Một ngộ nhận về "diễn biến hòa bình"


QĐND - Gần đây, trên một số phương tiện truyền thông trong và ngoài nước đang truyền bá quan điểm coi "diễn biến hòa bình" như là “một sự vận động bình thường”, chứ “không có màu sắc gì cả”, đồng thời, kêu gọi Đảng Cộng sản Việt Nam phải quan tâm thực hiện "diễn biến hòa bình" của chính mình trong Đảng.
Thực tế cho thấy, nhận thức đó là sự mơ hồ trong lý luận, sự ngụy biện giả khoa học, thậm chí ngộ nhận về chính trị, đặc biệt là có sự lẫn lộn, mập mờ, đánh lộn giữa khái niệm và nội dung thực tiễn công cuộc tự đổi mới của một Đảng, một nhà nước mang tính cách mạng cao ...
Những biến thể của cuộc chiến mang tên hòa bình
Từ hàng ngàn năm trước, nhiều nước và triều đại trên thế giới đã sử dụng các thủ đoạn đưa thông tin vu khống khiến người trung thực bị cô lập và bạc đãi, gian thần nịnh hót, ngu dốt được trọng dụng, khoét sâu mâu thuẫn, chia rẽ nội bộ và gây hoang mang, nghi ngờ lý tưởng và sự chính danh của đối phương… để chinh phục thành công các nước và triều đại khác vốn bị coi là kẻ thù của mình. Nói cách khác, lịch sử nhân loại đã, đang và sẽ còn cho thấy, dù trước hay sau, thậm chí bên cạnh các cuộc chiến tranh nóng bỏng với khói lửa và tiếng gầm của đại bác, luôn tồn tại một cuộc chiến “diễn biến hòa bình” đa dạng và phức tạp, không kém phần quyết liệt, cam go, với cùng mục tiêu chung là làm suy yếu và giành chiến thắng cả về tư tưởng, quân sự, khuất phục toàn diện đối phương…
Cần khẳng định rằng, suốt thời gian qua, cuộc chiến “diễn biến hòa bình” dưới mọi hình thức và thủ đoạn chưa một phút giây nào ngưng nghỉ, thậm chí còn được nâng cấp và mở rộng về đối tượng và quy mô, còn nội dung, công cụ, thủ đoạn và hình thức thực hiện cũng ngày càng đa dạng và tinh vi hơn… Đặc biệt, thúc đẩy quá trình "tự diễn biến”, "tự chuyển hóa” trong nội bộ đối phương ngày càng trở thành là tâm điểm của “diễn biến hòa bình” do các đế quốc, thế lực thù địch, cũng như các nhóm lợi ích quốc tế và trong nước tiến hành, với mục tiêu không thay đổi là nhằm giành lấy sự chiến thắng tuyệt đối của các giá trị mà chúng muốn áp đặt cho các nước, các dân tộc; làm tan rã hoàn toàn, triệt để những nhận thức, tinh thần, niềm tin và các giá trị của lý tưởng cộng sản, cũng như nhằm làm sụp đổ các chế độ đi theo lý tưởng này trên toàn thế giới; đồng thời phục vụ tham vọng can thiệp thô bạo vào chủ quyền quốc gia, vẽ lại bản đồ, uốn nắn và áp đặt thế giới theo trật tự và mục đích vị kỷ.
Hơn nữa, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy, “diễn biến hòa bình” và thúc đẩy “tự diễn biến hòa bình” đã, đang và sẽ còn tiếp tục được các thế lực đế quốc hoặc lợi ích nhóm quốc tế sử dụng đắc lực phối hợp với các thủ đoạn mới, như cáo buộc gian lận bầu cử, biểu tình đối lập và kích động bạo loạn đường phố trong “kịch bản mẫu”, nhằm tạo áp lực thúc đẩy thay đổi chính trị, và thậm chí thay đổi thủ lĩnh hay ekip lãnh đạo “khó bảo”, “không phù hợp” ở những nước, quốc gia “cựu thù” hoặc “không thân thiện”, có nguy cơ đe dọa “lợi ích chiến lược” hay “lợi ích cốt lõi” về kinh tế hoặc chính trị của mình,… dù đó là nơi mà lý tưởng XHCN không phải hoặc không còn là sự lựa chọn chính thức của chính đảng cầm quyền nước đó. Những sự kiện chính trị phức tạp xảy ra liên tiếp ở nhiều nước thuộc các chế độ chính trị-xã hội khác nhau trên thế giới, tiêu biểu là ở một số quốc gia châu Âu thuộc không gian “hậu Xô-viết” trong thời gian qua chứng tỏ điều đó.
Đặc biệt, Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) vừa công bố sẽ đóng cửa các văn phòng của mình ở Nga sau hơn 20 năm hoạt động, với tổng chi gần 3 tỷ USD cho “các chương trình viện trợ và dân chủ” trên đất Nga... Trước đó, Chính phủ Nga đã yêu cầu USAID chấm dứt hoạt động ở Nga với hạn chót tới ngày 1-10-2012. Theo lời phóng viên BBC Steve Rosenberg tại Mát-xcơ-va, Nga ngày càng nghi ngờ các tổ chức phi chính phủ (NGOs) đang hoạt động trên đất Nga đã dùng tài trợ nước ngoài để kích động bất ổn chính trị, Đầu năm 2012, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã cáo buộc các cuộc biểu tình phản đối việc ông đắc cử được giật dây bởi các tổ chức phi chính phủ được Mỹ cấp tiền. BBC cũng cho biết, trong khi tuyên bố đóng cửa các văn phòng USAID, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Victoria Nuland nói: "Chúng tôi vẫn cam kết hỗ trợ dân chủ, nhân quyền, và sự phát triển của một xã hội dân sự mạnh mẽ hơn ở Nga và mong muốn được tiếp tục hợp tác với các tổ chức phi chính phủ của Nga"…
Sự khác biệt giữa "tự đấu tranh" và "tự chuyển hóa"
Đối với Việt Nam ngày nay, cuộc đấu tranh chống "diễn biến hòa bình” và phòng, chống "tự diễn biến”, "tự chuyển hóa” có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó chặt chẽ với nhau. Các thế lực phản động và thù địch càng đẩy mạnh thực hiện “diễn biến hòa bình” bao nhiêu, chúng ta càng cần phải chủ động, tích cực và quyết liệt phòng chống “tự diễn biến", "tự chuyển hóa” hơn bấy nhiêu. Đặc biệt là phải cảnh giác đối phó hiệu quả với các thủ đoạn tuyên truyền, ép buộc, mua chuộc và khống chế, làm nhiễu hệ giá trị, tác động tư tưởng, khiến các lãnh đạo, cán bộ, đảng viên và người dân từng bước tự thay đổi nhận thức, suy thoái, biến chất về tư tưởng chính trị, đạo đức, tự “đổi màu”, phủ nhận và tách dần khỏi sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, tự phủ nhận những thành quả, giá trị và mục tiêu mà mình từng theo đuổi và phải trả giá bằng sinh mạng hàng triệu người, phá tan những thành quả mà nhiều thế hệ mới có được, làm rệu rã khối đoàn kết và suy yếu sức mạnh quốc gia.
Đồng thời, để “ngăn chặn từ xa” nguy cơ “tự diễn biến", "tự chuyển hóa” và hỗ trợ trực tiếp cho thắng lợi của cuộc chiến chống “diễn biến hòa bình” đó, chúng ta cũng cần đẩy mạnh đấu tranh chống tiêu cực, chống tham nhũng, chống chủ nghĩa cơ hội, thực dụng, cá nhân ích kỷ, các biểu hiện lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc, lối tư duy nhiệm kỳ và các lợi ích nhóm… Hơn nữa, phải coi đây là tâm điểm và việc làm có ý nghĩa quyết định thắng lợi của cuộc đấu tranh chủ động chống "diễn biến hòa bình”. Tinh thần này đã được ghi nhận trong nhiều văn kiện quan trọng của Đảng, tiêu biểu mới đây nhất là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI), cũng như đã được quy định thành pháp luật như Pháp lệnh Chống tham nhũng (1998), Luật Phòng, chống tham nhũng (2005), Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng chống tham nhũng (2007)…
Đề cao vai trò “chống tự diễn biến” trước các nguy cơ “diễn biến hòa bình”, "tấn công mềm" và thúc đẩy "tự diễn biến" của các thế lực thù địch, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã yêu cầu các cấp, ngành và lãnh đạo, cán bộ, đảng viên cần phải nắm được kịp thời và chính xác ý đồ của các thế lực thù địch về chi phối, kiểm soát, khống chế, chuyển hóa tư tưởng, tăng cường công tác quản lý cán bộ chặt chẽ.
Cần nhấn mạnh rằng, quá trình “tự diễn biến” sẽ tăng tốc và không thể ngăn chặn nếu coi nhẹ việc xây dựng và thực thi hiệu quả cơ chế bảo vệ lợi ích quốc gia và trọng dụng nhân tài; buông lơi đấu tranh bảo vệ và phát triển các chuẩn giá trị chung tạo nền tảng tư tưởng khoa học và cách mạng của Đảng. Cần đề cao sự làm gương và trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, của các cán bộ, đảng viên có chức, có quyền trên thực tế. Bên cạnh đó, cần tăng cường thông tin định hướng, chủ động phát hiện sớm và giải tỏa kịp thời tâm lý bất bình trong xã hội, cũng như các mâu thuẫn nội bộ trong Đảng, chính quyền và các tầng lớp nhân dân. Phải nghiên cứu, làm rõ bản chất và xu hướng các trào lưu, hiện tượng và sự kiện xã hội mới; chủ động phê phán, bác bỏ các quan điểm và ý đồ cơ hội, âm mưu, thủ đoạn lợi dụng các quan hệ, các công cụ và thiết chế kinh tế, tài chính, tiền tệ, internet, lợi dụng mở cửa, giao lưu văn hóa, giáo dục - đào tạo để quảng bá, tuyên truyền, phổ biến hệ thống giá trị, những chuẩn mực đạo đức, lối sống không phù hợp nhằm thúc đẩy chuyển hóa tư tưởng, ý thức của giới trí thức, sinh viên, học sinh, thế hệ trẻ...
Đẩy mạnh phát triển bền vững, bảo đảm an sinh và công bằng xã hội; thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo; mở rộng dân chủ trong xã hội để tạo sự đồng thuận, đoàn kết dân tộc, tôn giáo; khuyến khích phản biện xã hội mang tính xây dựng; giảm thiểu và xử lý đúng đắn, kịp thời những "điểm nóng” xã hội vừa trên cơ sở pháp luật, vừa hài hòa với truyền thống, đạo lý dân tộc. Cần giải quyết đúng đắn mối quan hệ đối ngoại và đối nội, giữ vững độc lập, tự chủ trong quan hệ đối ngoại; bảo đảm sự ổn định, phát triển bền vững, sự bất khả xâm phạm, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc…
Tiến sĩ MINH TRÍ

Vụ lập blog để tuyên truyền chống Nhà nước: Y án đối với Nguyễn Văn Hải và Tạ Phong Tần


