương VIII, Đảng ta liên tiếp ban hành các chỉ thị tăng cường công tác lãnh đạo, trong đó vạch rõ phương hướng đấu tranh của quần chúng xây dựng lực lượng chính trị, phát triển LLVT, xây dựng căn cứ địa cách mạng tích cực chuẩn bị cho sự thành công của Cách mạng Tháng Tám.
Đảng ta xác định rõ, xây dựng lực lượng chính trị là nhiệm vụ căn bản quyết định của cách mạng Việt Nam, chỉ khi nào chính trị mạnh mới lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh là quyết sách đúng đắn và kịp thời. Dưới sự chỉ đạo của Mặt trận Việt Minh, nhiều tổ chức, đoàn thể, lực lượng đoàn kết yêu nước đã ra đời và tập hợp thành khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Sự phát triển không ngừng của cách mạng đã tạo nên uy tín lớn giúp Mặt trận Việt Minh tập hợp được lực lượng quần chúng đông đảo, đồng thời tạo ra uy thế chính trị đối với bọn đế quốc, phong kiến.
Từ chủ trương tổ chức, lãnh đạo quần chúng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền trên cơ sở lực lượng chính trị đã được xây dựng, khi tình thế cách mạng xuất hiện, Đảng ta đã từng bước xây dựng LLVT cách mạng. Đặc biệt ngày 22-12-1944, tại Khu rừng Trần Hưng Đạo-Cao Bằng, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân chính thức ra đời. Nhiệm vụ quan trọng của Đội là tuyên truyền, vận động nhân dân nổi dậy gây dựng cơ sở chính trị, chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa khi thời cơ đến. Cùng trong khoảng thời gian này, trên địa bàn cả nước, nhiều đội du kích được thành lập, sau phát triển thành các đội Cứu quốc quân. Tại Hội nghị Quân sự Bắc Kỳ (tháng 4-1945), Đảng ta quyết định thống nhất Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân thành tổ chức Việt Nam Giải phóng quân. Đây là lực lượng nòng cốt cho đấu tranh giải phóng giành chính quyền tháng 8-1945.
Để bảo đảm an toàn bí mật và bảo vệ lực lượng cách mạng, nhất là LLVT, Đảng ta đặc biệt quan tâm đến xây dựng các căn cứ địa cách mạng (sau phát triển thành an toàn khu). Pác Bó-Cao Bằng là căn cứ địa cách mạng đầu tiên được xây dựng. Tiếp đó, Căn cứ địa cách mạng Bắc Sơn-Võ Nhai được thành lập (2-1941). Đầu năm 1943, Căn cứ Cao Bằng-Bắc Sơn được nối liền. Sau đó căn cứ địa được mở rộng ra 6 tỉnh: Cao-Bắc-Lạng-Hà-Tuyên-Thái. Tháng 6-1945, Đảng ta quyết định thành lập Khu giải phóng Việt Bắc và trở thành căn cứ địa cách mạng của cả nước.
Sự ra đời của căn cứ địa cách mạng đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ lực lượng cách mạng, bảo vệ cán bộ lãnh đạo, đồng thời tạo điều kiện cho Đảng nắm bắt tình hình kịp thời chỉ đạo cách mạng cùng với xây dựng LLVT, xây dựng Đảng và đào tạo cán bộ đáp ứng sự phát triển của phong trào cách mạng. Căn cứ địa cách mạng-an toàn khu được xem là nét sáng tạo, độc đáo mang tầm chiến lược của Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh, vì nó chưa từng có trên thế giới và trong lịch sử giữ nước của dân tộc... Đúng như nhận định, vào khoảng giữa năm 1945, tình hình thế giới diễn biến hết sức mau lẹ theo chiều hướng có lợi cho các lực lượng tiến bộ. Khi đó kẻ thù trực tiếp của nhân dân Việt Nam là phát xít Nhật đã bị Hồng quân Liên Xô và các lực lượng đồng minh đánh bại... Nhận thấy thời cơ cách mạng đã chín muồi, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc phát động toàn dân nổi dậy Tổng khởi nghĩa. Và điều gì đến tất phải đến, Cách mạng Tháng Tám năm 1945-cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa đầu tiên trên thế giới do giai cấp công nhân lãnh đạo đã nổ ra và giành thắng lợi.
Những diễn biến cơ bản nêu trên đã minh chứng rõ vai trò của Việt Minh, của Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh đối với đất nước nói chung và trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 nói riêng là hết sức to lớn, là nhân tố hàng đầu quyết định thành công của cách mạng. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 nổ ra và thành công không thể là sự "ngẫu nhiên" mà là tất yếu của tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam. Đây là điều không ai có thể phủ nhận được. 
(1)    Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng, toàn tập, tập 2, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, trang 2
KIM NGỌC

Không thể phủ nhận giá trị của Cách mạng Tháng Tám: Sự thật về cái gọi là "khoảng trống quyền lực”

QĐND - Một trong những sự kiện trọng đại nhất của nhân dân Việt Nam ở thế kỷ XX là thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Bằng thắng lợi to lớn đó, nhân dân ta đã lật đổ chế độ phong kiến, đập tan sự thống trị của chủ nghĩa thực dân, phát xít, mở ra cho dân tộc Việt Nam một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
Giá trị lịch sử và ý nghĩa thực tiễn của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là rất rõ ràng. Nhưng đây đó vẫn có những cái nhìn thiên lệch, chủ quan hòng xuyên tạc lịch sử, phủ nhận giá trị, ý nghĩa thực tiễn của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Ngày 19-8-1945, tổng khởi nghĩa ở Hà Nội, các lực lượng quần chúng cách mạng đánh chiếm Bắc Bộ Phủ. (Ảnh tư liệu)

Đã thành thói quen, cứ vào dịp nhân dân Việt Nam kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và Quốc khánh 2-9 là trên một vài trang mạng có địa chỉ ở nước ngoài lại xuất hiện quan điểm của một số học giả phương Tây về cái gọi là "khoảng trống quyền lực" hay "khoảng chân không chính trị”. Năm nay, nhân dân Việt Nam kỷ niệm 70 năm Ngày Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9, có lẽ vì thế mà vào thời điểm này, quan điểm sai trái trên tiếp tục được nhắc lại, rộ lên cả về tần suất và dung lượng.
Chiêu trò này không có gì mới, thực chất đó chỉ là sự tung hô, tô vẽ, tán dương những giọng điệu cũ của một số nhà sử học phương Tây. Với cái nhìn theo kiểu “cắt khúc, phân đoạn”, một số nhà sử học phương Tây đã thể hiện rõ sự chủ quan, phiến diện khi cho rằng, “khoảng trống quyền lực” xuất hiện từ lúc Nhật thế chân Pháp tại Đông Dương nhưng lại bại trận phải đầu hàng Đồng minh. Có nhà sử học còn vội vàng nhận định rằng: Bằng việc tạo ra "khoảng trống quyền lực", các cường quốc đã làm đảo lộn toàn bộ tình hình và do đó đã mời Việt Minh giành chính quyền”.
