Nhận diện hoạt động lợi dụng hội nhập kinh tế quốc tế để chống phá Việt Nam

26/11/2018 05:00

Những năm qua, nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch sử dụng mọi phương thức, thủ đoạn hoạt động; trong đó, triệt để lợi dụng hội nhập kinh tế quốc tế (HNKTQT) nhằm xâm phạm an ninh quốc gia, tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội, đưa Việt Nam đi theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản.

Họ coi đó là một trong những nội dung quan trọng để tạo sức ép từ bên ngoài, kết hợp với kích động các hoạt động chống phá từ bên trong nước ta.
Nhận thức rõ trong thời đại ngày nay, việc hội nhập quốc tế là một tất yếu khách quan, do đó Đảng, Nhà nước Việt Nam đã thực hiện nhiều giải pháp trong lãnh đạo, chỉ đạo để ngày càng phát triển, mở rộng các mối quan hệ quốc tế, trong đó có HNKTQT. Thực hiện chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước về HNKTQT, những năm qua, tiến trình này của Việt Nam đã, đang đạt nhiều kết quả hết sức to lớn. Tính đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 185 nước trên thế giới và cũng là nước ASEAN duy nhất có quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, các thành viên nhóm G7 và 13/20 nước G20. Việt Nam đã ký kết hơn 90 hiệp định thương mại song phương, gần 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 hiệp định chống đánh thuế hai lần và nhiều hiệp định hợp tác về văn hóa song phương với các nước và các tổ chức quốc tế. Nhờ HNKTQT, những năm qua, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ cùng với các lĩnh vực khác của xã hội. Năm 2016, GDP Việt Nam đạt 203 tỷ USD, gấp 3 lần so với năm 2006; GDP năm 2017 đạt hơn 220 tỷ USD, tăng cao nhất kể từ 2011 trở lại đây và tăng 6,81% so với năm 2016. Năm 2015, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam tăng 4 lần so với năm 2006, lên 11,8 tỷ USD. Năm 2017, FDI vào Việt Nam đạt gần 36 tỷ USD, cao nhất trong vòng 10 năm trở lại đây, tăng 42,3% so với cùng kỳ năm 2016. Riêng 10 tháng năm 2018, cả nước có 2.458 dự án đầu tư nước ngoài mới được cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư; tổng vốn đăng ký cấp mới, tăng thêm và góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài là 27,9 tỷ USD, bằng 98,8% so với cùng kỳ năm 2017. Năm 2017, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước đạt 425,12 tỷ USD, tăng 21% (tương ứng tăng 73,74 tỷ USD) so với năm 2016, là mức tăng kỷ lục trong vòng 10 năm trở lại đây. Chỉ trong 10 tháng năm 2018, tổng trị giá xuất nhập khẩu đạt 396,85 tỷ USD, tăng 13,8%, tương ứng tăng 48,12 tỷ USD về số tuyệt đối so với cùng kỳ năm 2017. Theo Báo cáo Môi trường kinh doanh năm 2018 của Ngân hàng thế giới mới công bố, dự báo Việt Nam đứng thứ 68/190 nền kinh tế, tăng 14 bậc so với năm 2017.
Ảnh minh họa / TTXVN.
Thế nhưng trong sự thành công của Việt Nam về HNKTQT, các thế lực thù địch cũng không ngừng lợi dụng lĩnh vực này để nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” với Việt Nam. Những năm qua, các thế lực thù địch đã ráo riết triển khai một số hoạt động cơ bản như sau:
Một là, thúc đẩy việc tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng ngày càng phụ thuộc vào bên ngoài để từng bước chi phối nền kinh tế Việt Nam; thông qua đó nhằm làm cho Nhà nước từng bước mất dần khả năng kiểm soát, điều hành nền kinh tế đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Với phương châm: “Lấy kinh tế để chuyển hóa chính trị”, các thế lực thù địch âm mưu từng bước xóa bỏ chế độ XHCN một cách từ từ, êm ả, không gây ra chấn động lớn trong xã hội mà khởi nguồn là từ những sai lầm trong HNKTQT ở Việt Nam.  
Hai là, họ lợi dụng HNKTQT và hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực, nhất là thông qua hợp tác với các cơ quan của Đảng, Nhà nước Việt Nam để xâm nhập nội bộ, mua chuộc, lôi kéo những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, thu thập tin tức bí mật nhà nước để chống phá Việt Nam. Họ đặc biệt triệt để lợi dụng sự phát triển của khoa học và công nghệ hiện đại, các phương tiện công nghệ cao để thu thập tin, đánh cắp bí mật nhà nước, lấy cắp các phát minh, sáng chế của Việt Nam, gây ra những thiệt hại cho nền kinh tế Việt Nam.  
Ba là, triệt để thông qua các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp quốc tế hợp tác, làm ăn với Việt Nam để đưa ra các yêu cầu mang tính áp đặt phi lý. Họ còn tìm cách gây ra “khủng hoảng”, những tác động tiêu cực từ bên ngoài làm suy yếu nền kinh tế, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế Việt Nam, ảnh hưởng đến phúc lợi nhân dân và sức mạnh của Nhà nước.  
Bốn là, họ tìm cách tác động tới các chính khách cực đoan trong quốc hội một số nước phương Tây, đòi gắn vấn đề viện trợ, hợp tác kinh tế với điều kiện cải cách chính trị, pháp luật theo kiểu phương Tây (như yêu cầu Nhà nước xóa bỏ một số điều về an ninh quốc gia trong Bộ luật Hình sự hiện hành…); đòi thay Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh bằng hệ tư tưởng dân chủ tư sản; đòi hỏi Nhà nước Việt Nam phải thúc đẩy tự do báo chí, tự do ngôn luận theo tiêu chí phương Tây, đòi thả các đối tượng chống đối vi phạm pháp luật... nhằm tạo nên những tiền đề gây mất ổn định chính trị, xã hội ngay từ bên trong đất nước.
Cũng cần phải nghiêm túc nhìn nhận rằng, việc HNKTQT của Việt Nam vẫn tồn tại những hạn chế nhất định, đó là: Cơ cấu tăng trưởng kinh tế Việt Nam chưa thay đổi căn bản; chất lượng tăng trưởng vẫn còn thấp và chưa thực sự ổn định, bền vững. Quá trình HNKTQT chưa gắn kết chặt chẽ với quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu bảo đảm quốc phòng, an ninh. Việt Nam chưa có kế hoạch tổng thể và lộ trình hợp lý về HNKTQT; chưa có chiến lược rõ ràng khi tham gia các FTA. Việc ứng phó với các biến động và xử lý những tác động xấu do nền kinh tế thế giới gây ra còn bị động, lúng túng và chưa đồng bộ; hệ thống luật pháp Việt Nam theo yêu cầu HNKTQT chưa hoàn thiện và đầy đủ. Ở một số địa phương, các vụ việc phức tạp xảy ra liên quan đến khiếu nại, tố cáo… chậm được giải quyết, tiềm ẩn những nguy cơ gây mất ổn định chính trị-xã hội. Sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo diễn ra ngày càng gay gắt. Còn tồn tại tệ nạn tham nhũng, tiêu cực trong xây dựng, triển khai các dự án, đề án hợp tác kinh tế quốc tế… Đó là những yếu tố để kẻ địch triệt để lợi dụng hòng thúc đẩy âm mưu “diễn biến hòa bình” đối với Việt Nam.
Nhằm tận dụng những cơ hội, thuận lợi trong hội nhập quốc tế để xây dựng, phát triển đất nước và phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn hành vi lợi dụng HNKTQT để chống phá Việt Nam, chúng ta cần thực hiện tốt một số giải pháp trọng tâm như sau:
Một là, công tác phòng, chống hoạt động lợi dụng HNKTQT để chống phá nước ta luôn phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện, tuyệt đối của Đảng; sự quản lý, điều hành của Chính phủ nhằm phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong triển khai công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về tính tất yếu khách quan của việc HNKTQT; âm mưu, hoạt động lợi dụng vấn đề này để “diễn biến hòa bình” đối với nước ta của các thế lực thù địch; vị trí, vai trò công tác đấu tranh chống hoạt động lợi dụng HNKTQT để huy động sự tham gia của cả xã hội trong công tác này.
Hai là, bảo đảm thực hiện hiệu quả quá trình HNKTQT trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với xây dựng và bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh quốc gia; giữ vững ổn định chính trị-xã hội, kiên định lợi ích quốc gia, dân tộc. Xác định rõ hội nhập là quá trình vừa có nhiều cơ hội, vừa gặp nhiều thách thức, vừa hợp tác, vừa đấu tranh; do vậy, cần chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu. Tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, xây dựng nền kinh tế có khả năng tự chủ cao, ứng phó được với những biến động kinh tế quốc tế, coi đây là giải pháp có tính quyết định để nâng cao nội lực nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức trong HNKTQT. 
Ba là, thường xuyên nắm chắc tình hình hoạt động của các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp nước ngoài hợp tác, làm ăn với Việt Nam để chủ động phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn kịp thời âm mưu, hoạt động lợi dụng hợp tác để xâm phạm an ninh quốc gia của Việt Nam. Cần tập trung nắm tình hình hoạt động của các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp nước ngoài, các chương trình, dự án đầu tư có yếu tố nước ngoài triển khai ở Việt Nam… nhằm kịp thời phát hiện những vấn đề phức tạp liên quan đến an ninh chính trị, trật tự xã hội để phòng, chống hiệu quả. Chủ động phát hiện đấu tranh, ngăn chặn, xử lý nghiêm những trường hợp làm lộ, lọt bí mật nhà nước, cung cấp bí mật nhà nước cho các tổ chức nước ngoài, hoặc bị kẻ địch mua chuộc, lôi kéo nhằm phá hoại kinh tế nước ta.
Bốn là, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ làm việc ở các cơ quan, đơn vị thường xuyên tiếp xúc, trao đổi, hợp tác với các tập đoàn kinh tế nước ngoài, bảo đảm cho đội ngũ này luôn có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, vừa “hồng”, vừa “chuyên”, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu chủ động và tích cực HNKTQT; có khả năng nắm bắt và tận dụng cơ hội lớn, vượt khó khăn, thách thức đối với công tác bảo vệ an ninh quốc gia nước ta trong HNKTQT, phục vụ đắc lực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Năm là, khẩn trương rà soát, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến HNKTQT trên cơ sở tuân thủ các quy luật của kinh tế thị trường và các cam kết hội nhập quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Chú trọng nội luật hóa theo lộ trình phù hợp với những cam kết quốc tế, bảo đảm tranh thủ được thời cơ, thuận lợi, vượt qua các khó khăn, thách thức từ việc tham gia hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm tạo sức mạnh tổng hợp của quốc gia trong HNKTQT, bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, chủ quyền của đất nước ta.   
Những năm tới, các thế lực thù địch vẫn sẽ tiếp tục triệt để lợi dụng HNKTQT để phá hoại thành quả cách mạng và chống phá chế độ xã hội mà Đảng và nhân dân ta đang xây dựng. Với những thành tựu đã đạt được trong HNKTQT, chúng ta có quyền tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng đất nước ta sẽ HNKTQT thành công, góp phần xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, phát triển.
TÂN LONG 

