Làm thất bại âm mưu phá hoại của địch đối với lực lượng vũ trang trên trận địa tư tưởng

28/02/2018 - 12:04
Sự nghiệp đổi mới của Đảng ta đã và đang giành được những thành tựu to lớn, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa-xã hội, quốc phòng, an ninh. Một đất nước Việt Nam giàu mạnh là điều mà các thế lực phản động và thù địch không mong muốn. Vì vậy, chúng đã, đang và sẽ tiếp tục chống phá công cuộc đổi mới của Đảng, Nhà nước ta bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”. Mũi nhọn tấn công của địch là mặt trận “tư tưởng”, đối tượng tấn công chủ yếu là lực lượng vũ trang nhân dân. Vì vậy, chúng ta phải nêu cao cảnh giác, ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, phản động và phần tử cơ hội chính trị.
6m4q_6a
Tăng cường đưa thông tin về cơ sở giúp nâng cao sức đề kháng của bộ đội và người dân trước những thông tin xấu, độc. Ảnh: Bích Nguyên
Tính chất nguy hiểm của “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng thể hiện ở chỗ: Kẻ địch tập trung phá nền tảng tư tưởng, xuyên tạc quá khứ, bôi đen lãnh đạo để phá niềm tin của quần chúng vào Đảng và chế độ, làm cho toàn xã hội hỗn loạn về tư tưởng, mất định hướng chính trị, tạo thế đứng cho các lực lượng phản động trong nước, gây áp lực chính trị cho quần chúng đòi thay đổi chế độ XHCN.
Với chiến thuật “mưa dầm thấm lâu” thông qua tác động trên lĩnh vực tư tưởng bằng những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, với những luận điểm mị dân, lừa bịp, dễ làm cho ta mất cảnh giác, mất phương hướng chính trị, không phân biệt đúng sai, thật giả, tạo ra “khoảng trống” về chính trị, tinh thần để dễ dàng tuyên truyền các quan điểm tư sản và đánh thẳng vào nội bộ ta, gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kích động lật đổ và bạo loạn chính trị.
Với nhiều thủ đoạn khác nhau, các thế lực thù địch, phản động làm mê muội con người, đặc biệt là thế hệ trẻ, học sinh, sinh viên bằng các loại văn hóa phẩm độc hại, đồi trụy, lối sống hưởng lạc, thực dụng, quên quá khứ, bàng quan, xa rời chính trị, xa rời lý tưởng cách mạng; tạo ra một tầng lớp  “phi chính trị”, để khi có điều kiện thì tập hợp lực lượng xấu, gây áp lực chính trị, dùng bạo loạn lật đổ và cướp chính quyền.
Thực hiện chính sách lôi kéo, thông qua các phe phái đồng minh, các tổ chức phi chính phủ, qua giao lưu, hợp tác về văn hóa, giáo dục, khoa học, nghệ thuật, báo chí... để thâm nhập, thu thập thông tin tình báo, mua chuộc cán bộ, chuyển hóa tư tưởng, cài cắm người vào các tổ chức của ta, móc nối với các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị để chống phá Đảng và Nhà nước.
Với các hình thức hoạt động phong phú đa dạng như: Tung tin đồn nhảm, tạo dư luận và áp lực xã hội, dưới chiêu bài “chống tham nhũng”, “bảo vệ tự do”, “dân chủ”, “nhân quyền”..., chúng đưa ra những lời hứa mị dân để gây tâm trạng mơ hồ, mất cảnh giác, cả tin của một số người; từ đó cô lập các lực lượng cách mạng trung kiên, phân hóa những người dao động thiếu chính kiến, thiếu thông tin; lôi kéo, kích động những người có tâm trạng bất mãn, những phần tử xấu trong xã hội để gây bạo loạn lật đổ chính quyền...     
Thực tế trong những năm vừa qua, để chống phá công cuộc đổi mới của ta, địch đã sử dụng trên 40 đài phát thanh,  truyền hình và gần 400 tờ báo, tạp chí tiếng Việt (trong đó có 10 tờ rất phản động), 66 nhà xuất bản để tuyên truyền chống phá Việt Nam. Núp bóng nhiều hình thức, chúng đã đưa một số lượng lớn tài liệu, sách báo, truyền đơn, băng hình, băng nhạc... có nội dung phản động, đồi trụy vào Việt Nam; chỉ đạo bọn “bồi bút”, cơ hội chính trị viết nhiều bài xuyên tạc, bôi nhọ tình hình Việt Nam.
Đồng thời, khuyến khích tư tưởng hẹp hòi, tâm lý kỳ thị dân tộc, hướng đồng bào về cái gọi là “Vương quốc Mông tự trị”, “Nhà nước Đề ga Mông-ta-nha”, “Vương quốc Khmer Crôm”...; đặc biệt gần đây cái gọi là “Chính phủ quốc gia lâm thời” đã bị lật tẩy, đó là một tổ chức khủng bố đã được đưa ra xét xử. Hoạt động của các tổ chức này là đẩy mạnh các hoạt động tài trợ, đào tạo, nhen nhóm chuẩn bị lực lượng chống đối, thúc đẩy di cư tự do, vượt biên trái phép, khiếu kiện đền bù giải phóng mặt bằng, tranh chấp đất đai, hoạt động của các phần tử đội lốt tôn giáo... gây mất an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên nhiều địa bàn.
Đối với lực lượng vũ trang, các thế lực thù địch luôn cho rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam còn đứng vững là do nắm chắc các lực lượng vũ trang. Nếu làm cho lực lượng vũ trang yếu đi, mất mục tiêu lý tưởng, phương hướng hành động thì Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ mất chỗ dựa, khi đó chế độ Cộng sản ở Việt Nam sẽ tan rã giống như Đông Âu và Liên Xô trước đây. Từ đó, chúng vào hùa với nhau, lớn tiếng  đòi “phi chính trị hóa quân đội”. Chúng tập trung phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng trong lực lượng vũ trang, làm suy giảm lòng tin, phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; kích động gây mất đoàn kết nội bộ, chia rẽ lực lượng vũ trang với nhân dân, Quân đội với Công an và các tổ chức, đoàn thể xã hội khác.
Không những thế, chúng còn đòi xóa bỏ Điều 4 của Hiến pháp, tách Quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng, từng bước thực hiện “dân sự hóa Bộ Quốc phòng”, “hành chính hóa quân sự”, nhằm biến Quân đội thành đội quân chuyên nghiệp, nhà nghề, phi chính trị. Cùng với đó, chúng đẩy mạnh tuyên truyền, xâm nhập các loại văn hóa độc hại, lối sống cơ hội, thực dụng, ích kỷ, hẹp hòi, vô cảm vào tầng lớp chiến sĩ trẻ trong các đơn vị, đầu độc đời sống tinh thần của cán bộ, chiến sĩ, với mục đích hình thành lối sống tiêu cực, đi ngược thuần phong mỹ tục của dân tộc và bản chất, truyền thống tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”.
Trước tình hình thực tế đó, chúng ta cần tỉnh táo nhận diện đúng bộ mặt kẻ thù, tăng cường cảnh giác và vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch, phản động, không bất ngờ, bị động, mất cảnh giác trước sự tấn công trên mặt trận chính trị, tư tưởng của chúng.
Đối với các đơn vị Quân đội, cần làm tốt việc quán triệt các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng, nhiệm vụ của đơn vị; nắm vững định hướng chính trị, tư tưởng; tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, cán bộ chủ trì và vai trò của ban chỉ đạo chống “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng ở từng cấp. Nhiệm vụ trực tiếp, thường xuyên và lâu dài là tập trung giáo dục, nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tăng cường công tác lãnh đạo, quản lý tư tưởng, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định cho cán bộ, chiến sĩ; giữ vững và phát huy bản chất giai cấp công nhân, truyền thống vẻ vang Bộ đội Cụ Hồ, ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện tiêu cực, lạc hậu, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đồng thời, xây dựng các tổ chức Đảng trong sạch, vững mạnh, đơn vị vững mạnh toàn diện, môi trường văn hóa phong phú, lành mạnh; góp phần giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong Quân đội.
PGS, TS Vũ Đăng Hiến

Công an nhân dân đi đầu trong đấu tranh chống "diễn biến hòa bình", "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"