Vì sao một số người lại cho rằng có sự xuất hiện "khoảng trống quyền lực”, “khoảng chân không chính trị” trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của Việt Nam. Có lẽ trước hết là do họ bị chi phối bởi cái nhìn thiển cận, hẹp hòi, thiếu khách quan. Một vài người do nghiên cứu chưa sâu, tìm hiểu chưa kỹ hoặc nghiên cứu theo kiểu "cắt khúc, phân đoạn" về lịch sử cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của Việt Nam. Cũng không loại trừ có những người nhằm động cơ, mục đích xấu... Khi thiếu một cái nhìn khách quan, toàn diện và khoa học, thiếu một động cơ trong sáng thì chắc chắn sẽ dẫn con người ta đến những nhận định thiên kiến, méo mó và thiếu trung thực.
Để nhìn nhận khách quan, đúng bản chất của một sự kiện cụ thể nào đó chúng ta cần phải đặt sự kiện ấy trong dòng chảy liên tục của lịch sử. Đối với sự kiện Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 của nhân dân Việt Nam cũng vậy.
Ai đó cho rằng có sự xuất hiện “khoảng trống quyền lực”, "khoảng chân không chính trị” trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của Việt Nam thì chứng tỏ họ không thấy được tính toàn diện, liên tục, lô-gích của quá trình dẫn đến sự kiện vĩ đại ấy. Do không hòa mình vào sự kiện, thiếu cái nhìn toàn cục nên họ chỉ thấy và hiểu một cách đơn giản rằng từ sau cuộc đảo chính Nhật hất cẳng Pháp (ngày 9-3-1945) thì Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng đã trở thành thuộc địa của Nhật, chứ không còn là thuộc địa của Pháp nữa. Thế nhưng ngay sau đó, trong chiến tranh thế giới thứ hai, trước sự tiến công như vũ bão của quân Đồng minh đứng đầu là Hồng quân Liên Xô, ngày 9-5-1945, phát xít Đức đã phải đầu hàng vô điều kiện, kết thúc chiến tranh ở châu Âu. Ngày 8-8-1945, Hồng quân Liên Xô và quân Đồng minh tiếp tục tiến công mạnh mẽ buộc phát xít Nhật phải chịu thất bại thảm hại và tuyên bố đầu hàng quân Đồng minh... Chỉ dựa theo những diễn biến trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó, nên họ cho rằng vào thời điểm đó ở Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng có sự xuất hiện "khoảng trống quyền lực”, "khoảng chân không chính trị". Cũng theo cách lập luận của họ, khi đã có sự xuất hiện "khoảng trống quyền lực”, thì chỉ cần cách mạng nổ ra là giành thắng lợi. Và cũng chính do cách nhìn nhận thiển cận theo kiểu “cắt khúc, phân đoạn” như vậy mà họ gọi cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của Việt Nam là "cuộc khởi nghĩa tháng tám", chứ không phải là cuộc cách mạng theo đúng nghĩa... Tục ngữ Việt Nam có câu: “Ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung” cũng là cái sự này.
Cần khẳng định rõ rằng, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam không hoàn toàn như những gì họ nhìn nhận. Trong cuộc cách mạng ấy, Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh luôn chủ động về chiến lược, có sự chuẩn bị chu đáo về mọi mặt. Nếu không có hành trình ra đi tìm đường cứu nước của người thanh niên Nguyễn Tất Thành khởi đầu vào năm 1911; không có sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3-2-1930... thì chắc chắn sẽ không có Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Việc tìm đến và nghiên cứu vận dụng Chủ nghĩa Mác - Lê-nin để hoạch định ra chủ trương, đường lối lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng sát đúng với thực tiễn Việt Nam đó chính là sự chủ động chuẩn bị về lý luận. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và thành lập, phát triển các tổ chức, đoàn thể chính trị xã hội, đặc biệt là Mặt trận Việt Minh; Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân và sau đó là Việt Nam giải phóng quân... đó chính là sự chủ động về tổ chức. Sự ra đời của các căn cứ địa cách mạng để nuôi dưỡng, chở che bảo đảm an toàn cho Trung ương và các lực lượng cách mạng cũng cho thấy sự chủ động của Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh trong chuẩn bị về tiềm lực cơ sở vật chất...
Trong thời gian diễn ra cuộc tổng khởi nghĩa (từ ngày 14 đến ngày 28-8-1945), đúng như TS Trần Đăng Khởi đã khẳng định: “...trên lãnh thổ Việt Nam không hề tồn tại một khoảng trống quyền lực nào”(1). Mặc dù bị thất bại thảm hại trước Hồng quân Liên Xô và quân Đồng minh, nhưng ở Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng, quân Nhật vẫn rất mạnh về quân sự, họ chỉ bị sa sút về ý chí, tinh thần. Do đó, việc phát xít Nhật đầu hàng Hồng quân Liên Xô và quân Đồng minh chỉ tạo ra điều kiện khách quan thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Thực tiễn khi đó Nhật vẫn kiên quyết bám giữ sự thống trị ở Việt Nam, bởi họ cho rằng đây là mắt xích kết nối cuối cùng của họ với vùng Đông Nam Á. Mặt khác, nếu Việt Nam giành độc lập thì Nhật không chỉ bị mất về quyền lợi kinh tế mà danh dự của họ cũng chẳng còn. Do đó, họ không dễ gì tạo "khoảng trống" để Việt Nam giành lấy.
Mặt khác, tuy bị thiệt hại lớn, nhất là về tinh thần trước những đòn tấn công của Hồng quân Liên Xô và quân Đồng minh, nhưng tiềm lực quân sự của Nhật ở Việt Nam vẫn rất mạnh cả về quân số (khoảng 100.000 quân) và vũ khí trang bị hiện đại đồn trú nguyên trạng tại các vị trí mà chúng chiếm đóng. Dù tinh thần chiến đấu có sa sút, rệu rã nhưng quân Nhật vẫn là lực lượng mạnh sẵn sàng thực hiện lệnh của thượng cấp để chiến đấu với bất cứ lực lượng, bất cứ đối thủ nào nếu dùng quân sự tấn công họ... Như vậy có thể thấy, dù bị thất bại trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nhưng cho đến ngày Cách mạng Tháng Tám năm 1945 bùng nổ, quân Nhật vẫn rất mạnh, sự sa sút về tinh thần chỉ tạo ra điều kiện khách quan có lợi cho Việt Nam. Qua phân tích, nhận định tình hình, Đảng ta đã kịp thời nắm bắt thời cơ thuận lợi này lãnh đạo, chỉ đạo các lực lượng, phát huy sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc đứng lên giành chính quyền. Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Việt Minh, phong trào cách mạng đã đồng loạt nổ ra từ thành thị đến nông thôn, trên khắp đất nước. Tại Hà Nội, chúng ta đã khéo léo thương lượng và đã giải tỏa thành công cuộc bao vây, uy hiếp của quân Nhật, tránh xảy ra xung đột vũ trang... Việc làm này được đánh giá là một thắng lợi quan trọng góp phần vào thành công của cuộc tổng khởi nghĩa ở Hà Nội cũng như trong cả nước.