(SGGP).- Ngày 28-12, Tòa Phúc thẩm TAND tối cao tại TPHCM đã xét xử phúc thẩm vụ lập blog để tuyên truyền chống Nhà nước.
Theo bản án sơ thẩm, dù không được phép nhưng tháng 9-2007, ông Lê Xuân Lập (trước đây công tác tại Báo Thanh tra Chính phủ, đại diện tại TPHCM) và một số người khác, trong đó có bị cáo Nguyễn Văn Hải (blogger Điếu Cày, 60 tuổi, ngụ quận 3) thành lập “Câu lạc bộ nhà báo tự do”, thiết kế blog do ông Lập làm chủ nhiệm. Sau đó, bị cáo Nguyễn Văn Hải tự động thay mật khẩu để nắm giữ, quản lý blog. Tiếp theo, Nguyễn Văn Hải tập hợp thêm Phan Thanh Hải (blogger Anhbasaigon, 43 tuổi, ngụ quận Thủ Đức), Tạ Phong Tần (blogger Sự thật và Công lý, 42 tuổi, ngụ tỉnh Bạc Liêu) tham gia câu lạc bộ và cùng quản lý blog “Câu lạc bộ nhà báo tự do”.
Từ tháng 9-2007 đến tháng 10-2010, trên blog “Câu lạc bộ nhà báo tự do” đã đăng 421 bài (gồm 94 bài tự viết và 327 bài đăng lại từ những trang web của các tổ chức hoạt động chống phá Nhà nước). Trong đó nhiều bài mang nội dung tuyên truyền chống chế độ, bôi nhọ sự lãnh đạo của Đảng, đả kích đường lối, chính sách của Nhà nước… Phan Thanh Hải và Nguyễn Văn Hải còn sang Thái Lan trực tiếp tham gia khóa huấn luyện do tổ chức khủng bố Việt Tân tổ chức vào năm 2008.
Tháng 9-2012, TAND TPHCM xét xử sơ thẩm vụ án đã tuyên phạt Nguyễn Văn Hải 12 năm tù, Tạ Phong Tần 10 năm tù, Phan Thanh Hải 4 năm tù cùng về tội “Tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam”. Sau phiên xử sơ thẩm, bị cáo Phan Thanh Hải làm đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt, hai bị cáo Nguyễn Văn Hải và Tạ Phong Tần kháng cáo kêu oan.
Sau một ngày thẩm vấn và nghe các bên tranh luận, hội đồng xét xử nhận định bản án sơ thẩm đã tuyên đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hành vi của các bị cáo nhằm mục đích gây mất lòng tin của người dân đối với Đảng, Nhà nước, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm phương hại đến an ninh quốc gia và gây mất trật tự an toàn xã hội nên đã phạm vào tội “Tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam”.
Tại phiên tòa, bị cáo Phan Thanh Hải tiếp tục thể hiện thái độ ăn năn hối lỗi nên được hội đồng xét xử tuyên giảm án còn 3 năm tù giam. Dù hai bị cáo Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần không nhận tội nhưng lời khai của bị cáo Phan Thanh Hải cùng các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ chứng minh hành vi phạm tội như đã nêu trên. Do vậy hội đồng xét xử quyết định bác kháng cáo kêu oan, tuyên y án sơ thẩm, xử phạt Nguyễn Văn Hải 12 năm tù, Tạ Phong Tần 10 năm tù. Ngoài ra, 3 bị cáo còn bị phạt quản chế tại địa phương từ 3 đến 5 năm sau khi chấp hành xong hình phạt tù, trong thời gian này các bị cáo bị tước một số quyền công dân.

Không thể chấp nhận quan điểm “Quốc gia hóa quân đội”


QĐND - Cùng với việc đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội được xác định tại Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các thế lực thù địch và những phần tử cơ hội chính trị đang ra sức truyền bá quan điểm đòi “quốc gia hóa” Quân đội nhân dân Việt Nam, cho rằng: “Quân đội bao giờ cũng là của quốc gia, không phải là của một đảng phái hay một thể chế chính trị nào”, “Quân đội chỉ trung thành với Hiến pháp” và yêu cầu “Luật hóa mọi vấn đề về tổ chức và hoạt động của quân đội” theo kịch bản “Cách mạng pháp luật” của phương Tây... Một số cán bộ, đảng viên và nhân dân ta cũng ngộ nhận về quan điểm này, cho rằng đã có lúc quân đội ta là “Quân đội quốc gia”. 
Thực chất của quan điểm “quốc gia hóa quân đội” là đòi quân đội phải trung lập, “phi đảng hóa”, tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, làm cho quân đội mất định hướng chính trị, cơ chế lãnh đạo, chỉ huy bị suy yếu, bị tha hóa biến chất và mất sức chiến đấu; đồng thời làm cho Đảng không nắm được quân đội, dẫn đến mất vai trò đảng cầm quyền, đưa đất nước lâm vào tình trạng mất ổn định và suy thoái. 
Lịch sử chiến tranh và quân đội đã chứng minh và khẳng định: Quân đội bao giờ cũng là công cụ bạo lực của một giai cấp, Nhà nước, đảng chính trị để tiến hành đấu tranh vũ trang nhằm thực hiện mục đích chính trị nhất định. Bản chất giai cấp, mục tiêu chiến đấu, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế lãnh đạo, chỉ huy của quân đội phụ thuộc vào quan điểm, đường lối chính trị của giai cấp, Nhà nước, đảng chính trị tổ chức ra quân đội. Không có quân đội trung lập, đứng ngoài chính trị. V. I. Lê-nin đã chỉ rõ: “Quân đội không thể và không nên trung lập. Không lôi kéo quân đội vào chính trị - đó là khẩu hiệu của bọn tôi tớ giả nhân giả nghĩa của giai cấp tư sản..., bọn này trong thực tế bao giờ cũng đã lôi kéo quân đội vào chính trị phản động” (1). 
Ở các nước tư bản thực hiện chế độ đa đảng, các đảng có thể cầm quyền về thực chất là những hình thái tổ chức khác nhau đại diện cho các “tập đoàn lợi ích” khác nhau của giai cấp tư sản. Thực tiễn cho thấy, ở các nước tư bản, các đảng phái có thể thay nhau cầm quyền, song bộ máy Nhà nước cũng như quân đội đều được tổ chức và hoạt động theo thể chế chính trị của xã hội tư bản, đều phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản. Quân đội tư sản không chỉ được sử dụng để bảo vệ lợi ích quốc gia, mà còn để đàn áp sự phản kháng của nhân dân lao động bị áp bức. Hiện ở Mỹ có “quân đội tư nhân” lớn nhất thế giới là đội quân đánh thuê của Công ty Blackwater do tỷ phú Erick Prince lập ra, với quân số hàng trăm ngàn, có cả máy bay, tàu chiến và vũ khí hạng nặng, được coi là lực lượng thiện chiến ở Áp-ga-ni-xtan, I-rắc và có “khả năng lật đổ” nhiều chính phủ trên thế giới. Tuy nhân danh là “Bảo vệ lợi ích và giá trị Mỹ”, nhưng về thực chất, hoạt động của đội quân đó do các ông trùm tư bản điều khiển và bảo vệ thể chế chính trị của xã hội tư bản. 
Cách mạng Tháng Mười năm 1917 là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử nhân loại đã dẫn tới sự ra đời của Nhà nước kiểu mới - Nhà nước XHCN, gắn liền với sự ra đời của quân đội kiểu mới - quân đội của giai cấp công nhân và nhân dân lao động do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Trong quá trình lãnh đạo công cuộc xây dựng và bảo vệ nước Cộng hòa Xô-viết còn non trẻ, V. I. Lê-nin rất quan tâm xây dựng Hồng quân vững mạnh làm nòng cốt bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, Người đặc biệt chú trọng việc Đảng Cộng sản nắm vững quyền lãnh đạo đối với quân đội, coi đó là nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nhờ kiên định nguyên tắc đó, Hồng quân và nước Cộng hòa Xô-viết đã vượt qua những thử thách nghiệt ngã của thời kỳ nội chiến chống các thế lực phản cách mạng cùng sự can thiệp của 14 nước đế quốc, tiếp tục vượt qua những gian khổ hy sinh to lớn trong Đại chiến Thế giới lần thứ II, làm nên những chiến thắng vĩ đại, khẳng định sức mạnh vô địch của quân đội kiểu mới và sức sống mãnh liệt của Tổ quốc XHCN, tác động to lớn đến sự phát triển của phong trào cách mạng trên thế giới. 
Quân đội nhân dân Việt Nam là một quân đội kiểu mới mang bản chất cách mạng của giai cấp công nhân, đồng thời có tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Những thuộc tính bản chất của quân đội kiểu mới được thể hiện tập trung rõ nét ở lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và CNXH; ở chức năng, nhiệm vụ của đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất; ở cơ sở chính trị-xã hội luôn gắn bó máu thịt với nhân dân; ở nguyên tắc tổ chức và hoạt động, cơ chế lãnh đạo, chỉ huy mang tính cách mạng và khoa học; trong đó vấn đề quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định đối với bản chất và sức mạnh chiến đấu của quân đội là nguyên tắc và cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Thực tiễn gần 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của quân đội ta đã chứng minh và khẳng định: Sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội là nguyên tắc quan trọng hàng đầu, bảo đảm cho quân đội ta luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thực sự là lực lượng chính trị - lực lượng chiến đấu trung thành và tin cậy của Đảng, Nhà nước, Tổ quốc XHCN và nhân dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng. 
Đúng là có lúc Đảng ta rút vào hoạt động bí mật, trong tình thế hiểm nghèo phải thực hiện kế sách nhân nhượng để thêm bạn bớt thù, bộ máy Nhà nước có người của lực lượng Việt quốc, Việt cách và người không đảng phái, quân đội ta có lúc mang tên Quân đội quốc gia Việt Nam (1946-1950), nhưng Đảng ta vẫn giữ vững sự lãnh đạo đối với quân đội. Tháng 1-1946, BCHTW Đảng quyết định thành lập Trung ương Quân ủy để tăng cường sự lãnh đạo đối với quân đội và cuộc kháng chiến. Tháng 5-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký một số sắc lệnh quan trọng như Sắc lệnh số 71/SL, Sắc lệnh số 47/SL, Sắc lệnh số 60/SL. Theo các sắc lệnh đó, đồng chí Võ Nguyên Giáp (lúc đó là ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng, Bí thư Trung ương Quân ủy) được giao trọng trách là Tổng chỉ huy quân đội và dân quân toàn quốc, Chủ tịch Quân sự ủy viên hội là cơ quan quân sự tối cao có nhiệm vụ điều khiển quân đội toàn quốc; trong quân đội từ cấp trung đội đến cấp trung đoàn có Chính trị viên, cấp chiến khu có Chính trị ủy viên do Chủ tịch nước ký quyết định bổ nhiệm. Điều này thể hiện sâu sắc bản lĩnh và trí tuệ của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa kiên định nguyên tắc chiến lược, vừa mềm dẻo về sách lược để lãnh đạo dân tộc vượt qua hiểm nguy, giành thắng lợi vẻ vang.
Trong khi truyền bá quan điểm “quốc gia hóa quân đội”, các thế lực thù địch ra sức xuyên tạc, phủ nhận quan điểm, đường lối và nguyên tắc xây dựng quân đội của Đảng ta, bài xích cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, thúc đẩy khuynh hướng tuyệt đối hóa vai trò của người chỉ huy, hạ thấp vai trò và tiến tới bãi bỏ hệ thống tổ chức đảng, hệ thống chính ủy (chính trị viên), cơ quan chính trị và chế độ công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội. Có thể nói, quan điểm đòi “quốc gia hóa quân đội” của các thế lực thù địch rất hiểm độc, tập trung công kích thẳng vào một đặc trưng bản chất có ý nghĩa sống còn của quân đội kiểu mới.
Sẽ mắc sai lầm nghiêm trọng về chiến lược và phải trả ngay những giá rất đắt nếu ngộ nhận về quan điểm “quốc gia hóa quân đội”, mất cảnh giác trước những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch nhằm “phi đảng hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội. Sự sụp đổ và tan rã của Liên bang Xô-viết cho chúng ta bài học rất sâu sắc về vấn đề này. Vào những thập niên cuối thế kỷ XX, đáng chú ý là khi ông M.Goóc-ba-chốp làm Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô (1985-1991), những người lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quân đội Liên Xô đã rời bỏ nguyên tắc xây dựng quân đội về chính trị của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, mắc những sai lầm rất nghiêm trọng về chiến lược, nhất là xóa bỏ cơ chế lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với quân đội, làm cho quân đội bị “phi chính trị hóa” và bị vô hiệu hóa. Chỉ trong khoảng hai năm từ 1987-1989, gần 50% cán bộ cơ quan chiến lược của quân đội và khoảng 30% tướng lĩnh bị cho ra quân, trên 100 cán bộ lãnh đạo chính trị cấp chiến dịch-chiến lược bị cách chức với lý do “tư tưởng bảo thủ, yếu kém, không ủng hộ cải tổ”(!). Chính Nguyên soái Sa-pô-xni-cốp trên cương vị Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Liên Xô, với những toan tính cá nhân cơ hội, thực dụng đã trực tiếp tham gia khởi xướng và thực thi việc “phi đảng hóa” Quân đội Liên Xô. Ngày 23-8-1991, ông ta đã trở cờ, tuyên bố rời bỏ Đảng Cộng sản Liên Xô và tiếp đó buộc mọi quân nhân là đảng viên cộng sản phải trả thẻ đảng. Ngày 29-8-1991, M.Goóc-ba-chốp ra lệnh giải tán các cơ quan chính trị và từ 1-9-1991 chấm dứt mọi hoạt động của Đảng trong Quân đội Liên Xô. Đó là nguyên nhân rất quan trọng dẫn tới sự sụp đổ và tan rã của Liên bang Xô-viết vào cuối năm 1991. Mặc dù lúc đó Quân đội Liên Xô còn 3,9 triệu quân thường trực, được trang bị rất hiện đại, vượt xa các nước cả về lực lượng chiến đấu thông thường và lực lượng hạt nhân chiến lược, nhưng do bị biến chất về chính trị nên mất sức chiến đấu, không thể bảo vệ được Tổ quốc XHCN.
Từ những bài học sâu sắc được đúc kết trong thực tiễn, trước những diễn biến phức tạp của tình hình và sự phát triển của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc XHCN trong thời kỳ mới, với bản lĩnh và trí tuệ được tôi luyện và kiểm nghiệm nghiêm ngặt trong đấu tranh cách mạng, chúng ta không thể chấp nhận quan điểm “quốc gia hóa quân đội”; trái lại càng phải đặc biệt coi trọng giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội. Đây là một vấn đề chiến lược và mang tính cấp thiết, không chỉ có ý nghĩa quyết định đối với sức mạnh chiến đấu của quân đội, mà còn liên quan trực tiếp đến sự an nguy của đất nước và sự sống còn của chế độ XHCN.
Trung tướng PGS,TS NGUYỄN TIẾN BÌNH
-----------------
(1) V.I.Lê-nin - Toàn tập, tập 12, Nxb Tiến bộ, M.1979, tr.136.