Thứ Tư, 28/02/2018, 01:35:49

Cán bộ, chiến sĩ Công an huyện Thường Xuân giúp dân sửa sang nhà cửa, dọn dẹp vệ sinh sau lũ.
Được biết đến như một bộ phận của chiến lược toàn cầu phản cách mạng, “diễn biến hòa bình” là cách mà chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động quốc tế tiến hành bằng các biện pháp “phi quân sự” với chủ thuyết “chiến thắng không cần chiến tranh”, nhằm vào các nước xã hội chủ nghĩa, mục đích làm thay đổi chế độ chính trị, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội.
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (tháng 1-1994) đã chỉ ra bốn nguy cơ đe dọa cách mạng Việt Nam, trong đó có nguy cơ “diễn biến hòa bình”. Các kỳ đại hội tiếp theo, nguy cơ này tiếp tục được Đảng ta đề cập. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng một lần nữa khẳng định bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp.
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, bên cạnh những thuận lợi là cơ bản, đất nước ta cũng đang phải đối mặt với không ít nguy cơ, thách thức. Một trong số đó là việc các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện “diễn biến hòa bình” trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội với những thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hơn, tìm cách gây chia rẽ nhân dân với Đảng, Nhà nước, với lực lượng vũ trang. Mặt khác, chúng gây sức ép với ta trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại…; chúng tập trung “mũi đột phá” vào lĩnh vực tư tưởng, lý luận, tác động đến các tầng lớp xã hội nhằm làm thấm dần hệ tư tưởng tư bản, lối sống thực dụng phương Tây, phủ nhận học thuyết Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội, thông qua đó thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, làm cho một bộ phận xa rời lý tưởng cách mạng, mục tiêu độc lập dân tộc và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.
Mục tiêu mà các thế lực thù địch thực hiện “diễn biến hòa bình” ở nước ta là hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa. Do đó, hơn bao giờ hết, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ vừa là nhiệm vụ cấp bách, vừa là giải pháp quan trọng để giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng - an ninh của đất nước. Đây là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, của cả hệ thống chính trị, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, thường xuyên của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước. Là lực lượng vũ trang nhân dân, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm, Công an nhân dân (CAND) có vai trò đặc biệt quan trọng trong đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”. Để phát huy vai trò đó, lực lượng CAND cần tiếp tục quán triệt, thực hiện tốt một số nội dung trọng tâm sau:
Tiếp tục quán triệt sâu sắc, cụ thể hóa các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng về nhiệm vụ quốc phòng - an ninh và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vào thực tiễn công tác, chiến đấu; phối hợp chặt chẽ với quân đội và các bộ, ngành liên quan chủ động nghiên cứu, nắm chắc tình hình, dự báo những tình huống phức tạp có thể xảy ra để kịp thời tham mưu cho Đảng, Nhà nước ban hành, chỉ đạo thực hiện đường lối, chính sách, pháp luật, chiến lược bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. Trong đấu tranh chống “diễn biến hòa bình”, lực lượng CAND phải thấm nhuần sâu sắc lời chỉ dạy của Bác Hồ: “Đối với địch phải cương quyết, khôn khéo”.
Chủ động tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các cấp làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ với phương châm “chủ động phòng ngừa, giữ vững bên trong là chính”, không để các thế lực thù địch lợi dụng sơ hở chống phá Nhà nước ta; tích cực phòng, chống các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Kịp thời phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Giải quyết kịp thời, có hiệu quả các vấn đề xã hội phức tạp nảy sinh góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.
Nâng cao hiệu quả công tác dân vận trong thực hiện nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự; tuyên truyền, giúp quần chúng nhân dân nhận rõ bản chất của “diễn biến hòa bình” và đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” là cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc gay go, phức tạp, quyết liệt và lâu dài, đòi hỏi mỗi người dân phải nâng cao bản lĩnh chính trị, có sức đề kháng tốt, “tự miễn nhiễm” trước những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch. Tăng cường cán bộ, chiến sĩ công an xuống địa bàn cơ sở để gần dân và gắn bó mật thiết với nhân dân hơn nữa, qua đó xây dựng thế trận lòng dân vững mạnh, gắn với thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Phát huy vai trò chủ động, tích cực của báo chí cách mạng, trong đó có báo chí CAND trong việc tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ CAND và các tầng lớp nhân dân; vạch trần âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá cách mạng Việt Nam, định hướng dư luận, chống “diễn biến hòa bình” và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tăng cường đấu tranh phản bác các thông tin, quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; bảo vệ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Xây dựng lực lượng CAND trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; gương mẫu đi đầu trong thực hiện các nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo Sáu điều Bác Hồ dạy CAND; tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, đoàn kết thống nhất; đề cao tinh thần cảnh giác, chủ động, nhạy bén, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mưu đồ “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang.
Hướng tới kỷ niệm 70 năm CAND làm theo Sáu điều Bác Hồ dạy (11-3-1948 - 11-3-2018), phát huy truyền thống anh hùng, vẻ vang của lực lượng CAND, mỗi cán bộ, chiến sĩ công an nguyện trung thành tuyệt đối với Đảng, Nhà nước, với Tổ quốc và nhân dân; luôn nêu cao tinh thần cảnh giác, đoàn kết chặt chẽ, thường xuyên rèn luyện, học tập và làm theo tấm gương tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, tinh thần “vì nước quên thân, vì dân phục vụ”, tận tụy với công việc, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; xứng đáng với sự tin yêu của Đảng, Nhà nước và nhân dân, với truyền thống và danh dự của lực lượng CAND Việt Nam anh hùng. Đó cũng là quyết tâm "luôn luôn giữ mình trong sạch, vững vàng, không bị sa ngã trước sự mua chuộc, quyến rũ của các phần tử xấu,"lợi ích nhóm"", đồng thời "không để kẻ địch mua chuộc, lôi kéo, tấn công vào nội bộ công an" như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu với toàn lực lượng trong bài phát biểu tại Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 73 mới đây.
Thượng tá, TS Nguyễn Yến Thanh
Viện trưởng Viện Nghiên cứu lý luận chính trị CAND - Học viện Chính trị CAND

“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” làm suy giảm vai trò quản lý của Nhà nước

27/02/2018 22:23

Có nhiều bạn đọc thắc mắc hiện tượng “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có ảnh hưởng thế nào tới vai trò quản lý của Nhà nước đối với xã hội, thậm chí có người còn ngây thơ cho rằng: “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” không ảnh hưởng gì đến vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước”.

Nhưng thực tế thì nó có tác động, ảnh hưởng rất lớn đến vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước, làm suy giảm dẫn đến mất vai trò quản lý của Nhà nước. Sở dĩ như vậy là vì:
“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong bộ máy Nhà nước sẽ diễn ra trong các tổ chức của bộ máy Nhà nước, chính quyền các cấp từ Trung ương tới cơ sở và diễn ra trong mỗi cán bộ, công chức, viên chức. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” sẽ tác động đến việc hoạch định chủ trương, chính sách của Nhà nước và cả trong quá trình triển khai, tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách này. Tức là “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn ra trên cả phương diện lập pháp, tư pháp và hành pháp. Khi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn ra ở bộ máy Nhà nước sẽ làm cho bản chất Nhà nước kiểu mới - Nhà nước của dân, do dân, vì dân bị suy giảm và có thể dẫn tới sự biến chất của bộ máy Nhà nước. Nhà nước sẽ không còn thực hiện tốt vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình trong quản lý, điều hành xã hội, nhất là trong điều kiện hiện nay nước ta đang thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và mở cửa, hội nhập quốc tế. Khi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn ra trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức sẽ làm cho đội ngũ này không còn là “công bộc” của dân, sống xa dân, quan liêu, hách dịch, ức hiếp nhân dân, không còn vì lợi ích của dân. Quan hệ giữa nhân dân với chính quyền Nhà nước, nhất là quan hệ giữa nhân dân với đội ngũ cán bộ công chức, viên chức ngày càng trở nên lỏng lẻo, thậm chí sẽ dẫn đến sự đối lập giữa nhân dân và chính quyền. Điều đó dẫn tới sự suy giảm niềm tin của nhân dân đối với cán bộ, công chức, viên chức, khiến cho mọi lời nói, việc làm của đội ngũ này không còn sức thuyết phục, động viên, cổ vũ nhân dân noi theo, làm cho mọi chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước không được thực hiện nghiêm túc.
Càng ngày, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” càng làm mất vai trò quản lý điều hành của Nhà nước đối với xã hội. Quần chúng nhân dân sẽ không còn đồng tình, ủng hộ các chính sách của Nhà nước, thậm chí là phản đối, chống đối lại các chính sách. Như vậy ta có thể thấy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là hết sức nguy hiểm đối với bộ máy Nhà nước và mọi cán bộ, công chức, viên chức, do đó việc phòng, chống hiện tượng này là hết sức cấp thiết và là trách nhiệm của mọi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong bộ máy Nhà nước.
TRẦN THÔN

Việt Nam bảo đảm tốt tự do báo chí theo luật pháp quốc tế về nhân quyền

25/02/2018 23:21

Ban Bí thư vừa ban hành Thông báo kết luận tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 20-7-2010 của Ban Bí thư khóa X về công tác nhân quyền trong tình hình mới. Kết luận đã khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam tôn trọng, bảo đảm và thúc đẩy quyền con người, trong đó có quyền tự do báo chí và sẽ tiếp tục phát triển, phát huy những thành tựu đó. Hiện thực đó đã bác bỏ những quan điểm lệch lạc, xuyên tạc công tác nhân quyền của Việt Nam nói chung, quyền tự do báo chí nói riêng.