Bên cạnh đó, cho đến trước ngày 19-8-1945, chính phủ thân Nhật ở Việt Nam do Trần Trọng Kim đứng đầu vẫn tồn tại và hoạt động. Nhà văn, nhà báo Mỹ Lây-đi Bớc-tơn (Lady Borton), khi trao đổi với các nhà nghiên cứu Việt Nam tại Hội thảo khoa học quốc tế "Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay" diễn ra tại Hà Nội tháng 5-2010 cũng thừa nhận: "Khi nhân dân Việt Nam nổi dậy giành chính quyền, các lực lượng chính trị và quân sự tại đây vẫn còn nguyên và tiếp tục những cố gắng của mình". Trước thời điểm nhạy cảm ấy, nhiều tổ chức chính trị, đảng phái cũng nhìn ra cơ hội xuất hiện và ráo riết chạy đua để giành địa vị chính trị của mình. Nhưng với vị trí, vai trò và uy tín, đặc biệt là được quần chúng nhân dân tin theo, hết lòng ủng hộ, cuối cùng Việt Minh, Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh đã giành thắng lợi. Rõ ràng Cách mạng Tháng Tám năm 1945 nổ ra và thành công ở Việt Nam trước hết là nhờ nhân tố chủ quan, đặc biệt là sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo và khéo léo của Đảng ta và lãnh tụ Hồ Chí Minh chứ hoàn toàn không phải là có sự xuất hiện của “khoảng trống quyền lực", hay "khoảng chân không chính trị" nào. Thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam không phải từ trên trời rơi xuống mà đó là kết quả tất yếu của tiến trình lịch sử, của quá trình chủ động chuẩn bị công phu, chu đáo về mọi mặt. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công là kết quả tổng hợp của 15 năm đấu tranh đầy gian khổ, hy sinh của toàn thể dân tộc Việt Nam. Với lực lượng đông đảo được tập hợp và rèn luyện đấu tranh trong tổ chức Việt Minh, với một Đảng Cộng sản đứng đầu là lãnh tụ xuất sắc Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã nhất tề đứng lên tự “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” chứ không hề ngồi yên trông mong, chờ đợi vào một “khoảng trống quyền lực” hay một “khoảng chân không chính trị”.
Thực chất của quan điểm cho rằng, có sự xuất hiện “khoảng trống quyền lực” hay “khoảng chân không chính trị” trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 của Việt Nam và sự tung hô, tô vẽ, tán dương gần đây của một số người xét cho cùng vẫn là trò xuyên tạc, bôi đen lịch sử nhằm phục vụ cho mưu đồ phủ nhận thành quả cách mạng để chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam của các thế lực thù địch.
KIM NGỌC



(1) Tạp chí Lịch sử Đảng, số 9, tr.55

Bài học “thời cơ” và việc giữ gìn hòa bình, ổn định để phát triển đất nước

QĐND - Cách đây ít ngày, tại buổi gặp mặt với chủ đề “Ký ức cuộc Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội” do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức đúng vào chiều 19-8-2015, nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã phát biểu: “Bài học về Cách mạng Tháng Tám cần tổng kết và nói kỹ, không chỉ để cho quá khứ, mà còn để vận dụng ở hiện tại và tương lai”. Có lẽ, một trong những bài học quan trọng cần được nhìn nhận là câu chuyện nắm vững thời cơ cách mạng và vận dụng nó trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
Phía sau những khuyến nghị về “thời cơ” và “hiểm họa”
Một “người trong cuộc” của Cách mạng Tháng Tám năm nay đã ở tuổi 95 là Đại tướng Lê Đức Anh, người từng chỉ huy cuộc khởi nghĩa ở Lộc Ninh (Bình Phước) khi được hỏi về điều tâm đắc nhất đã nói: "Bài học về chọn thời cơ, chớp thời cơ của Cách mạng Tháng Tám là bài học kinh nghiệm sâu sắc trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của tôi. Thời điểm đó, nếu ta phát lệnh khởi nghĩa sớm hơn cũng không được mà chậm hơn cũng không được”. Theo Đại tướng Lê Đức Anh, thành công của Cách mạng Tháng Tám đã nêu lên một mẫu mực về vấn đề tận dụng thời cơ, cơ hội thuận lợi mà quá trình cách mạng đã tạo ra. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước và cho đến ngày nay, giá trị chính trị, lý luận và thực tiễn đó đã được Đảng ta vận dụng một cách triệt để.
Buổi gặp mặt với chủ đề “Ký ức cuộc Tổng khởi nghĩa ở Hà Nội” do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức vào chiều 19-8-2015. Ảnh minh họa: Báo Điện tử Đảng cộng sản
Thế nhưng, với cách nhìn phiến diện hoặc xét lại lịch sử, gần đây, lại có những ý kiến cho rằng, Đảng, Nhà nước ta chưa thấy hết được “thời cơ vàng” và “hiểm họa đen” nên đất nước chưa thể hóa “Rồng” như một số quốc gia khác đã giành độc lập, thoát khỏi chiến tranh sau mấy chục năm. Ở một khía cạnh khác, họ lại suy diễn, chúng ta không lường hết được “hiểm họa”, thụ động, hèn nhát trước những nguy cơ đe dọa chủ quyền lãnh thổ. Họ đòi hỏi phải “cứng rắn”, “đứng lên”, “liên minh” này nọ. Đã xuất hiện những quan điểm, cách nhìn một phía, thiển cận, mơ hồ về đối tượng, đối tác, thời cơ, nguy cơ. Góp ý cho chiến lược của Đảng trước một kỳ Đại hội Đảng gần đây, có người khuyến nghị những điều tưởng như tâm huyết về “Tổ quốc trước hai hiểm họa”, nghe có vẻ bắt được nhịp thời đại nhưng tìm hiểu kỹ lại là một sách lược cực đoan, mù quáng. Để nắm thời cơ, xóa hai hiểm họa, họ đề nghị, về đối nội phải xóa bỏ chế độ XHCN, còn về đối ngoại phải tìm đồng minh chiến lược mới với các nước tư bản. Với tư duy "thầy bói xem voi", "thấy cây mà không thấy rừng", không ít “nhà dân chủ” khác nhân dịp chuẩn bị Đại hội XII của Đảng cũng đang vẽ ra những con đường “đổi mới” nào là “lần 1, lần 2, lần 3” mà thực chất là kêu gọi thay đổi thể chế chính trị, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng.