Không thể xuyên tạc, bôi đen hình ảnh đất nước trong đổi mới, hội nhập quốc tế

19/11/2018 05:00

Hơn 30 năm qua kể từ khi Đảng và Nhà nước Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới (từ năm 1986 đến nay), nhìn tổng thể, công cuộc đổi mới của đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam đất nước đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, xã hội-nhất là sau cuộc khủng hoảng, sụp đổ của Liên Xô, các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) Đông Âu (1985-1991). Từ tình trạng một quốc gia kém phát triển, lương thực không đủ… đến nay Việt Nam trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình; sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên: Chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao.

Thế nhưng lợi dụng internet, mạng xã hội (MXH) và những mặt tiêu cực trong xã hội chưa được khắc phục, một số kẻ đã tán phát luận điệu, xuyên tạc bản chất của xã hội XHCN, bôi đen hình ảnh của đất nước Việt Nam. Về tình hình trong nước, họ cường điệu những khó khăn trên lĩnh vực kinh tế, rằng “nền kinh tế Việt Nam đang đứng bên bờ vực thẳm”. Về cuộc đấu tranh chống tham nhũng họ viết: Đó chỉ là “cuộc đấu đá giữa nhóm tham nhũng mới với nhóm tham nhũng cũ”. Về chế độ xã hội họ viết: Ở Việt Nam “các quyền của người, nhất là quyền tự do ngôn luận, quyền “tự do internet, MXH” bị xâm phạm bởi Luật An ninh mạng…".
Tuy nhiên, nhìn từ thực tiễn có thể thấy, từ khi được hoàn toàn giải phóng đến nay, Việt Nam đã trải qua những thời kỳ đầy khó khăn, do cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trong thời kỳ trước đổi mới (1975-1985), dân tộc Việt Nam đã phải đấu tranh với cuộc bao vây cấm vận nghiệt ngã của Mỹ (từ năm 1975 đến năm 1994). Trong thời kỳ này, Mỹ đã cản trở các tổ chức tài chính quốc tế và các nước cho Việt Nam vay tín dụng… Đến năm 1994, Mỹ mới tuyên bố bãi bỏ hoàn toàn cấm vận Việt Nam và bình thường hóa quan hệ với Việt Nam vào tháng 7-1995. Cũng trong thời kỳ 1975-1985, những sai lầm của mô hình xây dựng xã hội theo mô hình chủ nghĩa xã hội (CNXH) kiểu cũ khiến nền kinh tế đất nước trì trệ, đời sống của nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Là một quốc gia nông nghiệp, đất đai phì nhiêu, người dân cần cù, sáng tạo thế nhưng ở nhiều nơi đã xuất hiện tình trạng thiếu đói. Còn nhớ thời kỳ này, trong khi vết thương chiến tranh chưa được hàn gắn, thì dân tộc Việt Nam lại phải tiến hành hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Ảnh minh họa. Nguồn: http://vietnamnet.vn
Bước sang thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến nay), mở đầu là Đại hội VI (năm 1986), dựa trên đổi mới tư duy lý luận-chính trị và kinh tế, Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện đường lối chính sách xây dựng xã hội theo mô hình mới của CNXH. Về chính trị, đó là xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Trong mô hình này, các quyền bình đẳng về dân sự và chính trị được bảo đảm (về phương diện pháp lý). Về kinh tế đó là nền kinh tế thị trường, nhiều thành phần, cạnh tranh bình đẳng… theo định hướng XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Về đối ngoại, Việt Nam thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, với phương châm đa dạng hóa, đa phương hóa; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Như vậy có thể nói, trong mô hình mới của CNXH các quyền bình đẳng về chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội và văn hóa đã được bảo đảm.
Nét đặc sắc trong xây dựng xã hội theo mô hình mới của CHXH, đó là các quyền con người, quyền công dân được bảo đảm bằng pháp luật cũng như trên thực tế. Hiến pháp năm 2013 dành một chương (Chương II) quy định về đầy đủ về “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Những quy định về quyền con người tại chương này hoàn toàn tương thích với các công ước quốc tế về quyền con người, trong đó có những quyền được xem là “nhạy cảm” cũng đã được đưa vào văn kiện này. Thể chế hóa Hiến pháp năm 2013 và nội luật hóa các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã gia nhập, ký kết, Quốc hội Việt Nam vừa qua đã sửa và xây dựng nhiều đạo luật mới. Đó là Luật Báo chí (năm 2016), Luật Tiếp cận thông tin (năm 2013), Luật An ninh mạng (năm 2018)... Các quy định của những bộ luật trên đều nhằm bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự công cộng và quyền con người. Việt Nam hòa mạng internet toàn cầu khá sớm so với nhiều quốc gia trong khu vực-từ ngày 1-12-1997. Theo tổ chức nghiên cứu về MXH quốc tế-Next Web, hiện nay Việt Nam nằm trong “Top 10 quốc gia có nhiều người dùng Facebook nhất thế giới” với 64 triệu người, chiếm 3% tổng số tài khoản Facebook toàn cầu.
Trên lĩnh vực kinh tế, hình ảnh đất nước, cuộc sống của nhân dân đã được nâng cao đáng kể. Triển khai Chương trình 135 về phát triển kinh tế-xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc ít người, miền núi, vùng sâu, vùng xa… cho đến nay các xã, cụm dân cư đã có đủ cơ sở xã hội thiết yếu, như: Điện, đường giao thông, trường học, trạm y tế. Tỷ lệ hộ đói, nghèo giảm nhanh, luôn đạt và vượt mục tiêu đề ra qua các giai đoạn, hoàn thành và vượt mức mục tiêu Thiên niên kỷ về giảm nghèo trước 10 năm… Giai đoạn 1992-1998, tỷ lệ đói nghèo ở Việt Nam bình quân mỗi năm giảm 2-3%. Đến hết năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo của Việt Nam là 9,45%, vượt mục tiêu đề ra là 10%. Chính phủ Việt Nam đã xây dựng Định hướng giảm nghèo giai đoạn 2011-2020 với mục tiêu giảm số hộ nghèo còn 4-5% vào năm 2020. Theo đánh giá của Liên hợp quốc, Việt Nam đã giảm được một nửa tỷ lệ đói nghèo trong hơn một thập kỷ và là một trong những quốc gia đạt tốc độ giảm đói nghèo nhanh nhất thế giới.
Về cuộc đấu tranh chống tham nhũng, có thể nói chưa nhiệm kỳ nào Đảng Cộng sản Việt Nam triển khai một chiến lược bài bản, quy mô như hiện nay. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cuộc đấu tranh này là “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ” và “phải làm đến cùng”; là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Trong quan hệ quốc tế, vị thế quốc tế của Việt Nam được nâng cao vượt bậc. Cho đến nay Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 13 quốc gia; Việt Nam cũng đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Ấn Độ, Nga, Trung Quốc. Với Hoa Kỳ, Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác toàn diện. Trong thời kỳ đổi mới Việt Nam tham gia vào nhiều cơ quan quan trọng của tổ chức quốc tế rộng lớn: (1) Là Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an nhiệm kỳ 2008-2009; (2) thành viên Hội đồng Kinh tế-xã hội nhiệm kỳ 2016-2018; (3) Việt Nam được bầu vào Hội đồng Nhân quyền (nhiệm kỳ 2014-2016)… Ngày 25-5-2018 vừa qua, trong cuộc họp của Nhóm châu Á-Thái Bình Dương tại Liên hợp quốc, các nước trong khu vực đã nhất trí thông qua đề cử Việt Nam là ứng cử viên duy nhất của nhóm vào vị trí Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an (nhiệm kỳ 2020-2021-tại cuộc bầu cử sẽ được tổ chức vào tháng 6-2019).
Là thành viên có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế, Việt Nam đã và đang tham gia vào lực lượng Gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. "Từ năm 2014, Việt Nam đã cử các sĩ quan tham gia các phái bộ gìn giữ hòa bình ở Cộng hòa Trung Phi và ở Nam Sudan. Mới đây, ngày 25-6-2018, Cục Hỗ trợ thực địa Liên hợp quốc đã công bố kết quả thanh sát địa điểm huấn luyện gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc tại các nước thuộc ASEAN, theo đó Việt Nam cùng với 3 nước là Campuchia, Indonesia, Thái Lan được chọn làm địa điểm huấn luyện gìn giữ hòa bình quốc tế luân phiên. Việt Nam cũng đang nỗ lực để triển khai Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 1 tại Nam Sudan”[1].
Đi theo con đường của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam không chỉ đã giành được quyền con người mà còn có những đóng góp to lớn trên lĩnh vực này từ tư tưởng lý luận cho đến thực tiễn. Công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế là một thời kỳ phát triển vượt bậc của Việt Nam về các phương diện, trong đó có quyền con người. Các quyền con người đều có những bước bảo đảm cao hơn, vị thế của dân tộc, đất nước được nâng cao hơn; được cộng đồng quốc tế trân trọng ghi nhận.
TIẾN BẮC

[1] - “Việt Nam chủ động phát huy vai trò tích cực tại Kỳ họp cấp cao Đại hội đồng LHQ” Báo Tin tức, TTXVN - 24-9-2018.

