Phản bác luận điệu sai trái, xuyên tạc về di sản Hồ Chí Minh

Thứ Hai, 20/05/2024, 06:33

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa song Người để lại cho hậu thế những di sản vô cùng quý giá. Di sản Hồ Chí Minh luôn sống mãi trong sự nghiệp cách mạng, là kim chỉ nam dẫn đường, chỉ lối cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Di sản ấy là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do chính Người sáng tạo, để lại cho Đảng, dân tộc Việt Nam.

Di sản Hồ Chí Minh mang tính phổ quát, bền vững, vượt thời đại và vẹn nguyên tính thời sự. Chính vì thế, các thế lực thù địch luôn xem di dản của Người là một mục tiêu, trọng tâm chống phá. Việc nhận diện bản chất, bóc trần các âm mưu, thủ đoạn, bác bỏ những luận điệu sai trái, xuyên tạc về di sản Hồ Chí Minh, qua đó góp phần giữ vững trận địa tư tưởng, củng cố địa vị chủ đạo hệ tư tưởng của Đảng ta trong đời sống tinh thần xã hội có vai trò quan trọng.

Nhận diện âm mưu, thủ đoạn chống phá

Số tổ chức, cá nhân chống phá thường khoác áo “khách quan khoa học”, đội lốt “phản biện xã hội”, thậm chí họ mượn danh nghĩa “nhà nghiên cứu lý luận” hay núp bóng “nhà dân chủ”, “nhà nhân quyền” để ngụy biện tuyên truyền, đánh tráo học thuật, xảo biện các vấn đề cốt lõi trong di sản Hồ Chí Minh. Họ chống phá di sản Hồ Chí Minh cả về tư tưởng, đạo đức, phong cách, thân thế, sự nghiệp cách mạng của Người. Về tư tưởng, họ coi những luận điểm về chính trị, cách mạng của Người chỉ là bản sao của chủ nghĩa Mác - Lênin, vay mượn, cộng gộp các tư tưởng Nho giáo, Phật giáo, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn. Về đạo đức, số đối tượng xấu coi đạo đức của Người chỉ là “chủ nghĩa khổ hạnh” không thể học tập, làm theo. Về phong cách, họ phớt lờ tác phong, lề lối, phương pháp cách mạng, khoa học của Hồ Chí Minh.                       

Về thân thế, các đối tượng xấu bịa đặt, tung tin sai lệch, thất thiệt, bôi nhọ đời tư của Người.

Họ ra sức phủ nhận sự tồn tại của tư tưởng Hồ Chí Minh, cho rằng Hồ Chí Minh chỉ là nhà hoạt động thực tiễn chứ không phải nhà tư tưởng để hạ thấp di sản của Người. Một số đối tượng chống phá lại giả vờ “tôn vinh”, “tuyệt đối hóa” di sản văn hóa Hồ Chí Minh bằng cách so sánh, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin và cho rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, lạc hậu, hiện chỉ có tư tưởng Hồ Chí Minh là có giá trị. Từ đó, đòi tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực chất đây chính là thủ đoạn vờ “đề cao” bên này để “hạ bệ” bên kia nhằm đả kích, chống phá bởi chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận chủ đạo làm nên bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Bên cạnh đó, các thế lực thù địch còn cố tình cắt xén những câu nói, phát biểu, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh ra khỏi bối cảnh lịch sử để làm sai lệch tư tưởng của Người. Họ đối lập giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các phần tử chống phá cũng phủ nhận sự cần thiết, tính hiệu quả của việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Ngoài ra, họ còn đưa ra yêu sách vô lý, trắng trợn đòi từ bỏ việc bảo tồn di tích, bảo tàng có liên quan đến Người.

Các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội chính trị triệt để lợi dụng các tính năng ưu việt của Internet, mạng xã hội với tốc độ chia sẻ nhanh, độ tương tác rộng hay sử dụng hệ thống phát thanh, báo chí, xuất bản ở nước ngoài biến thành công cụ đắc lực phục vụ cho mưu đồ chống phá. Tính chất nguy hiểm của những phương thức, thủ đoạn chống phá ở chỗ: các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị sử dụng chiêu bài “thao túng tâm lý”; tạo dựng nhận thức sai lệch, mơ hồ, hoài nghi về lãnh tụ của cách mạng Việt Nam hòng gây hoang mang, dao động, làm lung lay niềm tin, giảm sút tình cảm của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh; tìm cách triệt tiêu động lực, khí thế, quyết tâm của hệ thống chính trị, toàn xã hội trong đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Từ khi Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cũng là lúc các thế lực thù địch tập trung chống phá di sản văn hóa Hồ Chí Minh quyết liệt. Thấy rõ di sản văn hóa Hồ Chí Minh là linh hồn, là tài sản vô giá của Đảng, của dân tộc và nhân dân Việt Nam nên các các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị muốn phá hủy tận gốc rễ nền tảng tư tưởng của Đảng, xóa bỏ biểu tượng Hồ Chí Minh trong trái tim, khối óc của nhân dân Việt Nam. Nhưng dù có dùng mọi chiêu trò chống phá vẫn không thể phủ nhận giá trị to lớn, sức sống trường tồn của di sản Hồ Chí Minh.

Thế giới đổi thay nhưng di sản Hồ Chí Minh sống mãi

Thực tế thắng lợi của công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây, sự nghiệp đổi mới hiện nay là minh chứng sống động, rõ nét cho thấy những đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh cả về mặt thực tiễn và tư tưởng lý luận. Cuộc đời Hồ Chí Minh đã cống hiến hết mình cho dân tộc, như Người từng chia sẻ: “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào... Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Trước lúc đi xa, trong bản Di chúc mà Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho đời sau, Người đã tâm sự: “Suốt đời tôi hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.

Trong suốt cuộc đời tận hiến cho cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chắt lọc những gì tốt đẹp nhất trong truyền thống văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại và cũng chính Người đã nâng tầm văn hóa dân tộc, đóng góp quan trọng vào dòng chảy lịch sử văn hóa thế giới. Điều này đã được Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định: “Tiếp nhận những tinh hoa văn hóa của nhân loại, ngăn chặn mặt tiêu cực thâm nhập, đồng thời phát huy được những giá trị xã hội và truyền thống tốt đẹp mang bản sắc dân tộc mình, đó là bản lĩnh, ý thức tự chủ, cốt cách và tinh thần độc lập của dân tộc Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển một cách sâu sắc”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc, là nhà văn hóa kiệt xuất bởi vai trò thúc đẩy của Người đối với sự phát triển của lịch sử, văn hóa dân tộc Việt Nam và đóng góp vào tiến trình lịch sử, văn hóa nhân loại. Người đã làm thay đổi vận mệnh dân tộc Việt Nam, từ thân phận nô lệ trở thành dân tộc tự do, độc lập. Đồng thời, Hồ Chí Minh còn truyền cảm hứng mạnh mẽ đối với nhân dân các dân tộc thuộc địa xóa đi sự nô dịch của chủ nghĩa thực dân trên thế giới. Người đã dẫn dắt dân tộc ta thực hiện mục tiêu hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh cho đất nước của mình, đồng thời cũng góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội. Do vậy, di sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ có giá trị đối với dân tộc Việt Nam mà còn có ý nghĩa đối với các dân tộc bị áp bức, bóc lột trên toàn thế giới.

Không phải đến bây giờ mà cách cách đây hơn 100 năm, nhà báo người Nga Osip Emilyevich Mandelstam đã viết bài mang tên “Thăm một chiến sĩ quốc tế cộng sản - Nguyễn Ái Quốc” đã đăng trên báo Ogoniok (Ngọn lửa nhỏ) của Liên Xô xuất bản ngày 23/12/1923. Bài báo có đoạn: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa Âu châu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai”. Tuy hơn một thế kỷ đã trôi qua nhưng nhận định sâu sắc này của O. Mandelstam vẫn vẹn nguyên giá trị, dự báo “Hồ Chí Minh là nền văn hóa tương lai” xuất phát từ việc nhà báo người Nga đã cảm nhận được trong tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã kết hợp nhuần nhuyễn cả tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây, cả giá trị truyền thống và giá trị tiến bộ của văn minh nhân loại thời hiện đại.

Trong quá trình tiếp xúc cũng như nghiên cứu về Hồ Chí Minh, rất nhiều chính khách, học giả quốc tế bày tỏ sự khâm phục, ngưỡng mộ trước tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người. Trong đó, Chủ tịch Phiđen Caxtơrô - lãnh tụ đất nước Cuba viết: “Vinh quang đời đời thuộc về Chủ tịch Hồ Chí Minh - tấm gương lớn nhất của người cách mạng vĩ đại ngày càng được khâm phục, ngưỡng mộ và luôn luôn được mến yêu không chỉ bởi nhân dân Việt Nam mà còn bởi tất cả các dân tộc khác trên thế giới”.