Kẻ “ma đầu” nhân danh bảo vệ quyền con người !


Trong cộng đồng người Việt Nam ở hải ngoại có những nhân vật “hành nghề chính trị” mà khi nhắc đến thì mọi người đều lắc đầu ngán ngẩm với những nhận xét đầy khinh bỉ. Đó là những kẻ cơ hội, trục lợi, trơ trẽn với những việc làm trong quá khứ và hiện tại của họ. Ở đây tôi muốn nói đến một nhân vật thuộc hạng có “máu mặt” đó là Võ văn Ái với hỗn danh là “ma đầu”, hiện đang là chủ tịch cơ sở Quê mẹ và “Ủy ban bảo vệ quyền làm người VN” do chính Ái tự phong làm chủ tịch và điều hành. Qua việc theo dõi các thông tin trên báo chí thì tôi được biết vào tháng 3 đầu năm nay, 2012, dưới sự cầm đầu của Võ Văn Ái “Ủy ban bảo vệ quyền làm người VN” đã đến Genève vận động can thiệp cho những người mà họ gọi là “những tù nhân chính trị và tù nhân vì lương thức Việt Nam”? Võ văn Ái gặp gỡ “Tổ Hành Động Chống Bắt bớ Trái phép của LHQ”(WGAD). Theo thủ tục WGAD đã chuyển đạt tin tức cùng hồ sở do Võ văn Ái cung cấp đến chính quyền Việt Nam ngày 15.3.2012. Việt Nam hồi đáp ngày 13.7.2012 bác bỏ mọi luận điểm của hồ sơ, rồi tuyên bố các người bị giam tù do họ vi phạm pháp luật Việt Nam. 29-8-2012 WGAD đã gởi bản Fax đến “Ủy ban bảo vệ quyền làm người VN” với nội dung tuyên bố rằng,”Việt Nam vi phạm các điều 9, 19, và 21 của Công ước quốc tế khi giam giữ trái phép ông Lê Công Định, Trần Huỳnh Duy Thức, Nguyễn Tiến Trung, và Lê Thăng”. Võ văn Ái vui mừng coi đây là một thành tích mà các “bề trên” ủng hộ, ngày 8-11-2012 vội vàng xuất xưởng với cái gọi là “Thông cáo báo chí” trên nguyệt san Quê mẹ.
Trong nội dung “Thông cáo báo chí” Võ Văn Ái lớn giọng “Phải trả tự do cho những người này và phải chấp nhận đền bù cho họ …”? Ông ta có cái quyền gì mà ra lệnh cho một nhà nước hợp pháp đang lãnh đạo 90 triệu dân ? chỉ có kẻ đầu óc hoang đường mới có những phát ngôn ngông cuồng như vậy.Theo sự tìm hiểu của bản thân tôi về việc thực hiện quyền con người và sự thúc đẩy nó đạt đỉnh thăng hoa nhất đó là trách nhiệm và quyền hạn của mỗi quốc gia , mỗi dân tộc. Việt Nam cũng như các quốc gia khác có trách nhiệm xây dựng hệ thống pháp luật trong nước cho phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế mà đặc biệt là hiến chương liên hợp quốc. Nhưng do hoàn cảnh khác biệt về lịch sử, chế độ chính trị, trình độ phát triển, giá trị truyền thống văn hóa… nên cách thực hiện quyền con người ở mỗi quốc gia có thể khác nhau. Hợp tác đối thoại giữa các quốc gia nhằm mục đích thúc đẩy việc thực hiện và bảo vệ quyền con người là một yêu cầu thực tế, cần thiết khách quan chứ không phải là sự quy chụp võ đoán bất chấp thực tế.Thật khó mà kể hết những hoạt động của Võ Văn Ái chống phá đất nước và dân tộc Việt Nam mà đặc biệt là với bà con phật tử và Giáo hội Phật giáo Việt Nam . Võ Văn Ái là tên đầu cơ trục lợi chính trị một cách ma mãnh nhất, ông ta đã không từ một thủ đoạn nào với mục đích duy nhất là đánh bóng tên tuổi và kiếm chác tiền bạc từ các tổ chức ngoại bang chống Việt Nam và của bà con trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Một điều lẽ tất nhiên là khi nhận tiền của ngoại bang là phải chấp nhận những điều kiện, những hoạt động phục vụ cho đường lối chính sách của tổ chức đó thì đồng nghĩa với thân phận làm tay sai, điều này thì Võ văn Ái không thể phủ nhận được . Vậy thì những điều mà Võ Văn Ái lên tiếng tranh đấu cho tự do, dân chủ, quyền làm người của dân tộc Việt Nam như ông ta đã cao giọng nhằm phục vụ cho đường lối sách lược nào? cho thế lực ngoại bang hay cho dân tộc Việt Nam? Đúng là con người gian manh , một tên “ma đầu” về chính trị tự khoác lên người tấm áo choàng “bảo vệ quyền làm người” nhưng mục tiêu của ông Ái là làm tay sai để được trả tiền. Những việc làm của Võ văn Ái đã để lại những hậu quả tai hại là Phật giáo Việt Nam bị chia rẽ, rối ren . Đồng thời với hoạt động báo chí, Ái còn lập tổ chức “Ủy ban bảo vệ quyền làm người VN” như đã nói, do chính Ái làm chủ tịch và điều hành. Chúng ta thấy Võ văn Ái hay “mở sô” phỏng vấn trên các “mõ làng” như VOA, RFA, RFI… để Ái tự quảng cáo, đánh bóng, phô trương, phóng đại thành tích chống Cộng và tranh đấu cho quyền làm người Việt Nam hay tự do tôn giáo bằng bất kỳ thủ đoạn nào .Võ Văn Ái chuyên nghề câu kết với một số đối tượng cơ hội chính trị trong nước và các phần tử chống cộng cực đoan (CCCĐ) lợi dụng tôn giáo để kích động gây rối xã hội Việt Nam. Đối với Võ Văn Ái, thì tất cả người dân trong nước đều là những “nạn nhân” của chế độ cộng sản cầm quyền ,không có “nạn nhân” cũng phải cố tạo, cố nặn ra để được lên tiếng đánh bóng cái mác “bảo vệ quyền làm người” với chức danh chủ tịch tự phong của mình .
Lật lý lịch của Võ Văn Ái, có quốc tịch Pháp, dân tộc Kinh, quê Thừa Thiên – Huế, là Phật tử. Ái là bác sĩ, viết văn, làm thơ, làm báo với các bút danh: Nguyễn Thái, Thi Vũ, Trần Phổ Minh…, và làm con rối chính trị . Là Phật tử, đúng ra ông ta phải có những việc làm ích đời đẹp đạo vậy mà tất cả những việc làm của Võ văn Ái chỉ có duy nhất một niềm đam mê như con thiêu thân là chống lại dân tộc Việt Nam và kiếm tiền. Chỉ đáng tiếc là một số người trong nước không hiểu được dã tâm của những người như Ái họ đã tự nguyện làm vật tế thần, nhằm phục vụ cho mưu đồ đen tối .1978- khi Bernard Kouchner, Chủ tịch tổ chức “Thầy thuốc không biên giới Pháp” dùng con tàu mang tên “Đảo ánh sáng” đi vớt người vượt biển, thì Võ Văn Ái đã tích cực tham gia cổ vũ cho tổ chức này. Ông ta dùng địa chỉ nhà mình làm nơi quyên tiền ủng hộ, và đã thu được hơn 200 triệu frăng (tiền Pháp). Tuy nhiên, số tiền thực tế đến tay “người vượt biển” lại không bao nhiêu, mà chủ yếu Võ Văn Ái tiêu xài cá nhân dưới danh nghĩa chi phí để đi nơi này, nơi kia, tuyên truyền vận động. Nắm được thông tin cụ thể, báo chí Pháp liên tiếp đăng nhiều bài tố cáo khiến kế hoạch “quyên góp” của Võ Văn Ái phải ngưng lại nửa chừng khi bị sở thuế sờ gáy.
Năm 1983 trong khoảng thời gian này đời sống nhân dân trong nước gặp nhiều khó khăn vì bị cấm vận cầm đầu là Hoa Kỳ thì ở hải ngoại mọc lên một số tổ chức chống phá nhà nước Việt Nam, lợi dụng cơ hội đó tổ chức của Hoàng Cơ Minh tiền thân của băng đảng khủng bố Việt Tân với các chiến dịch lừa bịp, hù dọa bà con trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại quyên góp cho “kháng chiến quân” về “giải phóng quê hương” kiếm được rất nhiều tiền. Nắm bắt cơ hội “ngàn vàng” này Võ Văn Ái đẻ ra cái gọi là “Ủy ban bảo vệ quyền làm người Việt Nam “Theo tài liệu chính trên www.ned.org thì ông Ái nhận được sự tài trợ của NED, một tổ chức của Mỹ thành lập năm 1983 vào thời Tổng thống Reagan. Về hình thức, những hoạt động của NED không khác với những hoạt động của CIA nhưng được ngụy trang dưới danh nghĩa là tranh đấu của dân chủ. Khi được một thế lực nước ngoài đỡ đầu tài chính, thì ông ta lại càng tích cực gia tăng các hoạt động chống phá Việt Nam một cách điên cuồng . Võ văn Ái đứng ra thành lập “Ủy ban bảo vệ quyền làm người Việt Nam” tại Pháp như đã nói ở trên , rồi tự phong cho mình chức chủ tịch. Đồng thời lôi kéo một số người có tư tưởng hận thù chống cộng vào cuộc để khuếch trương và cho ra mắt tập san Quê Mẹ làm phương tiện chống phá Việt Nam mà nội dung không ngoài việc tuyên truyền, xuyên tạc các chủ trương, chính sách của Nhà nước Việt Nam, đặc biệt là trong lĩnh vực tôn giáo.
Ban đầu tập san có nội dung như văn nghệ, văn hóa, chính trị, thơ văn… do chính Ái viết dưới nhiều bút danh khác nhau và vài tác giả khác cộng tác. Quê Mẹ lúc ấy không gây được ảnh hưởng nhiều trong cộng đồng người Việt tại hải ngoại. Chỉ đến khi nhận được sự tài trợ của National Endowment for Democracy (NED), một tổ chức thuộc hạ viện Hoa Kỳ, từ đó Quê Mẹ bắt đầu “bẻ lái đổi hướng” sang mục tiêu chính là chính trị theo ý đồ của tổ chức tài trợ. Từ lập trường mang hơi hướng tinh thần hóa giải của Phật giáo Quê Mẹ chuyển sang lập trường chống Cộng một cách triệt để và cực đoan. Nội dung trọng tâm của tạp chí Quê mẹ là những tin tức liên quan đến “nhân quyền”, vi phạm “tự do tôn giáo” ở VN, sau khi được Võ văn Ái bóp méo xuyên tạc méo hoặc thổi phồng các tin tức này nhằm khuấy động dư luận quốc tế.
Sau đó Võ Văn Ái cho ra đời cái được gọi là “Phòng Thông tin Phật giáo hải ngoại” do Ái tự phong làm giám đốc. Đồng thời rủ rê một số tăng ni để hợp thức hóa thành lập “Văn phòng 2 Viện Hóa đạo” trực thuộc GHPGVNTN(giáo hội phật giáo Việt Nam thống nhất) hải ngoại . Cái “Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế” chỉ là một nhãn hiệu bịp bợm để lòe thiên hạ có như vậy mới vận động quyên góp tiền bạc của bà con phật tử. Sự thật thì đó chỉ là hang ổ cho ra lò những sản phẩm gọi là “Thông cáo báo chí” “kiến nghị” “điều trần” do Ái nghĩ ra chứa đựng nhiều thông tin bịa đặt đến mức thô thiển để chống Việt Nam chứ không dính dáng gì đến Phật giáo cả . Vì lập ra “Phòng Thông tin Phật giáo quốc tế” nên Võ Văn Ái cần có sự hậu thuẫn, ủng hộ của một số tu sĩ Phật giáo sống tại Việt Nam, đứng đầu là ông Quảng Độ. Giữa năm 2003, Võ Văn Ái sai tay chân của mình về Việt Nam, gặp ông Thích Quảng Độ, rồi đề nghị ông ta nhận lời làm người lãnh đạo GHPGVNTN . Và điều không ngoài dự đoán của nhiều người đối với ông thầy tu nhưng rất khoái chức tước, quyền lực, tháng 10/2003 ông Quảng Độ trao quyền quyết định cho Võ Văn Ái đứng ra tổ chức một đại hội bất thường của “GHPGVNTN hải ngoại” tại Mỹ. Mục đích đại hội này nhằm đưa ông Quảng Độ lên ghế “Tăng thống”. Đổi lại, ông Quảng Độ cho Võ Văn Ái toàn quyền sắp xếp nhân sự của Viện Tăng thống và Viện Hóa đạo tại hải ngoại, đồng thời còn có quyền là “người phát ngôn của giáo hội” được ban hành “thông điệp” từ trong nước đến các GHPGVNTN ở nước ngoài . Cho nên Ái mô tả, thêm bớt, vẽ vời thế nào thì các “đệ tử” cứ theo đó mà làm. Ngược lại hầu hết các thông tin, thông điệp, giáo chỉ từ trong nước đến được với các GHPGVNTN ở hải ngoại cũng là qua Ái. Cho nên Ái đã mặc tình thao túng cả GHPGVNTN. Do vậy, Thượng Phối Sư Thông Trần từng nhận xét rằng: “Võ Văn Ái không khéo sẽ biến Thích Quảng Độ thành… nài ngựa!” là vậy. Bộ mặt thật của Võ Văn Ái là chỉ vì bạc tiền danh vọng mà trở thành tay sai đắc lực của ngoại bang nhằm thực hiện diễn biến hòa bình để rồi gây ra hận thù chia rẽ Phật giáo Việt Nam , Và tất nhiên cái vỏ bọc đấu tranh cho nhân quyền, tự do tôn giáo chỉ là phương tiện để Võ Văn Ái kiếm Fund(tiền tài trợ) của các tổ chức ngoại bang chống Việt Nam và moi tiền bà con người Việt ở hải ngoại .Trước đây dư luận trong cộng đồng khi đề cập đến vấn đề tài chánh thì bao giờ Võ Văn Ái cũng tìm đủ mọi cách tránh né , phủ nhận là ông ta không bao giờ ăn tiền của ai: “Tôi làm những chuyện không công, chẳng có lương bổng gì hết, do vậy mà chư tôn đức tăng ni, phật tử cho bao nhiêu thì lấy bấy nhiêu mà không đòi hỏi, để lo cho cơ sở Quê Mẹ” ?. Ngày 26-9-2012 Võ văn Ái thể hiện là kẻ ôm chân ngoại bang một cách trơ trẽn nhất đó là viết thơ cho tổng thống Pháp Francois Hhollande yêu cầu Tổng Thống nhân danh nước Pháp lên tiếng can thiệp cho các bloggers vi phạm pháp luật hiện hành của Việt Nam như Điếu Cày, Phan Thanh Hải, Tạ Phong Tần và ký giả Hoàng Khương ?. Võ văn Ái đã lếu láo vu khống một cách trắng trợn rằng nhà nước Việt Nam đối xử với người dân trong nước “họ bị tù đày trên lãnh thổ họ như trong một nhà tù…” ? Xin hỏi ông Ái rằng hàng năm có trên nửa triệu người Việt từ hải ngoại về thăm cái mà ông gọi là “nhà tù” thì nhận xét của họ như thế nào ? kiều hối bà con gởi về “nhà tù” là 12 tỷ đô la trong năm qua thì ông có lý giải gì cho thỏa đáng với những lời vu khống vô căn cứ của ông ? Vẫn chưa hết ông Ái còn cao giọng : “Nhân danh Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Quyền Làm Người Việt Nam, xin được nói lên mối âu lo trước muôn nghìn hành động đàn áp của nhà cầm quyền Việt Nam tiếp tục đàn áp Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất trong âm thầm nhưng thường trực.” ?. Khi đọc những cái gọi là “thông cáo” “kiến nghị”.. mà Võ Văn Ái nhào nặn thì những người Việt có tấm lòng với quê hương đất nước không khỏi phải phì cười về sự lố bịnh đến nham nhở của ông ta .Theo như tôi được biết Việt Nam hiện nay tôn giáo phát triển hơn bao giờ hết , đồng bào ở hải ngoại về thăm quê hương hàng năm đều nhận thấy sự đổi khác đang diễn ra từng ngày, nhà thờ, chùa chiềng được xây dựng mới khang trang lộng lẫy, vào các ngày lễ lớn nhà thờ, chùa chiềng, miếu mạo tấp nập vui như trẩy hội niềm vui hiên trên nét mặt của mọi người .Nhà nước Việt Nam hiểu rằng tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo là tôn trọng niềm tin, nghi thức thờ phượng, những sinh hoạt tôn giáo phù hợp với giáo lý với truyền thống văn hóa dân tộc là góp phần nâng cao đạo đức, nhân cách của con người chứ không chấp nhận những hành vi lợi dụng, hoặc đội lốt tôn giáo để làm những điều trái pháp luật, phản văn hóa đi ngược lại điều răn dạy của chúa, phật, thánh , thần và những yêu cầu chính đáng của đồng bào theo các tôn giáo.
Nói tóm lại những kẻ như Võ Văn Ái chỉ vì mục đích phô trương bản thân, trục lợi chính trị can tâm làm tay sai cho các thế lực thù địch chống Việt Nam để moi rút tiền bạc cho bản thân mình , những khẩu hiệu “dân chủ, nhân quyền” chỉ là tấm áo khoác để lừa bịp. Nhân bài viết này tôi cũng muốn nhắn gởi cho những ai ở trong nước cũng như bà con trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại hãy cảnh giác với những kẻ “ma đầu” như Võ văn Ái đừng để cho bọn chúng lợi dụng trở thành công cụ chống phá đất nước, đi ngược lại lợi ích của dân tộc mình.
Ngày 6-12-2012
AMARI TX  (Hoa Kỳ)