Khi “nhà dân chủ” lo thay cho doanh nghiệp!

12:45 16/11/2018
Quy định về lưu trữ dữ liệu trong Luật An ninh mạng và dự thảo Nghị định hướng dẫn thi hành là một trong những nội dung mà các thế lực thù địch, phản động đang mượn danh nghĩa “góp ý” để tung ra các bài viết phê phán, chủ yếu theo cách suy diễn chủ quan, quy chụp. Trong khi đó, trên diễn đàn mạng, facebook, nhiều người dù chưa nắm rõ thực chất của quy định này cũng “nhập hội” với tâm lý a dua, hùa theo, share bài viết và có những lời lẽ, bình luận cực đoan, tiêu cực.
Trên trang BBC Tiếng Việt, có nhiều bài viết phê phán việc quy định lưu trữ dữ liệu trong luật và dự thảo nghị định. Họ cho rằng, việc bắt buộc các công ty lưu trữ dữ liệu ở Việt Nam “chẳng những change đem lại lợi ích gì trong việc phòng chống tội phạm, đẩy Việt Nam vào thế đối đầu các tập đoàn công nghệ lớn, mà còn tạo ra nhiều nguy cơ không thể xem thường cho nền kinh tế, đặc biệt là kinh tế công nghệ, quyền riêng tư của người dân và cả hệ thống chính trị”.
Người viết thậm chí còn móc vào câu “đây không phải là ý kiến của cá nhân tôi mà còn là của rất nhiều học giả, luật sư, chuyên gia công nghệ và các nhà nghiên cứu luật pháp quốc tế” để người đọc tin sự suy diễn trên là “có căn cứ”.
Lập luận sau cho thấy bài viết quy chụp như thế nào: “Muốn lưu dữ liệu thì phải có trung tâm dữ liệu. Nhưng khả năng các công ty nước ngoài xây dựng trung tâm dữ liệu ở Việt Nam là gần như bằng không. Không phải họ ghét bỏ gì Việt Nam, mà đây là bài toán kinh tế. Việt Nam không phải là trung tâm, đầu mối Internet của thế giới và khu vực”.
Cần thấy rằng, tốc độ phát triển Internet ở Việt Nam là rất nhanh, hiện xếp ở vị trí thứ 7 thế giới với gần 60 triệu người dùng Facebook. Khoa học công nghệ, cơ chế điều hành, quản lý cũng không ngừng được nâng cao. Hiển nhiên, đó là thị trường mà các công ty dịch vụ viễn thông mong muốn, làm gì có chuyện “gần như bằng không”?
Cũng về quy định lưu trữ dữ liệu, họ cho rằng, các công ty chỉ có hai lựa chọn: đóng cửa không phục vụ tại Việt Nam hoặc sao chép dữ liệu thô về đặt ở các máy chủ thuê mướn của các công ty như Viettel hay VNPT. Các công ty lớn, có doanh thu tương đối ở Việt Nam sẽ sao chép dữ liệu, còn lại đa số những công ty nhỏ hơn, doanh thu không đáng kể “dự đoán sẽ cấm cửa người đến từ Việt Nam”...
Quan điểm này cho thấy “tác giả” này không hiểu về hiện trạng và những nguyên tắc khi cung cấp, kinh doanh dịch vụ viễn thông, Internet. Hùa theo dạng chỉ trích này, một số người cũng lên mạng tỏ ra quan ngại rồi quy kết rằng, Luật An ninh mạng và các quy phạm đang hình thành trong nghị định không những không có giải pháp nào bảo vệ hữu hiệu mạng Việt Nam trước các hackers mà còn đặt nó trong những nguy cơ cao hơn “khi ép lưu trữ dữ liệu cá nhân trong một quốc gia có nền tảng công nghệ thấp và đội ngũ thi hành công vụ rất dễ lạm quyền”.
Từ đó chế giễu: “Luật không những không giúp bảo vệ chế độ mà còn làm tăng ứng chế trong xã hội, nuôi dưỡng nguy cơ cao hơn cho chế độ”. Họ cho rằng, Việt Nam đã cam kết trong AFTA, WTO, TPP & CPTPP việc đảm bảo quyền tự do lưu chuyển, lưu trữ thông tin mà không bị kiểm soát, ngăn chặn (trừ liên quan đến quốc phòng, an ninh, đảm bảo trật tự an toàn xã hội), không đánh thuế vào các giao dịch điện tử xuyên biên giới. Từ đó, đưa ra “răn đe”: Nếu vẫn thi hành Luật An ninh mạng với cách tiếp cận như 2 nghị định đang chuẩn bị, Việt Nam “chắc chắn sẽ đối diện ngay với các chế tài”! 
Theo quy định Luật An ninh mạng, những loại dữ liệu cần lưu trữ ở Việt Nam gồm: Thông tin cá nhân người sử dụng dịch vụ; dữ liệu về mối quan hệ của người sử dụng dịch vụ; dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam tạo ra. Như vậy, không phải toàn bộ các dữ liệu được truyền đưa trên không gian mạng phải lưu trữ tại Việt Nam. Quy định này không làm ảnh hưởng hay hạn chế lưu thông dòng chảy dữ liệu số, cản trở hoạt động của doanh nghiệp như một số thông tin tuyên truyền thời gian qua. 
Việt Nam không phải là quốc gia duy nhất trên thế giới quy định lưu trữ dữ liệu trong nước và yêu cầu các doanh nghiệp cung cấp thông tin cho cơ quan chức năng. Hiện đã có 18 quốc gia trên thế giới quy định phải lưu trữ dữ liệu ở trong nước, như Mỹ, Canada, Nga, Pháp, Đức, Trung Quốc, Úc, Indonesia, Hi Lạp, Bulgaria, Đan Mạch, Phần Lan, Thụy Điển, Thổ Nhĩ Kỳ, Venezuela, Colombia, Argentina, Brazil.
Tất cả các quốc gia trên thế giới đều coi an ninh quốc gia là ưu tiên hàng đầu. Do đó, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên không gian mạng đã và đang phải phối hợp, đáp ứng yêu cầu của các cơ quan chức năng của các quốc gia trên thế giới trong bảo vệ an ninh quốc gia, phòng chống tội phạm. Nhiều quốc gia đã áp dụng các biện pháp quyết liệt hơn như truy tố khi phỉ báng hoàng gia (Thái Lan), phạt tiền tới 60 triệu USD (Đức), yêu cầu thành lập trung tâm giải quyết tin tức xấu độc (châu Âu), đặt trung tâm lưu trữ dữ liệu (Trung Quốc áp dụng với Apple), yêu cầu đặt máy chủ nếu không sẽ dừng hoạt động Facebook (Nga).
Tại châu Á, nhiều quốc gia đã áp dụng chính sách quản lý chặt chẽ dữ liệu quan trọng quốc gia, trong đó có Indonesia, mới đây là Philippines (xác định cấp độ các loại dữ liệu quan trọng và có chính sách quản lý tương ứng với từng loại cấp độ quản lý). Ngày 30-3-2018, vì lý do an ninh quốc gia, Bộ Ngoại giao Mỹ công bố lấy ý kiến về chính sách siết chặt kiểm soát nhập cư của Tổng thống Donald Trump, yêu cầu người nhập cảnh phải cung cấp thông tin về tài khoản mạng xã hội trong vòng 5 năm gần nhất.
Đáng chú ý, không chỉ các mạng xã hội của Mỹ như Facebook, Twitter, Youtube, Flickr, Instagram, Google+, Linkedin, Pinterest, Tumbir… mà còn yêu cầu cung cấp thông tin về tài khoản mạng xã hội của nước ngoài như Sina Weibo, QQ, Douban (Trung Quốc), VK (Nga).... Có thể thấy, Mỹ, Anh và nhiều quốc gia khác rất quan tâm tới dữ liệu cá nhân, quyền riêng tư trên mạng xã hội bao gồm cả hai khía cạnh là thu thập và bảo vệ. Dữ liệu người dùng được coi như tài sản quốc gia, giá trị mang lại từ những dữ liệu này là không chỉ trên lĩnh vực kinh tế, chính trị mà còn là an ninh quốc gia.
Việc một số ý kiến cảnh báo rằng, quy định về lưu trữ dữ liệu trong Luật An ninh mạng sẽ cản trở và khiến Facebook, Google rút khỏi Việt Nam là không có cơ sở. Thực tế, quy định này là phù hợp với khả năng của doanh nghiệp. Google đã đặt khoảng 70 văn phòng đại diện, Facebook khoảng 80 văn phòng đại diện tại các quốc gia trên thế giới.
Tại khu vực Đông Nam Á, Google, Facebook đã mở văn phòng đại diện Singapore, Malaysia, Indonesia. Hiện Google, Facebook đều đã thuê máy chủ tại nước ta. Theo thống kê sơ bộ, Google thuê khoảng 1.781 máy chủ, Facebook thuê khoảng 441 máy chủ tại 8 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trong nước. Việc lưu trữ dữ liệu người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam giúp các doanh nghiệp này tiết kiệm chi phí kinh doanh, tăng mức tốc độ truy cập và nâng cao chất lượng dịch vụ; giúp các nhà mạng trong nước tiết kiệm kinh phí khi phải mua băng thông quốc tế.
Về kỹ thuật, việc lưu trữ dữ liệu trong nước được tiến hành dễ dàng khi công nghệ cho phép, nhất là áp dụng công nghệ điện toán đám mây và các doanh nghiệp này đã có sẵn kinh nghiệm, thiết bị do áp dụng tương tự ở nhiều quốc gia khác.Việt Nam là một trong những thị trường quan trọng và các doanh nghiệp này đã thu lợi nhuận hàng trăm triệu đô la mỗi năm từ người dùng tại Việt Nam. Do vậy, không có lý gì mà họ lại rời bỏ thị trường Việt Nam.
Việc quy định lưu trữ dữ liệu cũng phù hợp với hệ thống pháp luật trong nước, trong đó có Luật Thương mại năm 2005, Luật Quản lý ngoại thương năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành, quy định các tổ chức xúc tiến thương mại nước ngoài phải lập văn phòng đại diện tại Việt Nam. Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ qua biên giới như Google, Facebook đang có hoạt động kinh doanh sinh lợi tại Việt Nam thuộc sự điều chỉnh của các văn bản này.
Trong dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi), Bộ Tài chính cũng đề nghị nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài (như Google, Facebook...) phải mở văn phòng đại diện chính thức tại Việt Nam. 
Đối với luật pháp quốc tế, quy định lưu trữ dữ liệu không trái với các cam kết quốc tế như “cảnh báo” của một số người trên mạng. Cụ thể, Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT 1994), Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS), Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) có điều khoản ngoại lệ về an ninh, tôn trọng và đề cao an ninh quốc gia trong bất cứ hoạt động thương mại nào được đề cập trong các cam kết đó. 
Theo Khoản 3 Điều 26 Luật An ninh mạng quy định, chỉ những “doanh nghiệp trong và ngoài nước cung cấp dịch vụ trên mạng viễn thông, mạng Internet và các dịch vụ gia tăng trên không gian mạng tại Việt Nam có hoạt động thu thập, khai thác, phân tích, xử lý dữ liệu về thông tin cá nhân, dữ liệu về mối quan hệ của người sử dụng dịch vụ, dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam tạo ra phải lưu trữ dữ liệu này tại Việt Nam”. Như vậy, quy định này không áp dụng đối với toàn bộ các doanh nghiệp.
Thăng Long