Ông Miyamôtô Kêngi, nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Nhật Bản đã nhận định: “Đồng chí Hồ Chí Minh không những là lãnh tụ lỗi lạc của nhân dân Việt Nam mà còn là một chiến sĩ lỗi lạc, một nhà hoạt động tài năng của phong trào cộng sản quốc tế”.

Tiến sĩ M. Atmét, nguyên Giám đốc UNESCO khu vực châu Á - Thái Bình Dương đã khẳng định: “Chỉ có ít nhân vật trong lịch sử trở thành một bộ phận của huyền thoại ngay khi còn sống và rõ ràng Hồ Chí Minh là một trong số đó”. Những nhận xét trên hết sức khách quan, công tâm, dựa trên những đóng góp thực tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đối với dân tộc Việt Nam mà còn đối với nhân loại.

Tư tưởng, đạo đức, phong cách và cuộc đời cách mạng vĩ đại, vẻ vang của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cống hiến to lớn, xuất sắc vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Do đó, tháng 11/1987, trong khuôn khổ Khóa họp lần thứ 24, Đại hội đồng Tổ chức Giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã thông qua Nghị quyết số 24C/18.65 về việc kỷ niệm 100 năm (vào năm 1990) ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tôn vinh Người là “Anh hùng giải phóng dân tộc”, là “Nhà văn hoá kiệt xuất”; đồng thời, vinh danh Người là một trong những nhân vật lỗi lạc đã để lại dấu ấn trong tiến trình phát triển của nhân loại. Việc UNESCO ra nghị quyết tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất là sự kiện rất có ý nghĩa, thể hiện sự trân trọng, đánh giá khách quan của nhân loại tiến bộ đối với di sản Hồ Chí Minh; qua đó càng thấy rõ hơn tầm vóc, giá trị di sản của Người, mọi quan điểm sai trái, thù địch vì thế mà lạc lõng, vô nghĩa.

Di sản Hồ Chí Minh đã vượt qua thử thách của thời gian, trở thành biểu tượng, mạch sống của dân tộc Việt Nam. Di sản ấy là một tài nguyên văn hóa mà càng nghiên cứu, càng khai thác, càng mang lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân những giá trị bổ ích, mới mẻ. Sứ mệnh đặt ra cho mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng là kiên định, bảo vệ, vận dụng, phát triển di sản Hồ Chí Minh; đồng thời, lan tỏa, phát huy giá trị để di sản đặc biệt này trở thành một trong những động lực tư tưởng - tinh thần vô giá, giúp nâng tầm vị thế văn hóa, con người Việt Nam trong dòng chảy văn hóa nhân loại.

Chu Xuân Đại Thắng

Sự thật cái gọi là "Việt Nam vi phạm nhân quyền"

Thứ hai, 20/05/2024 - 06:17

Những năm qua, Việt Nam luôn nhất quán chính sách thúc đẩy và bảo vệ quyền con người; coi con người là trung tâm, là động lực của quá trình đổi mới và phát triển đất nước. Tuy nhiên, với động cơ thiếu trong sáng, vẫn có một số tổ chức quốc tế cố tình đưa ra những báo cáo phiến diện nhằm xuyên tạc tình hình, phủ nhận các thành tựu trong bảo vệ và thực thi quyền con người ở Việt Nam.

Đánh tráo khái niệm, xuyên tạc thực tế

Cuối tháng 4 vừa qua, Bộ Ngoại giao Mỹ đã công bố Báo cáo nhân quyền năm 2023, trong đó tiếp tục đưa ra những thông tin sai lệch, thiếu khách quan về tình hình nhân quyền ở Việt Nam khi cho rằng “Việt Nam vi phạm nhân quyền”, “chính quyền Việt Nam vẫn không có tiến bộ về nhân quyền”... Để minh chứng cho nhận định phiến diện đó, cũng giống những năm trước, báo cáo nhấn mạnh rằng Việt Nam đã bắt, giam giữ những người vì hoạt động chính trị hoặc nhân quyền, vi phạm quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp và lập hội... Họ thống kê, tính đến ngày 31-10-2023, Việt Nam đã bắt giữ 25 cá nhân và kết án 23 người đang thực hiện các quyền con người được quốc tế công nhận như quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp ôn hòa và lập hội. Điều đáng nói là những “tù nhân chính trị”, “nhà hoạt động chính trị”, “nhà bảo vệ nhân quyền” được liệt kê trong báo cáo, như Bùi Tuấn Lâm, Ngụy Thị Khanh, Lê Anh Hùng, Phan Tất Thành, Châu Văn Khảm... đều là những đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật, phạm các tội danh theo quy định của Bộ luật Hình sự nên bị bắt giữ, điều tra; một số đối tượng đưa ra xét xử và tuyên phạt với những bản án hoàn toàn đúng người, đúng tội.

Ở đây, khái niệm “tù nhân chính trị” đã bị đánh tráo nhằm đánh lừa dư luận, hòng bảo vệ cho những đối tượng lợi dụng dân chủ, mượn danh nhân quyền để vi phạm pháp luật, gây mất ổn định xã hội. Bởi lẽ, lâu nay, khái niệm “tù nhân chính trị” thường được dùng để chỉ những chiến sĩ cách mạng dũng cảm đấu tranh vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân nhưng phải chịu cảnh tù đày do bị thực dân, đế quốc bắt giam. Trong cách mạng giải phóng dân tộc, nhiều tù nhân chính trị đã trở thành biểu tượng cho tinh thần anh dũng, sẵn sàng hy sinh tính mạng để bảo vệ Tổ quốc. Do đó, những đối tượng được nêu tên trong báo cáo nhân quyền nêu trên hoàn toàn không xứng đáng và không thể là “tù nhân chính trị” theo đúng nghĩa. Thực tế ở Việt Nam hiện nay không có ai là “tù nhân chính trị” như mô tả của Báo cáo nhân quyền năm 2023. Vì thế, mục đích việc đánh tráo khái niệm chính là nhằm bóp méo tình hình nhân quyền ở Việt Nam; tôn vinh, cổ xúy cho những đối tượng lợi dụng dân chủ, nhân quyền để vi phạm pháp luật.

Bên cạnh đó, Báo cáo nhân quyền năm 2023 còn xuyên tạc thực tế khi đưa ra đánh giá “Việt Nam hạn chế nghiêm trọng tự do internet” với minh chứng là cơ quan chức năng xử lý các trang Facebook cá nhân của một vài đối tượng hoạt động chống phá Nhà nước trên mạng xã hội.

Song, điều nực cười là báo cáo trên đã phớt lờ sự thật, rằng internet ở Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Internet có mặt ở mọi nơi, từ thành thị tới nông thôn, từ đồng bằng đến miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Số liệu của Bộ Thông tin và Truyền thông cho biết, tính đến đầu năm 2023, nước ta có 77,93 triệu người dùng internet, chiếm 79,1% dân số; có 70 triệu người dùng mạng xã hội, tương đương 71% dân số. Tổng số kết nối di động đang hoạt động là 161,6 triệu (164,0% tổng dân số). Nhờ đó, sau gần 30 năm kết nối internet, Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng internet cao thứ 12 trên thế giới, đứng thứ 6 trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á. Trung bình người Việt Nam dành gần 7 giờ/ngày để sử dụng internet. Tỷ lệ người dùng sử dụng internet hằng ngày lên tới 94%.

Rõ ràng, internet ở Việt Nam đã “bùng nổ” mạnh mẽ, hoàn toàn không có việc “Việt Nam hạn chế nghiêm trọng tự do internet” như nội dung nêu trong Báo cáo nhân quyền năm 2023. Không thể đồng nhất việc xử lý các đối tượng lợi dụng internet, lợi dụng mạng xã hội để tán phát những thông tin sai trái, chống phá Nhà nước, xâm hại lợi ích của tổ chức, cá nhân, với cái gọi là “hạn chế nghiêm trọng tự do internet”. Bởi việc xử lý các đối tượng dùng internet vi phạm pháp luật là biện pháp đã và đang được tất cả quốc gia áp dụng nhằm lành mạnh hóa môi trường internet, bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng xã hội.

Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, khi trả lời câu hỏi của phóng viên đề nghị bình luận về Báo cáo nhân quyền năm 2023 của Bộ Ngoại giao Mỹ, trong đó có một số nội dung về Việt Nam vừa được công bố hôm 22-4 vừa qua, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã nêu rõ: “Báo cáo nhân quyền thường niên của Bộ Ngoại giao Mỹ ngày 22-4-2024 mặc dù đã phản ánh các thành tựu và bước tiến của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền con người, nhưng rất tiếc vẫn tiếp tục đưa ra một số nhận định không khách quan dựa trên những thông tin không chính xác về tình hình thực tế ở Việt Nam”.