Quyền tự do báo chí nhìn từ luật pháp quốc tế
Trên bình diện quốc tế, quyền tự do báo chí được quy định cụ thể trong luật pháp quốc tế. Điều 19, Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR) đã khẳng định: Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp. Mọi người có quyền tự do ngôn luận; quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt mọi thông tin, ý kiến, không phân biệt lĩnh vực, hình thức tuyên truyền, thông qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào. Tuy nhiên, quyền này có thể phải chịu những hạn chế nhất định.
Điều 19, ICCPR khẳng định: “Việc thực hiện những quyền quy định tại khoản 2 điều này kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt. Do đó, việc này có thể phải chịu một số hạn chế nhất định, tuy nhiên, những hạn chế này phải được quy định trong pháp luật và là cần thiết để: a) Tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; b) Bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội”.
Việt Nam bảo đảm tốt tự do báo chí theo luật pháp quốc tế về nhân quyền
Ảnh minh họa / TTXVN.
Điều 29, Tuyên ngôn Nhân quyền thế giới cũng nhấn mạnh: “Trong khi thụ hưởng các quyền và tự do cá nhân, phải chịu những hạn chế do luật định nhằm mục đích duy nhất là bảo đảm việc thừa nhận và tôn trọng đối với các quyền và tự do của những người khác và phù hợp với những đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung”.
 Pháp luật nhiều quốc gia cũng đã quy định cụ thể về quyền tự do báo chí, theo đó, việc thực hiện quyền này phải trong khuôn khổ pháp luật. Ðiều 5, Hiến pháp Ðức quy định, mọi người có quyền thể hiện quan điểm qua hình ảnh, lời nói, bài viết trên sách báo hay phát tán qua phát thanh, truyền hình. Tuy nhiên, Điều 18, Hiến pháp Ðức cũng nhấn mạnh: “Ai lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, đặc biệt là tự do báo chí, tự do tuyên truyền… làm công cụ chống lại trật tự của xã hội tự do dân chủ sẽ bị tước bỏ quyền công dân”.
Ngay ở nước Mỹ, một quốc gia vốn được coi là “đất nước của tự do báo chí”, Điều 2358, Bộ luật Hình sự Mỹ đã nghiêm cấm: “In ấn, xuất bản, biên tập, phát thanh, truyền bá, buôn bán, phân phối hoặc trưng bày công khai bất kỳ tài liệu viết hoặc in nào có nội dung vận động, xúi giục hoặc giảng giải về trách nhiệm, sự cần thiết tham vọng hoặc tính đúng đắn của hành vi lật đổ hoặc tiêu diệt bất kỳ chính quyền cấp nào tại Mỹ bằng vũ lực hoặc bạo lực”. Như vậy, luật pháp quốc tế cũng như pháp luật các quốc gia đều khẳng định quyền tự do báo chí không phải là một quyền tuyệt đối. Khi thực hiện quyền này, con người phải chịu những hạn chế nhất định nhằm bảo vệ lợi ích chung của xã hội, nhà nước, của người dân.
Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do báo chí-quan điểm nhất quán
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán quan điểm tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do báo chí. Trên cơ sở nội luật hóa pháp luật quốc tế về quyền tự do báo chí, Hiến pháp năm 1946, hiến pháp đầu tiên của nước ta, đã khẳng định người dân có quyền tự do báo chí và được pháp luật bảo đảm thực hiện. Các bản hiến pháp sau này đều kế thừa và phát triển nội dung của Hiến pháp năm 1946 về quyền tự do báo chí. Điều 25, Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định” và khẳng định: “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của pháp luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Quy định này cũng được thể chế trong nhiều văn bản pháp luật Việt Nam, như: Bộ luật Hình sự 2015, Luật Báo chí năm 2016...
Những thủ đoạn xuyên tạc, chống phá 
Trong những năm qua, các thế lực thù địch vẫn lợi dụng những sơ hở, thiếu sót của Việt Nam trong thực hiện chính sách, pháp luật và vu cáo Nhà nước Việt Nam: “Không có tự do ngôn luận, tự do báo chí”; “Việt Nam kiểm soát và bóp nghẹt quyền tự do báo chí, tự do internet”; “bắt bớ nhiều blogger”… Họ cố tình đưa ra những nhận định, đánh giá sai lệch, thiếu khách quan về tình hình tự do báo chí ở Việt Nam để vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền hòng hạ thấp uy tín Việt Nam trên trường quốc tế. Họ còn viện dẫn các quy định của luật pháp quốc tế và luật pháp Việt Nam về quyền tự do báo chí, nhưng cố tình tảng lờ những điều khoản nghĩa vụ kèm theo để thực hiện các quy định đó rồi tán phát qua internet, mạng xã hội nhằm làm cho con người hiểu lầm rằng “tự do báo chí” là một quyền tuyệt đối; từ đó cổ xúy các phần tử bất mãn, các đối tượng chống đối lợi dụng quyền tự do báo chí hoạt động tích cực, quyết liệt hơn.
Các đối tượng còn tác động Quốc hội Mỹ và các nước phương Tây, các tổ chức quốc tế thông qua các dự luật, nghị quyết, báo cáo thường niên... với nội dung xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền, tự do báo chí ở Việt Nam, vu cáo Việt Nam “vi phạm tự do ngôn luận, tự do báo chí”, điển hình như: Báo cáo nhân quyền thế giới hàng năm của Anh, Úc, Nghị quyết của Nghị viện EU; Báo cáo thường niên, thông cáo báo chí của các tổ chức quốc tế: Phóng viên không biên giới (RSF), Ủy ban bảo vệ nhà báo (CPJ)... mặc dù phải thừa nhận Việt Nam có “tiến bộ về dân chủ, nhân quyền” nhưng vẫn xuyên tạc tình hình, vu cáo Nhà nước vi phạm “tự do báo chí”, “đàn áp, bắt giữ trái phép các blogger”… Một số phần tử còn tác động các chính khách cực đoan trong Quốc hội Mỹ, Anh, Canada… tổ chức điều trần, hội thảo, xuyên tạc tình hình tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam nhằm tác động Liên hợp quốc ra nghị quyết bất lợi đối với Việt Nam.
Có không ít hoạt động tác động, lôi kéo, mua chuộc các phần tử chống đối, cơ hội chính trị, số phóng viên tha hóa, biến chất tăng cường viết bài xuyên tạc tình hình dân chủ, nhân quyền, vu cáo Việt Nam vi phạm “quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí” rồi tán phát trên mạng xã hội, internet... Đặc biệt, các đối tượng còn thành lập các câu lạc bộ, các diễn đàn trên mạng xã hội dưới chiêu bài “tự do ngôn luận, tự do báo chí” để tập hợp lực lượng, hình thành các tổ chức chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam.
Thành tựu bác bỏ những sự xuyên tạc
Trên thực tế, Việt Nam đã đạt được thành tựu to lớn trong việc bảo đảm quyền tự do báo chí của người dân. Theo thống kê, tính đến năm 2016, cả nước có 857 cơ quan báo chí, gồm: 199 cơ quan báo chí in, 658 tạp chí (trong đó có 105 báo, tạp chí điện tử); 01 hãng thông tấn quốc gia; 67 cơ quan phát thanh truyền hình. Hầu hết các bộ, ban, ngành, đoàn thể chính trị, tổ chức xã hội đều có báo, tạp chí hoặc trang thông tin, báo điện tử.
Ở Việt Nam, báo chí thực sự trở thành cầu nối giữa "ý Đảng, lòng dân", tạo đồng thuận xã hội, thúc đẩy công cuộc xây dựng, phát triển đất nước; là phương tiện để người dân kiểm tra, giám sát thực thi pháp luật và đóng góp ý kiến phản biện đối với các chính sách, pháp luật của Nhà nước; là công cụ bảo vệ lợi ích xã hội, bảo vệ quyền của người dân. Đó là minh chứng sinh động cho việc bảo đảm quyền tự do báo chí ở Việt Nam, phản bác luận điệu vu cáo Nhà nước Việt Nam.
Thời gian qua, Nhà nước Việt Nam đã xử lý các đối tượng lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí vi phạm quyền và lợi ích của Nhà nước và công dân theo pháp luật, điều này hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế và pháp luật các quốc gia khác quy định trên lĩnh vực này.
Nhằm góp phần phòng ngừa, đấu tranh hiệu quả với hoạt động lợi dụng tự do báo chí để chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam, trong thời gian tới, cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
Một là, tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đối với công tác quản lý Nhà nước với báo chí, truyền thông và công tác phòng ngừa, đấu tranh với hoạt động lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí chống phá Việt Nam. Giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo trực tiếp, toàn diện đối với cả hệ thống chính trị, trong đó có các cơ quan báo chí, truyền thông trong cả bốn khâu: Định hướng phát triển; định hướng nội dung; công tác cán bộ; công tác kiểm tra, kiểm soát. Đặc biệt, coi trọng công tác rà soát, đánh giá đội ngũ cán bộ quản lý báo chí; thực hiện nghiêm các quy định về bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật đối với cán bộ, lãnh đạo các cơ quan báo chí, truyền thông. 
Hai là, phải làm tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Ðể làm tròn nhiệm vụ vẻ vang của mình, cán bộ báo chí cần phải tu dưỡng đạo đức cách mạng”. Do đó, mỗi nhà báo cần không ngừng học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, tự giác học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng, đạo đức cách mạng, thực hiện tốt Luật Báo chí và các quy định của pháp luật trên lĩnh vực báo chí; hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích vì lợi ích của đất nước, của nhân dân; góp phần nâng cao uy tín, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
Ba là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về báo chí, truyền thông, quản lý internet. Tiếp tục tăng cường cơ chế phối hợp giữa Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông và các cơ quan chức năng trong công tác chỉ đạo, quản lý trên lĩnh vực này. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện các quy định đạo đức nghề nghiệp và giáo dục các chủ thể trong hoạt động báo chí, truyền thông tự giác thực hiện; các chế tài xử lý vi phạm cần đủ mạnh để bảo đảm  ngăn ngừa, răn đe.
Bốn là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trên lĩnh vực báo chí, truyền thông. Qua đó, chủ động phát hiện những hành vi sai phạm, xu hướng lệch lạc ở các cơ quan báo chí và đội ngũ phóng viên, nhà báo để có các biện pháp ngăn chặn, xử lý kịp thời, nghiêm minh. Đặc biệt, qua công tác thanh, kiểm tra, cần kịp thời phát hiện và kiên quyết đưa ra khỏi vị trí lãnh đạo, quản lý đối với những người không đủ bản lĩnh chính trị, năng lực chuyên môn, những người có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.
Năm là, tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền chính sách, thành tựu bảo đảm quyền con người ở Việt Nam. Kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền đối nội và tuyên truyền đối ngoại; qua nhiều kênh và nhiều hình thức tuyên truyền đa dạng, phong phú làm cho cộng đồng quốc tế, người Việt Nam ở nước ngoài hiểu đúng quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước và thành tựu bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam, quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam, góp phần đấu tranh hiệu quả các luận điệu vu cáo, xuyên tạc tình hình tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam.
ĐỨC QUỲNH