Xử lý trí thức - đảng viên sai phạm không phải là kỳ thị cả đội ngũ

11/11/2018 23:29

Sau khi báo chí, công luận gần đây thông tin về việc xử lý những sai phạm của ông Chu Hảo theo kết luận của Ủy ban Kiểm tra (UBKT) Trung ương, dư luận cán bộ, đảng viên và nhân dân bày tỏ sự đồng tình. Tuy nhiên, trên mạng xã hội và đài, báo nước ngoài lại xuất hiện một số ý kiến cố tình làm sai lệch sự việc với dụng ý nói xấu Đảng, Nhà nước Việt Nam; cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đang kỳ thị, “gạt ra bên lề”, “đánh” những trí thức “chân chính”…

Những lời thương vay khóc mướn
Trang BBC tiếng Việt thời gian gần đây có một số bài viết với thông tin cho rằng ông Chu Hảo là “trí thức chân chính”, bị kỷ luật Đảng thì sẽ “trở về với nhân dân”, đóng góp cho sự phát triển đất nước tốt hơn “với tư cách là người tự do”. Trang này lượm lặt thông tin về một số nhân vật bất mãn để “thổi” lên thành sự kiện: “Rộ trào lưu bỏ Đảng sau vụ TS Chu Hảo bị đề nghị kỷ luật”.
Ông Chu Hảo. Ảnh: ANTĐ
Trên trang cá nhân, một số nhân vật tự cho mình là những nhà dân chủ, cấp tiến thay vì nhìn thẳng vào sự thật lại lấp liếm, đổi trắng thay đen, biến những việc làm vi phạm pháp luật Nhà nước, kỷ luật Đảng của ông Chu Hảo thành những công lao, như: Đã dũng cảm cho in những cuốn sách có giá trị, thúc đẩy tự do, dân chủ; bỏ nhiều công sức cho việc chấn hưng dân trí... Họ nêu, kỷ luật ông Chu Hảo “với những lý do đầy tính chất vu khống là “đánh vào những người trí thức yêu nước, có tài và có tâm”, sẽ dẫn đến tình trạng “sĩ phu ngoảnh mặt”. Đài Á Châu tự do vẫn với giọng điệu cực đoan vốn có còn dựng chuyện: “Kỷ luật Giáo sư Chu Hảo là tuyên chiến chống giới trí thức Việt Nam”.
Một số người với cái nhìn cảm tính, phiến diện vội quy kết cho rằng Đảng, Nhà nước Việt Nam hành xử thô bạo với đội ngũ trí thức. Họ cố tình gạt bỏ, không đếm xỉa đến những sai phạm về pháp luật và kỷ luật Đảng của ông Chu Hảo mà quay sang đả phá Đảng, Nhà nước, cho rằng đây là một “nỗi đau”, một sự “lạc hậu”…
Pháp luật Nhà nước, kỷ luật của Đảng phải nghiêm minh, công bằng
Với một số sai phạm được nêu trong thông báo của UBKT Trung ương cho thấy ông Chu Hảo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và trước Đảng. Ở đây hoàn toàn không có chuyện “kỷ luật ông Chu Hảo với những lý do đầy tính chất vu khống” hay Đảng Cộng sản Việt Nam  “đánh vào người trí thức yêu nước, có tài và có tâm” như những ý kiến phiến diện từng rêu rao.
Từ tháng 11-2011, Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành Quy định số 47-QĐ/TW thay thế Quy định số 115-QĐ/TW vẫn có những nội dung hết sức chặt chẽ về vấn đề trên. Theo đó, đảng viên không được: 1-Nói, làm trái hoặc không thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, kết luận của Đảng; làm những việc mà pháp luật không cho phép. 2-Cung cấp, để lộ, làm mất hoặc viết bài, đăng những thông tin, tài liệu bí mật của Đảng và Nhà nước hoặc những việc chưa được phép công bố; tàng trữ, tuyên truyền, tán phát hoặc xúi giục người khác tuyên truyền, tán phát thông tin, tài liệu dưới mọi hình thức để truyền bá những quan điểm trái với đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước... 6-Tổ chức, tham gia các hội trái quy định của pháp luật; biểu tình, tập trung đông người gây mất an ninh, trật tự.
Thế nhưng, trong suốt nhiều năm qua, ông Chu Hảo đã nhiều lần vi phạm các điều nêu trên. Theo UBKT Trung ương, trong việc nói, viết và làm theo Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước, ông Chu Hảo đã có những vi phạm được đánh giá là rất nghiêm trọng. Trong đó, có việc tham gia ký vào các thư kiến nghị, thư ngỏ và có nhiều bài viết trên báo chí trong và ngoài nước, mạng xã hội, như: “Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992” nêu lên 7 kiến nghị tập trung vào 3 vấn đề cốt lõi: (1) Đòi bỏ Điều 4 Hiến pháp; (2) Yêu cầu đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; (3) Đòi phi chính trị đối với lực lượng vũ trang; “Thư ngỏ gửi Ban Chấp hành Trung ương và toàn thể đảng viên Đảng Cộng sản”, nội dung thư ngỏ cho rằng Đảng đã dẫn dắt dân tộc đi theo đường lối sai lầm về xây dựng chủ nghĩa xã hội cùng với bộ máy cầm quyền quan liêu, tha hóa đã đưa đất nước lâm vào khủng hoảng toàn diện... “Thư kiến nghị về Luật An ninh mạng” trong đó kiến nghị bãi bỏ hoàn toàn một số điều của luật, tự ý đưa tên một vị tướng công an (không được sự đồng ý của vị tướng này) vào danh sách những người đứng tên thư kiến nghị, đưa lên mạng xã hội gây xôn xao dư luận, ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình chính trị, tư tưởng của nhân dân. Ông Chu Hảo còn có nhiều bài viết trên mạng xã hội với nội dung sai trái, cùng nhiều bài trả lời phỏng vấn các đài, báo nước ngoài (BBC, RFA, RFI) có các nội dung sai trái. Ông Chu Hảo cũng là người sáng lập, tham gia các hội, nhóm, diễn đàn, câu lạc bộ và các tổ chức có các hoạt động truyền bá tư tưởng, quan điểm sai trái; là một trong những thành viên đầu tiên của cái gọi là “Nhóm kiến nghị 72”, thành viên tích cực của “Diễn đàn xã hội dân sự”, “Nhóm kiến nghị 61”, “Nhóm tinh thần khai minh”...
Đại diện lãnh đạo Ban Tuyên giáo Trung ương đã mời ông Chu Hảo đến làm việc, trao đổi, phân tích, làm rõ và yêu cầu chấm dứt vi phạm từ năm 2016 nhưng ông không chuyển biến và tiếp tục tái phạm. Trả lời phỏng vấn đài BBC tháng 9-2017, ông Chu Hảo nêu rõ quan điểm muốn thay đổi thể chế, ủng hộ cái gọi là xã hội dân sự: “Bên cạnh nhà nước, doanh nghiệp, thì xã hội dân sự có thể là chìa khóa dẫn đến những áp lực để thay đổi thể chế”.
Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra 9 biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Nếu đối chiếu vào những thông tin, việc làm nêu trên, ông Chu Hảo vi phạm nhiều biểu hiện, như: 1-Phản bác, phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; đòi thực hiện "đa nguyên, đa đảng". 2-Phản bác, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN), Nhà nước pháp quyền XHCN; đòi thực hiện thể chế "tam quyền phân lập", phát triển "xã hội dân sự". Phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai. 3-Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước...
Tại Điều 7, Quy định số 102/QĐ-TW của Bộ Chính trị ban hành cuối năm 2017 cũng chỉ ra nhiều vi phạm về quan điểm chính trị và chính trị nội bộ mà đối chiếu theo đó, ông Chu Hảo đã có rất nhiều sai phạm. Các quy định tại Khoản 3, Điều 7, Quy định số 102/QĐ-TW nêu rõ sẽ xử lý bằng hình thức khai trừ khỏi Đảng với đảng viên: a) Cố ý nói, viết có nội dung xuyên tạc lịch sử, xuyên tạc sự thật, phủ nhận vai trò lãnh đạo và thành quả cách mạng của Đảng và dân tộc. b) Phản bác, phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nguyên tắc tập trung dân chủ, nền dân chủ XHCN, nhà nước pháp quyền XHCN, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; đòi thực hiện thể chế "tam quyền phân lập", "xã hội dân sự", "đa nguyên, đa đảng".