Không thể phủ nhận nỗ lực bảo đảm quyền con người ở Việt Nam

Thực tế, các quyền con người cơ bản đã được ghi nhận trong Hiến pháp của Việt Nam; được bảo vệ, bảo đảm bởi hệ thống văn bản pháp luật cụ thể và được triển khai hiệu quả trên thực tiễn. Theo đó, nhiều năm gần đây, Việt Nam đã có những nỗ lực rất lớn nhằm bảo đảm quyền con người, nhất là hoàn thiện hệ thống pháp luật về quyền con người theo các công ước quốc tế về quyền con người, trong đó Việt Nam là thành viên. Từ năm 2019 đến nay, Quốc hội nước ta đã thông qua 44 luật, trong đó nhiều văn bản luật quan trọng liên quan đến quyền con người, quyền công dân. Việt Nam cũng đã và đang rà soát để sửa đổi, bổ sung một số luật phù hợp với các cam kết quốc tế; đồng thời, rà soát, gia nhập các công ước quốc tế về quyền con người cũng như triển khai các điều ước một cách nghiêm túc. Tính đến nay, Việt Nam đã tham gia 7/9 điều ước quốc tế cơ bản về quyền con người, 25 công ước quốc tế về quyền lao động của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO); đàm phán và chính thức tham gia Thỏa thuận toàn cầu về di cư hợp pháp, an toàn và trật tự (GCM).

Mặt khác, như Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã nhấn mạnh: “Nhân quyền lớn nhất ở Việt Nam là lo cho 100 triệu dân ấm no và hạnh phúc, dân chủ, cuộc sống bình yên, an ninh, an toàn, an dân, phát huy tối đa yếu tố con người”. Đến nay, sau gần 40 năm đổi mới, Đảng, Nhà nước ta đã luôn luôn nhất quán chính sách “tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền, quyền và nghĩa vụ của công dân”. Mọi quyết sách đều xuất phát từ con người; mọi thành quả phát triển đều hướng vào bảo đảm tốt nhất quyền con người. Chỉ tính từ năm 2019 đến nay, GDP bình quân ở Việt Nam đã tăng 25%, tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,5%/năm. Mạng lưới y tế dự phòng được tổ chức rộng khắp trên toàn quốc, gắn chặt với y tế cơ sở, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đã tăng từ hơn 81% năm 2016 lên mức 93,35% vào năm 2023; 85% người khuyết tật có hoàn cảnh khó khăn được trợ giúp xã hội, chăm sóc và phục hồi chức năng...

Đặc biệt, năm 2023, kinh tế Việt Nam đạt tăng trưởng trên 5%, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống 3%. Hằng năm, Việt Nam dành trung bình khoảng 3% GDP cho bảo đảm an sinh xã hội. Chỉ trong vòng hơn một thập kỷ gần đây, Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đã tăng gần 50%, thuộc nhóm quốc gia có tỷ lệ tăng cao nhất thế giới.

Những con số khái lược nêu trên đã chứng minh rõ quyết tâm và nỗ lực bảo đảm quyền con người ở Việt Nam. Những thành tựu không thể phủ nhận đó đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Điển hình cho sự ghi nhận ấy là việc ngày 11-10-2022, Việt Nam lần thứ hai trúng cử vào Hội đồng nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025 (lần đầu là nhiệm kỳ 2014-2016). Đây là sự công nhận vị thế của Việt Nam, thể hiện sự tín nhiệm, tin tưởng của cộng đồng quốc tế đối với vai trò và đóng góp của Việt Nam trong lĩnh vực quyền con người.

Đến đây, chúng ta hoàn toàn có thể thấy rõ cái gọi là “Việt Nam vi phạm nhân quyền”, “chính quyền Việt Nam vẫn không có tiến bộ về nhân quyền”... được đề cập trong Báo cáo nhân quyền năm 2023 của Bộ Ngoại giao Mỹ là những nhận định thiếu khách quan, không chính xác về vấn đề quyền con người ở Việt Nam.

Trung tá, TS TẠ QUANG ĐẠO, Phòng Khoa học quân sự, Trường Sĩ quan Chính trị

HRW lại “tung hoả mù” về quyền của người lao động tại Việt Nam

Thứ Bảy, 18/05/2024, 07:30

Nhắc đến tổ chức Theo dõi nhân quyền (HRW), chúng ta "nhẵn mặt" với những thủ đoạn đưa ra thông tin sai trái, xuyên tạc về tình hình dân chủ, nhân quyền ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Mức độ xuyên tạc và vu cáo của HRW ngày càng gia tăng với nhiều hình thức, điều đó không chỉ thể hiện qua phát ngôn của đại diện tổ chức này mà còn qua các báo cáo, thông cáo, thư kiến nghị... Ngày 8/5/2024, HRW tiếp tục đưa thông cáo cho rằng Việt Nam "phát ngôn sai lạc về quyền của người lao động"!

Thông cáo của HRW đưa ra khi Bộ Thương mại Hoa Kỳ vừa có phiên điều trần công khai về hiện trạng thương mại với Việt Nam vào ngày 8/5. Thông cáo này lộ rõ ý đồ "tung hoả mù", tác động xấu tới dư luận khi Bộ Thương mại Hoa Kỳ thực hiện phiên điều trần nói trên. Vì thế, trong thông cáo của HRW đã đưa ra những nhận định sai trái, thể hiện cách nhìn tiêu cực, xa rời thực tế. Ông John Sifton, Giám đốc vận động Ban Á Châu của HRW đã có những phát biểu rất lố bịch như: "Nói rằng người lao động Việt Nam có thể thành lập công đoàn hay mức lương của họ là kết quả của sự thỏa thuận tự nguyện giữa người lao động và người sử dụng lao động là lời tuyên bố sai lạc trắng trợn"; "Ở Việt Nam không hề tồn tại bất kỳ một công đoàn độc lập nào hay các khung pháp lý khả thi cho việc thành lập công đoàn hoặc cho người lao động có thể đòi thi hành các quyền của mình". 

bao-hiem.jpg -0
Cơ quan Bảo hiểm xã hội hướng dẫn người lao động làm các thủ tục về bảo hiểm.

Ông Sifton viện dẫn rằng: "Xét về văn bản pháp luật và thực tế thực thi, Việt Nam hiện không cho phép các công đoàn độc lập được đại diện cho người lao động. Chương 13 của Bộ luật Lao động Việt Nam có hiệu lực vào năm 2021 đưa ra quy định về "tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở" và Luật Công đoàn Việt Nam quy định về "công đoàn" cũng như "tổ chức đại diện người lao động", một thuật ngữ hiện diện trong cả hai bộ luật. Tuy nhiên, Luật Công đoàn Việt Nam chỉ cho phép có các "công đoàn" do chính phủ kiểm soát. Luật Lao động vẫn đòi hỏi phải có các văn bản hướng dẫn được ban hành mới có hiệu lực thực thi. Và ở Việt Nam không hề có các tổ chức đại diện cho người lao động ở cấp cơ sở"… Từ việc viện dẫn sai lệch trên, ông Sifton quy kết: "Lời tuyên bố tôn trọng quyền của người lao động của Việt Nam chỉ dựa trên các ngôn từ và lời hứa sáo rỗng, các văn bản luật pháp và quy định xa rời thực tế về hiện trạng quyền của người lao động ở quốc gia này"! 

Rõ ràng, việc lấy lý do "Ở Việt Nam không cho phép các công đoàn độc lập được đại diện cho người lao động" rồi quy kết hiện trạng quyền lợi người lao động không bảo đảm, chính quyền chỉ "hứa sáo rỗng", "văn bản xa rời thực tế" là sự đánh giá quy chụp nhằm lấy cớ vu cáo, gây sức ép tới Bộ Thương mại Hoa Kỳ trong vấn đề đánh giá hiện trạng thương mại, quyền lợi người lao động ở Việt Nam.

HRW và những chiêu trò vu cáo, đánh lận bản chất

Tổ chức HRW được thành lập vào năm 1978 trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, Human Rights Watch ban đầu được đặt tên là Helsinki Watch với mục đích giám sát Liên Xô bằng cách thu thập tư liệu liên quan tới việc Liên Xô thực hiện quy ước của Tổ chức An ninh và hợp tác châu Âu (OSCE), hỗ trợ các nhóm "bảo vệ" nhân quyền tại nước này. Năm 1988, Helsinki Watch hợp nhất với một số tổ chức quốc tế khác và đổi tên thành Tổ chức Theo dõi nhân quyền - Human Rights Watch (HRW). Hiện tại, HRW có trụ sở đặt tại New York, Hoa Kỳ.

Nhìn vào lịch sử của tổ chức HRW kể từ khi được thành lập cho đến nay có thể thấy, cho dù đã được đổi tên và mang danh nghĩa là tổ chức hoạt động về nhân quyền nhưng hoạt động của HRW vẫn đi theo mục đích cũ và ý đồ chính trị là đưa những thông tin sai sự thật về tình hình dân chủ, nhân quyền cũng như can thiệp vào nội bộ của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Dù là tổ chức mang tên gọi về nhân quyền nhưng các hoạt động của tổ chức trên thực chất lại là cái cớ để tổ chức này xuyên tạc, chống phá.