Cẩn trọng trước cái gọi là “thời cơ vàng”
Bài học chớp thời cơ của Cách mạng Tháng Tám không phải là bài học của sự phiêu lưu, liều lĩnh. Đúng như Đại tướng Lê Đức Anh nói, nếu muốn khởi nghĩa sớm hơn cũng không được mà muộn hơn cũng không xong. Nên nhìn nhận bài học xử lý thời cơ từ chính những người đứng đầu khởi nghĩa ở Nam Bộ như Giáo sư Trần Văn Giàu. Bài viết “Những điều ít biết về khởi nghĩa ở Nam Bộ” đăng trên Báo Quân đội nhân dân ngày 19-8-2015 cho biết, Xứ ủy Nam Kỳ đã 3 lần họp bàn tính thời điểm khởi nghĩa và nhận thấy không thể manh động khi quân Nhật ở Sài Gòn còn quá đông.
Trong giai đoạn Đổi mới hiện nay cũng vậy, không thể “đốt cháy giai đoạn”. Phê phán quan điểm mơ hồ, ảo tưởng khi cho rằng "chúng ta lần đầu tiên trong hai thế kỷ không có kẻ thù chiến lược", trừ phi "chúng ta tự chuốc lấy kẻ thù cho mình", đây là thời cơ vàng mà nếu bỏ lỡ là lỗi của chúng ta”, GS Trần Thanh Đạm, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh, một trí thức trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp từng thẳng thắn coi quan điểm này là những mũi tên ngầm có tẩm thuốc độc bên trong. “Trong cái lời lẽ rổn rảng ca ngợi thời cơ vàng là các luận điểm chủ quan như: Việt Nam hiện nay không có kẻ thù chiến lược; không nên tự chuốc kẻ thù cho mình. Các cường quốc ngày nay hình như chỉ làm điều tốt lành cho thế giới và cho Việt Nam. Hoa Kỳ hình như không hề bao vây, cấm vận để bóp nghẹt Việt Nam mà đã tạo những thời cơ để Việt Nam ký hiệp định thương mại nhưng Việt Nam đã mấy lần bỏ lỡ nhịp... Rõ ràng, đó là những nhận định rất chủ quan và phiến diện về tình hình quốc tế và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta”.
Những người hồn nhiên cổ súy cho những “thời cơ vàng” từ bên ngoài có lẽ nên hiểu câu châm ngôn không có bữa tiệc nào miễn phí và cũng nên đọc cuốn sách “Chiến tranh tiền tệ” của tác giả Song Hong Binh. TS Đinh Thế Hiển, Giám đốc Viện nghiên cứu Tin học và Kinh tế ứng dụng khi viết lời tựa cho cuốn sách này đã nhận xét: Cho đến khi đọc cuốn sách “Chiến tranh tiền tệ”, chúng ta mới chợt giật mình nhận ra một điều kinh khủng rằng, đằng sau những tờ giấy bạc chúng ta chi tiêu hằng ngày là cả một thế lực ngầm đáng sợ - một thế lực bí ẩn với quyền lực siêu nhiên có thể điều khiển cả thế giới rộng lớn này… Đó là một cuộc chiến mà đồng tiền là súng đạn và mức sát thương thật là ghê gớm. “Chiến tranh tiền tệ” giúp chúng ta hiểu nhiều điều như Bin Ghết chưa phải là người giàu nhất hành tinh, vì sao phố Wall lại mạo hiểm đổ hết vốn liếng của mình cho việc “đầu tư” vào… Hít-le.
Không nên ảo tưởng, mơ hồ khi có trong tay cuộc sống hòa bình hôm nay. Nên nhớ tới thông điệp Tổng thống Mỹ Ri-gân, một người có nhiều sách lược chống cộng sản từng đưa ra: “Chấm dứt chiến tranh không đơn thuần là chỉ rút quân về nhà là xong. Vì lẽ, cái giá phải trả cho hòa bình là ngàn năm đen tối cho các thế hệ sinh tại Việt Nam về sau. Tôi và bạn đều biết hòa bình dù có đẹp cách mấy cũng không có ý nghĩa gì nếu nó được mua với cái giá gông cùm và nô lệ”. Sự thật sau những lời mỹ miều ấy được bóc trần khi Ri-gân tuyên bố: “Chúng ta nên làm gì để có được hòa bình? Chỉ một cách, rất đơn giản. Có một ý nghĩa trong câu nói của Barry Goldwater: “Hòa bình qua sức mạnh”.
Không thể nhân danh thời cơ vàng để đề nghị Đảng cưỡi một con ngựa không cương hay cầm lái một chiếc xe không phanh chỉ để tăng trưởng kinh tế thật nhanh. Không thể thay đổi thể chế và đường lối kinh tế tùy tiện để rồi đánh mất độc lập, tự chủ; mất ổn định chính trị, đa nguyên, đa đảng… sẽ chỉ tạo đất cho những vòi bạch tuộc ngoại bang. Ngược lại, chính hòa bình, ổn định mới là điều kiện hàng đầu cho sự phát triển. Những bài học từ sự bất ổn trên chính trường của một số nước gần đây cho thêm chúng ta những bài học quý về giữ gìn hòa bình và ổn định để phát triển đất nước. Nhìn từ bài học đau xót của Liên Xô, nhà cách mạng Cu-ba Phi-đen Ca-xtơ-rô đã gọi sự sụp đổ của Liên Xô là cuộc tự sát của cách mạng, bởi vì họ đã trở thành nạn nhân của chủ nghĩa cơ hội từ bên trong. Chúng ta cần hết sức cảnh giác đối với những xu hướng cơ hội, xét lại về chính trị, nhất là trong bối cảnh hoạch định đường lối chiến lược trước thềm Đại hội XII của Đảng hiện nay.
Không một phút xao nhãng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
Nhận thức thời cơ và nguy cơ luôn là vấn đề quan trọng hàng đầu của Đảng trong lãnh đạo cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết: “Lạc nước hai xe đành bỏ phí/ Gặp thời một tốt cũng thành công”. Nhưng nhận thức thời cơ và nguy cơ phải trên quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển. Đánh giá thời cơ và nguy cơ với Đảng ta luôn phải xuất phát từ hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Dựng nước phải đi đôi với giữ nước. Trong điều kiện hòa bình, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm song không vì thế mà xem nhẹ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Xin được nêu một bài học từ chính quốc đảo Xin-ga-po. Ông Lý Quang Diệu, trong cuốn sách “Bí quyết hóa Rồng” đã chia sẻ kinh nghiệm: Ngay sau khi tuyên bố độc lập, một trong những nhiệm vụ hàng đầu ông ưu tiên là phải bảo vệ đất nước, xây dựng quân đội, mua sắm vũ khí. “Mối quan tâm kế tiếp của tôi là phải bảo vệ đất nước này. Chúng tôi phải làm thế nào để nhanh chóng xây dựng một số lực lượng phòng thủ, cho dù chỉ mới là bước đầu? Chúng tôi phải làm nhụt chí, và nếu cần thì ngăn chặn bất kỳ hành động điên cuồng nào của những kẻ quá khích”.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, “vị tướng của hòa bình” cũng để lại cho chúng ta bài học quý về sự cảnh giác khi chúng ta được yên ấm trong cuộc sống hòa bình. Trả lời phỏng vấn của nhà báo Pháp nhân kỷ niệm 50 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, khi được hỏi về việc Việt Nam cần làm gì khi đã hòa bình, xung đột đã chuyển sang các lục địa khác, Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định: “Chúng ta đang phải đối mặt với một tình hình thế giới khó khăn và chưa biết điều gì sẽ xảy ra. Hiện nay, người ta đang nói nhiều về các cuộc chiến tranh phòng ngừa, hạnh phúc của nhân dân bị áp đặt bằng vũ lực hoặc bằng các quy luật thị trường. Chúng ta không thể dự đoán những gì có thể xảy ra... Giới trẻ phải học cách trân trọng giá trị của hòa bình…”.