Bảo đảm quyền con người thuộc bản chất của chế độ ta


QĐND - Là chế độ tôn trọng con người, trước khi trở thành thành viên của Liên hợp quốc (ngày 20 tháng 9 năm 1977), Việt Nam đã tự nguyện gia nhập nhiều công ước về Luật Nhân đạo quốc tế, (về nội dung cũng mang tính nhân quyền) như “Công ước Giơ-ne-vơ về bảo vệ thường dân trong chiến tranh” (gia nhập năm 1957), “Công ước Giơ-ne-vơ về đối xử với tù nhân trong chiến tranh” (gia nhập năm 1957)…
Trước thời kỳ đổi mới, vào năm 1982, Việt Nam đã gia nhập hai Công ước quốc tế cơ bản về quyền con người, đó là “Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị" và “Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa” (cùng được phê chuẩn năm 1966) (theo "Các văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con người”, Viện nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh. HN. 2002, tr249, 284).
Nhằm bảo đảm quyền của người dân đồng thời phát triển xã hội, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn coi trọng việc xây dựng các thể chế quốc gia phù hợp với đặc thù lịch sử, văn hóa dân tộc. Trong đó có nguyên tắc các cơ quan tư pháp hoạt động độc lập. Đồng thời, Nhà nước có cơ chế chính sách tạo điều kiện để người dân tham gia quản lý Nhà nước và xã hội. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội ngày càng được nâng cao. Văn kiện Đại hội XI, năm 2011, tái khẳng định vai trò giám sát và phản biện xã hội của các tổ chức trên. Trong nhiều nhiệm kỳ qua, vai trò của Quốc hội ngày càng được nâng cao. Trong các kỳ họp, Thủ tướng và các thành viên Chính phủ phải trả lời chất vấn công khai, được truyền hình trực tiếp những vấn đề cử tri và các đại biểu quan tâm.
Quyền làm chủ trực tiếp của người dân cũng được Đảng và Nhà nước quan tâm. Từ một Chỉ thị của Đảng (Chỉ thị Số 30-CT/TW, ngày 18-2-1998 về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở), với nhiều yêu cầu, đặc biệt là: Quy định quyền của mọi người dân ở cơ sở được thông tin về pháp luật, các chủ trương, chính sách của Nhà nước, nhất là những vấn đề liên quan trực tiếp đến đời sống và lợi ích hằng ngày của nhân dân tại cơ sở, Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh bảo đảm quyền được biết, được bàn, được kiểm tra và quyết định những vấn đề kinh tế, xã hội của người dân ở cơ sở. Đây là cơ sở chính trị, pháp lý của phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Quyền tự do ngôn luận, báo chí và thông tin được bảo đảm ngày càng tốt hơn. Ngoài Luật Báo chí, Nhà nước đã ban hành các quy định cơ quan Chính phủ có trách nhiệm định kỳ và khi cần cung cấp thông tin cho báo chí. Các cơ quan truyền thông của Việt Nam phát triển nhanh chóng. Cho đến nay, cả nước có hơn 700 cơ quan báo chí; 68 đài phát thanh, truyền hình Trung ương và tỉnh, thành phố, hơn 80 báo điện tử, hàng nghìn trang tin điện tử và blog… Người dân Việt Nam ngày nay còn được tiếp cận với nhiều hãng thông tấn, báo chí, các kênh truyền hình nước ngoài như Roi-tơ, BBC, VOA, AP, AFP, CNN… Tốc độ phát triển internet ở Việt Nam được xếp hạng nhanh nhất khu vực Đông Nam Á.
Trên lĩnh vực quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam là: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và trong từng chính sách phát triển… tiếp tục hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội… giúp đỡ mọi thành viên xã hội, nhất là những đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương…”. Để bảo đảm hành lang pháp lý cho các hoạt động của cơ quan Nhà nước và công dân, nhiều Bộ luật, luật sửa đổi và luật mới được ban hành dựa trên các nguyên tắc: Tôn trọng con người, quyền con người; Dân chủ XHCN; Nhà nước pháp quyền XHCN và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đồng thời, thể hiện trách nhiệm Quốc gia, Việt Nam đã nội luật hóa các công ước quốc tế mà mình đã tham gia. Có thể dẫn ra những luật sau: Luật Bảo vệ sức khỏe người dân năm 1989, Luật Giáo dục năm 1998, Luật Đất đai năm 2003, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006, Luật Phòng, chống HIV/AIDS năm 2006, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình năm 2007, Luật Bình đẳng giới năm 2011...
Trên cơ sở đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, các Chiến lược và Chương trình phát triển kinh tế-xã hội được triển khai, mức sống của người dân đã có những thay đổi đáng kể. Thu nhập bình quân đầu người vào năm 1990 khoảng 200USD, đến năm 2010 ước khoảng 1.200USD. Đến nay, Việt Nam đã thoát khỏi nhóm nước có thu nhập thấp, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình.
Nhằm bảo đảm quyền bình đẳng trong việc hưởng thụ thành tựu phát triển, Nhà nước đã có nhiều chương trình kinh tế-xã hội hướng vào nâng cao đời sống của người dân ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Theo Báo cáo của Ủy ban Dân tộc, thực hiện Chương trình 135 giai đoạn 2 (2006-2010), ngân sách Trung ương đầu tư lên tới 15.000 tỷ đồng, trong đó các tổ chức quốc tế hỗ trợ 350 triệu USD. Từ nguồn vốn trên, Chương trình đã xây dựng được gần 13.000 công trình hạ tầng thiết yếu như điện, đường, trường, trạm ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện Nghị quyết 30a của Chính phủ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo trong cả nước, Chính phủ đã có nhiều biện pháp cụ thể. Với kinh phí hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước, vốn tín dụng ưu đãi, hỗ trợ của doanh nghiệp, Quỹ vì người nghèo các địa phương… đến hết năm 2010, các huyện đã cơ bản hoàn thành việc xóa nhà tạm tại 62 huyện nghèo với 73.418 căn nhà, đạt 94,58% kế hoạch. Hiện nay, chương trình nhà ở xã hội của Chính phủ đang được triển khai tích cực ở nhiều địa phương nhằm trợ giúp cho công nhân, người thu nhập thấp và sinh viên.
Các quyền tự do cơ bản của con người là mục tiêu lớn, mục tiêu đó như đường chân trời, người ta càng đi đến thì chân trời càng lùi xa. Đơn giản vì nhu cầu về vật chất và tinh thần của con người ngày càng cao, là không có giới hạn.
Không phủ nhận rằng, hiện nay Việt Nam đang phải đối diện với không ít những vấn đề về kinh tế, xã hội liên quan đến quyền con người, như: Thể chế phân công phối hợp có sự giám sát về quyền lực chưa có hiệu quả như nhiều đại biểu Quốc hội vừa qua đã phát biểu; sự phân hóa giàu nghèo có khuynh hướng gia tăng, thậm chí ngay cả trong Đảng, như đồng chí Tổng bí thư đã nói; hoặc sự hình thành “lợi ích nhóm” trong thời gian qua là những ví dụ…
Tuy nhiên, với việc nhận thức đúng đắn hơn, đầy đủ hơn về CNXH và con đường đi lên CNXH, với truyền thống cách mạng, sáng tạo, gắn bó với nhân dân, chúng ta tin tưởng rằng, Đảng ta sẽ hoàn thành được sứ mệnh lịch sử mà dân tộc đã giao phó - xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. 
PHƯƠNG ANH

Tuyên ngôn thế giới về quyền con người với dân tộc ta


QĐND - Quyền con người (QCN) là giá trị chung của các dân tộc, là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử nhân loại. Mỗi dân tộc, bằng hình thức này hay hình thức khác, trong thời kỳ lịch sử này hay thời kỳ lịch sử khác, đều có những đóng góp vào giá trị đó. Dân tộc ta trong thế kỷ XX đã có những đóng góp to lớn, mang tính đột phá về tư tưởng nhân quyền của nhân loại. Điều này thể hiện tập trung trong tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn Cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Liên hợp quốc ra đời (24-10-1945). Trong Hiến chương của tổ chức này, cùng với quyền con người, Hòa bình và Phát triển được xem là mục tiêu cơ bản của Liên hợp quốc.
Trong 2 năm, từ 1947-1948, công việc soạn thảo Tuyên ngôn (TN) thế giới về QCN được tiến hành khẩn trương và thận trọng, trong khuôn khổ chức năng, nhiệm vụ của ủy ban nhân nhân quyền.
Ngày 10-12-1948, BảnTN đã hoàn thành và được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua bởi Nghị quyết 217A (III). Cho đến nay tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị, hệ tư tưởng, trình độ phát triển và bản sắc văn hóa đều xem văn kiện này như một mục tiêu chung mà nhân loại cần hướng tới. Và do đó ngày 10-12 hằng năm được tôn vinh là Ngày Nhân quyền quốc tế, được các nước trên thế giới kỷ niệm.
Mặc dù còn những hạn chế bởi điều kiện lịch sử ra đời và những khác biệt bởi các quan điểm chính trị giữa các thành viên trong Ban soạn thảo, cũng như của các quốc gia song có thể nói những tư tưởng lớn của TN về Đạo đức, Chính trị và Pháp lý vẫn còn nguyên giá trị.
Cho đến nay, cơ chế bảo vệ QCN của Liên hợp quốc và ở hầu hết các châu lục đã hình thành. ở khu vực châu á, sau khi nội dung nhân quyền được đưa vào Hiến chương, vừa qua (ngày 18-11-2012) Tuyên ngôn nhân quyền ASEAN cũng đã được tổ chức này thông qua.
Lịch sử cho thấy ở Việt Nam, hơn 80 năm áp đặt chế độ thống trị, thực dân Pháp vẫn duy trì chế độ phong kiến thối nát; dân tộc ta không có Hiến pháp, không có quyền công dân, quyền con người. Người dân Việt Nam chỉ biết đến khái niệm QCN qua sách báo từ "chính quốc". "Thành tựu" nhân quyền mà chủ nghĩa đế quốc, thực dân và phát -xít đã đem lại cho dân tộc Việt Nam là sự kiện hơn 2 triệu người ở Bắc Bộ đã chết đói vào năm 1945 (chiếm gần 1/10 dân số lúc đó). Đây là một bằng chứng về tội ác của chủ nghĩa thực dân cấu kết với phong kiến không ai có thể phủ nhận được.
Thế là, hơn 150 năm, kể từ khi có Tuyên ngôn độc lập của Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp, ở các nước thuộc địa, người dân vẫn phải sống kiếp nô lệ. Không phải ngẫu nhiên người ta nghĩ rằng, khái niệm nhân quyền không phải bao giờ cũng được sử dụng với nguyên nghĩa tốt đẹp của nó, mà đằng sau đó còn chứa đựng những ý đồ chính trị đen tối của các thế lực đế quốc, thực dân và của những kẻ tay sai của chúng. Bởi vì, trong lịch sử, khái niệm này đã được đưa đến với các thuộc địa cùng với lưỡi lê và báng súng của các đội quân xâm lược.
Đối với Cách mạng Việt Nam, QCN - nói cách khác, các quyền và lợi ích của nhân dân được xem là bản chất của chế độ xã hội XHCN, là mục tiêu đấu tranh của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều này trước hết đã in đậm dấu ấn trong cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong bài trả lời phỏng vấn nhà thơ ô -xip Ma-đen-xtan (Liên Xô) năm 1923, Nguyễn ái Quốc (tức Chủ tịch Hồ Chí Minh) kể lại rằng: “Khi tôi độ 13 tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái… Và từ thuở ấy, tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn đằng sau những chữ ấy”. Vì vậy “tôi quyết định tìm cách đi ra nước ngoài” (Hồ Chí Minh “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận”, NXB Văn học, Hà Nội, 1981).
Như vậy, có thể nói những giá trị tư tưởng nhân quyền của nhân loại là một trong những động lực ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn ái Quốc.
Vào năm 1919, sau khi Chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc (1914-1918), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng với những người Việt Nam yêu nước ở Pháp gửi bản "Yêu sách của nhân dân An Nam" đến Hội nghị nguyên thủ các nước thắng trận họp ở Véc -xây (Pháp). Văn kiện này đưa ra những yêu sách nhân quyền khiêm tốn, trong khuôn khổ chế độ thuộc địa, nhưng rút cuộc những yêu sách đó bị từ chối. Sau sự kiện này, Người rút ra kết luận: Những hứa hẹn về tự do, bình đẳng, bác ái và nhân quyền của chủ nghĩa đế quốc đối với các dân tộc bị áp bức chỉ là một thứ bánh vẽ, không hơn không kém. Muốn có độc lập dân tộc, tự do và hạnh phúc cho nhân dân, phải "đem sức ta mà giải phóng cho ta", phải tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, lật đổ chế độ thực dân, phong kiến và xây dựng một xã hội mới - xã hội do nhân dân làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Lịch sử Việt Nam đã chỉ ra rằng, QCN ở nước ta chỉ ra đời từ khi nhân dân ta giành được độc lập dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, quyền công dân và QCN của nhân dân ta đã được trân trọng ghi trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và Hiến pháp 1946 - Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam mới.
Tư tưởng gắn liền độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, chế độ xã hội do nhân dân làm chủ dưới sự lãnh dạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong đó các quyền công dân và QCN được tôn trọng và bảo đảm đã đi vào Cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng, Hiến pháp và hệ thống pháp luật quốc gia xuyên suốt các giai đoạn cách mạng, từ khi dân tộc ta giành được độc lập đến nay. Như vậy là đối với nhân dân Việt Nam, quyền công dân và QCN là do nhân dân ta đấu tranh với các thế lực đế quốc, thực dân và phong kiến mà giành lại được chứ không phải do lòng tốt, sự chia sẻ, ban phát, hoặc “khai hóa” của bất cứ quốc gia nào.
Không phủ nhận rằng hiện nay Việt Nam đang phải đối diện với không ít những vấn đề về quyền con người, như sự phân hóa giàu nghèo có khuynh hướng gia tăng; tình trạng quan liêu, tham nhũng chưa được đẩy lùi; “lợi ích nhóm” đang lấn át lợi ích xã hội; tình trạng người dân chưa được hưởng các hàng hóa, dịch vụ tương xứng với chất lượng và giá cả…, song tôn trọng và bảo đảm quyền con người vẫn thuộc quyền và trách nhiệm của Đảng và Nhà nước ta. Sự áp đặt mô hình dân chủ nhân quyền nào đó từ bên ngoài sẽ không bao giờ được nhân dân ta chấp nhận.
CAO ĐỨC THÁI