Như vậy, việc kết luận những vi phạm của ông Chu Hảo là rõ ràng, đúng theo quy định của kỷ luật Đảng và pháp luật Nhà nước, hoàn toàn không có chuyện kỳ thị, “đánh” trí thức.
Theo thông tin từ Cổng thông tin điện tử UBKT Trung ương, nguyên nhân cơ bản, chủ quan và lớn nhất dẫn đến sai phạm là do bản thân ông Chu Hảo thiếu tu dưỡng, rèn luyện, không giữ vai trò tiền phong, gương mẫu của người cách mạng chân chính. Đứng trước nhiều vấn đề bức xúc của đời sống xã hội, ông Chu Hảo đã lựa chọn phương pháp sai lầm trong tư duy, hành động và kết cục là vi phạm như hiện nay. Trong thời gian công tác, lúc đương chức, ông không góp ý với Đảng trên cương vị công tác của mình trong phạm vi tổ chức, nhưng khi nghỉ hưu lại có những hành động sai trái. Khi bị kiểm điểm, nhắc nhở, ông khôn khéo thừa nhận sai lầm, khuyết điểm của mình ở mức độ nhất định nhằm tránh bị kỷ luật và giữ vững vai trò “hợp pháp” để rồi vẫn giữ quan điểm, lập trường riêng, không chấp hành yêu cầu của các cơ quan chức năng và sau đó lại tiếp tục có vi phạm.
Sai phạm trên còn do sự thiếu kiên quyết xử lý vi phạm của tổ chức đảng, chính quyền để xảy ra vi phạm kéo dài. Việc kiểm điểm, nhắc nhở đối với ông Chu Hảo diễn ra nhiều lần nhưng có phần nể nang, né tránh; không được tổ chức đảng thực hiện bằng văn bản; không giám sát hay yêu cầu báo cáo kết quả sửa chữa khuyết điểm và cũng không có biện pháp quản lý chặt chẽ hoạt động của đảng viên có vấn đề về “tư tưởng chính trị”. Vi phạm của ông Chu Hảo ngày càng nghiêm trọng. Qua sự việc vi phạm của ông Chu Hảo, vấn đề đặt ra đối với tổ chức đảng là phải làm tốt hơn công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên, để đảng viên thường xuyên được rèn luyện, giữ vững lập trường, quan điểm. Mặt khác, sự chống phá của các thế lực thù địch, cơ hội là môi trường “dung dưỡng” cho các quan điểm, hành vi sai trái của ông Chu Hảo. Các quan điểm sai trái đó được các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội về chính trị lôi kéo, cổ vũ, tiếp sức, các hội, nhóm, diễn đàn…
Để thanh lọc bộ máy và giữ nghiêm kỷ luật Đảng
Ngay tại Điều 1, Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đã quy định về tiêu chuẩn đảng viên, có tiêu chí đảng viên phải chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Ðiều lệ Ðảng, các nghị quyết của Ðảng và pháp luật của Nhà nước. Tại Điều 2 về nhiệm vụ đảng viên chỉ rõ đảng viên phải: Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Ðảng, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Ðiều lệ Ðảng, nghị quyết, chỉ thị của Ðảng, pháp luật của Nhà nước; hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; phục tùng tuyệt đối sự phân công và điều động của Ðảng.
Với những người như ông Chu Hảo, về thực chất đã từ bỏ lý tưởng, từ bỏ hàng ngũ, không còn xứng đáng với tiêu chuẩn, danh hiệu đảng viên cộng sản. Lẽ ra, với những sai phạm trên, ông Chu Hảo đã bị xử lý từ lâu, nhưng Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn trên tinh thần tôn trọng đội ngũ trí thức, cân nhắc, thận trọng, xem xét toàn diện khi xử lý những vụ việc liên quan tới những trí thức có ảnh hưởng nhất định trong đời sống xã hội, từng là cán bộ lãnh đạo cấp cao. Dư luận cho rằng, thời gian gần đây, có một số hiện tượng cán bộ, đảng viên có biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" phức tạp, công khai phủ nhận, tuyên truyền trái đường lối, quan điểm của Đảng… nhưng chưa bị xử lý làm ảnh hưởng xấu đến uy tín của Đảng. Vì vậy, đã đến lúc phải xử lý nghiêm một số sự việc để làm gương, tránh tình trạng “nhờn luật”, “nhờn kỷ luật của Đảng”. Những sai phạm của ông Chu Hảo có cả sai phạm về mặt pháp luật thì phải được xử lý đúng pháp luật, không dừng ở việc chỉ xem xét kỷ luật Đảng. Xử lý một vài trường hợp trí thức vi phạm không phải là tuyên chiến hay kỳ thị đội ngũ trí thức mà chính là làm trong sạch đội ngũ trí thức.
Kỷ luật của Đảng Cộng sản Việt Nam là tự giác và nghiêm minh, đồng thời cũng bình đẳng trong Đảng, không phân biệt đảng viên đương chức hay nghỉ hưu, đảng viên là lao động bình thường hay là lãnh đạo, nguyên lãnh đạo. Ai vi phạm đều được kiểm điểm, làm rõ và xử lý nghiêm minh, bảo đảm sự trong sạch đội ngũ. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng cho rằng, nếu kỷ luật của Đảng lỏng lẻo thì những kẻ cơ hội, những phần tử phản động dễ dàng chui vào hàng ngũ để phá hoại Đảng.
Những biểu hiện sai phạm của ông Chu Hảo cũng để lại bài học đắt giá đối với mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn rèn luyện, tu dưỡng suốt đời như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn. Thật đáng tiếc khi ông Chu Hảo sinh ra và trưởng thành trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng, có cha từng là cán bộ cao cấp của ngành công an và ngành văn hóa. Bản thân ông những năm chiến tranh đã được Nhà nước ưu đãi, cho đi du học, làm việc ở Liên Xô suốt nhiều năm và kinh qua nhiều vị trí công tác quan trọng, từng là Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ. Lẽ ra, với tri thức và kinh nghiệm sâu sắc của mình, ông có thể chọn cho mình con đường, cách thức phù hợp hơn, đúng đắn hơn để phát huy vai trò người trí thức chân chính, cống hiến nhiều hơn, thiết thực hơn cho đất nước, thay cho những việc làm lợi bất cập hại, đi ngược với chính mục tiêu, lý tưởng của Đảng, với lời thề của người đảng viên cộng sản mà chính ông từng tuyên thệ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời cũng từng căn dặn: Để xây dựng nước nhà, chúng ta cần càng ngày càng nhiều trí thức tốt… Đảng và Chính phủ phải giúp bằng cách giáo dục, để trí thức có lập trường vững vàng, quan điểm đúng đắn, tư tưởng sáng suốt, tác phong dân chủ. Nói tóm lại: Giúp đỡ các bạn trí thức chính tâm và thân dân. Tinh thần ấy cũng đã thấm sâu trong mọi chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với đội ngũ trí thức. Vì vậy, cùng với quan tâm, tạo điều kiện mọi mặt thì việc tăng cường quản lý, chấn chỉnh và xử lý nghiêm túc những hiện tượng sai phạm là cần thiết và bình thường. Trí thức dù là tầng lớp tinh hoa, nhạy cảm với thời cuộc nhưng không thể đứng trên, không thể đi ngược con đường của Tổ quốc và nhân dân, không thể làm trái pháp luật, càng không thể đi ngược, làm trái đường lối, quan điểm của Đảng khi trí thức ấy đứng trong hàng ngũ của Đảng. Việc xử lý một vài hiện tượng cá nhân sai phạm là sự thanh lọc cần thiết để Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch hơn, luôn giữ vững vai trò tiên phong, bản chất giai cấp công nhân và mục tiêu lý tưởng nhất quán; đó cũng là sự thanh lọc cần thiết đối với đội ngũ trí thức cách mạng, chân chính, giúp cho đội ngũ trí thức ngày càng hoàn thiện hơn, đóng góp hiệu quả hơn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
HÀ THÀNH