Bài học từ Cách mạng Tháng Tám cũng cho thấy, chớp thời cơ, ít đổ máu để đi tới thành công không đồng nghĩa với “tay không bắt giặc” mà phải gắn liền với xây dựng lực lượng, chuẩn bị cách mạng qua nhiều cao trào lớn để tạo ra sức mạnh vật chất thực sự. Chiếc nỏ thần bảo vệ Tổ quốc chính là sức mạnh nội sinh của Tổ quốc. Mà sức mạnh quốc phòng chỉ có được khi có sức mạnh kinh tế, khi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thành công. Để bảo vệ Tổ quốc có nhiều việc phải làm, nhưng Nghị quyết số 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa XI) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới đã vạch ra những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo về bảo vệ Tổ quốc rất xác đáng, đó là: Giữ vững sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, không ngừng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế-xã hội là lợi ích cao nhất của đất nước; đồng thời luôn nêu cao cảnh giác, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, xâm lược của các thế lực thù địch; không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống; kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc...
NGUYỄN VĂN MINH

Sự thật về cân bằng lợi ích trong đàm phán TPP

QĐND - “Những cam kết trong đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) về lĩnh vực lao động cùng với các cam kết quốc tế khác liên quan mà Việt Nam đã và sẽ tham gia chính là bước tiến trong nỗ lực của Việt Nam nhằm cải cách thị trường lao động gắn với quyền, quyền lợi và điều kiện để nâng cao năng lực của người lao động...”. Nhận định này của Tiến sĩ Võ Trí Thành, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương đã góp phần đưa lại một góc nhìn tương phản với ý kiến cho rằng, Việt Nam đang chịu sức ép từ các đối tác đàm phán yêu cầu Việt Nam phải cho phép thành lập công đoàn độc lập để bảo vệ tốt hơn quyền lợi của công nhân...
Thị trường chứng khoán Việt Nam/ Ảnh minh họa/laodong.com.vn
“Vì tham gia TPP nằm trong lợi ích của Việt Nam đã được các nghiên cứu chứng minh, ở đây chỉ là câu chuyện của cân bằng giữa lợi ích và những tác động mặt trái của nó, cân bằng giữa lợi ích cụ thể của từng ngành nghề với lợi ích của cả đất nước...”, theo Tiến sĩ Võ Trí Thành.  
Tiến sĩ Võ Trí Thành cho biết, “luật chơi” trên “sân chơi TPP” mà Việt Nam đang tham gia đặt ra cho tiêu chuẩn lao động được dựa cơ bản vào nguyên tắc đã nêu trong tuyên bố của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) năm 1998. Như vậy, nói là có sự ép buộc hay áp đặt ở đây là không hợp lý vì Việt Nam cũng là một thành viên của ILO và đang nỗ lực thực thi các cam kết dựa trên nguyên tắc của ILO, đằng sau đó là quyền và quyền lợi của người lao động. Những cam kết quốc tế dựa trên nguyên tắc của ILO mà Việt Nam là thành viên, rõ ràng về tổng thể là phù hợp với con đường và cách thức mà Việt Nam bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động. Thậm chí Việt Nam còn có sự sáng tạo nữa.
Vậy nhưng hiện nay, có một số người đang lợi dụng cái mà họ gọi là “sức ép” ấy để kêu gọi thành lập công đoàn độc lập ở Việt Nam với những lý do thiếu tính thuyết phục. Họ viết thư gửi đến 11 nước tham gia đàm phán Hiệp định TPP để gia tăng áp lực quốc tế đối với Việt Nam trong vấn đề này. Họ phủ nhận vai trò của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam trong bảo vệ người lao động, cho rằng “nếu người công nhân không có quyền thành lập nghiệp đoàn, không được ai bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình thì họ vẫn là những người nô lệ”!
Có ý kiến còn xuyên tạc rằng “Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam là cánh tay nối dài của Đảng Cộng sản và kể từ khi ra đời năm 1946 đến nay chỉ giữ vai trò thay mặt Đảng để kiềm tỏa người công nhân chứ không tranh đấu cho quyền lợi của người công nhân”! Họ rêu rao một câu chuyện không có thực khi cho rằng, sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thì “nuốt lời hứa và quay ra đàn áp những người tranh đấu vì quyền nghiệp đoàn của công nhân”. Họ cũng tự huyễn hoặc một mối lo ngại mơ hồ là sau khi vào TPP, Việt Nam cũng sẽ lại như vậy (?). 
Theo Tiến sĩ Võ Trí Thành, nếu nhìn lại quá trình mở cửa hội nhập của Việt Nam, nhất là mở cửa về kinh tế, Việt Nam về cơ bản thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết quốc tế. Thậm chí, luật của Việt Nam cũng quy định rằng, nếu một cam kết quốc tế mà luật của Việt Nam chưa phù hợp thì đặt cam kết quốc tế làm điều kiện cao hơn để thực hiện. Như khi ký Hiệp định Thương mại song phương (BTA) với Hoa Kỳ năm 2000, Việt Nam cam kết khá chặt chẽ về nội dung mở cửa trong lĩnh vực bảo hiểm. Nhưng trên thực tế, tốc độ mở cửa và cải cách của ta còn nhanh hơn cả cam kết trong BTA. “Cả văn bản pháp luật và thực tiễn đều khẳng định rõ như vậy, cho thấy ý thức thực hiện cam kết của Việt Nam là rõ ràng”, Tiến sĩ Võ Trí Thành dẫn chứng. 
Tiến sĩ Võ Trí Thành cho biết thêm, kể từ sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã có những cải thiện đáng kể trong vấn đề tiêu chuẩn và quyền của người lao động. Việt Nam là thành viên ILO, sau khi gia nhập WTO, do nhu cầu đối với tiêu chuẩn hàng hóa, vấn đề chiếm lĩnh thị trường, uy tín doanh nghiệp, sự thừa nhận của người tiêu dùng nên ngoài những tiêu chuẩn kỹ thuật, sản phẩm của Việt Nam cũng phải đáp ứng những tiêu chuẩn nhất định về người lao động. 
