Bài 1: Bảo vệ "đầu não" và "trái tim"

14/07/2021 21:49

Trong tình hình hiện nay, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trước hết phải bảo vệ cái gì? Tác giả cho rằng, trước hết phải bảo vệ những tư tưởng cơ bản về xây dựng Đảng của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong loạt bài này, tác giả sẽ làm rõ những vấn đề đặt ra...

Ta thường nói Đảng Cộng sản mang trong mình bản chất cách mạng và khoa học, nghĩa là Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, tiên phong cả về lý luận chính trị và tiên phong cả về tinh thần, tình cảm và hành động cách mạng, tiên phong trong đạo đức và tư cách làm người. Thiếu một trong hai tính tiên phong là: “đầu não” và “trái tim”, Đảng Cộng sản không còn là đảng tiên phong của giai cấp công nhân và dân tộc nữa. Không có lý luận tiên phong thì không thể làm tròn nhiệm vụ của đảng tiên phong...

Điều kiện cần và đủ của đảng tiên phong

Là một nhà bác học lỗi lạc nhưng trước hết Các Mác là một nhà cách mạng vĩ đại. Một trong những cống hiến lớn lao của Mác đối với nhân loại là nâng cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và mọi tầng lớp cần lao chống áp bức, bóc lột, bất công và tàn bạo từ trình độ tự phát lên trình độ tự giác mà người dẫn dắt cuộc đấu tranh đó là Đảng Cộng sản, bộ phận ưu tú, đội tiên phong của chính họ.

Bài 1: Bảo vệ "đầu não" và "trái tim"
Đảng Cộng sản Việt Nam - lựa chọn tất yếu của lịch sử và của nhân dân. Ảnh minh họa: dangcongsan.vn  

Mác phân biệt rõ đội tiên phong của giai cấp vô sản và mọi tầng lớp lao động cần lao với toàn thể giai cấp vô sản. Ông đã chỉ ra tính tất yếu khách quan của sự xuất hiện Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp vô sản, đồng thời ông cũng chỉ rõ những điều kiện cần và đủ để Đảng Cộng sản có thể làm tròn nhiệm vụ của đảng tiên phong.

Theo Mác thì hai điều kiện đó là có “đầu não” và “trái tim”.

“Đầu não” là trí tuệ, là triết học (phép biện chứng duy vật, sau này V.I.Lênin gọi là chủ nghĩa duy vật chiến đấu).

“Trái tim” là nhiệt huyết, dũng cảm, đi đầu trong cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột, bất công, tàn bạo; là lương tâm và trách nhiệm đối với quần chúng cần lao; là yêu thương con người và chống lại tất cả những cái xấu xa mất nhân tính.

Giai cấp công nhân đấu tranh để giải phóng mình, đồng thời giải phóng cho mọi tầng lớp xã hội, do đó nó phải tiến hành một cuộc cách mạng triệt để, mà theo Mác: “Triệt để có nghĩa là xét sự vật đến tận gốc rễ của nó. Nhưng gốc rễ đối với con người chính là bản thân con người”(1). Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và nhân dân lao động về bản chất là cuộc đấu tranh giải phóng triệt để con người mà lực lượng dẫn đầu ắt phải là một tổ chức vững mạnh gồm những con người kết hợp được cả “đầu não” và “trái tim”. “Đầu não của sự giải phóng ấy là triết học, trái tim của nó là giai cấp vô sản”(2).

Sự hăng hái nhiệt tình của “trái tim” cần phải được dẫn dắt bởi “đầu não” điềm tĩnh, sáng suốt, nếu không sự nhiệt tình ấy chỉ dẫn phong trào bùng lên một cách tự phát, hỗn loạn và thất bại. Chính vì thế Mác đã khẳng định cuộc đấu tranh, phê phán xã hội cũ, xây dựng xã hội mới “không phải là nhiệt tình của đầu óc mà là đầu óc của nhiệt tình”. Hiểu theo cách của người phương Đông, thì nhiệt tình mà thiếu hiểu biết, thì chỉ là “hữu dũng vô mưu”, hay như Hồ Chí Minh đã nói, nó chỉ như người mò mẫm trong đêm tối không có đèn, không có đuốc; hoặc như con tàu đi giữa biển rộng, bão giông mà không có la bàn.

Sự kết hợp giữa lý luận tiên tiến: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử với những người tiên tiến trong phong trào công nhân đã dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản.

Đảng không bao gồm những đảng viên đi tiên phong, gương mẫu trong đạo đức và hành động cách mạng thì Đảng cũng chỉ còn là một tổ chức lạc hậu (V.I.Lênin gọi là từ tiên phong rơi xuống hàng hậu vệ), nói suông và lừa phỉnh (chữ của Hồ Chí Minh). Bác Hồ thường nói một cách giản dị dễ hiểu: “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau” là muốn nhấn mạnh tính tiên phong của người cộng sản.

Dường như tiên lượng được về bệnh giáo điều, hủ luận có thể xảy ra với lớp hậu sinh, Mác đã nhiều lần nhấn mạnh, lý luận của Mác và bạn ông là Ph.Ăng-ghen, không phải là những công thức cứng đờ, càng không phải là những lời giải đáp có sẵn cho mọi vấn đề, mọi hoàn cảnh, mọi không gian và thời gian khác nhau mà ngược lại, các ông chỉ đặt những viên gạch đầu tiên cho lâu đài lý luận cách mạng mà các thế hệ kế tiếp phải ra sức bổ sung, phát triển. Chính V.I.Lênin và Hồ Chí Minh là những nhà cách mạng sáng tạo, thấm nhuần tinh thần của Chủ nghĩa Mác-Lênin, coi linh hồn sống của chủ nghĩa Mác là phép biện chứng duy vật, còn Hồ Chí Minh đã hành xử trong mọi tình huống với phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.

Lịch sử ra đời và phát triển của nhiều đảng cộng sản trên thế giới cho tới nay đã thể hiện rõ sự kết hợp biện chứng giữa “đầu não” và “trái tim” để làm nên tính tiên phong của một đảng chân chính cách mạng:

- Thời kỳ Mác còn sống: Đảng là sự kết hợp triết học (chủ nghĩa duy vật biện chứng) với phong trào công nhân.

- Sau khi Mác qua đời, với V.I.Lênin và Quốc tế III: Đảng là sự kết hợp Chủ nghĩa Mác với phong trào công nhân.