Không thể xuyên tạc về quyền của dân trong xây dựng Hiến pháp


QĐND - Với 100% số đại biểu có mặt tán thành, Quốc hội khóa XIII vừa thông qua Nghị quyết về việc lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Nghị quyết đã nhấn mạnh việc lấy ý kiến nhân dân nhằm mục đích phát huy quyền làm chủ, huy động trí tuệ, tâm huyết của nhân dân và tạo sự đồng thuận của nhân dân trong việc xây dựng Hiến pháp để Hiến pháp thể hiện được ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Thế nhưng trên một số diễn đàn vẫn còn có những tiếng nói lạc lõng cho rằng “việc lấy ý kiến nhân dân chỉ là hình thức” và “Đảng Cộng sản Việt Nam đã độc đoán sửa đổi Hiến pháp”…
Tờ trình của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân đóng góp dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định: Sửa đổi Hiến pháp là công việc hệ trọng của quốc gia. Nhân dân có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp. Mục đích của lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 nhằm phát huy quyền làm chủ và tạo sự đồng thuận của nhân dân trong việc xây dựng Hiến pháp để Hiến pháp thể hiện được ý chí, nguyện vọng của nhân dân; Huy động được trí tuệ, tâm huyết của nhân dân tham gia tích cực vào xây dựng dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992; Nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân, cơ quan, tổ chức đối với Hiến pháp và việc thi hành Hiến pháp.
Nội dung lấy ý kiến nhân dân là toàn bộ nội dung của dự thảo sửa đổi Hiến pháp, bao gồm: Lời nói đầu; chế độ chính trị; quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường; bảo vệ Tổ quốc; tổ chức bộ máy nhà nước; hiệu lực của Hiến pháp và quy trình sửa đổi Hiến pháp; kỹ thuật trình bày các quy định của Hiến pháp.
Việc lấy ý kiến nhân dân được thực hiện thông qua nhiều hình thức như góp ý trực tiếp hoặc bằng văn bản gửi đến các cơ quan, tổ chức; tổ chức các hội nghị, hội thảo, tọa đàm; phản ánh trên các phương tiện thông tin đại chúng và các hình thức phù hợp khác.
Theo kế hoạch ban đầu của Ủy ban thường vụ Quốc hội trình Quốc hội tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XIII, dự kiến thời gian lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là hai tháng (tháng 3 và tháng 4 năm 2013). Tuy nhiên, do mục đích, yêu cầu và nội dung dự thảo sửa đổi Hiến pháp lần này, để có đủ thời gian triển khai sâu rộng việc lấy ý kiến trong các tầng lớp nhân dân, bảo đảm để việc lấy ý kiến nhân dân thực sự chất lượng, hiệu quả, tránh hình thức, tại kỳ họp thứ 4 vừa qua, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã đề nghị Quốc hội và được Quốc hội nhất trí cao cho phép tổ chức lấy ý kiến nhân dân trong thời gian 3 tháng, bắt đầu từ ngày 2 tháng 1 năm 2013 và kết thúc vào ngày 31 tháng 3 năm 2013.
Trước đó, tại Hội nghị lần thứ hai, Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa XI) đã thảo luận, thống nhất cao về quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, các định hướng lớn, phương châm và phương pháp tiến hành; xác định việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992. Thông báo của Hội nghị khẳng định: “Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp là công việc hệ trọng cần được tiến hành chặt chẽ, khoa học, dưới sự lãnh đạo của Đảng; động viên sự tham gia của các chuyên gia, nhà khoa học và lấy ý kiến rộng rãi của các tầng lớp nhân dân”.
Như vậy, cả Đảng Cộng sản Việt Nam và Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều đánh giá cao vai trò đặc biệt quan trọng của nhân dân trong việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp. Thực tế trong lịch sử lập hiến của nước ta, việc xây dựng, ban hành Hiến pháp năm 1959, năm 1980, năm 1992 và sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 (vào năm 2001) đều tiến hành tổ chức lấy ý kiến nhân dân. Các ý kiến tâm huyết của nhân dân đều được Ban soạn thảo tiếp thu, đưa vào dự thảo.
Việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 được kế thừa kinh nghiệm xây dựng các bản Hiến pháp trước đây, trong đó có kinh nghiệm quan trọng nhất là phải phát huy đầy đủ và sâu sắc dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tờ trình của Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trình Quốc hội cho rằng: “Để việc lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp bảo đảm chất lượng, hiệu quả, thực sự là đợt sinh hoạt chính trị - pháp lý quan trọng, rộng lớn trong nhân dân và cả hệ thống chính trị, Ủy ban đề nghị Quốc hội ban hành Nghị quyết về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân về dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992”.
Thực tế đã rõ ràng như vậy mà vẫn còn có ý kiến lạc lõng trên một số diễn đàn cho rằng, “việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 là độc quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam”, “Đảng Cộng sản Việt Nam đã làm thay công việc của Quốc hội”…
Ai cũng biết rằng, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp là một việc làm bình thường, đúng pháp luật, phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới của đất nước. Thực tiễn cho thấy, nước ta đã trải qua 4 lần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp và cả 4 lần đều thu được kết quả tốt đẹp góp phần đưa đất nước tiến lên theo đúng mục tiêu đặt ra là nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nghị quyết của Quốc hội về việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân đóng góp dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định: Tổ chức lấy ý kiến nhân dân với các hình thức thích hợp, tạo điều kiện thuận lợi để các tầng lớp nhân dân cả ở trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài tham gia vào việc xây dựng Hiến pháp. Việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân phải được tiến hành dân chủ, khoa học, công khai; bảo đảm tiến độ, chất lượng, thiết thực và tiết kiệm. Ý kiến đóng góp của nhân dân phải được tập hợp, tổng hợp đầy đủ, chính xác; phải được nghiên cứu tiếp thu nghiêm túc để hoàn thiện, nâng cao chất lượng dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Nâng cao trách nhiệm của các cơ quan thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia đóng góp ý kiến; phản ánh trung thực, kịp thời ý kiến tham gia của nhân dân.
Việc sửa đổi bổ sung Hiến pháp là công việc nội bộ của Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nhân dân Việt Nam, Hiến pháp và các văn bản pháp luật của Việt Nam luôn tôn trọng luật pháp quốc tế, tôn trọng chủ quyền và biên giới quốc gia của các nước, tôn trọng quyền tự quyết của các dân tộc, không can thiệp vào công việc nội bộ các nước, đồng thời góp phần xây dựng và bảo vệ nền hòa bình của khu vực và thế giới.
Nhân dân Việt Nam hiểu và tôn trọng những thành quả mà Đảng, Bác Hồ và toàn thể nhân dân đã giành được từ trong khổ đau lầm than và nô lệ. Chúng ta quyết không chấp nhận những kẻ cố tình quay lưng lại với con đường cách mạng Việt Nam, cố tình xuyên tạc, nói xấu và đi ngược lại lợi ích của dân tộc và của nhân dân Việt Nam trong tiến trình bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.
Tại kỳ họp Quốc hội vừa qua, nhiều đại biểu Quốc hội đã đề nghị để việc lấy ý kiến nhân dân vào dự thảo Hiến pháp mới không bị lợi dụng, xuyên tạc, cần có quy định cấm về hành vi xuyên tạc, bôi xấu trong việc lấy ý kiến. Mọi ý kiến của nhân dân phải được tiếp thu tối đa, chỗ nào tiếp thu cần nói rõ, chỗ nào không tiếp thu cũng cần giải thích rõ để nhân dân hiểu.
ĐỖ PHÚ THỌ

Ông Phil toan tính điều gì?