Cho đến nay, ngày càng có nhiều doanh nghiệp của Việt Nam đạt tiêu chuẩn SA 8000-được xem là chứng chỉ quốc tế đầu tiên cho những công ty bảo đảm được các quyền lợi cơ bản của người lao động. SA 8000 dựa trên 12 công ước của ILO, Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền, Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em. Việc áp dụng mô hình quản lý theo tiêu chuẩn SA 8000 đã được chứng minh là mang lại lợi ích cho người lao động, doanh nghiệp và các bên liên quan như tổ chức công đoàn và tổ chức phi chính phủ. Vì SA 8000 tạo cơ hội để thành lập tổ chức công đoàn và thương lượng tập thể; là công cụ đào tạo cho người lao động về quyền lao động và nâng cao nhận thức của doanh nghiệp, cam kết bảo đảm cho người lao động được làm việc trong môi trường an toàn về sức khỏe và môi trường. Hiện nay, ở Việt Nam đã có 25 doanh nghiệp được cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn SA 8000. 
Đó là chưa kể việc Việt Nam vừa thông qua Luật Lao động mới, góp phần nâng cao năng lực của người lao động cũng như quyền lợi của người lao động.
Tiến sĩ Võ Trí Thành khẳng định, mỗi cam kết quốc tế, trong Hiệp định TPP cũng vậy, thường ở một tầm mức mới, cao hơn, để đáp ứng được các điều kiện của nền kinh tế toàn cầu, sự vận động của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, lao động của thế giới, nên cũng đòi hỏi các nước tham gia phải nỗ lực nhiều hơn nếu muốn tham gia. Những thay đổi tích cực trên cho thấy những nỗ lực của Việt Nam để ngày càng đáp ứng tốt hơn các cam kết quốc tế, bao gồm việc tái cơ cấu kinh tế, cải cách thể chế, hoàn thiện luật pháp... 
Tuy nhiên, trong việc này cũng cần tính tới tình hình thực tế, điều kiện, hoàn cảnh ở mỗi quốc gia. Về tổng thể, kể cả trong vấn đề lao động cũng phải phù hợp với quá trình đổi mới ở Việt Nam. Tiến sĩ Võ Trí Thành cho biết, có những cam kết quốc tế ở một số lĩnh vực nhất định do điều kiện, năng lực thực tế ở Việt Nam chưa phù hợp để thực thi nên phải có lộ trình. Mặt khác, Việt Nam cũng cần nâng cao năng lực hơn nữa, bao gồm năng lực thể chế, năng lực thực thi, năng lực cho doanh nghiệp và cả cho người lao động.
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đã làm được rất nhiều việc để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, nhưng điều đó không có nghĩa là không cần tiếp tục cải cách, đổi mới phương thức hoạt động để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của mình và phù hợp với phương thức lao động, sản xuất trong môi trường mới cũng như phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới của nền kinh tế nói chung đang vận động không ngừng.
Ở góc độ ngược lại, Tiến sĩ Võ Trí Thành nhấn mạnh, bên cạnh các lợi ích đã được nhiều nghiên cứu chứng minh, TPP không phải chỉ có “hoa hồng”. Ngành nghề bị thu hẹp, doanh nghiệp kém cạnh tranh sẽ bị thu hẹp sản xuất, thậm chí phá sản, gây tác động đến người lao động. Vì vậy, theo ông, cách thức cam kết của Việt Nam trong TPP là gắn với quyền, quyền lợi, quyền lựa chọn của người lao động nhưng nó cũng tương thích với thực tiễn của Việt Nam, với năng lực của Việt Nam. 
Điều này được thể hiện trong Tuyên bố về Tầm nhìn chung Việt Nam-Hoa Kỳ được hai nước thông qua trong chuyến thăm lịch sử tới Hoa Kỳ của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng mới đây, nêu rõ: “Việt Nam và Hoa Kỳ mong đợi phối hợp chặt chẽ với các bên tham gia đàm phán khác để hoàn tất sớm nhất có thể Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương toàn diện, nhiều kỳ vọng và tiến hành những cải cách mà thấy có thể cần thiết nhằm đáp ứng tiêu chuẩn cao của Hiệp định TPP, kể cả khi cần thiết đối với các cam kết liên quan tới Tuyên bố của ILO năm 1998 về Nguyên tắc cơ bản và Quyền tại nơi làm việc”. 
Theo Tiến sĩ Võ Trí Thành, qua đó có thể tin tưởng rằng Việt Nam và các thành viên tham gia đàm phán Hiệp định TPP, đặc biệt là trong đàm phán song phương trong khuôn khổ TPP với Hoa Kỳ, đã tìm ra giải pháp thích hợp cho vấn đề công đoàn độc lập gây tranh cãi.
Vậy nhưng, đây đó vẫn xuất hiện những dòng chảy lạc lõng và phi lý. Trên không gian mạng xã hộiFacebook đang tồn tại một trang có cái tên “Công đoàn độc lập”, trong đó thường đưa đường dẫn những bài báo về các vụ việc mâu thuẫn giữa công nhân và doanh nghiệp, các vụ việc tiêu cực liên quan đến người lao động hay những thông tin một chiều, tiêu cực về tình hình kinh tế, xã hội của Việt Nam... Kèm theo đó là các bình luận, đánh giá phủ nhận vai trò lãnh đạo, điều hành đất nước của Đảng, Nhà nước, Chính phủ và vai trò của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đối với người lao động. Chưa cần biết đằng sau trang Facebook này là ai, nhưng với kiểu trình bày nội dung đầy thiên kiến một cách có chủ ý như vậy cũng có thể khẳng định, vấn đề công đoàn độc lập đang bị chủ nhân của trangFacebook lợi dụng phục vụ cho mục đích chính trị hòng thay đổi chế độ ở Việt Nam dưới chiêu bài quen thuộc là dân chủ, nhân quyền. 
Họ cố tình không hiểu rằng, trên bàn đàm phán TPP chỉ thương lượng các vấn đề về kinh tế, thương mại, đầu tư, dịch vụ chứ không đặt ra vấn đề áp đặt về thể chế chính trị. Âm mưu chính trị của họ càng lộ rõ khi tuyên bố cái gọi là "công đoàn độc lập" là yêu cầu, đòi hỏi của các tổ chức chính trị, xã hội ở các nước chuẩn bị ký kết Hiệp định TPP với Việt Nam. Vì thế, họ cố tình bỏ qua một sự thật không thể phủ nhận là Hiệp định TPP mà Việt Nam đang nỗ lực đàm phán cũng chính là vì quyền lợi của người lao động và trên hết là lợi ích quốc gia. Theo Tiến sĩ Võ Trí Thành, Hiệp định TPP nếu đàm phán thành công sẽ tác động rất tốt đến lĩnh vực xuất khẩu, đầu tư và sau đó là tăng trưởng kinh tế, chính là lợi ích của doanh nghiệp, là cơ hội có công ăn việc làm tốt hơn và cải thiện thu nhập của người lao động.
Những người xuyên tạc, chống phá xung quanh vấn đề công đoàn độc lập trong đàm phán TPP không hiểu được một nguyên tắc cơ bản trong đường lối đối ngoại của Việt Nam, là độc lập, tự chủ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi trong quan hệ quốc tế. Không một ai, một thế lực nào có thể ép buộc Việt Nam hành động đi ngược lợi ích quốc gia, dân tộc.