- Sau khi V.I.Lênin qua đời, những người cộng sản chân chính đánh giá đúng vai trò bảo vệ, phát triển Chủ nghĩa Mác của V.I.Lênin đã khẳng định: Đảng là sự kết hợp Chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân.

- Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ là một người học trò kiệt xuất của Mác-Lênin, trung thành, tự chủ, sáng tạo, gắn lý luận với thực tiễn Việt Nam, đã đưa ra và thực hành một sự kết hợp nhuần nhuyễn điển hình: Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kết hợp giữa Chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.

Sau khi Hồ Chí Minh qua đời, khẳng định sự đóng góp lớn lao của Người đối với việc vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói riêng và cách mạng thế giới nói chung, Đảng ta đã ra nghị quyết nêu rõ Đảng Cộng sản Việt Nam lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Đảng Cộng sản Việt Nam đã thể hiện rõ sự kết hợp Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam. Đảng luôn luôn là đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam. Đảng đã “trở thành hình thức tổ chức cao nhất của quần chúng lao động, hiện thân của trí tuệ, danh dự và lương tâm của dân tộc...”(3).

Bản lĩnh của Đảng để trừ "giặc nội xâm"

Gần một thế kỷ đã qua, mặc dù có lúc mắc sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng, có lúc rơi vào chủ quan duy ý chí, có lúc chưa nắm được quy luật khách quan... nhưng xuyên suốt lịch sử lãnh đạo nhân dân làm cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã luôn biết tự chỉ trích, nhận ra sai lầm, khuyết điểm, tự chỉnh đốn, đổi mới, tự vượt qua mọi trở lực khách quan và chủ quan để làm tròn nhiệm vụ của một đảng tiên phong, một đảng chân chính cách mạng. Về cơ bản, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giữ được vai trò là đội tiên phong chính trị của giai cấp và dân tộc, tiên phong cả trong lý luận cách mạng, trong đường lối chủ trương, trong quyết sách chính trị, trong chỉ đạo chiến lược và tiên phong gương mẫu trong hành động cách mạng, trong hy sinh anh dũng vì nền độc lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân.

Thời nào cũng có kẻ thù bên ngoài và bên trong. Thời nào cũng đều có ngoại xâm dưới hình thức này hay hình thức khác và luôn luôn bất cứ lúc nào, ở bất cứ nơi đâu, trong mỗi con người đều tiềm ẩn nội xâm. Nội xâm lúc này là tệ si mê quyền lực, vun vén lợi ích cá nhân, là chạy chức, chạy quyền, chạy tội là lợi dụng mọi sơ hở của cơ chế, chính sách, là lạm quyền, là thói vô trách nhiệm, là ô dù che chắn, là quan liêu, khinh thường kỷ cương phép nước, là cơ hội, tham nhũng, lãng phí, là ăn chơi xa đọa, là thói vô cảm trước vất vả, thiếu thốn, khó khăn của đồng bào, đồng chí... Nội xâm len lỏi vào hàng ngũ Đảng và Nhà nước... vào từng ngõ ngách xóm thôn, phường phố, cơ quan, công sở, vào từng gia đình, vào mọi tầng lớp và đến cả những người được đào tạo, có bằng cấp học vị, được giao chức trọng, quyền cao... Vì vậy, tính tiên phong của Đảng lúc này là phải có dũng khí, có bản lĩnh để dám trừ "giặc nội xâm" ở ngay trong mỗi đảng viên, cán bộ, tính tiên phong lúc này là sáng suốt trong các quyết sách chính trị, trong lãnh đạo, chỉ đạo phát huy sức mạnh tổng hợp, lòng yêu nước của toàn dân tộc, đặc biệt là làm tốt công tác tổ chức, kiểm tra, thực hiện đúng đắn chính sách dùng người. Tính tiên phong lúc này là dũng khí đấu tranh với đồng chí, đồng cấp, với cả cấp trên và cấp dưới vi phạm kỷ luật Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để trừ diệt mọi thói hư, tật xấu và tội lỗi. Tính tiên phong lúc này là làm trong sạch đội ngũ, là giáo dục, thuyết phục và trừng phạt công khai, công minh, bình đẳng trước kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đang sáng lên niềm tin và khát vọng của mọi người dân Việt Nam dù ở trong nước hay ở nước ngoài. Niềm tin và khát vọng ấy đang đặt lên vai những người vừa vinh dự được bầu vào cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng. Vinh dự càng cao, trách nhiệm càng lớn. Trách nhiệm và vinh dự của những chiến sĩ đi tiên phong trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân, trong cuộc đấu tranh cho hạnh phúc của xã hội. Mác vĩ đại đã dạy chúng ta rằng: “Hạnh phúc xã hội sản sinh ra lý trí chính trị”(4). Và đến lượt nó, lý trí chính trị của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đang đòi hỏi nâng cao chất lượng “đầu não” và “trái tim” của mỗi chúng ta.

PGS, TS TRẦN ĐÌNH HUỲNH

(1) C.Mác và Ph.Ăng-ghen, tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, 1980, tr.25. 

(2) Sđd, tr.35. 

(3) Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, H.2002, tr.517.

(4) C.Mác và Ph.Ăng-ghen, tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, 1980, tr.41. 

Ai đang âm mưu?

14/07/2021 09:19

Mấy ngày qua, lợi dụng phát ngôn của một số người thiếu hiểu biết và có cái nhìn phiến diện về vấn đề nảy sinh khi sinh viên, tình nguyện viên của tỉnh Hải Dương vào TP Hồ Chí Minh tham gia chống dịch Covid-19, các thế lực thù địch, bất mãn đã thổi phồng thông tin, đánh lái dư luận theo nhiều chiều hướng tiêu cực.

Mục đích của họ nhằm kích động chia rẽ vùng miền, làm suy yếu sức mạnh trong cuộc chiến chống dịch Covid-19 và sâu xa hơn là âm mưu phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam.