Cách mạng Tháng Mười - Những giá trị không thể phủ nhận

05:17 07/11/2018
Gần 70 năm tồn tại, Liên Xô là một nhân tố quan trọng quyết định những vấn đề lớn của thế giới. Liên Xô đã trở thành chỗ dựa đáng tin cậy của phong trào cách mạng thế giới đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH. Liên Xô đã có vai trò quyết định nhất tiêu diệt chủ nghĩa phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai, cứu loài người thoát khỏi sự thống trị của chủ nghĩa phát xít.
Cách mạng Tháng Mười nêu cao ngọn cờ hòa bình hữu nghị giữa các dân tộc
Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – 1918) là cuộc chiến tranh đế quốc chủ nghĩa. Đế quốc Nga do sự lệ thuộc nặng nề vào các đế quốc Anh, Pháp và mâu thuẫn về quyền lợi với đế quốc Đức, đã tham gia cuộc chiến tranh này và đứng về phe các nước Anh, Pháp, Mỹ.
Qua ba năm chiến tranh, nước Nga đã bộc lộ sự yếu kém, lạc hậu, luôn bị thua trận và tổn thất nặng nề, làm gay gắt thêm những mâu thuẫn trong nước và lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng. Chiến tranh đã trở thành nhân tố tác động mạnh mẽ sự bùng nổ cuộc cách mạng xã hội.
Cách mạng Tháng Mười nổ ra vào lúc cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất ở giai đoạn cuối cùng và diễn ra rất quyết liệt. Với bản chất yêu chuộng hòa bình và để thoát ra khỏi tình thế nguy ngập trong cuộc chiến tranh, ngay khi Cách mạng vừa thành công, chính quyền Xô viết đã  ra sắc luật đầu tiên là Sắc luật hòa bình.
Sắc luật lên án cuộc chiến tranh đế quốc đang diễn ra và kêu gọi các nước tham chiến ở cả hai bên hãy nhanh chóng đàm phán, ký kết một hòa ước chấm dứt chiến tranh. Với bản chất hiếu chiến và tham lam, cả hai phe tham chiến đều bác bỏ lời kêu gọi của nước Nga Xô viết.
Không thể tiếp tục cuộc chiến tranh phi nghĩa và hao tổn tiềm lực quốc gia, Chính phủ Xô viết quyết định đàm phán với đế quốc Đức để rút khỏi chiến tranh. V. I. Lênin đã chỉ rõ: “Thấy cuộc chiến đấu rõ ràng có lợi cho kẻ thù chứ không có lợi cho ta mà cứ nghênh chiến, đó là một tội ác; và những nhà chính trị nào của giai cấp cách mạng, không biết “lựa chiều, liên minh và thỏa hiệp” để tránh một cuộc chiến đấu bất lợi rõ rệt thì đó là những người vô dụng”.
Người đấu tranh kiên quyết với các quan điểm “tả” khuynh sai trái, chấp nhận những điều kiện ngặt nghèo, hy sinh nhiều quyền lợi quốc gia để ký được với Đức bản hòa ước Brét Litốp, tránh được nguy cơ bị Đức tấn công xâm lược, giành môi trường hòa bình để tập trung sức lực xây dựng chế độ mới. Sau này, trong 70 năm tồn tại, Nhà nước Liên Xô nhiều lần phải đối diện trước sự lựa chọn hòa bình hoặc chiến tranh, thì sự lựa chọn đều là tranh thủ hòa bình.
Chỉ khi chủ nghĩa phát xít cố tình gây ra cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai để tranh giành quyền lợi và mưu đồ tiêu diệt nước XHCN đầu tiên, nhân dân Liên Xô mới phải cầm vũ khí đứng lên chống xâm lược, tiêu diệt chủ nghĩa phát xít, đem lại nền hòa bình cho nhân loại.
Chính ngọn cờ hòa bình được nêu cao từ Cách mạng Tháng Mười, được Liên Xô kế tục, đã là một nhân tố có vai trò quyết định ngăn chặn cuộc chiến tranh thế giới mới do chủ nghĩa đế quốc mưu toan và hạn chế bớt những cuộc chiến tranh xâm lược cục bộ do chủ nghĩa đế quốc gây ra.
Hiện nay, tình hình chính trị - an ninh thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến rất phức tạp, khó lường; tình trạng xâm phạm chủ quyền quốc gia, tranh chấp lãnh thổ và tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn giáo, can thiệp lật đổ, khủng bố, chiến tranh cục bộ, chiến tranh mạng,… tiếp tục diễn ra gay gắt ở nhiều khu vực. Hòa bình thế giới và nhất là từng khu vực gần đây vẫn đang bị đe dọa.
Hòa bình vẫn đang là khát vọng của nhân loại. Nêu cao ngọn cờ hòa bình của Cách mạng Tháng Mười là một giá trị trường tồn, đến nay vẫn đáng được nhân loại tôn vinh.
Cách mạng Tháng Mười với sự ra đời, tồn tại Liên Xô đã cổ vũ và là chỗ dựa vững chắc của phong trào cách mạng thế giới.
Gần 70 năm tồn tại, Liên Xô là một nhân tố quan trọng quyết định những vấn đề lớn của thế giới. Liên Xô đã trở thành chỗ dựa đáng tin cậy của phong trào cách mạng thế giới đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH. Liên Xô đã có vai trò quyết định nhất tiêu diệt chủ nghĩa phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai, cứu loài người thoát khỏi sự thống trị của chủ nghĩa phát xít.
Với chiến thắng và sự giúp đỡ của Liên Xô, nhiều nước dân chủ nhân dân được thành lập, đi lên CNXH và hình thành phe XHCN, đối trọng với phe tư bản chủ nghĩa. Liên Xô cũng là lực lượng quyết định ngăn chặn dã tâm bá quyền, xâm lược, thống trị các dân tộc của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế.
Ngày nay, do những biến thiên của lịch sử, Liên Xô không còn, CNXH đã sụp đổ ở nhiều nước, nhưng hiện thời ngay ở nước Nga và các nước Cộng hòa Xô viết trước đây, những thành quả của Cách mạng Tháng Mười và CNXH vẫn đang hiển hiện nâng vị thế đất nước và phục vụ đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân các nước đó.
Những thành quả của CNXH vẫn là niềm tự hào sâu xa của họ. Ở nhiều nước được Hồng quân Liên Xô giải phóng, giành độc lập, thiết lập nhà nước dân chủ nhân dân, đi lên CNXH, được Liên Xô giúp đỡ, đã giành được nhiều thành tựu trên những chặng đường phát triển của mình.
Ngày nay nhiều nước đã đi theo một con đường khác, nhưng những thành tựu của “một thời XHCN” vẫn chưa bị mai một và vẫn phát huy tác dụng trong đời sống xã hội và con người ở đó. Một số nước vốn là thuộc địa, phụ thuộc theo tấm gương của Cách mạng Tháng Mười, lại tranh thủ được thời cơ Liên Xô và Đồng minh đánh thắng chủ nghĩa phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai, đã vùng lên đánh đổ chính quyền thực dân - phong kiến, giành độc lập dân tộc.
Được sự giúp đỡ tận tình của Liên Xô trước đây, các nước này đã phát triển nhanh chóng, giành được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng và an ninh trên con đường đi lên CNXH. Từ cuối thế kỷ XX, CNXH sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, phạm vi của CNXH có bị thu hẹp.
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế tập trung chống phá nhằm thủ tiêu các nước XHCN còn lại, những tưởng việc xóa bỏ toàn bộ CNXH hiện thực chỉ là ngày một ngày hai. Nhưng đến nay, các nước XHCN còn lại với trên một tỷ rưỡi dân vẫn kiên định, sáng tạo đi theo con đường Cách mạng Tháng Mười, con đường XHCN, đã vững vàng giành nhiều thành tựu mới vẻ vang.
Hơn 70 năm, nước Nga Xô viết và Liên Xô - thành quả của Cách mạng Tháng Mười - đã phát huy ảnh hưởng và tận tình giúp đỡ cách mạng thế giới phát triển và giành nhiều thắng lợi trên khắp năm châu. Chẳng những thế, Cách mạng Tháng Mười và công cuộc xây dựng CNXH, bảo vệ Tổ quốc XHCN đã cung cấp nhiều bài học vô giá cho phong trào cách mạng thế giới và các quốc gia dân tộc.
Cho đến nay, nhân dân tiến bộ toàn thế giới vẫn tôn vinh Cách mạng Tháng Mười và hướng tới một tương lai XHCN bình đẳng, văn minh, giàu đẹp. Đó là một giá trị trường tồn của Cách mạng Tháng Mười.
Riêng với Việt Nam, ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười thật sâu đậm. Vị lãnh tụ cách mạng, Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam Hồ Chí Minh trong bước đường tìm đường cứu nước đã bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin và con đường Cách mạng Tháng Mười, từ đó Người xác định con đường cách mạng Việt Nam là theo chủ nghĩa Mác – Lênin, theo con đường cách mạng vô sản của Cách mạng Tháng Mười. Trong tác phẩm Đường cách mệnh, cuốn sách phác thảo những nét căn bản đường lối cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh viết: “Cách mạng Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mạng thành công thì phải lấy dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”.
Sau này khi cách mạng thành công, Người  khẳng định thêm: “Cách mạng XHCN Tháng Mười vĩ đại đã chỉ cho nhân dân Việt Nam con đường thắng lợi để giải phóng dân tộc”. Trong quá trình cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam đều học tập, vận dụng sáng tạo những bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Mười vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam và đã giành thắng lợi vẻ vang.
Quá trình cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH, bảo vệ Tổ quốc của Việt Nam, sự giúp đỡ to lớn, có hiệu quả về nhiều mặt của Liên Xô thật không sao kể xiết. Vượt qua bao chặng đường khó khăn thử thách, có được ngày hôm nay, nhân dân ta đời đời nhớ ơn Liên Xô, nhớ ơn các nước XHCN anh em và bầu bạn trên thế giới.
Kỷ niệm 101 năm Cách mạng XHCN Tháng Mười vĩ đại, chúng ta không khỏi xót xa CNXH đã sụp đổ ngay trên quê hương Cách mạng Tháng Mười; Liên Xô - chỗ dựa vững chắc của cách mạng thế giới đã tan rã. Nhưng từ trong sâu thẳm tâm trí mỗi người chúng ta vẫn tự hào, tôn vinh và kế thừa, phát triển những giá trị trường tồn của Cách mạng Tháng Mười.
Để khẳng định một lần nữa sự vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười, xin trích lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá sự kiện này: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất.
Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế… Cách mạng Tháng Mười mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc và cả loài người, mở đầu một thời đại mới trong lịch sử, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên toàn thế giới”.
PGS, TS. Vũ Như Khôi

Không thể vin cớ “góp ý” để đả phá dự thảo Nghị định thi hành Luật An ninh mạng (Tiếp theo số 4849)