Những quan điểm cực đoan về đối tác, đối tượng của Việt Nam hiện nay

08:40 23/02/2018
Trong thời gian gần đây, lợi dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, tín ngưỡng, tôn giáo và các vấn đề xã hội khác, những phần tử cơ hội chính trị ở trong nước cấu kết cùng với các thế lực thù địch ở nước ngoài tiếp tục đưa ra những luận điệu tuyên truyền, kiến nghị, đòi hỏi sai trái, cực đoan. 
Hàng ngày, họ phát tán trên mạng Internet hàng trăm tài liệu, từ xuyên tạc, lật ngược, bác bỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn trong học thuyết Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đến vu cáo, bịa đặt, xuyên tạc, bôi nhọ cán bộ lãnh đạo và quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng ta trong lịch sử và thành quả trong 30 năm đổi mới đất nước… nhằm làm cho mọi người nhầm lẫn, dao động, hoài nghi, xói mòn lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN.
Trong đó, đáng quan tâm là luận điệu kiến nghị đòi hỏi Đảng, Nhà nước, lực lượng vũ trang ta cần phải “xác định rõ ràng và chính xác đối thủ, không biến thù thành bạn hoặc coi bạn là thù”, từ đó “phải liên minh với các nước cho phù hợp với xu thế của thời cuộc”.
Luận điệu kiến nghị, đòi hỏi trên thể hiện nhận thức họ về tư duy mới của Đảng trong bảo vệ Tổ quốc hiện nay chưa đầy đủ và cực đoan. Đảng ta, Nhà nước ta hoàn toàn không “mơ hồ biến thù thành bạn hoặc coi bạn là thù”. Điều này được thể hiện trên một số vấn đề cơ bản sau:
Xác định đúng đối tượng, đối tác của Việt Nam là vấn đề quan trọng, căn cứ chủ yếu để đề ra chính sách đối nội, đối ngoại cùng với kế sách xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây cũng là một vấn đề tương đối “nhạy cảm” trong quan hệ quốc tế. Tuy nhiên, không phải vì thế mà chúng ta né tránh, để rồi rơi vào trạng thái mơ hồ, mất cảnh giác, mất tính chiến đấu và khó có thể vạch ra chủ trương, chiến lược, sách lược đúng đắn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Về vấn đề này Đảng ta khẳng định rõ:“Vận dụng đúng đắn quan điểm về đối tác, đối tượng: Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta. Mặt khác, trong tình hình diễn biến nhanh chóng và phức tạp hiện nay, cần có cách nhìn biện chứng: trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh”(1).
Quan điểm của Đảng ta nêu trên vừa có tính khái quát cao, vừa đầy đủ, làm cơ sở để nhận thức và xử lý quan hệ đối tác, đối tượng một cách bình tĩnh, sáng suốt, hiệu quả trong bối cảnh tình hình chính trị - an ninh thế giới hiện nay đang thay đổi nhanh chóng, diễn biến rất phức tạp, khó lường, xong hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn.
Về đối tác của Việt Nam, Đảng ta khẳng định: “Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác”. Căn cứ xác định đối tác được Đảng ta đặt lên trước – điều này vừa bảo đảm sự phù hợp với các nguyên tắc trong quan hệ quốc tế vừa phù hợp với quan điểm của Đảng ta lấy đối tác làm cơ sở thiết lập quan hệ quốc tế: “Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế”(2); “là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”(3). Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, uy tín, vị thế của Việt Nam ngày càng được nâng cao, trách nhiệm quốc tế của Việt Nam cũng ngày càng lớn và được các đối tác tin cậy.
Do đó, Đảng ta đã khẳng định rõ ràng chúng ta sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy với những đối tác nào tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với chúng ta; chứ không phải chỉ dừng lại ở mức độ“chủ trương” như trước đây. Mặc dù vậy, để bảo đảm tính khách quan, toàn diện thì khi nhận thức về vấn đề đối tác cần phải đặt nó trong mối quan hệ với vấn đề đối tượng ngày nay.
Về đối tượng đấu tranh của Việt Nam, Đảng ta khẳng định:“... bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng của chúng ta”. Đây là một sự khẳng định khôn khéo, mềm dẻo của chúng ta trong quyết tâm bảo vệ các lợi ích quốc gia, dân tộc Việt Nam và mục tiêu, con đường cách mạng mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Đối tượng đấu tranh của Việt Nam được hiểu không chỉ là thế lực có âm mưu, hành động gây chiến tranh, bạo loạn lật đổ, mà còn là những kẻ xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích quốc gia dân tộc của Việt Nam; chống lại sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng XHCN mà Đảng, nhân dân ta đã lựa chọn bằng phương thức vũ trang và phi vũ trang, cả từ bên ngoài và bên trong. Ai là đối tượng không phải tự chúng ta áp đặt mà do chính âm mưu và hành động của họ quyết định.
Như vậy, mặc dù Đảng ta không vạch tên, chỉ mặt cụ thể ai là đối tượng, không tạo ấn tượng hiềm khích với ai, nhưng sự khẳng định trên cũng đủ để vừa quy tụ ý chí, sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, vừa đề cao được lợi ích tối thượng của quốc gia, dân tộc.
Về tính biện chứng giữa đối tượng - đối tác, Đảng ta chỉ rõ “...trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong mỗi đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh”. Như vậy Đảng ta đã quan niệm một cách khái quát, khách quan, toàn diện và đầy đủ hơn về tính biện chứng trong mỗi đối tượng, mỗi đối tác, chứ không chỉ dừng lại ở mỗi đối tượng, một số đối tác như trước đây.
Thực tế đã khẳng định về tính đúng đắn của quan điểm này, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và tính cạnh tranh song hành cùng tính lệ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia đang ngày càng gia tăng. Như vậy, đối tượng và đối tác luôn tồn tại trong một thể thống nhất. Do đó, sẽ có những đối tác rất đáng tin cậy, rất khó có khả năng chuyển hóa thành đối tượng, nhưng cũng có những đối tác có thể bị chuyển hóa thành đối tượng trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định, đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn cảnh giác.
Về chủ trương ứng xử đối với những mặt mâu thuẫn, khác biệt về lợi ích ở đối tác với chúng ta. Quan điểm về vấn đề đối tượng, đối tác của Đảng thể hiện tính cách mạng sâu sắc, đó là trong thực tiễn vấn đề tồn tại những điểm mâu thuẫn, khác biệt về lợi ích giữa nước ta với mỗi đối tác là tất yếu. Nhưng không phải vì thế mà chúng ta chấp nhận, chúng ta“cần phải đấu tranh”.
Bằng sự mưu trí, sáng tạo để “đấu tranh”nhằm tăng cường sự hiểu biết, lòng tin, tăng cường tính đồng thuận, mở ra các thời cơ thuận lợi, tranh thủ tận dụng được những ưu điểm của mỗi đối tác để giúp chúng ta phát triển nhanh và bền vững. Mặt khác, hạn chế tiến tới triệt tiêu các mâu thuẫn, lực cản phát sinh ở mỗi đối tác, mà không phải là nhằm mục tiêu triệt tiêu đối tác.
Như vậy, Đảng ta đã thể hiện rõ quan điểm về đối tác, đối tượng của Việt Nam, quan điểm cũng chỉ rõ sự đan xen, chuyển hoá phức tạp giữa đối tác và đối tượng, ngay trong từng đối tượng vẫn có mặt đối tác, cần tranh thủ hợp tác; sự chuyển hoá giữa đối tượng, đối tác phụ thuộc rất lớn phương thức ứng xử của chúng ta.
Quan điểm của Đảng đã quán triệt tư tưởng đặt lên hàng đầu lợi ích quốc gia dân tộc với mục tiêu xuyên suốt là giữ vững độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững chế độ chính trị XHCN, kết hợp chặt chẽ với tạo dựng môi trường thuận lợi cho xây dựng đất nước. Nhận thức và xử lý quan hệ đối tác, đối tượng theo quan điểm của Đảng không phải là sách lược nhất thời mà là chủ trương cơ bản, nhất quán, lâu dài. Lịch sử dân tộc cũng như thực tiễn hoạt động của Đảng đã chứng tỏ điều đó và được thế giới thừa nhận.
Bằng quan điểm, đường lối lãnh đạo đúng đắn đó, đến nay Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 187 trong số 193 quốc gia là thành viên của Liên Hợp Quốc (trong đó, quan hệ đối tác chiến lược với 16 quốc gia và quan hệ đối tác toàn diện với 11 quốc gia), tham gia hơn 70 tổ chức quốc tế và đóng vai trò là thành viên tích cực, chủ động và có trách nhiệm của các tổ chức này; thiết lập quan hệ kinh tế thương mại với 245 quốc gia và vùng lãnh thổ; thiết lập quan hệ quốc phòng với 80 quốc gia.
Với những nỗ lực của Việt Nam và các đối tác, chiều sâu và mức độ thực chất trong quan hệ với các quốc gia được nâng lên một tầm vóc mới… góp phần tạo thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước ngày một tăng lên, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao, tạo ra môi trường và những tiền đề quan trọng để thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình mới.
Nhận thức sâu sắc đường lối, quan điểm của Đảng nói chung và quan điểm của Đảng về đối tác, đối tượng của Việt Nam nói riêng là cơ sở để củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, chống phá cách mạng Việt Nam của các thế lực thù địch, góp phần phòng chống có hiệu quả “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” làm thất bại âm mưu thủ đoạn “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Thượng tá, Ths Uông Thiện Hoàng Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