Họ vẽ ra kịch bản trong tưởng tượng rằng, có một “âm mưu chính trị” đằng sau lý do giúp TP Hồ Chí Minh chống dịch Covid-19 với cái mà chúng gọi là “đội quân Nam tiến của miền Bắc”. Các thế lực thù địch tự khẳng định "TP Hồ Chí Minh có thể tự phòng, chống dịch chứ không cần người miền Bắc vào giúp đỡ". Từ đây, họ kích động người dân tại TP Hồ Chí Minh tẩy chay, từ chối sự giúp đỡ chống dịch của những tình nguyện viên từ các tỉnh. Không dừng lại ở đó, những kẻ bất mãn, thù địch còn cố ý gợi lại lịch sử đau thương của dân tộc trong thời kỳ đế quốc, thực dân chia cắt hai miền Nam-Bắc để phụ họa cho giọng điệu chống phá: "Miền Nam và miền Bắc không thể là một trong cuộc chiến chống dịch"(!).

Ai đang âm mưu?
Sinh viên tình nguyện lên đường vào TP Hồ Chí Minh hỗ trợ chống dịch Covid-19/Ảnh minh họa/TTXVN.  

Thế nhưng, ngay cả những cái đầu hoang tưởng đến đâu cũng chẳng hình dung nổi cái “âm mưu chính trị" đằng sau lý do giúp TP Hồ Chí Minh chống dịch Covid-19 là gì? Ngược lại, chỉ có sự thật hiện hữu mà mọi người dân Việt Nam đều biết, đó là, cả nước đang chung sức, đồng lòng quyết tâm đẩy lùi dịch bệnh, sớm mang lại cuộc sống bình yên cho nhân dân, để không chỉ TP Hồ Chí Minh mà cả nước tiếp tục khôi phục sản xuất, ổn định và phát triển kinh tế, xã hội.

Các thế lực thù địch cũng tưởng tượng rằng, gợi lại quá khứ nước ta bị chia cắt hai miền sẽ kích động được sự phân biệt, chia rẽ Bắc-Nam. Để đập tan âm mưu của đế quốc, thực dân, để non sông thống nhất một nhà, toàn dân tộc đã hy sinh biết bao máu xương và nước mắt. Không ai dại gì mong muốn chia cắt Bắc-Nam, bởi đó là điều mà không đất nước nào mong muốn.

Việc các thế lực thù địch cố tình lợi dụng chống phá khối đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam chính là âm mưu thâm độc, nham hiểm. Nhưng thủ đoạn nêu trên, ai cũng biết là rất thô vụng, thể hiện sự bất lực "cắn càn"!

DUY VĂN

Tư duy cát cứ, giả danh yêu nước

12/07/2021 05:00

Cụm từ “cát cứ” hiểu theo nghĩa của Từ điển tiếng Việt là muốn chiếm cứ một vùng, tự lập chính quyền riêng mà không phục tùng chính quyền Trung ương. Hiểu theo nghĩa thông thường là muốn tự thâu tóm quyền hành, tự quản lý, điều hành, tự “xưng hùng, xưng bá” ở một địa bàn nhất định.

Cứ nghĩ rằng ở nước ta trong thời đại ngày nay, tư duy cát cứ sẽ không còn chỗ để tồn tại. Bởi từ sau năm 1975, dân tộc được giải phóng, đất nước thống nhất, núi sông đã liền một dải, chúng ta cũng đã và đang vững vàng xây dựng chủ nghĩa xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Ở cấp Trung ương, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có đầy đủ các cơ quan lập pháp (được lập ra do bầu cử công khai theo hình thức phổ thông đầu phiếu), tư pháp, hành pháp phối hợp hoạt động thông qua vai trò của các cơ quan chức năng. Ở cấp địa phương có hệ thống chính quyền nhân dân các cấp (được tổ chức chặt chẽ thông qua bầu cử phổ thông đầu phiếu) thay mặt Nhà nước làm công tác quản lý, điều hành mọi hoạt động của xã hội, với mục tiêu xây dựng nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. 

Với cách tổ chức như trên, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phát huy được vai trò làm chủ của nhân dân, không ngừng mở rộng dân chủ, do đó đã huy động được sức mạnh của toàn dân tộc hướng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Thế nhưng mấy năm gần đây, có một số linh mục cực đoan đã liên tục đăng đàn (thông qua thuyết giảng, làm lễ trong giáo xứ, thông qua mạng xã hội) để xuyên tạc tình hình đất nước, xuyên tạc hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với xã hội, sự lãnh đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền các cấp ở địa phương.

Một số linh mục còn tự cho mình cái quyền được “thay chính quyền cấp cơ sở” điều hành các hoạt động trong giáo xứ. Họ kêu gọi, kích động nhân dân, nhất là các giáo dân trong giáo xứ do họ đảm nhiệm vai trò mục vụ không chấp hành các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, không thực hiện các quy định của địa phương, vận động giáo dân sang nhượng, hiến đất trái phép, rồi tự ý xây dựng, mở rộng khuôn viên nhà thờ, tu viện; tự huy động lực lượng, phương tiện san lấp mặt bằng, lấn chiếm đất đai do chính quyền địa phương quản lý để thực hiện cái gọi là “phục vụ lợi ích của giáo dân”...

Hành vi vô pháp

Qua theo dõi cho thấy, từ tháng 5-2021 đến nay, trên địa bàn các tỉnh miền Trung như: Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Thừa Thiên Huế... đang xảy ra hiện tượng một số linh mục tuyên truyền, xúi giục giáo dân tụ tập đông người, huy động máy móc, phương tiện san lấp mặt bằng trái phép để xây dựng, mở rộng khuôn viên và xây dựng các công trình cho nhà thờ. Chẳng hạn, ngày 7-5, Hội đồng mục vụ Giáo xứ Mục Sơn (Thanh Hóa) đã tổ chức cho giáo dân tập kết vật liệu để xây tường bao quanh khu đất nông nghiệp rộng khoảng 3.000m2 cạnh nhà thờ giáo xứ để tiến hành mở rộng khuôn viên. Đến ngày 25-6, linh mục Nguyễn Văn B. đã chỉ đạo giáo dân thuê phương tiện, tổ chức san lấp trái phép khoảng 300m2 đất.