QĐND - Ngày 21-11, Tòa án nhân dân Tối cao mở phiên tòa phúc thẩm và đã tuyên y án sơ thẩm (6 năm tù) đối với Đinh Đăng Định về tội “tuyên truyền chống Nhà nước...” theo Điều 88 Bộ luật Hình sự. Ngay sau khi phiên phúc thẩm kết thúc, ông Phil Robertson, Phó giám đốc khu vực châu Á của tổ chức Theo dõi nhân quyền ở Mỹ đã lên tiếng rằng “Việc truy tố như thế đã làm dấy lên những quan ngại cơ bản về ý định của Việt Nam đối với quyền tự do bày tỏ trên internet”. Trong một bản thông cáo tung lên một số trang web phản động ở nước ngoài, ông ta còn lộ rõ quan điểm bênh vực, che chắn cho Đinh Đăng Định.
Hành vi lợi dụng quyền tự do ngôn luận để chống phá Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam của Đinh Đăng Định là rất rõ ràng. Kết quả điều tra cho thấy, Đinh Đăng Định đã ngông cuồng soạn thảo, tán phát nhiều tài liệu chống đối các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; câu kết, móc nối với các phần tử, tổ chức phản động trong và ngoài nước để hoạt động chống phá Nhà nước Việt Nam. Núp dưới bí danh “Văn Nguyễn”, Định đã soạn thảo, phát tán nhiều tài liệu có nội dung phản động. Định đã liên lạc, câu kết với Nguyễn Trung Lĩnh (ở Hà Nội) để thành lập ra cái gọi là “Đảng tự do dân chủ ở Việt Nam”. Ngoài ra Định còn tham gia nhiều diễn đàn, trả lời phỏng vấn các cơ quan báo chí phản động của tổ chức khủng bố Việt Tân ở nước ngoài với nội dung chống đối Đảng, Nhà nước... Định đã sản xuất, tàng trữ và lưu hành nhiều tài liệu có nội dung nói xấu, xuyên tạc thân thế sự nghiệp Chủ tịch Hồ Chí Minh; tạo điều kiện để các tổ chức phản động ở nước ngoài xuyên tạc, bóp méo sự thật chống phá Việt Nam. Qua kiểm tra, cơ quan chức năng phát hiện trong máy tính của Định có chứa 19 bộ tài liệu, với 195 trang mang nhiều nội dung xuyên tạc thân thế, sự nghiệp của lãnh tụ, chống lại đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Những tài liệu đó đã được Định cấu kết với các phần tử phản động ngoài nước tung lên mạng...
Mọi sự rõ như ban ngày, thế nhưng trong con mắt của ông Robertson, Định chỉ là “nhà chính trị ôn hòa”, chỉ “thực hiện quyền tự do ngôn luận”, “bày tỏ quan điểm cá nhân”,… chứ không phạm tội “tuyên truyền chống Nhà nước Việt Nam”. Ông Robertson nói trong thông cáo rằng: “Lẽ ra ông không thể bị bắt bởi vì tất cả những gì ông làm là thực hiện quyền cơ bản tự do bày tỏ ý kiến…”. Phát biểu của ông Robertson cho thấy rõ cái nhìn thiển cận, phiến diện về Công ước quốc tế và luật pháp Việt Nam. Điều 19 Tuyên ngôn Quốc tế về nhân quyền khẳng định: “Mọi người đều có quyền tự do ngôn luận và bày tỏ quan điểm… và bày tỏ qua mọi phương tiện truyền thông”. Tuy nhiên, tại Điều 29 của chính văn bản này cũng khẳng định: “Trong việc hành xử nhân quyền và thụ hưởng tự do, mọi người phải chịu những hạn chế do luật định… nhằm thỏa mãn những đòi hỏi chính đáng về luân lý, trật tự công cộng và nền an sinh chung”. Tổng thư ký Liên hợp quốc Ban Ki moon cũng chỉ rõ rằng: “Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí chỉ được bảo vệ khi nó được dùng vào các mục đích công lý và phục vụ cộng đồng”. Không chỉ ở Việt Nam mà mọi quốc gia trên thế giới đều tôn trọng quyền tự do dân chủ của công dân trong khuôn khổ luật pháp. Ví như Điều 18 Hiến pháp Cộng hòa Liên bang Đức ghi rõ: “Ai lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, đặc biệt là tự do báo chí, tự do tuyên truyền… làm công cụ chống lại trật tự của xã hội tự do dân chủ sẽ bị tước bỏ quyền công dân”... Rõ ràng hành vi của Định vừa trái với Công ước quốc tế, vừa vi phạm pháp luật Việt Nam. Cũng như nhiều nước khác trên thế giới, Việt Nam công nhận, bảo đảm việc thực thi quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí. Những hành vi lợi dụng các quyền này mà vi phạm pháp luật thì không chỉ Việt Nam mà bất kỳ quốc gia nào trên thế giới đều không thể chấp nhận.
Vậy tại sao ông Phil Robertson lại bảo vệ Đinh Đăng Định, ông ta đang toan tính điều gì? Dư luận chẳng lạ gì tâm địa của ông và cái gọi là tổ chức Theo dõi nhân quyền. Lâu nay, tổ chức này ở Mỹ và một số trang mạng có quan điểm chống Việt Nam ở nước ngoài thường lợi dụng những vụ việc tương tự để tuyên truyền xuyên tạc, gây sức ép đòi Việt Nam thay đổi Điều 88-Bộ luật Hình sự quy định về tội danh “tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam”. Rõ ràng ông Phil Robertson đang đội lốt “theo dõi nhân quyền” để can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Việt Nam.
KIM NGỌC