08:12 06/11/2018
Hiện nay, dữ liệu của người sử dụng Việt Nam trên không gian mạng đã và đang bị sử dụng tràn lan, với mục đích thu lợi nhuận mà Nhà nước chưa có đủ hành lang pháp lý để quản lý, thậm chí là bị sử dụng vào các âm mưu chính trị hoặc vi phạm pháp luật.
Để quản lý chặt chẽ, bảo vệ nghiêm ngặt dữ liệu của nước ta trên không gian mạng, Luật An ninh mạng đã quy định doanh nghiệp trong và ngoài nước cung cấp dịch vụ trên mạng viễn thông, mạng Internet và các dịch vụ gia tăng trên không gian mạng tại Việt Nam có hoạt động thu thập, khai thác, phân tích, xử lý dữ liệu về thông tin cá nhân, dữ liệu về mối quan hệ của người sử dụng dịch vụ, dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt Nam tạo ra phải lưu trữ dữ liệu này tại Việt Nam trong thời gian theo quy định của Chính phủ. Đây là quy định xuất phát từ yêu cầu khách quan chứ không phải “để làm khó, cản trở doanh nghiệp” như luận điệu những đối tượng chống phá.
Dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật An ninh mạng tập trung chủ yếu vào xác định căn cứ xác lập, điều kiện và cơ chế phối hợp bảo vệ an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia; vấn đề lưu trữ dữ liệu và đặt văn phòng đại diện tại Việt Nam.
Trong đó, nội dung các đối tượng đang nhắm vào chỉ trích, phê phán là quy định yêu cầu lưu trữ dữ liệu tại Việt Nam, đặt chi nhánh hoặc văn phòng đại diện tại Việt Nam (Khoản 3, Điều 26). Các đối tượng cho rằng, việc yêu cầu lưu trữ dữ liệu là “trái với luật pháp quốc tế”, là hình thức gây cản trở cho doanh nghiệp viễn thông”, là “quản lý hà khắc, bóp nghẹt”, từ đó đả kích cơ quan soạn thảo, đả kích chính quyền.
Ở đây cần thấy rằng, mặc dù có nhiều ý kiến cho rằng, vị trí đặt dữ liệu không góp phần tăng cường tính bảo mật của dữ liệu nhưng trong vấn đề này cần được đánh giá trên nhiều yếu tố, nhiều phương diện và nhiều chiều.
Từ góc độ quản lý nhà nước và bảo đảm cho nền kinh tế xã hội phát triển bền vững trong tương lai, Nhà nước phải làm chủ và quản lý, bảo vệ được các dữ liệu về thông tin cá nhân và thông tin do công dân trong nước tạo ra.
Đây là vấn đề chủ quyền dữ liệu, tránh tình trạng tập trung, độc quyền của các doanh nghiệp, tổ chức nước ngoài, bất bình đẳng với các doanh nghiệp trong nước, trong khi nguy cơ an ninh dữ liệu được đặt ở mức cao hơn khi bên thứ ba có thể tiếp cận, khai thác, sử dụng mà Nhà nước không quản lý được.
Việc Facebook liên tục lộ, lọt dữ liệu người dùng qua các hình thức khác nhau đã chứng minh sự bất cập khi một công ty nước ngoài quản lý toàn bộ dữ liệu công dân của quốc gia khác. Tương lai, dữ liệu mới là nguyên liệu đầu vào quan trọng nhất cho nền kinh tế, khi mà các hoạt động của Nhà nước đều phải dựa trên sự phân tích, thống kê dữ liệu. Làm chủ được dữ liệu góp phần giúp quốc gia làm chủ được tương lai.
Để bảo đảm được tính đa chiều, phù hợp với tình hình thực tế và thăm dò dư luận xã hội, qua nhiều phiên họp, thảo luận, dự thảo Nghị định hiện quy định phương án: Đối với dữ liệu phải lưu trữ tại Việt Nam: Dự thảo Nghị định quy định 3 loại dữ liệu cần lưu trữ theo Khoản 3 Điều 26 Luật An ninh mạng, nhưng không phải toàn bộ các loại hình lưu trữ, mà thiết lập “bộ lọc”, xác định quy định một số loại dữ liệu thực sự cần thiết, cần áp dụng các biện pháp bảo vệ tương xứng trong 3 loại dữ liệu nêu trên để bảo đảm yêu cầu bảo vệ an ninh dữ liệu. Đối với doanh nghiệp phải lưu trữ dữ liệu, đặt chi nhánh hoặc văn phòng đại diện tại Việt Nam thuộc 10 loại hình doanh nghiệp, đáp ứng đầy đủ 4 điều kiện theo quy định.
Về thẩm quyền yêu cầu lưu trữ dữ liệu, đặt chi nhánh hoặc đặt văn phòng đại diện tại Việt Nam: Dự thảo Nghị định quy định Bộ trưởng Bộ Công an yêu cầu doanh nghiệp đủ điều kiện và đặt chi nhánh hoặc văn phòng đại diện tại Việt Nam.
Những vấn đề này được nêu trong dự thảo và lấy ý kiến rộng rãi, không có cái gọi là “mập mờ” như một số luận điệu chống phá. Những băn khoăn của người dân, doanh nghiệp, của báo chí cũng được giải đáp rõ ràng, thẳng thắn.
Ngay tại cuộc họp báo Chính phủ chiều 3-11 vừa qua, phóng viên báo chí đã quan tâm, đặt câu hỏi về Dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật An ninh mạng, trong đó việc yêu cầu lưu trữ thông tin, đặt văn phòng, chi nhánh tại Việt Nam liệu có khả thi hay không? Có gây trở ngại cho người dùng trong việc tiếp cận thông tin hay vi phạm thông lệ quốc tế không?
Thẳng thắn trả lời câu hỏi này, Thiếu tướng Lương Tam Quang, Chánh Văn phòng Bộ Công an cho biết, để bảo đảm phù hợp với pháp luật trong nước về đặt văn phòng đại diện, xác định được đơn vị đầu mối chịu trách nhiệm về lưu trữ dữ liệu, Luật An ninh mạng đã quy định các doanh nghiệp thuộc diện phải lưu trữ dữ liệu tại Việt Nam phải đặt chi nhánh hoặc văn phòng đại diện tại Việt Nam.
Để bảo vệ an ninh quốc gia, Nghị định của Chính phủ sẽ hướng dẫn chi tiết việc thực hiện quy định này, xác định rõ diện doanh nghiệp phải đặt văn phòng đại diện tại Việt Nam.
Sự phù hợp với thông lệ quốc tế của quy định lưu trữ dữ liệu, đặt chi nhánh hoặc văn phòng đại diện tại Việt Nam thể hiện ở 4 nội dung. Một là, đã có hơn 18 quốc gia trên thế giới có văn bản luật quy định yêu cầu các doanh nghiệp nước ngoài phải lưu trữ dữ liệu quan trọng ở trong phạm vi lãnh thổ quốc gia như như Mỹ, Canada, Liên bang Nga, Đức, Trung Quốc…
Ngày 25-5-2018, Quy định bảo vệ dữ liệu cá nhân của Liên minh châu Âu chính thức có hiệu lực, cho phép công dân kiểm soát dữ liệu cá nhân của mình khi tham gia các diễn đàn, mạng xã hội theo hướng có thể tra cứu, thay đổi, xóa bỏ thông tin cá nhân của mình; các công ty cung cấp dịch vụ phải công khai với khách hàng việc dùng thông tin cá nhân, cam kết không chuyển dữ liệu cá nhân cho bên thứ ba, nếu vi phạm mức phạt có thể lên tới 20 triệu Euro hay 4% doanh số toàn cầu.
Hai là, phù hợp với khả năng của doanh nghiệp và Google đã đặt khoảng 70 văn phòng đại diện, Facebook khoảng 80 văn phòng đại diện tại các quốc gia trên thế giới. Tại khu vực Đông Nam Á, Google, Facebook đã mở văn phòng đại diện Singapore, Malaysia, Indonesia.
Ba là, phù hợp với hệ thống pháp luật trong nước, trong đó có Luật Thương mại năm 2005, Luật Quản lý ngoại thương năm 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành, quy định các tổ chức xúc tiến thương mại nước ngoài phải lập văn phòng đại diện tại Việt Nam. Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ qua biên giới như Google, Facebook đang có hoạt động kinh doanh sinh lợi tại Việt Nam thuộc sự điều chỉnh của các văn bản này.
Trong dự thảo Luật Quản lý thuế (sửa đổi), Bộ Tài chính cũng đề nghị nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài (như Google, Facebook...) phải mở văn phòng đại diện chính thức tại Việt Nam. Bốn là, không trái với các cam kết quốc tế, bao gồm các điều ước liên quan WTO và CCTPP.
Cụ thể, Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT 1994), Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS), Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) có điều khoản ngoại lệ về an ninh, tôn trọng và đề cao an ninh quốc gia trong bất cứ hoạt động thương mại nào được đề cập trong các cam kết đó.
Về vấn đề này, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng cho biết, Thủ tướng Chính phủ cũng đã nhận được nhiều ý kiến của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài, các cơ quan ngoại giao. Thủ tướng đưa ra thông điệp bảo toàn an ninh mạng và an ninh thông tin truyền thông là rất cần thiết nhưng việc này vẫn phải nằm trong tổng thể là phải đảm bảo môi trường tốt để thu hút đầu tư và kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, việc xây dựng Nghị định này phải hết sức chặt chẽ, thận trọng…
An ninh mạng là vấn đề đụng chạm đến quyền, lợi ích của các tổ chức, cá nhân, ở nhiều góc độ là nhạy cảm, do đó cân nhắc giữa yêu cầu của thực tiễn cuộc sống với vấn đề quản lý đòi hỏi phải hài hoà, hợp lý, trong đó lợi ích quốc gia, lợi ích xã hội phải được đặt lên trên. Do đó, quá trình soạn thảo, chỉnh lý dự án Luật An ninh mạng trước đây cũng như dự thảo nghị định lần này, cơ quan soạn thảo đều rất thận trọng, cân  nhắc, tiếp thu chọn lọc các ý kiến đóng góp.
Thực tiễn cho thấy, nhiều vấn đề qua đóng góp ý kiến của cơ quan, tổ chức, cá nhân đã được các nhà lập pháp tiếp thu, chỉnh lý một cách khoa học, chặt chẽ chứ không có chuyện làm luật kiểu áp đặt, bảo thủ như một số luận điệu đả kích, chống phá.
Đặc biệt, ngày nay với tính dân chủ, phản biện xã hội được nâng cao, việc soạn thảo luật pháp càng phải đề cao tính phản biện, lắng nghe ý kiến đa chiều, tránh các biểu hiện chủ quan, duy ý chí.
Với vấn đề nhạy cảm và phức tạp như mạng Internet, điều này càng phải cẩn trọng, khách quan. Vấn đề cốt lõi là phải phải xem xét trong những ý kiến đóng góp, đâu là ý kiến tích cực cần tiếp thu, chỉnh lý, đâu là ý kiến sai trái, thù địch, cần phải loại trừ.
Quá trình soạn thảo dự án Luật để thông qua tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá XII, Ủy ban Thường vụ (UBTV) Quốc hội cũng đã chỉnh sửa, tiếp thu nhiều nội dung quan trọng. Chẳng hạn, việc bảo đảm an ninh thông tin trên không gian mạng đối với doanh nghiệp nước ngoài khi cung cấp dịch vụ viễn thông, Internet tại Việt Nam, đây là vấn đề có nhiều ý kiến.
UBTV Quốc hội đã chỉ đạo các cơ quan hữu quan tổ chức hội nghị để tọa đàm, trao đổi với các vị đại sứ, làm rõ các kiến nghị có liên quan. Sau khi cân nhắc nhiều mặt, đồng thời tham khảo các quy định tương tự của pháp luật một số nước là thành viên của WTO, UBTV Quốc hội đã chỉnh lý theo hướng: Về yêu cầu đặt máy chủ quản lý dữ liệu trên lãnh thổ Việt Nam, không quy định nội dung này trong dự thảo luật để bảo đảm tính khả thi và thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp nước ngoài khi cung cấp dịch vụ vào Việt Nam.
Đây là vấn đề lớn từng vấp phải ứng mạnh, Quốc hội không đưa quy định này trong luật sau khi cân nhắc kỹ lưỡng cho thấy sự thận trọng, khách quan, vì xu thế chung chứ không phải áp đặt như một số luận điểm. 
Trong thông tin gửi các cơ quan báo chí, Bộ Công an nêu rõ, với thái độ cầu thị, vì mục tiêu và chính sách dài hạn của quốc gia trên không gian mạng, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng và tạo mội trường an ninh tương xứng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia, Bộ Công an luôn lắng nghe, tiếp thu ý kiến của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước thông qua các cuộc gặp, tiếp xúc, làm việc, hội thảo, tọa đàm, lấy ý kiến bằng văn bản, hội họp.
Trong thời gian lấy ý kiến, Bộ Công an luôn mong muốn nhận được ý kiến tham gia góp ý tâm huyết, chân thành của các cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Quan điểm công khai, thẳng thắn với tinh thần rất cầu thị, chân thành nói trên của Bộ Công an là minh chứng rõ ràng, phản bác những luận điệu sai trái, bịa đặt, quy chụp của các đối tượng xấu.
PV