Mỗi khi Mỹ và phương Tây đưa ra những cáo buộc một quốc gia nào đó vi phạm dân chủ, nhân quyền thì HRW cũng tham gia dưới nhiều hình thức như: báo cáo, thông cáo, thư ngỏ… với thủ đoạn đổi trắng thay đen, bóp méo, xuyên tạc sự thật.

HRW cũng như một số tổ chức khác mang danh nhân quyền có trụ sở ở Mỹ, Đức, Bỉ, Thụy Điển, Hà Lan… thường sử dụng chiêu bài bảo vệ "dân chủ", "nhân quyền" nhằm khoét sâu mâu thuẫn về sắc tộc, xã hội, tôn giáo của quốc gia cũng như lợi dụng những vấn đề còn tồn tại, hạn chế, yếu kém trong xã hội khác để lấy cớ chống phá, can thiệp. Từ đó, họ câu kết với những đối tượng đối lập, phần tử cơ hội chính trị ở trong nước tiến tới dụ dỗ, mua chuộc dưới chiêu bài hứa hẹn tạo ra chính phủ mới với những quyền lực được trao tay, ảo tưởng về một xã hội văn minh hơn.

Từ đó, hướng đến sự hỗn loạn và mất kiểm soát trong xã hội, gia tăng xung đột giữa người dân và chính phủ, kích động biểu tình đường phố, bạo loạn và thậm chí xung đột vũ trang gây thương vong cho dân thường. Đây không đơn thuần là lôi kéo, dụ dỗ người thiếu hiểu biết, thành phần bất mãn chính trị mà còn có sự tham gia của một số trí thức ảo tưởng về sức mạnh, được đưa ra nước ngoài huấn luyện đào tạo và được đầu tư về vật chất, tài chính để có điều kiện hoạt động gây dựng ngọn cờ chống đối ở trong nước.

Đây không phải chiêu trò mới nhưng hiện nay hoạt động của các tổ chức như HRW ngày càng quyết liệt, tinh vi và nguy hiểm. HRW chụp mũ các giá trị dân chủ, nhân quyền để gây bất ổn xã hội, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đưa Việt Nam đi vào quỹ đạo lệ thuộc, dần dần lật đổ chế độ chính trị hiện tại, đưa xã hội chuyển hướng sang con đường đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.

Việt Nam luôn coi trọng và nỗ lực vì quyền của người lao động

Lao động và việc làm là một trong những quyền cơ bản của công dân đã được quy định trong Hiến pháp của Việt Nam qua các thời kỳ. Căn cứ Hiến pháp năm 2013, Quốc hội đã ban hành nhiều văn bản luật nhằm cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về quyền lao động và việc làm. Có thể kể đến một số văn bản sau đây: Luật Việc làm năm 2013, Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014, Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2014, Bộ luật Lao động năm 2019...

Ngoài ra, Quốc hội còn ban hành hệ thống các văn bản luật tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, thống nhất, đồng bộ và minh bạch cho tổ chức và hoạt động của các tổ chức, đơn vị kinh tế, thông qua đó tạo công ăn, việc làm cho người lao động; các văn bản luật quy định về các biện pháp giải quyết tranh chấp về lao động, các biện pháp chế tài về hành chính, hình sự đối với những hành vi vi phạm quyền lao động và việc làm của công dân. Những văn bản pháp luật này đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc bảo đảm quyền lao động và việc làm của công dân trên thực tiễn. Liên quan đến vấn đề an sinh xã hội, Đảng ta xác định: bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; phát triển hệ thống an sinh xã hội toàn diện, tiến tới bao phủ toàn dân với các chính sách phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro cho người dân, bảo đảm trợ giúp cho các nhóm đối tượng yếu thế.

Sau gần 40 năm đổi mới, trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập sâu rộng với thế giới, Việt Nam ngày càng nhận thức rõ tính tất yếu của việc cho phép thành lập tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp để đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế, cụ thể là tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới và kèm theo đó là việc cam kết tuân thủ các tiêu chuẩn chung, trong đó có vấn đề quyền của người lao động. Đến nay, Việt Nam đã tham gia 25 công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), bao gồm 7 trong số 8 công ước cơ bản, trong đó có các công ước liên quan đến các lĩnh vực: thương lượng tập thể; phòng, chống phân biệt đối xử; lao động trẻ em và lao động cưỡng bức…

Bên cạnh đó, Nhà nước cũng đề ra hàng loạt các chương trình kinh tế - xã hội như: Chương trình quốc gia về giải quyết việc làm với những hoạt động: thực hiện quỹ quốc gia tạo việc làm; thành lập các ngân hàng người nghèo; giao quyền sử dụng ruộng đất để khuyến khích trồng rừng, chương trình hỗ trợ đánh bắt xa bờ... Đồng thời, để khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài đầu tư phát triển sản xuất - kinh doanh để tạo việc làm cho người lao động, Nhà nước cũng ban hành một hệ thống chủ trương, chính sách thông thoáng thu hút sự đầu tư của nhiều doanh nghiệp, tổ chức kinh tế nước ngoài nhằm tạo ngày càng nhiều việc làm cho người lao động, tạo điều kiện cho những người trong độ tuổi lao động đều có thể thực hiện quyền lao động của mình.

Theo thống kê trong giai đoạn từ năm 2018-2020, tổ chức công đoàn đã triển khai rộng khắp chương trình "Phúc lợi đoàn viên công đoàn" ở nhiều tỉnh, thành phố. Đến năm 2023, 100% đối tượng bảo trợ xã hội đủ điều kiện được hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng; 100% người dân bị thiệt hại do thiên tai, lũ lụt, thiếu đói được trợ giúp đột xuất kịp thời, không người dân nào bị đói, trên 90% người khuyết tật có hoàn cảnh khó khăn được trợ giúp xã hội, được chăm sóc và phục hồi chức năng kịp thời; trên 90% người cao tuổi có hoàn cảnh khó khăn được trợ giúp xã hội, phụng dưỡng, chăm sóc kịp thời. Phấn đấu mở rộng diện bao phủ tham gia bảo hiểm xã hội đến năm 2025 khoảng 45% người lao động tham gia, năm 2030 đạt 60%; bao phủ bảo hiểm y tế toàn dân; đến năm 2030, Việt Nam sẽ trở thành quốc gia tiên phong về an sinh xã hội và việc làm thỏa đáng.

Một bước tiến nữa trong bảo đảm quyền con người lĩnh vực lao động là việc Việt Nam phê chuẩn Công ước 105 của ILO về xóa bỏ lao động cưỡng bức vào tháng 6/2020. Trong bối cảnh vấn đề lao động cưỡng bức trên thế giới được ILO cảnh báo là "khẩn cấp", nỗ lực này của Việt Nam đã được thế giới ghi nhận và đánh giá tích cực. Bà Corrine Vargha, Trưởng ban Tiêu chuẩn Lao động quốc tế của ILO cho rằng, với việc phê chuẩn này, Việt Nam chứng tỏ cam kết mạnh mẽ trong công cuộc đấu tranh chống lại lao động cưỡng bức dưới mọi hình thức.

Còn ông Chang-Hee Lee, Giám đốc ILO Việt Nam thì khẳng định: "Đây là minh chứng cho thấy Chính phủ và các đối tác xã hội của Việt Nam đã và đang nỗ lực hết sức mình để có một khung khổ pháp lý tốt hơn nhằm mở đường cho Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình cao một cách bền vững". Những nỗ lực chủ động và tích cực của Việt Nam vì người lao động đã củng cố uy tín của đất nước trên trường quốc tế, tạo thuận lợi cho quá trình hội nhập quốc tế và tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển và hướng đến một xã hội công bằng, nơi các lợi ích của quá trình hội nhập và phát triển được chia sẻ một cách công bằng cho người lao động, những người trực tiếp tạo ra của cải vật chất cho xã hội.

Việc tổ chức HRW ngày 8/5/2024 cáo buộc Việt Nam phát ngôn sai lạc về quyền của người lao động là sự vu cáo trắng trợn. Đáng nói, HRW chỉ trích điều này ngay sau khi đoàn đại biểu Việt Nam do Thứ trưởng Ngoại giao Đỗ Hùng Việt dẫn đầu tham gia phiên đối thoại về Báo cáo quốc gia của Việt Nam theo Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ IV của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc ngày 7/5/2024. Thực tiễn cho thấy, dù HRW hay một số tổ chức khác có hành động vu cáo Việt Nam dưới chiêu bài dân chủ, nhân quyền, lao động việc làm… thì chính những thành tựu sinh động nêu trên là minh chứng rõ nét nhất, bác bỏ mọi luận điệu vu cáo, xuyên tạc. 