Cảnh giác âm mưu phớt lờ “tự do” khỏi tín ngưỡng, tôn giáo của các thế lực thù địch

14/02/2018 - 12:13
Biên phòng - Suốt nhiều thập kỷ qua, các thế lực thù địch, phản động đã tìm mọi cách, dùng mọi thủ đoạn tấn công vào Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm phá vỡ tổ chức Đảng, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam. Chúng trắng trợn can thiệp - “đấu tranh pháp lý”, triệt để lợi dụng cụm từ “tự do” mà cố tình lờ đi “quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong khuôn khổ pháp luật” để tổ chức các hoạt động chống phá, hòng gây mất ổn định chính trị - xã hội ở nước ta.
tykg_5b
Cán bộ BĐBP Quảng Bình thường xuyên tuyên truyền, vận động đồng bào dân tộc thiểu số thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Ảnh: Phương Huyền
Để thực hiện mưu đồ thâm độc đó, các thế lực thù địch dùng mọi thủ đoạn nhằm tách tôn giáo ra khỏi sự quản lý của Nhà nước; hậu thuẫn về vật chất, tinh thần cho các đối tượng chống đối, đưa tôn giáo ở Việt Nam trở thành lực lượng chính trị “đối trọng” với Đảng. Chúng xác định lấy “tự do tôn giáo” làm “ngòi nổ” để chống phá Việt Nam. Đồng thời cho rằng: “Việt Nam coi tôn giáo như là một công cụ tuyên truyền cho Đảng, Nhà nước, phục vụ các chính sách của Nhà nước trong phát triển kinh tế, văn hóa, an ninh, quốc phòng”.
Những năm gần đây, các hoạt động chống phá của chúng nhằm tách quyền “tự do” ra khỏi quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta. Đó là: Chống phá thông qua các đạo luật, nghị quyết, nhằm lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo, lợi dụng dân chủ, nhân quyền và quốc tế hóa vấn đề tôn giáo để can thiệp, chống phá Việt Nam; tăng sức ép với Việt Nam qua thể chế hóa các vấn đề về tự do tôn giáo, tín ngưỡng, vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền, xuyên tạc tình hình tôn giáo của Việt Nam.
Chúng xúi giục, kích động số phần tử phản động trong tôn giáo người Việt lưu vong ở nước ngoài tổ chức các hoạt động chống phá về tự do tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam; tổ chức nhiều cuộc mít tinh, biểu tình do các hội, nhóm mang danh tôn giáo hải ngoại để đưa ra các yêu sách đòi Việt Nam thực thi các quyền tự do tôn giáo. Chúng hỗ trợ, kích động và chỉ đạo một số phần tử cực đoan, phản động trong tôn giáo ở trong nước hoạt động chống phá.
Bên cạnh đó, các cơ quan đại diện chính thức của một số nước phương Tây thông qua đại sứ quán, lãnh sự quán đã có các hoạt động công khai hoặc bí mật ủng hộ số đối tượng cực đoan, phản động nói trên. Chúng trực tiếp hoặc cử người đi điều tra, nắm tình hình các sai phạm trong thực hiện chính sách tôn giáo của ta ở các địa phương, cơ sở để lợi dụng chống Đảng và Nhà nước, tố cáo Việt Nam vi phạm tự do tôn giáo, cấm đoán tôn giáo, đàn áp giáo sĩ...
Được sự chỉ đạo và hỗ trợ của các thế lực thù địch phương Tây, một số tên phản động trong đạo Cao Đài đã viết và phát tán nhiều tài liệu phản động chống Đảng và Nhà nước, đòi đưa những tên cực đoan lên nắm quyền và phối hợp với số phản động trong đạo Cao Đài ở hải ngoại để đẩy mạnh hoạt động chống đối. Những hoạt động cụ thể nói trên tuy không nhiều, song cho thấy tính chất quyết liệt và những kế hoạch, dự tính lâu dài để chống phá cách mạng nước ta, kích động thù hận giữa tôn giáo với người cộng sản, gây bất hòa giữa tín đồ với chính quyền các cấp và phương hại đến lợi ích chung của dân tộc và chế độ xã hội.
Lợi dụng đồng bào dân tộc thiểu số nước ta còn nhiều khó khăn, đời sống vật chất thiếu thốn và nghèo nàn, chúng đã hoạt động truyền đạo trái phép để lôi kéo và dụ dỗ, giành giật quần chúng với Đảng. Đồng thời, tăng cường các hoạt động mua chuộc, lôi kéo đồng bào dân tộc đi theo đạo Tin lành và từng bước thông qua hoạt động tôn giáo có gắn với vấn đề chính trị để chống lại đường lối đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, kích động đồng bào dân tộc thiểu số không thực hiện chương trình kế hoạch hóa gia đình, không tham gia các tổ chức chính trị ở địa phương, nhằm lôi kéo đồng bào ra khỏi sự quản lý của chính quyền, vô hiệu hóa chính quyền cơ sở.
Những vấn đề dẫn ra nói trên cho thấy, cuộc đấu tranh chống âm mưu và hoạt động lợi dụng tôn giáo đang đặt ra thật sự cấp bách. Cuộc đấu tranh này không chỉ quan hệ đến sự tồn vong của chế độ chính trị và Nhà nước XHCN ở nước ta, mà còn tác động trực tiếp đến sự ổn định chính trị, đến sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh, đến những hoạt động tôn giáo thuần túy của tuyệt đại đa số tín đồ các tôn giáo ở nước ta hiện nay. Chính những tác động của xu hướng biến đổi của tôn giáo thế giới, khu vực và tôn giáo trong nước đòi hỏi chúng ta phải có cái nhìn mới về cuộc đấu tranh chống âm mưu và hoạt động lợi dụng tôn giáo làm phương hại đến lợi ích chung, trong đó có lợi ích của dân tộc, CNXH và của chính tín đồ.
Để nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa, ngăn chặn hoạt động lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo nhằm chống phá Đảng, Nhà nước, đòi hỏi công tác này luôn phải đặt dưới sự lãnh đạo Đảng; sự quản lý, điều hành của Nhà nước; tiếp tục hoàn thiện các chính sách, văn bản pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo. Thường xuyên nâng cao nhận thức cho nhân dân, tín đồ, chức sắc về đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo; vạch trần âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo, từ đó nâng cao ý thức, trách nhiệm cho nhân dân, tín đồ, chức sắc trong việc tham gia vào công tác phòng ngừa, đấu tranh với hoạt động này.
Đấu tranh với các thế lực thù địch lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước và công cuộc đổi mới đất nước là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài. Điều đó đòi hỏi sự kiên quyết, kiên trì, sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, của toàn dân, trong đó có đồng bào theo đạo. Vì vậy, chúng ta cần phải chú ý một số vấn đề sau:
Trước hết, phải làm cho mọi người dân thấy rõ âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch trong việc lợi dụng vấn đề tôn giáo mà cụ thể là chiêu bài lợi dụng tự do tôn giáo, tín ngưỡng, từ đó nâng cao tinh thần cảnh giác, kịp thời đấu tranh có hiệu quả với mọi âm mưu và hoạt động chống phá của chúng.
Tiếp đó là phải giữ vững được sự ổn định bên trong, linh hoạt, mềm dẻo trong giải quyết các lợi ích giữa tín đồ, chức sắc và lợi ích chung của cả cộng đồng dân tộc. Việc giữ vững được sự ổn định bên trong; xây dựng các nhân tố bên trong vững mạnh có ý nghĩa quyết định sẽ tạo ra kháng thể bảo vệ Đảng, chế độ, bảo đảm cho các sinh hoạt tôn giáo bình thường và sự phát triển bền vững của đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đường lối đối ngoại rộng mở.
Cuối cùng, trong cuộc đấu tranh này, chúng ta phải xây dựng được thế trận lòng dân vững chắc chống âm mưu và hoạt động lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng của các thế lực thù địch, phản động, bảo vệ Đảng và chế độ XHCN ở nước ta.
Võ Văn Tự

Bảo đảm quyền văn hóa cho các dân tộc thiểu số ở Việt Nam

12/02/2018 05:00

Khi xem xét, đánh giá về vấn đề dân tộc, nếu chỉ nhìn nhận về trình độ kinh tế của các dân tộc thiểu số (DTTS) một cách đơn thuần thì dễ đưa ra nhận định chủ quan, phiến diện về đời sống thực tế.