Làm chủ mạng xã hội để tập hợp và giáo dục thanh niên


QĐND - Tuần trước, đóng góp vào Dự thảo văn kiện Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ X, Phó chủ tịch Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam Nguyễn Quang Thông đã đưa ra con số, ở Việt Nam hiện có 5, 43 triệu người dùng facebook, đa số nằm trong độ tuổi từ 18  - 34… Dùng mạng xã hội đã trở thành nhu cầu thực sự của giới trẻ nhưng mạng xã hội lại phát triển tự phát, thiếu định hướng và nguy cơ “Diễn biến hòa bình” tác động đối với giới trẻ từ đây cũng rất lớn. Các Mác từng nói: Vũ khí của sự phê phán không thể thay thế được sự phê phán bằng vũ khí. Đã đến lúc, cuộc đấu tranh phòng chống “Diễn biến hòa bình” trên internet cần có những lực lượng tiến bộ tiên phong để tập hợp, định hướng giới trẻ…
Những “đốm sáng” tự phát
Gần 50.000 thành viên yêu thích (like), khoảng 10.000 người thường xuyên trao đổi bàn luận hằng ngày, hàng trăm tới hàng nghìn bình luận sau mỗi bài viết. Đó là con số mà trang facebook mang tên “Hội những người ghét bọn phản động” đạt được trên internet sau 2 năm hoạt động. Với nội dung phần lớn các bài viết phê phán, vạch trần thủ đoạn của các thế lực phản động, chống cộng bằng một ngôn ngữ khá “xì -tin” cùng những hình ảnh vui nhộn, dẫn nguồn nhiều bài viết phù hợp với giới trẻ trên báo chí, trang facebook này đã thu hút, tập hợp được một lực lượng không nhỏ thanh niên. Loại trừ một số hạt sạn, một số bình luận tiêu cực, nhìn một cách tổng thể, đây là một trang có nhiều điều hữu ích cho giới trẻ. Trang này đã đưa ra các vấn đề nóng và có tính tương tác cao giữa các thành viên, phản bác nhiều luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch cũng như các trang mạng chống Đảng, Nhà nước. Tuy nhiên, trang này do ai lập ra, có thực sự đáng tin cậy không thì vẫn thật khó thẩm định vì nó vẫn thuộc về “thế giới ảo”, không thuộc một đoàn thể, tổ chức chính thống để tập hợp giới trẻ.
Một câu chuyện mang tính thời sự hơn vừa xảy ra trên một trang mạng xã hội khác. Trong thời điểm toàn Đảng ta đang đẩy mạnh triển khai Nghị quyết Trung ương 4 về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, có không ít trang mạng xấu độc nêu quan điểm tiêu cực, cho rằng đó chỉ là một cuộc “ném đá ao bèo” khiến giới trẻ có thể dao động thì một mạng xã hội của giới trẻ đã đăng lại bài “Đọc bản đảng viên tự kiểm điểm trước đây, suy nghĩ về đảng viên tự kiểm điểm hiện nay” của Tạp chí Cộng sản. Đó là bản tự kiểm điểm định kỳ trong đợt “chỉnh cán chỉnh cơ” của ông Nguyễn Sinh Chưng  - Trưởng ty Thông tin Tuyên truyền tỉnh Quảng Bình. Trong suốt 6 trang viết kiểm điểm, ông Chưng chỉ nêu rất ít ưu điểm và tự phê phán rất nghiêm khắc những khuyết điểm của bản thân mình ở cả 4 phần của bản tự kiểm điểm như: “Một dịp tôi bị thương nhẹ, nhân đó tôi cho cơ quan chuyển về chiến khu vùng miền núi". ông tự phê phán: “Đó là vì động cơ sợ chết, sợ bị thương. Đó là tư tưởng khiếp sợ địch. Tôi đã không nghĩ đến nhân dân đang kiên trì bám trụ dưới tầm bom đạn của giặc…”. “Tôi đã lấy lý do công tác, lấy lý do bị thương để về sống với vợ con gần 2 tháng. Những lần sống thiếu thốn vất vả quá, vợ tôi khuyên tôi về đầu hàng giặc... Có lần tôi đã định cắt đứt tình vợ chồng, thả vợ về với địch”. Ông tự phê phán: “…7 năm trường kỳ kháng chiến, được vợ chăm sóc đùm bọc nhưng do chỉ một câu nói của vợ thiếu suy nghĩ mà tôi đã vội cho rằng vợ tôi là người phản động. Nếu vợ đã nghe lời tôi thì địch sẽ dựa vào đó để phản tuyên truyền và phá vỡ các cơ sở của ta. Tôi đã thiếu phương pháp tuyên truyền thuyết phục đối với gia đình …”. Sau khi bài báo thú vị trên đăng lên mạng xã hội, đã có tới hàng nghìn lượt đọc và rất nhiều ý kiến bạn đọc sẻ chia, tán thành, tin tưởng hơn vào công cuộc chỉnh đốn Đảng nếu như Đảng ta tiếp tục có cách làm nghiêm túc như đã làm năm xưa. Điều này minh chứng sự lan tỏa, kết nối của mạng xã hội, giúp bài báo thu hút giới trẻ, đến với giới trẻ nhanh hơn so với nếu chỉ dừng lại ở việc đăng trên tạp chí
Sau hơn một năm hoạt động, trang “Hội những người yêu màu Tổ quốc” cũng thu hút được gần 3000 thành viên yêu thích. Chỉ bằng một lời kêu gọi cùng nhau thể hiện tình yêu Tổ quốc bằng cách “nhuộm đỏ” blog, facebook nhân các ngày lễ kỷ niệm và lịch sử, các dịp Tết đến Xuân về, nhiều trang mạng hiện nay đã trở thành nơi chia sẻ tình yêu Tổ quốc trong sáng, từ những điều tưởng như đơn giản mà không giản đơn.
Vậy mà thật đáng tiếc, các tổ chức thanh niên nhiều năm qua gần như “bỏ trống” một trận địa quan trọng trên mặt trận tư tưởng này. Không có nhiều tổ chức Đoàn sử dụng internet, mạng xã hội như một công cụ hữu hiệu để tập hợp thanh niên và tổ chức các phong trào hành động cách mạng.
Nguy cơ tiềm ẩn
Trong khi đó, các thế lực thù địch lại khá “nhanh chân” trong việc lôi kéo giới trẻ thông qua internet, mạng xã hội. Số liệu từ một cuộc  hội thảo “Phòng chống tự diễn biến, tự chuyển hóa trong tình hình hiện nay” tổ chức gần đây cho thấy: Lợi dụng tâm lý thích khám phá cái mới, sự non nớt, bồng bột, thiếu kinh nghiệm của giới trẻ, các thế lực thù địch luôn tìm cách lôi kéo, chuyển hóa thanh niên làm “ngòi nổ”, là “lực lượng xung kích” trong các hoạt động chống phá chế độ. Từ năm 2007 đến nay, thông qua các trang web, cơ quan chức năng đã phát hiện hàng chục vụ kích động sinh viên biểu tình…
Trong bối cảnh còn rất thiếu những “kênh” hữu hiệu để tập hợp, vận động, giáo dục thanh thiếu niên trên internet thì trên mạng lại tràn lan các trang có quan điểm “tốt xấu, thật giả lẫn lộn” khiến giới trẻ rất dễ “lạc lối trên mạng”. Xin nêu ví dụ về việc nhận diện các trang mang tên “yêu nước”, “chống phản động”, “ghét bọn phản động” hiện nay. Có trang tiếng là “chống phản động” nhưng nội dung lại rất phản động, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước; bôi nhọ lãnh tụ. Có trang mang danh “yêu nước” nhưng nội dung lại kích động hận thù. Có trang lập lờ giữa bài có nội dung tốt với bài có nội dung xấu khiến giới trẻ sa vào ma trận thông tin, khó phân biệt nổi “chính -tà”.
Bàn về vấn đề này, nhiều ý kiến cho rằng, các phong trào thanh niên gần đây ít có sự tương tác với thanh niên bằng những công cụ hiện đại. Môi trường mạng xã hội luôn ẩn chứa nhiều giá trị ảo, nếu bỏ trống hoặc định hướng không tốt sẽ khiến giới trẻ quá sa đà, chạy theo giá trị ảo mà xa rời cuộc sống thực; thậm chí dễ bị lôi kéo .
Mở những con đường sáng
Không thể phủ nhận vai trò của mạng xã hội trong tập hợp giới trẻ nói chung, tập hợp vào cuộc đấu tranh phòng chống “Diễn biến hòa bình” ngày càng tăng. Nhưng tập hợp như thế nào để internet không trở thành con dao hai lưỡi không phải là điều đơn giản. 