Bình Nguyên

Bệnh giáo điều mới trong một bộ phận cán bộ, đảng viên

Thứ năm, 16/05/2024 - 05:38

Trước thời kỳ đổi mới, đất nước ta lâm vào khủng hoảng kinh tế-xã hội. Nguyên nhân căn bản được Đại hội VI đánh giá là do chúng ta rơi vào tình trạng máy móc, giáo điều. Đại hội VI đã mở ra thời kỳ mới, trên cơ sở trung thành với Chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng đã vận dụng linh hoạt để tiến hành công cuộc đổi mới.

Cuộc bứt phá ra khỏi chủ nghĩa giáo điều đã giúp đất nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, kinh tế đất nước ngày càng đi lên. Sau gần 40 năm đổi mới, bên cạnh những thành tựu to lớn, chúng ta lại thấy ở đâu đó xuất hiện căn bệnh giáo điều mới, ảnh hưởng lớn đến phát triển đất nước.

Nhận diện những biểu hiện mới của căn bệnh giáo điều

Giáo điều là những nguyên lý, những quan điểm, nguyên tắc mà con người tiếp thu mù quáng, không cần chứng minh, không có phê phán, không chú ý điều kiện ứng dụng nó. Giáo điều cũng để chỉ tư tưởng và hành động tuyệt đối hóa lý luận, coi thường, hạ thấp thực tiễn, hoặc áp dụng lý luận mà không tính tới thực tiễn. Có thể phân thành hai dạng: Giáo điều lý luận: Vận dụng lý luận không căn cứ vào điều kiện thực tiễn cụ thể, vận dụng mà không hiểu bản chất của lý luận. Giáo điều kinh nghiệm: Vận dụng kinh nghiệm của ngành khác, người khác, địa phương khác, nước khác vào thực tiễn một cách máy móc, không tính tới điều kiện thực tiễn cụ thể. Bệnh giáo điều có thể hiểu là tình trạng nhận thức, hành động giáo điều cả về lý luận và thực tiễn kéo dài trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, cần phải nhận biết và có cách khắc phục. Bệnh giáo điều mới trong một bộ phận cán bộ, đảng viên có nhiều biểu hiện, song tựu trung lại có thể khái quát trên một số vấn đề sau đây:

Giáo điều hóa nghị quyết: Ở mỗi giai đoạn tính chất nhiệm vụ khác nhau, vì vậy, nghị quyết phải có những chủ trương, giải pháp thực hiện khác nhau. Tuy nhiên hiện nay, trong sinh hoạt lãnh đạo, nhất là sinh hoạt ra nghị quyết, một số cấp ủy, bí thư còn tình trạng nhận thức cho rằng nhiệm vụ cơ quan, đơn vị là “xuân thu nhị kỳ”, quanh năm ngày tháng lặp đi lặp lại không có gì mới. Nên ở không ít tổ chức đảng, nhất là cấp cơ sở, nghị quyết lãnh đạo được xây dựng theo kiểu khuôn mẫu, sao chép nguyên như trước, chỉ thay ngày đổi tháng. Hiện nay, trong một số tổ chức đảng, nhất là cấp chi bộ, việc chuẩn bị dự thảo và ban hành nghị quyết mang tính hình thức, thậm chí để đối phó với việc kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng cấp trên. Điều đó dẫn tới tình trạng nghị quyết tháng sau, quý sau, năm sau cũng như trước, cùng lắm chỉ bổ sung một vài nội dung gọi là cho khác trước. Biểu hiện mới này không chỉ là giáo điều lý luận, thực tiễn mà còn thể hiện sự thiếu trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, đảng viên.

Ngoại hóa chủ trương: Thời gian qua, trong đội ngũ cán bộ, đảng viên ở nhiều bộ, ngành, địa phương có tình trạng tổ chức nhiều cuộc đi khảo sát, tham quan học tập kinh nghiệm nước ngoài. Mục đích của chuyến đi rõ ràng được định vị là mang những kiến thức, kinh nghiệm tổ chức quản lý, phát triển kinh tế-xã hội từ các nước, nhất là nước tiên tiến về để ứng dụng vào Việt Nam. Tuy nhiên, nhiều cán bộ có chức vụ, tầm ảnh hưởng lớn đi học tập ở nước ngoài về bê nguyên các mô hình từ nước ngoài đặt vào Việt Nam, cho rằng đó là học hỏi, sáng tạo, tiếp thu cái mới. Việc áp dụng mang tính áp đặt này chưa nghĩ đến điều kiện kinh tế-xã hội, điều kiện kết cấu hạ tầng của ta chưa phù hợp, chưa thể hấp thụ được nguyên vẹn kinh nghiệm đó. Hậu quả là gây thất thoát, lãng phí lớn cho các nguồn lực xã hội. Dự án đường dành riêng cho xe buýt nhanh BRT ở Thủ đô Hà Nội là một ví dụ điển hình cho bệnh giáo điều mới, học tập kinh nghiệm nước tiên tiến, bê nguyên xi vào Việt Nam. Do không phù hợp với điều kiện hạ tầng giao thông Việt Nam nên dự án trên có nguy cơ cao phải dừng hoạt động, tốn kém rất nhiều nguồn lực đầu tư.

Bệnh giáo điều mới trong một bộ phận cán bộ, đảng viên
Ảnh minh họa / tuyengiao.vn 

Sợ sai nên rập khuôn công thức, quy trình cũ trong công việc mới, bất chấp hiệu quả thấp: Tình trạng sợ sai, không dám nghĩ, không dám làm, không dám chịu trách nhiệm trong một bộ phận cán bộ, đảng viên dẫn tới tình trạng cứ làm như người trước, tháng trước, năm trước, quy trình trước, nhiệm kỳ trước mà không dám đột phá nhằm bảo đảm an toàn cho bản thân. Những cán bộ, đảng viên dạng này chỉ lo giữ mình an toàn trong “chiếc kén nhỏ”, không chịu đổi mới, học hỏi, chỉ gói gọn trong tư duy nhiệm kỳ, tránh va chạm để cuối cùng là "hạ cánh an toàn". Do vậy dẫn tới trong lãnh đạo, chỉ đạo có tình trạng lặp lại “công thức”; “quy trình cũ” trong công việc mới. Từ chỗ "mũ ni che tai", không dám nói ra những điều mình suy nghĩ, trăn trở, dần dần trở nên dửng dưng với những biến động của xã hội, dửng dưng với nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị và chức trách, nhiệm vụ của bản thân.

Thái độ ba phải: Biểu hiện của nó là không thể hiện chính kiến của mình trong sinh hoạt cấp ủy, tổ chức đảng. Căn bệnh này tồn tại hai dạng: Dạng thứ nhất, người cán bộ, đảng viên thực chất là có ý tưởng nhưng do ngại va chạm, ngại thể hiện nên mọi thứ đều đồng ý, dẫn đến “mười lăm cũng ừ, mười tư cũng gật”, “nhất trí cao”. Đây là biểu hiện xuôi chiều trong lãnh đạo. Hệ lụy của nó là người đảng viên co ro trong "cái kén" của chính mình, nhìn thấy nhiều vấn đề, có ý tưởng đổi mới, có sáng kiến nhưng không dám trình bày, không dám thể hiện. Dạng thứ hai là người lười tư duy, lười suy nghĩ, coi việc lãnh đạo là của cấp ủy, của tập thể tổ chức đảng nên không chủ động trong việc tham gia đóng góp thảo luận xây dựng nghị quyết và những quyết sách khác. Cả hai dạng đều cho một đáp số là không huy động được trí tuệ, trách nhiệm tập thể vào các quyết sách lãnh đạo.

Những hậu quả khôn lường

Hậu quả lớn nhất chính là nếu căn bệnh này kéo dài sẽ là lực cản gây ra sự trì trệ, kéo lùi sự phát triển. Bởi nghị quyết lãnh đạo không thực sự là sự cụ thể hóa nghị quyết cấp trên, càng không phải là nghị quyết lãnh đạo trong giai đoạn mới, mà chỉ là nghị quyết được bê nguyên xi như trước. Một nghị quyết như vậy là vô hiệu, không thể có chủ trương, giải pháp mang tính sáng tạo, đột phá và hoàn toàn thiếu sức sống, xa rời thực tiễn, không sát với yêu cầu nhiệm vụ. Chính vì vậy, hoạt động của cơ quan, đơn vị, địa phương diễn ra một cách đơn điệu, bình bình, không có sự đột phá, dẫn tới sự trì trệ, thụt lùi, tụt hậu do thực tiễn đời sống kinh tế-xã hội luôn có sự biến động, thay đổi.