MAI XUÂN 

Đằng sau luận điệu xuyên tạc về Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9

QĐND - Trong khi cả nước đang náo nức hướng tới kỷ niệm 70 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 thì một số trang mạng của các thế lực thù địch, phản động đang cố gắng xuyên tạc, bóp méo tính chất và ý nghĩa của các sự kiện lịch sử này. Trong đó có những luận điệu hết sức hoang đường và thâm hiểm là: Thứ nhất, ngày độc lập cho Việt Nam là ngày 11-3-1945, khi Bảo Đại ký đạo dụ tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Giáp Thân (hay còn gọi là Hòa ước Patenôtre) ký với Pháp năm 1884. Thứ hai, không cần phải tiến hành Cách mạng Tháng Tám để giành độc lập cho đất nước vì lúc ấy đã có “chính thể” Bảo Đại-Trần Trọng Kim, chỉ còn chờ được các nước công nhận nền độc lập. Cũng do đó, Cách mạng Tháng Tám thực chất là Việt Minh giành chính quyền từ Bảo Đại-Trần Trọng Kim. Thứ ba, Cách mạng Tháng Tám thành công nhờ may mắn từ hoàn cảnh lịch sử. Những luận điệu trên sai trái ở những điểm nào?
1. Đầu tiên, có thể thấy sự kiện ngày 11-3-1945 khi Bảo Đại ký đạo dụ tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Giáp Thân ký với Pháp năm 1884 chỉ diễn ra sau sự kiện đêm 9-3-1945 “Nhật đảo chính Pháp” trên toàn cõi Đông Dương. 
Sau khi hất cẳng thực dân Pháp, vấn đề quan trọng nhất đối với quân Nhật là phải lập ra được một bộ máy cai trị tay sai bản xứ để duy trì trật tự và ổn định. Vì thế, "chính phủ" Trần Trọng Kim được ra đời dưới sự bảo hộ của phát xít Nhật. Phát xít Nhật đã chọn hai quân bài để phục vụ mục đích của mình bao gồm: Bảo Đại làm vua, còn Trần Trọng Kim là thủ tướng dưới một hình thái tổ chức chính quyền kiểu quân chủ lập hiến. Nhất cử nhất động của “chính phủ” Trần Trọng Kim đều phải xin phép và phải được sự đồng ý của Nhật. Danh sách nội các mà Trần Trọng Kim trình với Bảo Đại cũng phải được sự chấp thuận của Đại sứ Nhật Bản tại Huế là Masayuki Yokoyama.
Nhân dân Sài Gòn nổi dậy giành chính quyền ngày 25-8-1945. Ảnh tư liệu
Đạo dụ ngày 11-3-1945 của Bảo Đại thực chất là một văn bản dưới sức ép của phát xít Nhật nhằm chối bỏ sự đô hộ của thực dân Pháp đối với Việt Nam, đồng thời đặt Việt Nam nằm trong vòng kiềm tỏa của nước Nhật. Mang danh nghĩa là vua, nhưng không có thực quyền nên trong Tuyên ngôn thoái vị ngày 25-8-1945 trước Ngọ Môn, Bảo Đại đã thốt lên rằng: “Trong hai mươi năm ở ngôi, trẫm đã trải qua bao nhiêu cay đắng. Trẫm muốn được làm dân một nước tự do, hơn làm vua một nước bị trị. Từ nay trẫm lấy làm sung sướng được là dân tự do, trong một nước độc lập”.
Sau này, trong hồi ký “Một cơn gió bụi”, ông Trần Trọng Kim cũng cay đắng chỉ ra bản chất và thâm ý của phát xít Nhật: "Nhật Bản trước vốn là một nước đồng văn đồng hóa ở Á Đông, nhưng về sau đã theo Âu hóa, dùng những phương pháp quỷ quyệt để mở rộng chủ nghĩa đế quốc của họ, trước đã thôn tính Cao Ly và Mãn Châu, sau lại muốn xâm lược nước Tàu và các nước khác ở Á Đông đã bị người Âu châu chiếm giữ. Người Nhật tuy dùng khẩu hiệu "đồng minh cộng nhục" và lấy danh nghĩa "giải phóng các dân tộc bị hà hiếp" nhưng thâm ý là muốn thu hết quyền lợi về mình.”
2. Cũng chính bởi vậy, mặc dù từ ngày 17-4 đến 23-8-1945, tại Việt Nam có một chính thể do người Việt Nam đứng đầu nhưng chính thể ấy do phát xít Nhật lập ra, đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam vẫn hoàn toàn chưa có độc lập, tự do. Thực chất mọi quyền hành tại Việt Nam thời gian đó đều trong tay phát xít Nhật. Vì thế, Cách mạng Tháng Tám là cuộc cách mạng của toàn thể dân tộc ta, nhân dân ta giành chính quyền từ tay phát xít Nhật. Trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã công bố rõ điều này: “Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Namtừ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”. Có thể khẳng định, chính thể Bảo Đại-Trần Trọng Kim chỉ là con bài trong tay Nhật. Vì thế, không thể nói rằng Cách mạng Tháng Tám là cuộc cách mạng mà Việt Minh giành chính quyền từ Bảo Đại-Trần Trọng Kim.
Luận điệu cho rằng, chính thể Bảo Đại-Trần Trọng Kim chỉ chờ được các nước công nhận thì Việt Namsẽ được độc lập cũng hết sức nực cười. Thực tế lịch sử đã chỉ ra rằng, quân đội Đồng minh bao gồm quân Tàu- Tưởng, liên quân Anh-Pháp khi vào giải giáp quân Nhật tại Việt Nam đều có mưu đồ muốn áp đặt sự thống trị của họ đối với đất nước ta. Do đó, từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, chỉ ngay khi vừa đổ bộ vào Sài Gòn, liên quân Anh- Pháp đã tấn công chính quyền và lực lượng vũ trang của ta để tái chiếm Nam Bộ. Còn từ vĩ tuyến 16 ra Bắc, quân Tàu-Tưởng có âm mưu lật đổ chính quyền của ta, đưa bọn phản động thân Tàu-Tưởng lên nắm quyền. 
Thực tế lịch sử đất nước ta đã cho thấy:  tất cả những người trông mong vào sự trợ giúp của ngoại bang để giành chính quyền, giành độc lập, tự do cho dân tộc đều bị thất bại. Hiểu rõ được điều ấy, trong Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh kêu gọi: “Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. “Đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” đã trở thành chân lý mang lại thành công cho các cuộc cách mạng của Việt Nam.
3. Một số kẻ cho rằng: “Cách mạng Tháng Tám thành công nhờ may mắn từ hoàn cảnh lịch sử”, rõ ràng là có dã tâm muốn hạ thấp giá trị cuộc cách mạng của toàn thể dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng. 