Cũng trong ngày 7-5, linh mục Đặng Ch. (Thừa Thiên Huế) huy động khoảng 20 đan sĩ ra đồi Đức mẹ do Lâm trường Tiền Phong quản lý tổ chức cầu nguyện, nhằm từng bước khẳng định khu đất này là của đan viện. Ngày 19-6, linh mục này tiếp tục huy động 65 đan sĩ và giáo dân ra vị trí này để tổ chức cầu nguyện. Hoặc ngày 5-6, linh mục Nguyễn Anh T. (Nghệ An) chỉ đạo giáo dân huy động phương tiện san lấp mặt bằng trái phép trên khu đất nông nghiệp rộng 2.100m2. Cùng ngày, linh mục Nguyễn Duy Kh. (Nghệ An) cũng huy động giáo dân san lấp trái phép khoảng 2.800m2 đất nông nghiệp để mở rộng khuôn viên nhà thờ. Ngày 8-6, linh mục Trần Trọng H. (Bình Thuận) huy động giáo dân dựng trái phép 41 cột bê tông xung quanh mảnh đất rộng khoảng 1.200m2 (thuộc khu đất đã được chính quyền địa phương quy hoạch xây dựng khu du lịch sinh thái) với mục đích là để mở rộng khuôn viên nhà thờ. Mới đây, ngày 30-6, linh mục Lê Văn Kh. (Quảng Bình) đã huy động giáo dân thuê phương tiện san lấp trái phép khu đất rộng gần 12.000m2 để mở rộng khuôn viên giáo xứ... bất chấp sự tuyên truyền, vận động của cấp ủy, chính quyền địa phương, thậm chí một số giáo dân quá khích còn lao vào giằng co, cố ý chống lại lực lượng chức năng khi họ thực thi công vụ.

Tư duy cát cứ, giả danh yêu nước
Các linh mục, giáo dân ở Việt Nam cũng đều là công dân, do đó phải có nghĩa vụ và bổn phận chấp hành luật pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam như mọi công dân khác. Ảnh minh họa: TTXVN. 

Điểm qua một số vụ việc để thấy, dường như việc tổ chức lấn chiếm đất đai để mở rộng khuôn viên nhà thờ, xây dựng các công trình của giáo xứ là công việc khá “thường xuyên” của một số linh mục. Khi các linh mục thực hiện hành vi nêu trên, bao giờ họ cũng núp dưới danh nghĩa “vì giáo xứ, vì giáo dân”. Nhưng thực chất, đây là một hành động coi thường pháp luật, được tiến hành bài bản, có tổ chức, bất chấp sự tuyên truyền, vận động, khuyến cáo, ngăn chặn của lực lượng chức năng và chính quyền địa phương.

Có thể gọi hành động của một số linh mục nêu trên là “vô pháp, vô thiên”. Họ muốn khẳng định trước giáo dân trong giáo xứ rằng mình có thể “muốn làm gì cũng được”, từ đó hòng gây thanh thế, tạo dựng uy tín cá nhân, lôi kéo, kích động giáo dân làm những việc trái quy định của pháp luật. Điều này đã từng xảy ra trên địa bàn giáo phận Vinh vào năm 2016, khi một số tỉnh ven biển miền Trung bị ô nhiễm môi trường biển do nhà máy Formosa xả thải gây ra. Tại thời điểm này, một số linh mục cực đoan đã kêu gọi giáo dân tụ tập đông người, ngăn chặn quốc lộ gây ách tắc giao thông và rối loạn về an ninh trật tự ở địa phương... Còn hiện nay, những hành vi trái pháp luật, trái đạo đức xã hội, trái với những điều quy định của giáo hội mà một số linh mục đã thể hiện qua việc lấn chiếm đất công đang tạo những hệ lụy xấu tại các địa phương.

Giả danh yêu nước, xúi giục giáo dân

Hẳn nhiều người còn nhớ vào dịp tháng 4-2017, khi người dân cả nước tưng bừng kỷ niệm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước thì một số linh mục trên địa bàn giáo phận Vinh đã đăng đàn diễn thuyết với những lời nói hết sức bậy bạ, xuyên tạc, phủ nhận thành quả cách mạng của cả dân tộc trong suốt các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ. Họ cho rằng cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là “cuộc nội chiến”, rồi xuyên tạc việc sử dụng bạo lực cách mạng để tiến công lực lượng phản cách mạng, giải phóng miền Nam là "sự lựa chọn sai lầm” của Đảng, họ coi ngày 30-4 là “ngày đen tối” của dân tộc...

Ngay sau khi nội dung thuyết giảng của các linh mục này tán phát lên mạng xã hội đã gây ra sự phẫn nộ trong các tầng lớp nhân dân, nhất là đối với các cựu chiến binh đã từng hy sinh xương máu trong các cuộc kháng chiến giành độc lập, tự do cho dân tộc. Các linh mục này sau đó đã bị xử lý theo đúng quy định của giáo hội và quy định của pháp luật, có linh mục đã bị cho nghỉ mục vụ.

Không chịu rút kinh nghiệm từ những sai phạm của một số linh mục, những ngày gần đây, trên địa bàn một số tỉnh miền Trung tiếp tục xuất hiện một vài linh mục đăng đàn xuyên tạc tình hình chính trị, kinh tế-xã hội của đất nước. Chẳng hạn ngày 11-5, linh mục Nguyễn Văn S. (Nghệ An) đã lợi dụng lễ thường nhật, tập trung khoảng 350 giáo dân, tuyên truyền, xuyên tạc về diễn biến dịch Covid-19 và tình hình chống dịch ở các địa phương. Ngày 6-6, linh mục Nguyễn Ngọc Ng. (Nghệ An) lợi dụng việc giảng đạo cho khoảng 450 giáo dân tại nhà thờ xứ đã tuyên truyền, xuyên tạc việc các tổ chức, cá nhân đang hưởng ứng ủng hộ kinh phí cho công tác phòng, chống dịch và cho rằng đó là do “chính phủ huy động tiền của dân để mua vaccine của Trung Quốc”, rồi hô hào, kêu gọi giáo dân “tẩy chay” vaccine.

Đây là hành động rất thiếu hiểu biết và phi khoa học, thể hiện sự suy diễn, nhận định chủ quan, ấu trĩ của một số linh mục. Rồi linh mục Phan Văn A. (Thừa Thiên Huế) thì cho rằng việc cơ quan chức năng khởi tố vụ án hình sự đối với các thành viên Hội thánh truyền giáo Phục Hưng là “không có căn cứ”, vu cáo chính quyền “đàn áp tôn giáo”. Trong khi đó hành động tụ tập đông người làm phát tán dịch bệnh của Hội thánh truyền giáo Phục Hưng là có thật. Những hành động của các linh mục nêu trên đã được một số linh mục cực đoan khác hùa theo, cổ xúy hòng tạo ra làn sóng dư luận để nâng cao uy tín, tạo thanh thế cá nhân của các linh mục.