Muốn hiểu đúng bản chất, khách quan, toàn diện về vấn đề dân tộc thì ngoài việc bảo đảm về quyền chính trị, kinh tế, xã hội, không thể không tính đến một yếu tố rất quan trọng, đó là việc bảo đảm quyền văn hóa cho các DTTS có được hiện thực hóa trong thực tế hay không.
Chính sách bảo tồn, phát triển văn hóa các DTTS luôn được coi trọng
Xuất phát từ những điều kiện lịch sử, tự nhiên, xã hội, hầu hết các DTTS ở Việt Nam cư trú, lao động sản xuất ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới. Tuy chỉ chiếm tỷ lệ dân số nhỏ, song các DTTS Việt Nam là một phần máu thịt của dân tộc Việt Nam. Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, 53 DTTS là đối tượng dễ bị “tổn thương văn hóa” trong quá trình phát triển, vì vậy, Đảng và Nhà nước Việt Nam xác định, cùng với chăm lo phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm an sinh, xóa đói giảm nghèo, việc bảo tồn, phát huy văn hóa các DTTS vừa là nhiệm vụ cấp thiết, vừa có ý nghĩa chiến lược phải thực hiện kiên trì, lâu dài. 
Bảo đảm quyền văn hóa cho các dân tộc thiểu số ở Việt Nam
Ảnh minh họa. Nguồn: baotintuc.vn
Việc coi trọng bảo vệ, phát huy các giá trị văn hóa các DTTS được Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định tại Cương lĩnh Xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); đặc biệt, được thể hiện sâu sắc tại hai nghị quyết chuyên đề về văn hóa. Một trong 10 nhiệm vụ cụ thể được nêu ra tại Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” (năm 1998) là “Bảo tồn, phát huy, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số”, trong đó nhấn mạnh đến việc đầu tư và tổ chức điều tra, sưu tầm, nghiên cứu, phổ biến các giá trị văn hóa, văn học, nghệ thuật các DTTS. Nghị quyết số 33-NQ/TW khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” (năm 2014) định hướng phải giữ gìn và phát huy di sản văn hóa các DTTS, nhất là tiếng nói, chữ viết, trang phục, lễ hội truyền thống của các DTTS.
Để bảo đảm các quyền của các DTTS, Điều 42 Hiến pháp 2013 quy định: “Công dân có quyền xác định dân tộc của mình, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp”. Trước đó, Điều 7, Luật Giáo dục 2005 cũng ghi rõ: “Nhà nước tạo điều kiện để người DTTS được học tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, giúp cho học sinh người DTTS dễ dàng tiếp thu kiến thức khi học tập trong nhà trường và cơ sở giáo dục khác”. Thông qua quy định này nhằm bảo đảm cho các DTTS có quyền tự do quyết định vị thế xuất thân cũng như thể hiện quyền sử dụng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình-đây là những vấn đề căn cốt để khẳng định quyền bình đẳng của các DTTS trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Không chỉ đề ra chủ trương, luật pháp, Nhà nước Việt Nam đã chủ động lắng nghe, tiếp thu những ý kiến từ chính bà con DTTS để hoàn thiện chính sách phù hợp với lòng dân. Cách đây 3 năm (tháng 8-2015), Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã mời hơn 50 đại biểu là già làng, trưởng bản, nghệ nhân, người có uy tín thuộc các DTTS (Pà Thẻn, Cờ Lao, Pu Péo, Lô Lô, Ngái, La Hủ, Lự, Mảng, Cống, Si La, La Ha, Bố Y, Chứt, Ơ Đu, Brâu, Rơ Măm) về Thủ đô Hà Nội tham dự Hội nghị-hội thảo “Giải pháp Bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa của 16 DTTS có số dân dưới 10.000 người”. Tại đây, người dân không chỉ nêu lên tâm tư, nguyện vọng mà còn trực tiếp góp ý, đề xuất với Đảng, Nhà nước nhiều vấn đề tâm huyết về bảo tồn, phát huy, phát triển văn hóa các DTTS.  
Những kết quả hiện thực sinh động trong thực tiễn
Mọi chủ trương, chính sách chỉ có giá trị khi đi vào thực tiễn và được thực tiễn kiểm chứng. Điều đó được thể hiện ở Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hóa các DTTS Việt Nam đến năm 2020” được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1270/QĐ-TTg ngày 27-7-2011. Bám sát phương châm “Đồng bào các DTTS là chủ thể văn hóa đề xướng, thực hiện và thụ hưởng”, với số vốn thực hiện trên 1.500 tỷ đồng, đến nay đề án đã, đang được triển khai sâu rộng, trong đó tập trung ưu tiên phát triển văn hóa các DTTS rất ít người, các dân tộc không có điều kiện tự bảo vệ và phát huy di sản văn hóa của dân tộc mình. Hiện nay, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã hoàn thành việc rà soát, thống kê và hỗ trợ khẩn cấp, nâng cao năng lực tự bảo vệ trước nguy cơ mai một văn hóa của các DTTS dưới 10.000 người, đặc biệt là 10 dân tộc, gồm: Brâu, Rơ Măm, Si La, Pu Péo, Bố Y, Ơ Đu, Lô Lô, Mảng, Cống, Cờ Lao.
Nhờ có nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước, những năm gần đây, nhiều truyền thống văn hóa tốt đẹp, nhiều nghi lễ đặc sắc, nhiều trò chơi dân gian của các DTTS được khôi phục, phát huy trong ngày hội văn hóa diễn ra trên khắp mọi miền đất nước. Nhiều ngày hội văn hóa vùng miền, như: Tây Bắc, Đông Bắc, miền Trung, miền Đông Nam Bộ… được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức 2-3 năm/lần. Những nét đẹp về dân ca, dân vũ, dân nhạc, lễ hội, trang phục truyền thống, ẩm thực của nhiều DTTS tưởng như bị “phủ” một lớp bụi thời gian, nay được khôi phục, giới thiệu để đông đảo công chúng biết đến khi các địa phương tổ chức các ngày hội riêng của các dân tộc, như: Mông, Mường, Hoa, Thái, Chăm, Khmer…
Tại Thủ đô Hà Nội, từ năm 2010 đến nay, du khách trong nước và quốc tế cũng có điều kiện trực tiếp tham gia trải nghiệm không gian văn hóa của các dân tộc Tày, Nùng, Thái, Mông, Khmer, Chăm, Lô Lô, Ê Đê, Ba Na, Gia Rai, Mường… do chính các nghệ nhân, bà con DTTS trình diễn tại Làng Văn hóa-Du lịch các dân tộc Việt Nam (Đồng Mô, thị xã Sơn Tây). Từ 10 năm qua, Ngày văn hóa các dân tộc Việt Nam 19-4 được tổ chức thường niên trở thành ngày hội gặp gỡ, giao lưu văn hóa cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Theo các chuyên gia nghiên cứu văn hóa, việc tổ chức ngày hội văn hóa ở các địa phương cũng như Ngày văn hóa các dân tộc Việt Nam không những đã “cứu” được nhiều giá trị văn hóa của các DTTS trước nguy cơ bị mai một trong đời sống đương đại, mà còn tạo cơ hội cho mỗi DTTS thêm một lần nêu cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc, tự khẳng định những giá trị văn hóa độc đáo của dân tộc mình và đó cũng là một cách để bảo đảm quyền văn hóa nhìn từ chiều sâu nhân văn nhất.
Cùng với tạo điều kiện cho văn hóa các DTTS được bảo tồn, phát huy, những năm qua, các cấp chính quyền cũng đã có những việc làm thiết thực để đồng bào từng bước cải thiện, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần. Đến nay, phần lớn các thôn, bản, phum, sóc, bản, mường ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn đã hoàn thành và đang xây dựng nhà văn hóa theo tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Trong 5 tiêu chí của Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020 theo Quyết định số 1722/QĐ-TTg ngày 2-9-2016 của Thủ tướng Chính phủ, có 2 tiêu chí liên quan đến bảo đảm quyền văn hóa cho đồng bào các DTTS, đó là giáo dục và tiếp cận thông tin. Theo đó, đến năm 2020, 100% xã có mạng lưới trường mầm non, phổ thông, trung tâm học tập cộng đồng đủ để đáp ứng nhu cầu học tập và phổ biến kiến thức cho người dân; 90% các hộ dân thuộc địa bàn huyện nghèo, xã nghèo được tiếp cận, cung cấp thông tin về chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; hỗ trợ phương tiện nghe-xem cho khoảng 10.000 hộ nghèo. Cụ thể hóa đề án trên, mấy năm gần đây, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định cấp miễn phí 18 đầu báo, tạp chí cho các xã thuộc vùng DTTS và miền núi, vùng đặc biệt khó khăn. Cuối tháng 11-2017, Thủ tướng Chính phủ cũng quyết định cấp radio miễn phí cho các già làng, trưởng bản, người có uy tín, chức sắc tôn giáo và trưởng các tổ chức đảng, đoàn thể quần chúng cấp thôn (thanh niên, phụ nữ, nông dân, cựu chiến binh…) ở các tỉnh Cao Bằng, Hà Giang, Lai Châu, Nghệ An, Quảng Nam, Kon Tum, Đăk Nông, Ninh Thuận, Trà Vinh, Kiên Giang.
Một tờ báo, một chiếc radio có thể không đáng là bao với những người có điều kiện kinh tế, nhưng đó là tài sản văn hóa rất ý nghĩa với những người DTTS nghèo. Hơn thế, nói mộc mạc như bà con dân tộc, đó chính là cầu nối thông tin giữa Chính phủ và đồng bào, là ánh sáng văn hóa của Đảng soi rọi cho người dân vùng sâu, vùng xa nỗ lực vượt qua khó khăn để vươn tới cuộc sống no ấm, văn minh.
THIỆN VĂN

Không thể phủ nhận được thành quả về quyền con người ở Việt Nam

05/02/2018 05:00

Ngày 19-1-2018, Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam đã công bố “Sách trắng về quyền con người với chủ đề “Bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam”.