Bệnh giáo điều mới còn là sự cản trở đưa nghị quyết vào cuộc sống. Bởi ngay trong nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên đã đánh mất chính vai trò lãnh đạo của mình. Vì vậy, trong hoạt động thực tiễn, họ khó nêu cao được trách nhiệm để đưa nghị quyết vào cuộc sống; họ sẽ hành động theo thói quen, được chăng hay chớ. Rõ ràng, một bộ phận cán bộ, đảng viên như vậy, cho dù là ở cấp cơ sở cũng sẽ là lực cản làm giảm năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng. Bởi điều mà Đảng, Nhà nước, nhân dân, cơ quan, tổ chức mong chờ ở họ là sự tâm huyết, cống hiến công sức, trí tuệ, ý tưởng sáng tạo cho sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp xây dựng, phát triển cơ quan, đơn vị, địa phương thì không có.

Việc áp dụng máy móc, giáo điều cả về lý luận và thực tiễn mà không chịu tính toán đến điều kiện kinh tế-xã hội sẽ gây lãng phí nguồn lực lớn của đất nước, của cơ quan, đơn vị, địa phương, gây bức xúc trong dư luận nhân dân, làm giảm sút uy tín lãnh đạo của Đảng, mất uy tín của cán bộ, đảng viên. Bên cạnh đó, bệnh giáo điều mới còn là mảnh đất màu mỡ cho chủ nghĩa độc đoán, chuyên quyền, sự chủ quan, duy ý chí có cơ hội phát triển. Điều đó cũng có nghĩa là những cái sai, cái tiêu cực trong công tác lãnh đạo không được đấu tranh loại bỏ, cái sai nối tiếp cái sai. Điều này sẽ dẫn tới hậu quả khôn lường là tập thể mất vai trò lãnh đạo, các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng bị coi nhẹ, không huy động được trí tuệ, trách nhiệm tập thể cho việc đưa ra các quyết sách lãnh đạo, quản lý.

Liều thuốc khắc phục căn bệnh giáo điều mới

Trên cơ sở nhận diện rõ những biểu hiện của bệnh giáo điều mới, cần có các giải pháp để mỗi cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng khắc phục hiệu quả những biểu hiện của căn bệnh này. Theo đó cần thực hiện tốt một số giải pháp sau đây:

Một là, tiếp tục nghiên cứu tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới của cách mạng Việt Nam. Đến nay, điều kiện lịch sử, bối cảnh, thế và lực của đất nước ta đã có sự thay đổi, phát triển hơn nhiều. Chính vì vậy, trên cơ sở lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động, Đảng ta cần đẩy mạnh việc nghiên cứu tổng kết thực tiễn để làm sáng tỏ, bổ sung phát triển lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới. Kết quả tổng kết và những bài học kinh nghiệm sẽ là luận cứ để định hướng hoạch định đường lối, chủ trương lãnh đạo của Đảng sát với yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn. Đồng thời làm cơ sở để tổ chức đảng, đảng viên các cấp nghiên cứu quán triệt, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn hoạt động của bộ, ngành, tỉnh, thành phố, cơ quan, đơn vị mình.

Hai là, hoàn thiện cơ chế thúc đẩy tinh thần "7 dám" trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Việc thúc đẩy tinh thần "7 dám", nhất là tinh thần dám làm, dám chịu trách nhiệm của người cán bộ chủ trì, đứng đầu rất cần có cơ chế để quản lý, định hướng, bảo vệ cán bộ. Cơ chế ấy phải được thể chế hóa thành pháp luật, để vừa thông thoáng, mở ra hành lang đủ rộng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên phát huy cao nhất tinh thần "7 dám", nhưng vẫn đúng pháp luật để cán bộ, đảng viên tránh được những vướng mắc, sai phạm.

Ba là, tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về tính thực tiễn trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Phong cách thực tiễn của Người thể hiện sâu sắc nhất ở chỗ không áp dụng máy móc, giáo điều mà luôn đứng trên mảnh đất hiện thực cách mạng Việt Nam, văn hóa, con người Việt Nam để nghiên cứu, bảo vệ, phát triển, vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lênin. Mỗi cán bộ, đảng viên cần nắm chắc, hiểu sâu chức trách nhiệm vụ, đi sâu đi sát thực tiễn, rèn luyện phương pháp tác phong lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, cụ thể, bảo đảm tính khoa học, hiệu quả.

Bốn là, tạo đột phá trong đào tạo bồi dưỡng gắn với rèn luyện thử thách đội ngũ cán bộ các cấp của Đảng. Đây được xác định là khâu đột phá bởi người cán bộ bên cạnh được đào tạo cơ bản về kiến thức, bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo, chỉ đạo còn cần được trải qua thử thách, rèn luyện trong thực tiễn. Thực tiễn công tác càng nhiều, càng dày thì càng giúp cho kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo của cán bộ, đảng viên hiệu quả, sát thực tế, tránh được duy ý chí, giáo điều, máy móc.

Năm là, phát huy dân chủ trong phản biện chính sách, nhất là đối với người đứng đầu ở tất cả các cấp. Cần phát huy dân chủ rộng rãi trong phản biện chính sách, dân chủ phải được thực hiện ngay trong nội bộ tổ chức đảng, nội bộ cơ quan, đơn vị. Đối với người đứng đầu địa phương còn phải làm tốt công tác vận hành hệ thống phản biện xã hội để phản hồi thông tin từ thực tiễn thực thi các quyết sách, chính sách của cấp ủy đảng, chính quyền địa phương các cấp, thông qua đó giúp cấp ủy, bí thư, người đứng đầu có cái nhìn toàn diện về hiệu quả thực thi chính sách, kịp thời phát hiện những bất cập để điều chỉnh.

Bệnh giáo điều mới trong một bộ phận cán bộ, đảng viên là vấn đề cần được nhận diện và có định hướng khắc phục. Trong đó trọng tâm là tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, phong cách thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng thời hoàn thiện cơ chế thúc đẩy tinh thần "7 dám" trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu. Đó là cách thiết thực để bảo vệ, bổ sung, phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới, bảo đảm được vai trò, sứ mệnh của Đảng và từng cán bộ, đảng viên trong thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đại tá, TS PHÙNG MẠNH CƯỜNG, Chủ nhiệm Bộ môn, Khoa Kinh tế chính trị học Mác-Lênin, Học viện Chính trị

Nhận diện thủ đoạn bôi lem công tác đối ngoại nhân quyền của Việt Nam

Thứ Hai, 13/05/2024, 06:55

Xuyên tạc, chống phá vấn đề nhân quyền là một trong những âm mưu, thủ đoạn nguy hiểm của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị. Trong thời gian qua, lợi dụng các hoạt động đối ngoại nhân quyền của Việt Nam, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lại đưa ra những luận điệu sai trái, xuyên tạc.

Tái diễn những trò lố

Mới đây, ngày 7/5/2024, tại trụ sở Liên hợp quốc (Geneva, Thụy Sỹ), đoàn đại biểu Việt Nam do Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Đỗ Hùng Việt dẫn đầu đã tham gia phiên đối thoại về Báo cáo quốc gia của Việt Nam theo cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ IV của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc. Trước sự kiện này, các đối tượng xấu lại tung ra những trò lố, hướng lái xuyên tạc trên mạng xã hội. Thông qua các bài viết, hình ảnh, video hay livestream, các tổ chức Việt Tân, Hội anh em dân chủ… xuyên tạc rằng “Việt Nam nhận được nhiều khuyến nghị cho thấy mức độ tồi tệ nhân quyền”, từ đó giở lại chiêu bài “Việt Nam cần chấm dứt đàn áp nhân quyền”! Trang mạng xã hội của Việt Tân livestream, rêu rao “Biểu tình trước Geneva Thụy Sỹ: Người Việt Nam đòi nhân quyền cho Việt Nam”. Trước đó, tổ chức này đăng nhiều thông tin kêu gọi tụ tập buổi biểu tình diễn ra ngày 7/5/2024 trước trụ sở Liên hợp quốc tại Geneva “nhằm lên án những vi phạm nhân quyền của Đảng Cộng Sản Việt Nam”!

Trò hề này được số này “nhai đi nhai lại”. Ngày 3/10/2023, tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW) vu cáo, kêu gọi “Việt Nam cần khẩn cấp cải tổ quyền con người trước chu kỳ rà soát định kỳ phổ quát (UPR)”. Điều đáng nói là những kêu gọi trên của HRW hoàn toàn không có cơ sở và lý lẽ xác thực, tổ chức này phớt lờ về tình hình quyền con người ở Việt Nam, dựa vào những thông tin sai trái, cóp nhặt từ những cá nhân, tổ chức bất mãn, chống đối trong nước cung cấp. Đến ngày 11/1/2024, HRW lại công bố báo cáo thường niên về thực hành nhân quyền tại hơn 100 quốc gia năm 2023, trong đó có Việt Nam. Báo cáo này tiếp tục đưa ra các nhận định về nhân quyền tại Việt Nam một cách phiến diện, quy chụp.

Nhận diện thủ đoạn bôi lem công tác đối ngoại nhân quyền của Việt Nam -0
Lực lượng gìn giữ hòa bình Liên hiệp quốc của Việt Nam (Ảnh: TTXVN).