Có một điều đáng chú ý là ngoài việc tuyên truyền, kích động, xuyên tạc về mọi lĩnh vực từ tình hình kinh tế, chính trị... đến văn hóa, lịch sử của đất nước, các linh mục cực đoan luôn cho rằng mình mới là “người yêu nước”, mình mới là người dám nói ra những điều hạn chế, tiêu cực trong xã hội. Họ tự khoác lên mình cái danh “yêu nước, vì cộng đồng, vì giáo dân”, nhưng nhìn lại thì thấy toàn bộ những hành động, lời nói của họ đều hướng vào sự chia rẽ, gây mất đoàn kết giữa đồng bào theo đạo và đồng bào không theo đạo, gây nên sự rối ren về an ninh trật tự ở cơ sở, đồng thời lôi kéo một số giáo dân vào con đường vi phạm pháp luật.

Điều nguy hiểm là họ muốn tách các giáo xứ thành một không gian riêng, trong đó họ tự coi mình như một “ông vua”. Thật đáng tiếc là hiện nay đang có một số giáo dân thiếu sự tỉnh táo, mê muội trước những lời thuyết giảng của một số linh mục cực đoan, hùa theo sự xúi bẩy, kích động của họ để gây rối ở địa phương. Vấn đề này rất cần cấp ủy, chính quyền địa phương tiếp tục tuyên truyền, giáo dục để các giáo dân có nhận thức đầy đủ về luật pháp, tuân thủ đúng phương châm của giáo hội là “kính Chúa, yêu nước, sống phúc âm trong lòng dân tộc”.

Bên cạnh việc giáo dục, thuyết phục, cũng cần phải nói rõ rằng: Tất cả các nước trên thế giới đều xây dựng hệ thống luật pháp để quản lý xã hội và bảo vệ lợi ích quốc gia. Đối với nước ta, hệ thống luật pháp ngày càng được hoàn thiện, bao trùm, điều chỉnh mọi lĩnh vực, mọi hành vi trong đời sống xã hội. Việc duy trì luật pháp dựa trên nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật. Các linh mục, giáo dân ở Việt Nam cũng đều là công dân, do đó phải có nghĩa vụ và bổn phận chấp hành luật pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam như mọi công dân khác.

Vì vậy, việc một số linh mục cực đoan tự cho mình cái quyền “đứng trên pháp luật, đứng ngoài pháp luật”, phát ngôn bừa bãi, xúi bẩy giáo dân lấn chiếm đất đai trái phép, hành động bất chấp các quy định của pháp luật là điều không thể chấp nhận. Hành vi của các linh mục cực đoan đứng phía sau kích động, giật dây cho một số giáo dân thiếu hiểu biết làm những điều sai trái như đã nêu ở trên cần phải được các cơ quan chức năng làm rõ, xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật để giữ vững kỷ cương, phép nước.

TRẦN VŨ

Vẫn “lạc điệu” trong đánh giá tình hình nhân quyền ở Việt Nam

 08:10 12/07/2021

Thêm một lần nữa, những nội dung trong báo cáo mà “Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam” đưa ra trong năm 2020-2021 đều phản ánh sai lệch, thiếu khách quan, xuyên tạc thực tế về vấn đề nhân quyền và can thiệp vào công việc nội bộ Việt Nam...

Ngày 20/6/2021 vừa qua, “Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam” đã công bố cái gọi là “báo cáo nhân quyền tại Việt Nam năm 2020-2021” dài 107 trang, trong đó đề cập đến 8 quyền: Quyền sống; quyền tự do và an ninh thân thể; quyền được xét xử công bằng bởi toà án độc lập và vô tư; quyền được tham gia đời sống chính trị quốc gia; quyền tự do phát biểu và tự do thông tin; quyền tự do tôn giáo và thờ phượng; quyền được làm việc và hưởng thụ thành quả lao động; quyền được đối xử bình đẳng không kỳ thị và quyền được hưởng cuộc sống an lạc. Đồng thời, báo cáo còn đưa ra 3 phụ lục về cái gọi là “danh sách tù nhân lương tâm bị bắt giam trong năm 2020-2021”; “danh sách tù nhân lương tâm còn bị giam cầm” và “giải thưởng Nhân quyền Việt Nam 2020”...

Vẫn góc nhìn sai lệch

Thêm một lần nữa, những nội dung trong báo cáo mà “Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam” đưa ra trong năm 2020-2021 đều phản ánh sai lệch, thiếu khách quan, xuyên tạc thực tế về vấn đề nhân quyền và can thiệp vào công việc nội bộ Việt Nam. Báo cáo cho rằng, sau hơn 5 năm kể từ ngày vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, đến lần kiểm điểm định kỳ năm 2019 theo đánh giá của Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc, khuôn khổ pháp lý của Việt Nam “vẫn chưa tương thích với Công ước quốc tế và Việt Nam vẫn tiếp tục vi phạm những quyền cơ bản, từ phân việt đối xử, bắt, giam giữ tùy tiện, vi phạm các đảm bảo về xét xử công bằng đến hạn chế quyền tự do tôn giáo, tự do quan điểm và biểu đạt, tự do lập hội”.

Là tổ chức được thành lập vào năm 1997, có trụ sở tại Hoa Kỳ, “Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam” hoạt động dưới danh nghĩa “quy tụ một số cá nhân và đoàn thể dấn thân trong lãnh vực tranh đấu và bảo vệ nhân quyền và tự do mà mọi người dân Việt Nam đều có quyền hưởng như đã được quy định trong Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và các văn kiện quốc tế nhân quyền khác”.

Vậy nhưng trên thực tế, báo cáo mà họ đưa ra hằng năm đều đi ngược lại với mục đích, tôn chỉ hoạt động của mình, nội dung báo cáo sai lệch, phản ánh một cách phiến diện, thiếu khách quan, minh bạch về thực tiễn tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam.

Pháp lý và thực tiễn khách quan về nhân quyền ở Việt Nam

Trong các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước từ trước đến nay, quyền con người và pháp luật về quyền con người là nội dung rất quan trọng, được quy định cụ thể trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và đặc biệt là Hiến pháp năm 2013 đã thể chế hóa quan điểm của Đảng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và chuẩn mực quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia.

Hiến pháp năm 2013 bao gồm 11 chương, 120 điều, trong đó riêng Chương II có 36 điều quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Đồng thời, các nội dung liên quan đếnquyền con người không chỉ được quy định trong Chương II mà còn được đưa vào các chương khác của Hiến pháp, tạo cơ sở pháp lý cao nhất để mọi người được thụ hưởng, thực hiện và bảo vệ quyền con người của mình.