Điều mà ai cũng nhận thấy là hoàn cảnh lịch sử thời điểm tháng 8- 1945 đã tạo ra thời cơ vàng để dân tộc Việt Nam đứng lên làm một cuộc cách mạng giành độc lập, tự do. Lúc ấy, phát xít Nhật đã bại trận hoàn toàn, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng minh vào ngày 15-8-1945. Quân Nhật tại Việt Nam đã rệu rã về tinh thần, chờ quân Đồng minh vào giải giáp. Các lực lượng Đồng minh như quân Tàu-Tưởng, liên quân Anh-Pháp chưa vào đến nước ta. 
Nhưng nếu chỉ có thời điểm thuận lợi thì chưa thể tạo nên cuộc cách mạng thành công. Độc lập, tự do không phải là món quà bỗng dưng từ trên trời rơi xuống. Trong Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã khẳng định điều này: “Không phải Nhật bại mà bỗng nhiên ta được giải phóng, tự do…”. 
Cách mạng Tháng Tám thành công vì đó là kết tinh của nghệ thuật chuẩn bị lực lượng, xác định đúng thời cơ và chớp thời cơ. Cách mạng Tháng Tám thành công, ít phải đổ máu là do các nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã luôn trên thế chủ động chiến lược.
Để có một cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền thành công trên cả nước trong mùa thu Tháng Tám năm 1945, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta 15 năm, qua 3 cao trào cách mạng 1930-1931, 1936-1939 và 1939-1945 với những giai đoạn thử thách vô cùng khốc liệt, gian khổ. Đảng đã trưởng thành về tổ chức và lý luận, nhận được sự ủng hộ của nhân dân cả nước, tập hợp sức mạnh đoàn kết toàn dân trong một mặt trận dân tộc thống nhất gọi là Việt Minh. Ở tất cả các địa phương trên cả nước, Việt Minh đều có cán bộ, có cơ sở bám nắm nhân dân, vận động nhân dân. Nhờ đó, khi có kêu gọi Tổng khởi nghĩa, ngay lập tức hàng triệu người dân cả nước đều nhất tề đứng lên giành chính quyền.
Việc nhận định đúng thời cơ và chớp được thời cơ đòi hỏi những nhà lãnh đạo Cách mạng phải có một trí tuệ và tầm nhìn lớn. Từ giữa năm 1944, khi ở châu Âu, Hồng quân Liên Xô chuyển sang phản công thắng lợi trên nhiều mặt trận, không khí chuẩn bị khởi nghĩa sục sôi ở khắp nơi trên đất nước ta. Nhân dân vùng Cao-Bắc-Lạng sẵn sàng khởi nghĩa. Thế nhưng, cuối tháng 10-1944, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từ Trung Quốc trở về Hà Quảng, Cao Bằng chỉ thị hoãn cuộc khởi nghĩa Cao-Bắc-Lạng. Người nói: “Thời kỳ cách mạng hòa bình phát triển đã qua, nhưng thời kỳ toàn dân khởi nghĩa chưa tới”. Đồng thời, Người chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân-tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam-để vừa tuyên truyền cách mạng, vừa sẵn sàng lực lượng quân sự hỗ trợ phong trào nổi dậy của nhân dân trong Tổng khởi nghĩa khi thời cơ đến. 
Hoãn khởi nghĩa lúc chưa đúng thời điểm, nhưng khi thấy thời cơ cho Tổng khởi nghĩa đã chín muồi, các nhà lãnh đạo cách mạng của ta thể hiện quyết tâm sắt đá lãnh đạo nhân dân đứng lên giành độc lập. Đó là vào cuối tháng 7-1945, Bác Hồ nói với đồng chí Võ Nguyên Giáp: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.
Trong bài viết của mình rút ra những bài học kinh nghiệm từ thành công của Cách mạng Tháng Tám, Giáo sư Văn Tạo, Nguyên viện trưởng Viện Sử học (thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) cho rằng: “Phương châm chiến lược kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, nắm đúng thời cơ để nổi dậy đã góp phần quyết định vào việc giành được chính quyền ít phải đổ máu. Nếu cuộc khởi nghĩa nổ ra sớm hơn, sẽ bị bọn phát-xít Nhật dập tắt; nếu nổ ra muộn hơn - khi quân Đồng minh, trong đó có Anh, Pháp và Tàu-Tưởng vào, thì cũng gặp khó khăn. Việc Chính phủ cách mạng lâm thời Việt Nam nhân danh là người đứng về phía Đồng Minh chống phát-xít giành được quyền độc lập, đã nói lên tài vận dụng chiến lược của cách mạng Việt Nam.”
70 năm đã qua, thời gian càng lùi xa càng có sự chiêm nghiệm, càng có thêm nhiều thông tin thì càng thấy được ý nghĩa vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9 đối với đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Nó đã đập tan xiềng xích của thực dân, đế quốc, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đưa nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ thành người dân một nước độc lập, làm chủ vận mệnh của mình. Cách mạng Tháng Tám mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc là kỷ nguyên đấu tranh vì độc lập, thống nhất, xây dựng đất nước hùng cường, nhân dân ấm no, hạnh phúc. Không chỉ vậy, cuộc cách mạng giành độc lập, tự do của dân tộc ta đã trở thành một biểu tượng, một bài học kinh nghiệm quý giá, một sự khích lệ to lớn cổ vũ phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa. Ngày nay, đi tới bất cứ nơi đâu trên thế giới, người Việt Nam luôn được ngưỡng mộ vì là người dân của một đất nước anh hùng.
Các luận điệu cố gắng bôi nhọ những sự kiện lịch sử trọng đại đã trở thành niềm tự hào của đất nước, của dân tộc như Cách mạng Tháng Tám, Quốc khánh 2-9, Ngày Giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước… đều là từ các thế lực thù địch, những kẻ cơ hội chính trị. Họ cố tình ngụy tạo thông tin, đưa ra các thông tin sai lệch, quan điểm sai trái để hòng phủ bóng đen lên con đường mà đất nước ta, dân tộc ta đã lựa chọn dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tuy nhiên, sự thật lịch sử đã phơi bày sự vô lương tâm của họ, thực tế cuộc sống ấm no, hạnh phúc ngày hôm nay đã cho thấy sự trơ tráo của họ. Dù trước mắt còn không ít thử thách nhưng đất nước ta, dân tộc ta đang tiến bước để trở thành một đất nước phát triển, hội nhập với thế giới.
Xuyên tạc, bóp méo, bôi nhọ, hạ thấp Cách mạng Tháng Tám, Quốc khánh 2-9 của Việt Nam cũng có nghĩa là chà đạp lên khát vọng của dân tộc, chà đạp lên xương máu của biết bao thế hệ người Việt Nam đã ngã xuống vì độc lập, tự do, thống nhất của Tổ quốc. Những luận điệu lạc lõng đang bơi ngược dòng sự thật ấy chắc chắn sẽ bị nhấn chìm.
HỒ QUANG PHƯƠNG