Có thể thấy, mỗi khi Việt Nam ứng cử, trúng cử thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc hay trước các phiên đối thoại về báo cáo các quốc gia theo cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR), khi Hội đồng Nhân quyền thông qua kết quả rà soát… thì những chiêu trò vu khống, chống phá Việt Nam lại diễn ra quyết liệt. Âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của một số hội nhóm phản động, tổ chức đội lốt nhân quyền là thường đưa ra các bản khuyến nghị, thư ngỏ, báo cáo, nêu yêu sách để xuyên tạc ở nước ta không có tự do ngôn luận, tự do tôn giáo; các quyền về dân sự, chính trị bị hạn chế, bị “chà đạp”. Thậm chí họ bịa đặt rằng, những người bất đồng chính kiến bị bắt giam một cách vô cớ, bị ngược đãi; vu cáo chính quyền bắt bớ tùy tiện, đàn áp công dân, xâm phạm quyền con người; đòi thả tự do cho những đối tượng phạm tội bị tạm giam hay bị kết án, nhất là số đối tượng có các hành vi làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam. Bên cạnh đó, họ bịa đặt Việt Nam thực hiện không đúng cam kết quốc tế, không có đóng góp gì cho hoạt động nhân quyền quốc tế, kêu gọi các quốc gia không bầu Việt Nam vào Hội đồng Nhân quyền. Trong quá trình bầu cử vào Hội đồng Nhân quyền của Liên hợp quốc và trong các phiên đối thoại nhân quyền thường niên, lực lượng thù địch tổ chức các cuộc biểu tình ở hải ngoại để phản đối phái đoàn của Việt Nam, gây sức ép tới các quốc gia khi lựa chọn lá phiếu bầu cử.

Những chiêu trò này diễn đi, diễn lại nhiều lần, từ năm này qua năm khác, nội dung được biến tấu theo bối cảnh sự kiện nhưng ý đồ thì không thay đổi. Mục đích là làm lu mờ những nỗ lực, thành tựu trong công tác đối ngoại nhân quyền của Việt Nam; làm cho cộng đồng quốc tế hiểu sai, hiểu không đầy đủ về tình hình nhân quyền và các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về nhân quyền; hạ thấp, phớt lờ những thành tựu đã được công nhận trong bảo đảm, thúc đẩy quyền công dân, quyền con người; hạ bệ vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, tìm cách cô lập Việt Nam với thế giới…

Thành tựu về nhân quyền và những đóng góp của Việt Nam là khách quan, được quốc tế ghi nhận, đánh giá cao

Từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời cho đến nay, việc bảo đảm, thúc đẩy quyền con người luôn được Đảng, Nhà nước ta chú trọng và không ngừng bổ sung, phát triển qua các thời kỳ. Không chỉ quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, dành nhiều nguồn lực, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về bảo vệ, bảo đảm quyền con người, Đảng, Nhà nước ta còn chú trọng đẩy mạnh công tác đối ngoại nhân quyền. Với sự cố gắng không ngừng, Việt Nam có quyền tự hào khi đạt được nhiều thành tựu quan trọng về công tác đối ngoại nhân quyền.

 Trong quá trình đổi mới đất nước, Việt Nam thường xuyên hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật về quyền con người và đạt được nhiều thành tựu trên thực tế. Các quyền dân sự, chính trị, y tế, giáo dục, bảo đảm an sinh xã hội, tự do tôn giáo, tín ngưỡng, tự do ngôn luận, báo chí, Internet, bình đẳng giới đều đạt những tiến bộ rõ rệt. Việt Nam đã vươn lên từ một nước nghèo để trở thành một trong những nước có nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới, hội nhập quốc tế sâu rộng. Các chỉ số về phát triển con người (HDI), bình đẳng giới (GEI) của Việt Nam do các cơ quan Liên hợp quốc xếp hạng liên tục được cải thiện.  Năm 1977, nước ta gia nhập Liên hợp quốc, đây là dấu mốc quan trọng trong công tác đối ngoại nhân quyền, một mặt Việt Nam tranh thủ các nguồn lực có giá trị đối với công tác nhân quyền trong nước, mặt khác là cơ sở để Việt Nam đóng góp nhiều hơn cho công tác nhân quyền thế giới. Việt Nam là ứng cử viên duy nhất đại diện cho ASEAN đã trúng cử Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025 với số phiếu cao, đây là lần thứ 2 chúng ta trở thành thành viên của tổ chức này. Thực tế cho thấy, quốc gia trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền là điều không hề dễ dàng bởi bên cạnh việc quốc gia đó phải đạt những tiến bộ vượt bậc về bảo vệ quyền con người trong nước còn phải có đóng góp tích cực, hiệu quả thúc đẩy nhân quyền trên toàn cầu.

Việc Việt Nam đã hai lần trở thành thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc là minh chứng rõ nhất về thành tựu liên quan quyền con người ở nước ta. Đồng thời cho thấy vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, không chỉ những thành tựu nhân quyền trong nước mà những đóng góp của nước ta đối với công tác nhân quyền của Liên hợp quốc. Đây là minh chứng rõ nét nhất phản bác lại những luận điệu sai trái, thù địch. Vào ngày 3/4/2023, tại Geneva (Thụy Sỹ), Việt Nam soạn thảo và đề xuất với Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc thông qua Nghị quyết kỷ niệm 75 năm Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền (UDHR) và 30 năm Tuyên bố và Chương trình hành động Vienna (VDPA). Nghị quyết do Việt Nam khởi xướng đã tập hợp được 98 nước tham gia đồng bảo trợ.  Đến nay, Việt Nam đã phê chuẩn, gia nhập 7/9 công ước cơ bản của Liên hợp quốc về quyền con người. Đồng thời, chúng ta phê chuẩn, gia nhập 25 công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO). Việt Nam luôn chủ động trong công tác đối thoại nhân quyền. Tháng 6/2023, tại Maroc, đoàn đại biểu Quốc hội do ông Đôn Tuấn Phong, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại làm Trưởng đoàn đã tham dự Hội nghị Nghị viện về đối thoại tôn giáo do Liên minh Nghị viện thế giới (IPU) tổ chức, quy tụ 163 quốc gia. Tham vấn tại hội nghị, đoàn đại biểu Việt Nam đã thông tin cho bạn bè quốc tế biết về những nỗ lực, thành tựu trong bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; ghi nhận những đóng góp của các tổ chức tôn giáo trên các lĩnh vực đời sống xã hội.

Ngày 27/7/2023, đoàn Việt Nam đã thăm chính thức Tòa thánh Vatican theo lời mời của Giáo hoàng Francis. Trong chuyến thăm này, Chính phủ Việt Nam và Tòa thánh Vatican đã thông qua “Thỏa thuận Quy chế hoạt động của đại diện thường trú và Văn phòng đại diện thường trú Tòa thánh tại Việt Nam”. Đây là hình mẫu của sự tin tưởng lẫn nhau và là cơ sở để thúc đẩy, mở rộng quan hệ hơn nữa giữa Việt Nam và các tổ chức, nhà nước tôn giáo. Đối với Hoa Kỳ, EU, Việt Nam luôn chủ động trong đối thoại nhân quyền, đưa công tác này ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất. Hằng năm, nước ta đều chủ động cử các phái đoàn trao đổi, thảo luận về vấn đề nhân quyền để đi đến tháo gỡ những vướng mắc, thống nhất nhận thức chung, tôn trọng tính đặc thù về nhân quyền của các bên, thúc đẩy sự phát triển.

Việt Nam cũng tích cực tham gia duy trì hòa bình, cứu trợ nhân đạo. Từ năm 2014 đến nay, hằng năm Việt Nam đều cử hàng trăm lượt cán bộ, nhân viên thuộc lực lượng vũ tranh nhân dân Việt Nam đi làm nhiệm vụ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc. Đặc biệt, ngày 9/2/2023, 100 cán bộ, chiến sĩ của Bộ Quốc phòng và Bộ Công an đã sang Thổ Nhĩ Kỳ để tham gia công tác cứu nạn vụ động đất, được Chính phủ và nhân dân nước bạn, cộng đồng quốc tế đánh giá cao.

Trở lại với phiên đối thoại ngày 7/5 vừa qua, Việt Nam tái khẳng định chính sách nhất quán về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, luôn xác định con người là trung tâm, là mục tiêu và động lực của quá trình đổi mới, phát triển đất nước. Các vấn đề được các nước quan tâm, Việt Nam đã trình bày, phúc đáp, thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời. Trong chu kỳ IV của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, quá trình triển khai các khuyến nghị, Việt Nam đã tổ chức tham vấn rộng rãi với sự tham gia của tất cả các bên liên quan, trong đó có các tổ chức phi chính phủ (NGO), tổ chức xã hội, các quốc gia thành viên, đối tác phát triển, và người dân. Hằng trăm các ý kiến, phản hồi đã được thu thập và được thể hiện rõ nét trong Báo cáo này. Đến nay có 239/241 khuyến nghị (tương đương 99,2%) đã được hoàn thành hoặc triển khai một phần. Cũng trong chu kỳ này đã có 45 luật và hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến vấn đề quyền con người đã được thông qua hoặc sửa đổi, trong đó có một số luật quan trọng như Bộ luật Lao động, Luật Đất đai, Luật Phòng, chống ma túy và Luật Phòng, chống bạo lực gia đình.