Điểm đáng chú ý là khi quy định quyền con người, quyền công dân, các điều của Hiến pháp xác định rõ “mọi người có quyền”, “công dân có quyền” để khẳng định tính pháp lý của các quyền được Hiến pháp thừa nhận, tôn trọng và bảo vệ. Đồng thời, để bảo đảm quyền con người trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, hệ thống pháp luật về quyền của con người cũng đã được bổ sung, hoàn thiện như việc ban hành Luật Báo chí; Luật Tín ngưỡng, tôn giáo; Luật Tiếp cận thông tin; Luật An ninh mạng…

Bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật để đảm bảo quyền con người, Việt Nam cũng đã tham gia hầu hết các công ước quốc tế cơ bản, quan trọng nhất về quyền con người và được luật hóa. Cụ thể, tham gia 4 Công ước Geneve của Luật Nhân đạo quốc tế năm 1957 (cải thiện tình trạng cho thương binh và bệnh binh thuộc lực lượng vũ trang chiến đấu trên bộ; cải thiện tình trạng của thương binh, bệnh binh và những người đắm tàu thuộc lực lượng vũ trang trên biển; đối xử với tù binh chiến tranh; bảo vệ thường dân trong thời gian chiến tranh).

Tham gia Công ước về quyền dân sự, chính trị; Công ước về quyền kinh tế - xã hội và văn hóa, ký ngày 24/9/1982; Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, ký ngày 18/12/1982; Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc, ký ngày 19/3/1982; Công ước về quyền trẻ em, ký ngày 20/2/1990; Công ước về quyền của người khuyết tật, ký ngày 22/10/2007; tham gia trong việc thành lập Ủy ban liên Chính phủ ASEAN về nhân quyền, ký ngày 23/10/2009, Ủy ban thúc đẩy và bảo vệ quyền phụ nữ và trẻ em ASEAN (ACWC), ngày 7/4/2010...

Thời gian qua, quyền con người được quy định một cách rõ ràng, cụ thể trong Hiến pháp và pháp luật Việt Nam. Việc đảm bảo quyền con người là chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp, pháp luật. Những thành quả trong việc bảo đảm, tôn trọng quyền con người và nâng cao chất lượng thụ hưởng các quyền con người của mọi người dân được thể hiện trên mọi lĩnh vực, ở mọi điều kiện, hoàn cảnh và đã được cộng đồng quốc tế, Liên hợp quốc ghi nhận, đánh giá cao.

Điển hình như, Việt Nam là một trong sáu quốc gia thành viên Liên hợp quốc đã hoàn thành phần lớn các Mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ trước thời hạn năm 2015 và được xem là tấm gương điển hình của cộng đồng quốc tế trong thực hiện mục tiêu phát triển bao trùm, không ai bị bỏ lại phía sau của Liên hợp quốc.

Tạp chí The Economist tháng 8/2020 xếp Việt Nam trong tốp 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới. Năm 2019, Việt Nam đã vinh dự lọt vào tốp 10 danh sách những quốc gia đáng sống và làm việc nhất thế giới. Việt Nam nằm trong nhóm các nước có tốc độ tăng trưởng chỉ số HDI cao nhất trên thế giới vào năm 2019.

Theo Báo cáo “Phát triển con người năm 2019” được Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) công bố ngày 9/12/2019, với chỉ số HDI là 0,63, Việt Nam xếp thứ 118 trong tổng số 189 nước. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam tăng 4,8 năm, số năm đi học trung bình tăng 4,3 năm, thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng trên 354%; tỷ lệ nghèo đa chiều ở Việt Nam giảm từ 9,88% (năm 2015) xuống còn 3,73% (năm 2019)...

Theo báo cáo của trang mạng "We are social", năm 2020 Việt Nam có hơn 68 triệu dân sử dụng Internet (chiếm tỷ lệ 70% dân số) với mục đích sinh kế, học tập, giải trí, biểu đạt và thực hiện các quyền con người của mình, kể cả những quyền dân sự, chính trị như tham gia đóng góp ý kiến vào các dự thảo văn bản chính sách, pháp luật, văn kiện Đại hội Đảng.

Đồng thời, với những thành tựu trong việc tôn trọng, bảo đảm về quyền của con người, Việt Nam được tín nhiệm là thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014 - 2016). Tại khóa họp lần thứ 73, tại trụ sở Liên hợp quốc vào ngày 7/6/2019, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã bầu Việt Nam làm Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021 với số phiếu gần tuyệt đối (192/193 phiếu).

Mới đây, Việt Nam đã hoàn thành tốt vai trò Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc trong tháng 1 và tháng 4 năm 2021 với nhiều dấu ấn, đóng góp, trong đó có vấn đề bảo đảm quyền con người trước đại dịch COVID-19 được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao và thể hiện uy tín, vị thế quốc tế ngày càng tăng của Việt Nam.

Thành tựu đảm bảo nhân quyền tại Việt Nam trên các lĩnh vực đời sống văn hóa, xã hội, kinh tế, đặc biệt là những thành tựu của Việt Nam trong việc phòng, chống dịch COVID-19 và bảo đảm quyền sống là quyền cao nhất trong đại dịch COVID-19 là những minh chứng rõ nét nhất trong bảo đảm quyền của con người trước những biến cố, đại dịch mà người dân trên toàn thế giới phải trải qua.

Việt Nam không có cái gọi là “tù nhân lương tâm”

Trong báo cáo của Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam còn đưa ra phụ lục về cái gọi là “danh sách  tù nhân lương tâm bị bắt giam trong năm 2020-2021”; “danh sách tù nhân lương tâm còn bị giam cầm”... Tuy nhiên, đây cũng chỉ là âm mưu, thủ đoạn lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do báo chí, hội họp mà Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam sử dụng để chống phá Việt Nam. Việt Nam không có cái gọi là “tù nhân lương tâm” mà chỉ có những công dân vi phạm pháp luật Việt Nam bị bắt giữ, truy tố và xét xử; các đối tượng bị bắt giữ, xử lý do vi phạm pháp luật Việt Nam, được điều tra, xét xử theo đúng quy định Bộ luật Tố tụng Hình sự, phạm nhân trong trại giam được bảo đảm các quyền theo quy định của pháp luật.