Đây là lần thứ hai Việt Nam công bố sách trắng về quyền con người (QCN). Năm 2005, lần đầu, Bộ Ngoại giao Việt Nam đã công bố cuốn sách “Thành tựu bảo vệ và phát triển các quyền con người ở Việt Nam”. Việc Nhà nước Việt Nam công bố sách trắng không chỉ nhằm nêu lên những thành quả về nhân quyền của đất nước mà còn công khai quan điểm, nhận thức và cả những hạn chế cần được khắc phục trong thời gian tới.
Không thể phủ nhận được thành quả về quyền con người ở Việt Nam
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Lê Thị Thu Hằng công bố sách trắng về quyền con người của Việt Nam ngày 18-1. Ảnh: Dantri.
Sách trắng về QCN năm nay của Việt Nam gồm 4 chương, trong đó Chương II đề cập tới thành tựu của Việt Nam trong thực hiện quyền dân sự, chính trị, xã hội, văn hóa, quyền của các nhóm dễ bị tổn thương… Điều mới mẻ của sách trắng năm nay là Nhà nước Việt Nam đã công khai 7 hướng ưu tiên, đó là: (1) Tiếp tục kiện toàn hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm thực hiện tốt hơn các quyền và tự do cơ bản của người dân trên cơ sở phù hợp với Hiến pháp 2013 và các cam kết quốc tế của Việt Nam; (2) Đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội nhằm nâng cao điều kiện, nguồn lực phục vụ công tác xóa đói, giảm nghèo, nâng cao chất lượng đời sống vật chất và tinh thần cho người dân; (3) Nâng cao khả năng tiếp cận với các loại hình an sinh xã hội; (4) Cải thiện chất lượng giáo dục nhằm phát triển nguồn nhân lực, trong đó có giáo dục về quyền con người nhằm nâng cao nhận thức của người dân và các cơ quan thực thi pháp luật trong vấn đề này; (5) Thúc đẩy bình đẳng giới, nâng cao chất lượng cuộc sống cho mỗi cá nhân, mỗi gia đình; (6) Chăm sóc sức khỏe cộng đồng, hướng đến một xã hội được chăm sóc sức khỏe đầy đủ cả về thể chất và tinh thần; (7) Tăng cường hợp tác về quyền con người với tất cả các quốc gia, các cơ chế và tổ chức chuyên môn của khu vực và toàn cầu.
Những thành quả và quan điểm của Việt Nam về QCN là rất rõ ràng, đúng đắn. Thế nhưng trên một số trang mạng vẫn có những cá nhân, tổ chức tán phát bài viết xuyên tạc, bác bỏ, cố tình phủ nhận những thực tế về QCN ở Việt Nam. Họ phủ nhận tất cả, từ những nỗ lực của Nhà nước Việt Nam trong việc hoàn thiện pháp luật đến cuộc đấu tranh chống tham nhũng hiện nay. Họ “nhận định” rằng “các đạo luật sửa đổi vừa qua chỉ theo “ý Đảng chứ không theo lòng dân” (!?). Họ bảo vệ những kẻ bị pháp luật trừng phạt do có những hành vi tuyên truyền xuyên tạc bản chất chế độ (như nhóm thanh niên treo cờ vàng ở An Giang). Thậm chí họ lên tiếng bảo vệ cả kẻ giết người (đã bị tòa án tuyên phạt tử hình như Đặng Văn Hiến ở Đắc Nông)... Về cuộc đấu tranh chống tham nhũng, họ viết: Đó chỉ là cuộc “đấu đá nội bộ và thanh trừng phe nhóm, chứ không phải vì công lý và ích lợi nhân dân”.
Không phủ nhận trong nhiều thời kỳ lịch sử đã qua, do điều kiện chiến tranh kéo dài nên nhận thức về QCN của Việt Nam còn phiến diện. Trong giai đoạn 1975-1986, Nhà nước Việt Nam chủ trương xây dựng mô hình xã hội XHCN kiểu cũ với nhà nước chuyên chính vô sản và mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, xóa bỏ kinh tế tư bản, tư nhân… Điều này, dẫn đến nhiều QCN, trong đó có quyền tự do làm kinh tế của cá nhân bị hạn chế. Trong mô hình xã hội XHCN kiểu mới (từ năm 1986 đến nay), Đảng, Nhà nước Việt Nam đã điều chỉnh đường lối chính trị, kinh tế với Nhà nước pháp quyền XHCN và nền kinh tế thị trường định hướng XHCN… Đặc biệt, năm 2013, Quốc hội Việt Nam thông qua Hiến pháp mới-Hiến pháp 2013. Văn kiện quan trọng này dành cả một chương (Chương II), quy định về “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân”. Chương này quy định đầy đủ các QCN, từ quyền dân sự, chính trị đến các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa theo những chuẩn mực chung của cộng đồng quốc tế mà Việt Nam là một thành viên có trách nhiệm.
Sai lầm của những người soạn thảo ra những “nhận định” và “tuyên bố” tán phát trên mạng là: (1) Trước hết họ đã hiểu Luật quốc tế về QCN một cách phiến diện. Nói cho đúng hơn họ chỉ xem QCN là quyền của cá nhân. Trong khi Luật quốc tế về QCN quy định đầy đủ, gồm quyền và lợi ích của cá nhân và quyền và lợi ích của quốc gia, dân tộc. Điều 1 (Phần I), “Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị" năm 1966, quy định: “1. Mọi dân tộc đều có quyền tự quyết. Xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị của mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa… Các quốc gia thành viên Công ước này … phải thúc đẩy việc thực hiện quyền tự quyết dân tộc và phải tôn trọng quyền đó phù hợp với các quy định của Hiến chương Liên hợp quốc”. Quyền dân tộc tự quyết không phải là quyền của cá nhân, cũng không phải là phép cộng của các nhóm xã hội mà là quyền của nhà nước, của quốc hội, chính phủ. Về mặt thủ tục thì bộ ngoại giao được giao làm cơ quan đại diện, trong thương thuyết và ký kết.
Trở lại nội dung của Điều I, quy định nói trên có nghĩa: Pháp luật Việt Nam nói chung, Luật Hình sự, Luật Tôn giáo nói riêng mà những người soạn thảo “nhận định"… phê phán là thuộc quyền của Quốc hội Việt Nam. Điều này không chỉ về mặt chính trị mà còn từ thực tế.
Nhằm thực hiện đầy đủ hơn những quy định của Hiến pháp 2013, trong đó có Chương II về QCN, quyền và nghĩa vụ công dân, Bộ luật Hình sự (năm 2015) được Quốc hội Việt Nam sửa đổi theo hướng tôn trọng luật nhân đạo và luật nhân quyền hơn so với Bộ luật Hình sự 1999. Chẳng hạn: Từ ngày 1-1-2018, người tham ô, hối lộ bị kết án tử hình có thể được miễn tội chết “nếu đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn”. Hoặc người “cản trở người khác ly hôn bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm”.
Nhằm khắc phục tình trạng tai nạn giao thông, bảo vệ quyền sống của con người, bộ luật này quy định người đi bộ “Không đi đúng phần đường quy định (trường hợp vượt qua dải phân cách; đi qua đường không đúng nơi quy định hoặc không bảo đảm an toàn…) gây hậu quả nghiêm trọng sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự”… Chẳng lẽ những quy định pháp luật như trên là vì “đấu đá nội bộ và thanh trừng phe nhóm” như những người soạn thảo “nhận định” và "tuyên bố” rêu rao hay sao?
Trong "Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị" năm 1966, không phải tất cả các quyền cá nhân đều là quyền tuyệt đối mà nhiều quyền bị hạn chế. Chẳng hạn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền về lập hội và hội họp là những ví dụ. Điều 18, quy định: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo. Quyền này bao gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo hoặc tín ngưỡng… Không ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa chọn hoặc tin theo tôn giáo… Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc tín ngưỡng có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác…”.
  Về quyền hội họp (Điều 21) và quyền lập hội (Điều 22) Công ước nói trên quy định “có thể bị hạn chế “vì lợi ích an ninh quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, và để bảo vệ sức khỏe và đạo đức xã hội hoặc bảo vệ quyền và tự do của những người khác”. Điều này có nghĩa những tổ chức xã hội nào đó chưa được nhà nước thừa nhận sẽ không được nhà nước bảo hộ. Tương tự như vậy những cuộc hội họp, biểu tình chưa được các cơ quan chức năng cho phép là vi phạm pháp luật và có thể bị trấn áp.
 Cho đến nay tất cả quốc gia dân tộc, không phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển, bản sắc văn hóa đều có những quy định pháp luật để bảo vệ chế độ, bảo vệ hiến pháp, bảo vệ nhà nước và bảo vệ đảng cầm quyền. Còn nhớ, ngày 24-2-2017, Thượng nghị sĩ Janet Nguyễn đã bị lực lượng bảo vệ cưỡng chế đưa ra khỏi phòng họp, theo lệnh của chủ tọa vì trong diễn văn đọc trước Thượng viện đã chỉ trích Thượng nghị sĩ quá cố Tom Hayden (chồng của nghệ sĩ điện ảnh Jane Fonda, người phản đối chiến tranh Việt Nam) là một ví dụ.
Về cuộc đấu tranh chống tham nhũng hiện nay, phiên tòa xét xử Trịnh Xuân Thanh và đồng phạm đang được nhân dân hoan nghênh vì chứng tỏ cuộc đấu tranh này là cuộc đấu tranh không chỉ “không có vùng cấm” mà còn được sử dụng tất cả những phương thức cần thiết để đấu tranh. 
Có người nói, QCN như đường chân trời… người ta càng đi tới thì đường chân trời càng lùi xa hơn. Điều đó có nghĩa việc bảo đảm QCN là không bao giờ đủ vì nhận thức về quyền, lợi ích và trách nhiệm của người dân luôn luôn được nâng cao. Điều quan trọng là mọi người cần nhận thức đúng về QCN và thúc đẩy phát triển nó đúng hướng. Đối với dân tộc Việt Nam, QCN là do nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đứng lên giành lại từ cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Không có lý do gì Đảng và Nhà nước Việt Nam đi ngược lại những giá trị của cuộc cách mạng đó. Những ai kiếm cớ “phản biện” để đưa ra những "nhận định" xuyên tạc, phủ nhận thành quả về QCN của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là không thể chấp nhận được.
BẮC HÀ  