 Trước hết, cần nhận thức rằng, sự phát triển vũ bão của khoa học công nghệ luôn tạo ra những công cụ mới, phương thức mới, cộng đồng mới trên internet. Vài năm trước, trào lưu “chơi blog” từng làm mưa làm gió trong việc thu hút giới trẻ nhưng giờ đây, câu chuyện blog đã lắng xuống nhường chỗ cho facebook. Những văn bản pháp lý về quản lý blog còn chưa hoàn thiện để thực thi thì câu chuyện xung quanh hoạt động của facebook ở Việt Nam đã làm nóng cộng đồng mạng suốt mấy tuần qua. Một khảo sát  trên Báo điện tử Giáo dục Việt Nam về việc sử dụng facebook chỉ trong một tuần đã thu hút hơn 13.000 người tham gia, đủ thấy nhu cầu sử dụng mạng xã hội của giới trẻ cao như thế nào. Cho nên, cùng với việc tăng cường quản lý mạng xã hội, hạn chế thấp nhất những tác động tiêu cực của nó, thì đòi hỏi cũng phải biết sống chung với nó, khai thác những ưu việt của nó, nhất là trong việc tập hợp giới trẻ, đang là một đòi hỏi bức thiết hiện nay.
Đã đến lúc, các tổ chức, đoàn thể liên quan đến thanh, thiếu niên, sinh viên, học sinh cần có nhiều hơn những kênh tập hợp giới trẻ trên internet, bằng những trang chính thống, có tổ chức, có nội dung và hình thức hấp dẫn, thu hút. Gần đây, đã có nhiều kiến nghị dự thảo văn kiện Đại hội Đoàn toàn quốc cần bổ sung, tăng cường các hình thức kết nối, tương tác thân thiện trên các mạng xã hội. Kinh nghiệm từ Tỉnh đoàn Bắc Giang gần đây có thể gợi mở một hướng đi phù hợp. Anh Mai Sơn, Bí thư Tỉnh đoàn Bắc Giang cho biết: Nhiều mô hình hay về “Tập hợp thanh niên trên internet” được xây dựng và hoạt động hiệu quả, nhiều câu lạc bộ, diễn đàn trên internet đượcthànhlập như: tinhdoanbg.gov.vn;bacgiangonline.net;bacgiangview;xaydungbg.com; svbacgiang.net; tusononline.net; phuongson.tk; thphchuyenbacgiang.edu.vn… thu hút được đông đảo thanh niên trong tỉnh Bắc Giang và thanh niên Bắc Giang đang làm việc, học tập trên mọi miền Tổ quốc. Nhiều phong trào như: “Tiếp bước chân em đến trường, “Em tôi đi thi”; "Sắc xanh trên quê hương Bắc Giang", “Thắp nến tri ân”, “áo ấm tặng Bà”, “Mùa đông ấm trên vùng cao Lục Ngạn”… đều khởi phát từ các diễn đàn internet, sau đó trở thành hoạt động thực tiễn sôi nổi.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: Một tấm gương sống có giá trị hơn hàng vạn bài diễn văn tuyên truyền. Trong tập hợp, giáo dục thanh niên trên internet nói chung, đấu tranh chống “Diễn biến hòa bình” trên internet nói riêng hiện nay cũng vậy. Cần xây dựng, chọn ra các tổ chức, cá nhân tiêu biểu làm công cụ để định hướng, chia sẻ, dẫn dắt, giáo dục thanh niên thông qua mạng xã hội, tăng tính gần gũi, thân thiện của công tác giáo dục của Đoàn với các bạn trẻ. Hằng năm, chúng ta đã tổ chức các cuộc thi tìm hiểu chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xây dựng nhiều Câu lạc bộ bổ ích. Những hoạt động này, những câu lạc bộ này hoàn toàn có thể được tổ chức trên internet. Đặc biệt, những câu lạc bộ, những hạt nhân xung kích điển hình trong đấu tranh với các quan điểm sai trái, phản động do tổ chức Đoàn khởi xướng và tổ chức chặt chẽ chắc chắn sẽ thu hút giới trẻ và hoạt động hiệu quả hơn so với những trang tự phát hiện nay. 
Một công việc rất cần làm nữa là phải có chiến lược đầu tư cho được hệ thống mạng xã hội của Việt Nam, do chúng ta lập ra và quản lý. Còn nhớ, năm 2009, mạng xã hội zingme từng tuyên bố đã phát triển vượt bậc và trở thành mạng xã hội phổ biến nhất Việt Nam. Vậy mà chỉ sau 2 năm, từ năm 2011 đến nay, mạng này đã phải “ngậm ngùi” nhường chỗ cho facebook. Không thể tập hợp, giáo dục giới trẻ hiệu quả với công cụ “mượn” của “người ngoài”. Hiện nay, các mạng xã hội ở Việt Nam có không ít mạng rất tiện ích sử dụng nhưng do thiếu chiến lược, con đường tiếp cận nên người dùng vẫn ưa dùng “hàng ngoại” hơn. Trao đổi với phóng viên TS Phạm Hùng Phong, Tổng giám đốc Công ty VietNet, từ bài học thành công khi xây dựng hệ thống quán cà phê  - internet đầu tiên ở Hà Nội trước đây cho thấy: Cần gắn các mạng xã hội Việt Nam với các hoạt động chính thống của các đoàn thể xã hội. Khi giới trẻ sử dụng mạng xã hội nội địa thì việc quản lý, ngăn chặn những nhân tố xấu sẽ thuận lợi hơn rất nhiều; đặc biệt là việc phát hiện, xử lý những đối tượng cực đoan, thực hiện âm mưu “Diễn biến hòa bình”. ông Phong cũng cảnh báo nguy cơ một vài mạng xã hội Việt Nam bị đối tác nước ngoài mua lại sẽ tiếp tục gia tăng những “lỗ hổng” đáng tiếc.
NGUYỄN VĂN MINH

"Thừa nước đục thả câu"


QĐND - Sau khi Nguyễn Phương Uyên, sinh viên Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm TP Hồ Chí Minh, bị cơ quan an ninh bắt giữ để điều tra về hành vi tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, một số hội, đoàn, tổ chức người Việt lưu vong mượn danh, ngụy tạo chứng cứ đã ngay lập tức tung lên mạng những bức thư kiến nghị của tập thể gửi Chủ tịch nước và Tâm thư gửi những nhân sĩ, trí thức ủng hộ cho Nguyễn Phương Uyên. Bên cạnh đó, trên một số phương tiện thông tin truyền thông ở nước ngoài cũng rộ lên những thông tin xuyên tạc trắng trợn vụ việc này.
Phòng Công tác Chính trị - Học sinh sinh viên, Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm TP Hồ Chí Minh khẳng định: Nguyễn Phương Uyên chỉ là sinh viên bình thường nhưng họ đã khoác cho nhân vật này những cái danh như "cán bộ đoàn trường", "phát thanh viên của nhà trường"... Hành vi tuyên truyền chống Nhà nước của Nguyễn Phương Uyên là rất rõ ràng. Sau khi bị bắt, Uyên rất ân hận và thành thật nhận tội: “Bản thân tôi nhận thấy việc mình làm đã vi phạm pháp luật Nhà nước Việt Nam, chống lại Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước CHXHCN Việt Nam, giúp cho tổ chức phản động chống Đảng, Nhà nước”, thế nhưng họ lại nói rằng, Uyên chỉ nhận tội "tham gia hoạt động chống đối Trung Quốc". Cùng với đó họ tung ra danh sách 109 sinh viên của trường đã đồng ký đơn gửi lên Chủ tịch nước đòi trả tự do cho Nguyễn Phương Uyên. Thế nhưng cơ quan chức năng của Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm TP Hồ Chí Minh khẳng định: Kiểm tra danh sách 109 sinh viên được cho là đã ký đơn gửi lên Chủ tịch nước thì thấy mã số thẻ của những sinh viên này mà nhà trường quản lý là không đúng. Các sinh viên có tên trong đơn rất bức xúc trước việc đã có kẻ mạo danh mình để làm bậy, khẳng định họ không hề biết gì về lá đơn và phủ nhận việc ký tên vào lá đơn nói trên...
Thâm độc, nham hiểm hơn họ còn phỏng vấn một số người thân của Phương Uyên rồi tự đưa ra nhận xét mơ hồ rằng: Có thể đã có một kịch bản từ phía cơ quan điều tra và chính quyền được xây dựng nên để chống lại Phương Uyên cũng như để "đàn áp học sinh, sinh viên" ngăn cản họ lên tiếng vì lòng yêu nước... Để rồi từ đó họ tiếp tục kêu gọi sinh viên hãy lên tiếng bảo vệ Phương Uyên.
Những thủ đoạn trên của một số tổ chức phản động, phần tử thiếu thiện chí với Việt Nam thực chất là trò "thừa nước đục thả câu" để hòng tiếp tục lừa bịp, lôi kéo những người nhẹ dạ, cả tin. Sự thật về vụ việc vi phạm pháp luật của sinh viên Nguyễn Phương Uyên đã được các cơ quan chức năng làm rõ. Sự mơ hồ về chính trị, ngộ nhận về lòng yêu nước, cách suy nghĩ và lối sống thực dụng đã khiến Nguyễn Phương Uyên mắc sai lầm và Phương Uyên sẽ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình trước pháp luật. Từ sự việc của Nguyễn Phương Uyên, mỗi người chúng ta hãy cảnh giác để không làm tổn thương lòng yêu nước chân chính, không để kẻ xấu lợi dụng, làm mất đi giá trị đích thực của bản thân trước gia đình, cộng đồng và Tổ quốc.
KIM NGỌC