Những người mà Mạng lưới Nhân quyền gọi là “tù nhân lương tâm” như Nguyễn Tường Thụy, Phạm Chí Dũng, Lê Hữu Minh Tuấn, Nguyễn Thúy Hạnh, Phạm Đoan Trang, Lê Trọng Hùng, Đoàn Kiên Giang, Nguyễn Phước Trung Bảo, Cấn Thị Thêu, Trịnh Bá Phương, Trịnh Bá Tư, Nguyễn Văn Hóa... thì thực tế, đây là những đối tượng lợi dụng quyền tự do ngôn luận, báo chí, sử dụng mạng xã hội xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự xã hội, cổ súy tuyên truyền chống phá đất nước. Hằng năm, Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam còn đưa ra cái gọi là “Giải thưởng Nhân quyền” để “vinh danh” những người vi phạm pháp luật bị bắt và xử lý.

Mọi cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật Việt Nam thì lẽ dĩ nhiên phải chịu những hình thức xử lý của pháp luật Việt Nam và đó cũng chính là minh chứng trong việc bảo đảm sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi cá nhân, tổ chức. Do đó, việc liệt kê danh sách các “tù nhân lương tâm” hay cái gọi là “Giải thưởng Nhân quyền Việt Nam” hằng năm cũng chỉ là chiêu trò mà Mạng lưới Nhân quyền Việt Nam hay một số tổ chức như RSF, AI, Freedom House... đã lợi dụng để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Và rõ ràng, thêm một lần nữa, họ lại chứng tỏ sự trái lối, lạc điệu trong tiếp cận vấn đề nhân quyền ở Việt Nam.

Phan Dương

20 năm “đi lạc” và những vụ diễn trò của Lê Dũng Vova

 07:48 05/07/2021

Như tin đã đưa, ngày 30/6, cơ quan An ninh điều tra (ANĐT) Công an TP Hà Nội đã bắt được bị can Lê Văn Dũng (tức Lê Dũng Vova), sau hơn một tháng trốn truy nã. Hiện Lê Văn Dũng đang bị tạm giam để phục vụ công tác điều tra, xử lý theo quy định. Đây là cái kết đã được báo trước cho chuỗi thời gian tự xưng nhà báo, học giả, tham gia các hội, nhóm hoạt động chống phá đất nước dưới cái mác dân chủ, cải cách…

Lê Văn Dũng, sinh năm 1970, tại Hà Nội, trú tại phường Hà Cầu, quận Hà Đông. Trước khi “dấn thân” vào “nghề dân chủ”, Dũng là kỹ sư nhưng với ảo vọng ngông cuồng đã khiến Dũng lần lượt gia nhập và là thành viên của rất nhiều hội, nhóm bất hợp pháp như No-U Hà Nội, Hội Bầu Bí tương thân, Hội nhà báo độc lập; thường xuyên tham gia biểu tình trái phép. Dũng cũng đã lập và là chủ nhân của những blog như lacainews9.blogspot.com, lehienduc2013.blogspot.com, thường xuyên đưa các bài viết, hình ảnh có nội dung sai lệch, đả phá chế độ, chính quyền nhân dân.

Lê Văn Dũng tự phong cho mình là một “học giả”, nghe có vẻ trí thức nhưng sự oái ăm của Dũng cũng chính bởi danh hiệu tự phong có vỏ mà không có lõi. Thay vào đó, hoạt động thường xuyên và chủ yếu của Dũng là tự quay livestream Facebook, YouTube, bày tỏ quan điểm sai trái.

Bị can Lê Văn Dũng.

Suốt quãng thời gian qua, Dũng xuất hiện nhiều trong các hoạt động biểu tình, tuần hành do đội bóng dưới danh nghĩa No-U Hà Nội tổ chức với những chương trình như “Chủ nhật tươi hồng” vào các năm 2011, 2012. Ngoài tư cách là thành viên tích cực và chủ chốt của No-U Hà Nội, với tư cách cá nhân, Dũng từng làm trò gây chú ý với những sự việc điển hình như:

Vụ 3/7 nữ sinh của Trường Đại học Ngoại thương tử nạn trong một mùa hè tình nguyện. Trước cái chết thương tâm của các em, thay vì dùng chính tình thương để sẻ chia, để an ủi thì trái lại, Dũng đã thốt lên những lời suy diễn khó nghe và xỉ vả nền giáo dục, bôi nhọ chế độ: “Một hệ thống giáo dục ấu trĩ: sinh viên đại học của một quốc gia cạnh biển, nhiều sông suối nhưng không bắt buộc học bơi, đi học triết Mác Lê, dao găm nên chết đuối. Cũng không bắt buột học lái xe máy, ôtô nên ra đường chết cả loạt vì tai nạn”. Phát biểu trên hoàn toàn mang mục đích chống phá chứ không vì bất cứ sự chia sẻ hay vì sự tiến bộ nào. Mục đích của những luận điệu này là nhằm đả phá, tấn công vào nền giáo dục và quy kết rằng đó là sản phẩm lỗi của chế độ cộng sản!

Lê Văn Dũng thường tung tin bịa đặt về tình hình nội bộ chính quyền địa phương. Khi dư luận báo chí, mạng xã hội râm ran chuyện “cả họ làm quan”, chỉ trích ông Triệu Tài Vinh, khi đó là Bí thư Tỉnh uỷ Hà Giang thì Dũng vừa có các bài viết nhắm vào ông Triệu Tài Vinh, vừa quy kết, suy diễn “lỗi do chế độ”. Dũng cho rằng, dưới chế độ cộng sản, chỉ “đẻ” ra những sản phẩm “cả họ làm quan”, không có chỗ cho người nghèo, người giỏi tiến thân. Từ đó kêu gọi tẩy chay chế độ, chỉ trích, chống phá Đảng.

Dũng từng lấy một ảnh chụp ống cống xả thải ở Đà Nẵng, sau đó phao tin áp đặt tuyên truyền rằng sự việc xảy ra ở Hà Tĩnh trong bối cảnh dư luận bức xúc sau vụ Formosa xả thải gây ô nhiễm môi trường biển nhằm “đổ dầu vào lửa”, kích động quần chúng nhân dân biểu tình. Lê Dũng Vova đã lợi dụng thời điểm “dễ tổn thương”, khi dư luận đang bức xúc để lập lờ đánh lận, tung tin, hình ảnh giả để phá hoại. Lê Văn Dũng hoàn toàn hiểu quy luật và mục đích của những thông tin kiểu này là gây náo loạn xã hội, kích động chống phá, làm giảm lòng tin của người dân vào chế độ.