Thủ đoạn lèo lái dư luận không thể xuyên tạc được niềm tự hào dân tộc

09:26 04/02/2018
Khi người dân hân hoan chào đón đội bóng trẻ U23 Việt Nam từ Thường Châu, Trung Quốc trở về thì một số trang mạng nước ngoài lại có những bài viết xuyên tạc, lèo lái dư luận...
Sau những ngày thi đấu ở Thường Châu, Trung Quốc, đội bóng trẻ U23 của chúng ta đã về nước trong sự chào đón hân hoan của người hâm mộ. Chúng ta thực sự tự hào, vỡ òa cảm xúc khi chứng kiến trên suốt chặng đường hơn 30km, từ sân bay Nội Bài đến trung tâm Hà Nội và ngay sau đó ở sân vận động Mỹ Đình, lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước cùng hàng triệu người dân chào đón con em mình trong đêm lễ hội vinh danh... Tương tự như vậy, cờ, hoa đã nhuộm đỏ các đường phố khắp các tỉnh, thành phố trong cả nước.
Thế nhưng trên một số trang mạng nước ngoài lại có những bài viết xuyên tạc, lèo lái dư luận. Trên trang “DL” xuyên tạc “bóng đá là “van xả” bức xúc xã hội ở Việt Nam”.
Theo bài viết này, “van xả” (bức xúc) ở các nước là các cuộc biểu tình tự do, các buổi lễ hội âm nhạc tự do ngoài trời, không bị kiểm soát hay kiểm duyệt bởi chính quyền… Còn “tại Việt Nam, hoàn toàn không có cơ chế để vận hành một “van xả” như vậy…”.
Từ đó, bài viết quy chụp: “đừng bất ngờ khi hàng triệu người dân Việt Nam đổ ra đường để hò hét, khua chiêng, gõ trống, thổi kèn ăn mừng chiến thắng. Đơn giản vì qua hoạt động xuống đường này, người dân Việt Nam có cơ hội để xả đi các bức xúc dồn nén trong cuộc sống, phá đi bức tường quản lý xã hội ngột ngạt nhằm tận hưởng hương vị và trạng thái của tự do mà không bị quy vào tội “gây rối trật tự công cộng”.
Người hâm mộ hân hoan chào đón đội bóng trẻ U23 Việt Nam.
Ngay lập tức, kiểu lèo lái dư luận, bóp méo sự thật này được phát tán trên nhiều trang mạng có dụng ý xấu khác...  Có thể nói, thủ đoạn lèo lái dư luận, làm biến dạng sự thật nói trên là một thứ “tư duy bệnh hoạn”.
Việc lọt vào chung kết và giành huy chương Bạc U23 châu Á là thành tích chưa từng có trong bóng đá nước nhà. Thành tích lịch sử đó thực sự lay động đến tình cảm của mọi người dân, từ tình yêu bóng đá đến lòng tự hào dân tộc, tình yêu quê hương, đất nước. Bởi vậy, từ Nam đến Bắc, từ vùng nông thôn xa xôi đến thành thị, người dân và lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã chào đón các em bằng cờ hoa với tình cảm, sự quý trọng, thương yêu đặc biệt.
Nhắc lại về kỳ tích của U23 Việt Nam, có người gọi chặng đường đi đến trận chung kết của U23 Việt Nam là hành trình “có một không hai”. Mỹ từ khác là “hành trình kỳ diệu”, từ bất ngờ này đến bất ngờ khác: Từ thất bại (1-2 trước U23 Hàn Quốc) đến hy vọng vào tứ kết (thắng Australia 1-0); trụ vững trước Syria (0-0 ở cuối vòng bảng); lần lượt đánh bại Iraq, Qatar đều trên chấm penalty…
Theo dõi các trận đấu của U23 Việt Nam cho thấy, vượt lên những khó khăn, bất lợi về điều kiện thi đấu song tinh thần quật cường, khát khao chiến thắng, vượt lên chính mình trước những đối thủ mạnh hơn nhiều mặt, U23 của chúng ta đã thể hiện bản lĩnh bất khuất, kiên cường, đoàn kết vì màu cờ, sắc áo. 
Chẳng hạn, với “cuộc chiến trên băng tuyết” trong trận chung kết với U23 Uzbekistan, ai cũng thấy đối thủ mạnh hơn ta về nhiều mặt, từ thể lực, thể hình cho tới cả lợi thế quen thuộc với giá lạnh. Trong khi U23 Việt Nam có lẽ còn nhiều cầu thủ chưa thấy tuyết bao giờ. Thế nhưng, các em đã chơi với tinh thần của “những chiến binh” đầy quả cảm. 
Bị dẫn trước, trong điều kiện thời tiết bất lợi nhiều người đã lo ngại thầy trò của HLV Park Hang-seo sẽ nao núng tinh thần. Nhưng U23 Việt Nam vẫn duy trì nhịp độ đáng ngạc nhiên và đã mang về bàn thắng với cú đá phạt siêu phẩm của Quang Hải.
Nhìn lại chặng đường U23 đã qua, thật sự đã có máu đổ trên khuôn mặt nhiều cầu thủ. Các em đã chơi bóng bằng trái tim quả cảm, bằng sức mạnh tinh thần và lòng tự hào dân tộc. Đây là lý do vì sao hàng triệu người dân khen ngợi, ngưỡng mộ U23 Việt Nam. U23 Việt Nam đã thật sự là người chiến thắng, nhà vô địch trong lòng dân tộc, trong lòng người hâm mộ. 
Các cầu thủ U23 của chúng ta  không chỉ đạt thành tích cao trong thi đấu mà còn thể hiện nhiều phẩm chất đạo đức trong sáng. Đó là sự khiêm tốn: Thủ môn tài năng Bùi Tiến Dũng đã xin lỗi người hâm mộ (vì để lọt lưới trong trận đấu với Uzbekistan). Xuân Trường nói: “U23 Việt Nam không có ngôi sao. Chúng em chỉ có 1 ngôi sao, đó là ngôi sao vàng trên nền cờ đỏ bên ngực”.
Người nước ngoài cũng đánh giá cao chiến thắng và những phẩm chất của các cầu thủ U23 Việt Nam. Huấn luyện trưởng đội Uzbekistan cho rằng: “U23 Việt Nam là đội đá đẹp nhất”.
Rõ ràng, nguyên nhân trực tiếp và sâu xa trong chiến thắng của U23 Việt Nam và sự ngưỡng mộ của người dân đối với các cầu thủ trẻ của chúng ta là sự tích hợp nhiều nhân tố: từ kỹ, chiến thuật của từng cá nhân và tập thể đội bóng đến tài năng của HLV Park Hang-seo, tinh thần đoàn kết, quật cường, ý chí, bản lĩnh và tất nhiên cả thêm yếu tố may mắn (vốn là một phần của bóng đá).
Với thành tích chưa từng có trong lịch sử, việc hàng triệu người dân xuống đường hoặc bằng các hình thức cổ vũ, hân hoan chào đón là điều hiển nhiên. Đó cũng là điều thường thấy trong môn “thể thao vua” ở nhiều nơi trên thế giới khi đội bóng của dân tộc họ lập thành tích, kỳ tích.
Việc biến hình ảnh hàng triệu người dân Việt Nam cờ đỏ sao vàng xuống đường ăn mừng và chào đón các cầu thủ trở về thành chuyện chính trị, xuyên tạc vấn đề thể thao thành “xuống đường giải tỏa áp lực tâm lý bị đè nén về chính trị” là một sự bẻ bút với động cơ đê hèn. Không một quốc gia nào chấp nhận việc đảo lộn sự thật vốn là niềm tự hào, tự tôn dân tộc như vậy. Ở đâu trên thế giới này, hành vi bôi đen dơ bẩn đó đều bị lên án, tẩy chay... 
Vọng Đức