Không thể vin cớ “góp ý” để đả phá dự thảo Nghị định thi hành Luật An ninh mạng

08:06 05/11/2018
Như Báo CAND đã thông tin, Bộ Công an đã hoàn thành dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật An ninh mạng. Dự thảo Nghị định gồm 6 chương, 30 điều và chính thức được đăng trên Cổng Thông tin điện tư Bộ Công an ngày 2-11-2018 cùng với dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia để lấy ý kiến đóng góp của nhân dân trong thời gian 2 tháng kể từ ngày đăng. 
Thông tin trên Cổng điện tử của Bộ Công an cũng ghi rõ: “Các ý kiến đóng góp xin gửi về Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, địa chỉ 40A Hàng Bài, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, email: luatanm@gmail.com”.
Như vậy, việc đăng tải toàn văn bản dự thảo Nghị định và dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ được thực hiện theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, được lấy ý kiến công khai, rộng rãi trong toàn dân với thời hạn 2 tháng.
Đáng nói, thời điểm đăng tải để lấy ý kiến bắt đầu từ ngày 2-11-2018, thế nhưng từ đầu tháng 10-2018, trên mạng internet xuất hiện một số bản chụp không rõ nguồn gốc, có nhiều nội dung sai lệch, được các đối tượng xấu viện dẫn, từ đó tung ra các bài viết phê phán, chỉ trích.
Một số người còn vin vào những bản sao chụp trôi nổi này rồi chỉ trích rằng, dự thảo Nghị định đã không được đăng tải công khai, lấy ý kiến theo quy định pháp luật mà được làm theo kiểu “thậm thụt, mập mờ”. Họ đã vội vàng dùng những ngôn từ thiếu văn hoá phê phán cơ quan soạn thảo, đặt ra những câu hỏi nhằm kích động người dân phản đối việc ban hành các quy định đưa Luật An ninh mạng vào cuộc sống.
Thực tế, việc soạn thảo, ban hành các nghị định, quyết định, thông tư hướng dẫn thi hành các luật, bộ luật do Quốc hội ban hành đều được Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành chức năng thực hiện theo đúng quy định, trình tự pháp luật. Đối với Luật An ninh mạng, việc soạn thảo, ban hành dự thảo Nghị định hướng dẫn và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ cũng được thực hiện theo đúng quy định, trình tự trên, hoàn toàn không có việc “úp mở”, “che giấu” như các thông tin bịa đặt.
Đối với các dự thảo này, trước khi đăng tải công khai để lấy ý kiến nhân dân thì cơ quan soạn thảo phải chuẩn bị kỹ lưỡng, đảm bảo chặt chẽ, khoa học. Do đó, khi Bộ Công an chưa đăng tải dự thảo lấy ý kiến theo quy định pháp luật thì các bản thảo mà nhiều người sao chụp, lan truyền trên internet rõ ràng là không chính thống, không rõ nguồn gốc, do đó không thể dựa vào đó để chỉ trích, phê phán.
Thực tế thời gian qua cho thấy, số đối tượng phản động, chống đối trong và ngoài nước liên tục xuyên tạc nội dung Luật An ninh mạng, kích động quần chúng nhân dân xuống đường biểu tình. 
Ngoài viện cớ như đã nêu trên, số đối tượng này tập trung cổ suý dư luận trên không gian mạng vào việc liệu các doanh nghiệp nước ngoài có lưu trữ dữ liệu và thực hiện yêu cầu xóa thông tin chống Nhà nước; so sánh chính sách quản lý không gian mạng của Việt Nam, Trung Quốc, Triều Tiên và cho rằng, Luật An ninh mạng đã “bóp nghẹt” quyền tự do dân chủ, quyền tự do trên không gian mạng của nhân dân.
Khi thấy một số trang tin chống Nhà nước trên mạng xã hội Facebook và một số video trên Youtube bị xóa, số này liên tục viết bài, kích động người dùng mạng xã hội rời bỏ Facebook, chuyển sang dùng mạng xã hội Minds...
Một số đối tượng phản động, chống đối trong và ngoài nước dựa vào bản dự thảo nghị định không rõ nguồn gốc, không được kiểm chứng đã liên tục viết bài xuyên tạc nội dung dự thảo, cho rằng Bộ Công an có nguy cơ lạm quyền khi trở thành “một bộ máy siêu quyền lực trên không gian mạng”, có khả năng can thiệp vào đời sống riêng tư của công dân, các doanh nghiệp nước ngoài sẽ gặp khó trong kinh doanh tại Việt Nam.
Thậm chí, để tỏ ra “khách quan, khoa học”, các tổ chức chống đối này còn mời một số người là kỹ sư công nghệ ở nước ngoài viết bài, tỏ thái độ không đồng ý với nội dung dự thảo, chỉ trích, phê phán Chính phủ.
Cần lưu ý rằng, việc đóng góp ý kiến dựa vào bản dự thảo chính thống đã công bố và đóng góp với tinh thần xây dựng, vì an ninh, chủ quyền quốc gia trên không gian mạng, vì trật tự xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. 
Quốc hội đã biểu quyết thông qua luật, sẽ có hiệu lực thi hành từ năm 2019, các ý kiến đóng góp là đối với dự thảo Nghị định hướng dẫn của Chính phủ và Quyết định của Thủ tướng ban hành Danh mục hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia, chứ không phải là việc xới lại nên hay không nên ban hành Luật An ninh mạng, phê phán luật và kích động đòi tẩy chay luật. 
Bởi việc ban hành luật đã được Quốc hội khẳng định rõ tính tất yếu khách quan. Bên cạnh những lợi ích mang lại, sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ còn đặt ra nhiều nguy cơ đối với an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Quốc gia đang phải đối mặt với nhiều nguy cơ to lớn, thách thức có thể ảnh hưởng tới sự bền vững của chế độ tới từ không gian mạng như diễn biến hòa bình, phá rối an ninh, kích động biểu tình, bạo loạn…; tấn công mạng gây thảm họa môi trường, suy yếu nền kinh tế; khả năng tác động, thay đổi nhận thức một cách nhanh chóng theo chiều hướng tiêu cực. 
Nguy cơ bị tấn công mạng, bị chiếm đoạt tài liệu bí mật nhà nước, bí mật nội bộ, sở hữu trí tuệ, nguy cơ bị khủng bố mạng đang thường trực và đe dọa hàng ngày. Đối với tổ chức, cá nhân, thiệt hại về kinh tế đã được thống kê, việc tống tiền, lừa đảo qua mạng ngày càng phức tạp với nhiều hình thức tinh vi, nguy hiểm hơn; các thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, làm nhục, phát ngôn thù địch, phỉ báng dẫn tới nhiều hậu quả nghiêm trọng, không chỉ làm mất uy tín, danh dự mà còn gây nguy hiểm tới tính mạng; các hành vi tội phạm như kinh doanh đa cấp trái pháp luật, lừa đảo qua điện thoại, đăng tải văn hóa phẩm đồi trụy, cài cắm phần mềm nghe lén, theo dõi ngày một nhiều hơn. Không gian mạng giúp cuộc sống trở lên tiện ích hơn nhưng cũng mang tới các nguy cơ thường trực, có khả năng tác động trực tiếp và thường xuyên tới đời sống của con người.
Trước tình hình an ninh mạng trong và ngoài nước diễn biến phức tạp, Đảng và Nhà nước đã xác định, an ninh mạng phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý thống nhất của Nhà nước; huy động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn dân tộc; phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng.
Đồng thời, kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ bảo vệ an ninh mạng, bảo vệ hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, tạo điều kiện cho cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trên không gian mạng. 
Điều đó có nghĩa rằng, việc bảo vệ an ninh mạng phải gắn liền với quá trình phát triển, ứng dụng công nghệ thông tin và thành tựu khoa học kỹ thuật. Đây là hai mặt của một vấn đề, không thể tách rời nhau. (còn nữa)
PV