Lê Văn Dũng cũng từng dính lùm xùm trên mạng xã hội liên quan nghi vấn biển thủ tiền từ thiện. Cụ thể, trong một lần minh bạch hóa hoạt động lợi dụng từ thiện, giả danh “đấu tranh dân chủ” để kiếm tiền, nhóm bất hợp pháp “Minh bạch Việt Nam” do Lâm Ngân Mai cầm đầu đã lên mạng tố cáo không ít người vốn tự xưng đấu tranh cho dân chủ, trong đó có Lê Dũng Vova. 

Các thông tin của nhóm “Minh Bạch Việt Nam” cho biết: “Dựa vào kết quả công bố của Nguyễn Lân Thắng về số tiền ủng hộ cho đồng bào lũ lụt miền Trung vừa qua, “4 người chúng tôi gồm anh Lê Dũng Vova, anh Lã Việt Dũng, chị Mai Phương Thảo và tôi Nguyễn Lân Thắng đã nhận được mỗi người hàng trăm triệu đồng, hàng ngàn đô la Mỹ và nhiều loại ngoại tệ khác nhau”, riêng Lê Dũng Vova nhận được hơn 200 triệu cùng nhiều ngoại tệ nhưng sau đó, sau nhiều tháng hứa hẹn không thấy Lê Dũng Vova “minh bạch” các khoản tiền nhận/chi này. Ngày 28/11/2016, ông Lê Dũng Vova còn có tên trên bản công bố tiền nhận được của ông Nguyễn Lân Thắng rằng: “Phần Vova thứ 6 ra nhờ sao kê chưa được, bà con vui lòng thông cảm”. Từ đó đến nay, đã hơn 5 năm, xem trên Facebook, các trang chính thức của Lê Dũng Vova không thấy ông công bố minh bạch bản sao kê ông đã thực nhận được bao nhiêu tiền”. Vụ này sau đó không rõ thực hư thế nào song nó cũng cho thấy những khuất tất phía sau bức màn từ thiện của Lê Dũng Vova.

Trên thực tế, Dũng thường lợi dụng các sự kiện xã hội nhạy cảm để tát nước theo mưa, kích động, thêu dệt làm trầm trọng hóa vấn đề. Mục đích nhằm hướng lái dư luận xã hội theo chiều hướng tiêu cực.

Gần 20 năm đi vào con đường sai trái, Lê Văn Dũng hăng hái tham gia hoạt động của các tổ chức chống đối, như nhóm No-U, Hội Bầu Bí tương thân, rồi các vụ khiếu kiện đất đai ở Đông Anh (Hà Nội), Tiên Lãng (Hải Phòng), Văn Giang (Hưng Yên) đến ô nhiễm môi trường (Formosa)… Nhưng do bản chất các đối tượng chủ yếu là mưu lợi cá nhân dẫn đến sự nghi kỵ, chia rẽ nội bộ, mâu thuẫn, chửi bới, tố cáo lẫn nhau nên Lê Văn Dũng chọn cho mình một con đường riêng và kênh TV qua Facebock “CHTV Việt Nam” ra đời, Dũng tự phong cho mình là “nhà báo”.

Lê Văn Dũng là thành viên cốt cán của các tổ chức chống phá như nhóm No-U, Hội Bầu Bí tương thân, Hội nhà báo độc lập. Dũng đã từng bị Công an TP Hà Nội bắt vào năm 2017 về hành vi hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân và chiếm đoạt tiền bạc từ hải ngoại gửi về trợ giúp hoạt động “dân chủ” của các thành viên Non-U và một số quỹ từ thiện. Từ đây, hoạt động của Dũng lộ ra nhiều góc khuất hơn.

Tuy nhiên, sau đó Dũng không hề ăn năn, hối cải. Với bản thành tích đen ngày càng dày lên, từ năm 2017 đến nay, từ “kênh 4” ban đầu, nhằm che giấu hành vi tuyên truyền, xuyên tạc để tránh bị cơ quan chức năng xử lý, đối tượng đã đổi tên “Kênh 4 phong trào chấn hưng nước Việt” thành “Thông tấn xã vỉa hè”, “Chấn hưng tivi”, “CHTV VietNam”… hoạt động livestream trực tuyến. Nội dung Lê Dũng Vova phản ánh tập trung xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước; xuyên tạc, xúc phạm đời tư của một số lãnh đạo; kích động biểu tình, phá rối an ninh trật tự; tuyên truyền, cổ súy “xã hội dân sự”, đa nguyên, đa đảng; đào tạo, huấn luyện kỹ năng hoạt động chống đối, cách thức thực hiện “cách mạng màu”, lật đổ chế độ tại Việt Nam… 

Đến nay, trên các trang tự lập, Lê Văn Dũng cùng đồng bọn đã thực hiện hàng nghìn video clip xuyên tạc, bóp méo sự thật về các vấn đề như: Quy hoạch bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), sân bay Tân Sơn Nhất (TP Hồ Chí Minh); vụ việc phức tạp tại trạm BOT Cai Lậy (Tiền Giang)… Hầu hết các video clip này đều được các tổ chức phản động lưu vong, các báo, đài nước ngoài có thái độ thù địch với Việt Nam khai thác, cổ súy. 

Thậm chí khi vụ việc xảy ra tại Đồng Tâm (Mỹ Đức, Hà Nội), Lê Văn Dũng cùng nhiều đối tượng chống đối trong, ngoài nước đã liên hệ với số đối tượng cốt cán của “Tổ đồng thuận” để “hỗ trợ pháp lý”, hướng dẫn cách thức đăng tải, cập nhật tình hình Đồng Tâm; viết đơn, thư gửi các tổ chức quốc tế, chính giới các nước nhằm kêu gọi sự hỗ trợ. Và cũng chính nhờ các buổi livestream đó mà những đối tượng chống đối có cơ hội nhận được sự hỗ trợ từ các thế lực phản động để phạm tội giết người, chống người thi hành công vụ.

Với những hành động đó, ngày 28/5/2021, cơ quan ANĐT Công an TP Hà Nội đã khởi tố Lê Văn Dũng về tội “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam”, quy định tại Điều 117, Bộ luật Hình sự.

Duy Ngọc