Đối với một số ý kiến dựa trên những nguồn tin chưa được kiểm chứng, đoàn Việt Nam đã giải đáp, cung cấp thông tin xác thực. Việt Nam nhấn mạnh nguyên tắc đối thoại, hợp tác, tôn trọng khác biệt; đồng thời nêu rõ không có một mô hình chung cho tất cả các nước mà mỗi nước tùy theo đặc thù, điều kiện của mình sẽ có con đường phát triển riêng. Việt Nam tự tin tiếp bước trên con đường đã chọn hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, người dân được thụ hưởng các quyền con người cơ bản. Việt Nam sẽ tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ và cam kết của mình trong khuôn khổ các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên.

Trịnh Thúy – Chu Thắng

Bóc mẽ thủ đoạn xuyên tạc tên tuổi Hồ Chí Minh

Thứ hai, 13/05/2024 - 06:17

Những đối tượng chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam ý thức rất rõ về sự ảnh hưởng to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh trong đời sống chính trị, văn hóa tinh thần của đất nước.

Họ cho rằng sở dĩ chế độ cộng sản ở Việt Nam còn tồn tại là nhờ núp vào cái bóng thần tượng Hồ Chí Minh, nên phải xóa bỏ bằng được thần tượng ấy. Vì vậy, bóc mẽ thủ đoạn xuyên tạc của các thế lực chống phá tư tưởng Hồ Chí Minh bằng những lý lẽ khoa học, căn cứ thực tiễn là việc làm rất cần thiết hiện nay.

1. Một trong những thủ đoạn nham hiểm ấy là thời gian gần đây, một số đối tượng xuyên tạc rất trắng trợn: “Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc”. Nghệ thuật viết tuồng truyền thống thường dựa vào tích cũ để soạn những bổn mới, mang chủ đề, ý nghĩa mới. Cách này đang được một số đối tượng sử dụng, nhưng là lấy tích cũ thật/giả để biến thành bổn mới giả, có cả “bổn cũ soạn lại”.

Theo lịch sử ghi lại, từ ngày 6-6-1931 đến ngày 22-1-1933, Tống Văn Sơ (tức Nguyễn Ái Quốc) bị bắt giam ở Hồng Công và được luật sư Francis Henry Loseby bào chữa trắng án. Thực dân Pháp rất muốn được phía Anh trục xuất về Đông Dương để bắt Nguyễn Ái Quốc thực thi án tử hình. Có thể là cố ý đánh lạc hướng mật thám Pháp mà Quốc tế Cộng sản cho loan tin Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bệnh lao phổi trong nhà tù Hồng Công, đăng trên cả báo nước ngoài (The Daily Worker (Anh) ngày 11-8-1932, L’Humanité (Pháp) ngày 9-8-1932) và cả báo trong nước (Đông Pháp thời báo ngày 3-7-1932, Đuốc Nhà Nam ngày 23-7-1932). Sau khi Nguyễn Ái Quốc được thả (ngày 28-12-1932), để đảm bảo an toàn cho thân chủ, chính luật sư Loseby cũng loan tin Nguyễn Ái Quốc đã chết vì bệnh phổi(1).

Bóc mẽ thủ đoạn xuyên tạc tên tuổi Hồ Chí Minh
Khối cờ Đảng, cờ Tổ quốc diễu hành trong Lễ kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ. Ảnh minh họa: qdnd.vn

Sau đó vẫn lấy những tin tức này, không cần quan tâm mục đích, lý do của nguồn tin, tác giả Hồ Tuấn Hùng (Đài Loan) viết “Hồ Chí Minh sinh bình khảo” (in năm 2008 tại Đài Loan) “khẳng định” Hồ Chí Minh có tên thật là Hồ Tập Chương, không phải Nguyễn Ái Quốc, vì Nguyễn Ái Quốc đã chết từ tháng 8-1932. Đầu năm 2013, sách được Thái Tuấn dịch ra tiếng Việt có tên “Tìm hiểu về cuộc đời của Hồ Chí Minh” cho đăng trên trang điện tử “Đối thoại”. 

Lợi dụng vấn đề đó, thời gian qua, trên nhiều trang mạng phản động lại đăng nhiều bài "dựa hơi" vào những sự kiện trên (chủ yếu từ sách của Hồ Tuấn Hùng), bịa đặt trắng trợn thêm nhiều chi tiết để xuyên tạc Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải là Nguyễn Ái Quốc, mà do “một người khác thế vào”! 

Lập luận của các bài viết trên, một mặt dựa vào “lý lẽ” của Hồ Tuấn Hùng, mặt khác, vẫn theo kiểu mượn tích cũ để “soạn bổn giả mới”. Ví như lấy sự kiện có thật Nguyễn Ái Quốc lấy bí danh Hồ Quang (từ ngày 1-1-1938) mang quân hàm thiếu tá, công tác tại Phòng Cứu vong thuộc Văn phòng Bát lộ quân ở Quế Lâm, không hề chứng minh, phân tích nhưng nhiều tác giả đã “khẳng định” lấy được: “Hồ Quang chính là Hồ Tập Chương” từ đây (tức năm 1938) bắt đầu “sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam”.

Về điểm này, xin dẫn sự giải thích của chính Bác Hồ, nhân một đồng chí Trung Quốc hỏi: “Tại sao đồng chí lại lấy tên Hồ Quang?”. Bác trả lời hóm hỉnh: “Tôi có râu, lại trọc đầu nên gọi là Hồ Quang” (vì đọc theo tiếng Bắc Kinh, hồ có nghĩa là râu, quang có nghĩa là trọc)(2). Đây là cách chơi chữ quen thuộc của Bác lý giải cách đặt tên theo đặc điểm bản thân gắn liền với ngôn ngữ, địa danh nơi sinh sống.

Để có thêm cơ sở lịch sử và khoa học khẳng định Nguyễn Ái Quốc chính là Hồ Chí Minh, xin nhắc lại những sự kiện lịch sử liên quan. Ngày 1-6-1946, trên chuyến bay sang Pháp, tướng Raoul Salan tháp tùng Hồ Chủ tịch hỏi có ý tò mò về đời tư (vốn là điều tối kỵ trong ngoại giao): “Trong bản Hiệp định ngày 6-3, ngài ký tên Hồ Chí Minh. Nhưng tên chính của ngài có phải là Nguyễn Ái Quốc không?”. Bác Hồ đáp: “Cũng trong bản hiệp định đó, vị đại diện của Chính phủ ngài ký tên là Sainteny, nhưng tên thật của ông ta chẳng phải là Jean Roger đó sao?”(3). Một câu đáp thật tuyệt vời của một trí tuệ nhạy bén, gần như khẳng định nhưng lại nói vòng sang chuyện tương tự để “chặn họng”, hàm ý nhắc nhở, đẩy đối phương vào thế bối rối, bị động: Ngay đại diện chính phủ của ngài cũng vậy đó thôi!

2. Về tập thơ “Nhật ký trong tù”, nhiều đối tượng cho rằng chữ viết ấy, nội dung ấy, thi pháp ấy thì “không thể một người Việt Nam nào, dù tài năng đến mấy” thể hiện được; thế nên Nguyễn Ái Quốc nếu còn sống cũng không thể là tác giả. Vả lại những năm ở Pháp, ở Nga, ở Hồng Công trước đó, sao Nguyễn Ái Quốc không có bài thơ chữ Hán nào?

Điều đáng phê phán các "tác giả" đưa ra cái gọi là “lý lẽ” nêu trên lại không hiểu rằng, Nguyễn Sinh Cung từ nhỏ đã sớm tiếp xúc với văn hóa Trung Hoa, học giỏi chữ Hán, là trò của các bậc đại Nho (Nguyễn Sinh Sắc, Hoàng Phan Quỳnh, Vương Thúc Quý). Trong khi đó, từ những năm 1922-1923, Nguyễn Ái Quốc đã rất quan tâm và viết nhiều bài về tình hình Trung Quốc in trên báo L’Humanité, La Vie Ouvrière. Cũng trong thời kỳ hoạt động ở Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc kiếm sống bằng viết báo (tiếng Trung, Pháp, Anh) và có mối quan hệ mật thiết với một số yếu nhân, trong đó có bà Tống Khánh Linh.

Vì vậy, các nhà nghiên cứu chân chính khẳng định, với tâm hồn ấy, tài năng ấy, trong hoàn cảnh tù đày, thơ đến một cách tự nhiên với Nguyễn Ái Quốc. Các bài thơ trong tập thơ này là kết tinh các luồng tinh hoa văn hóa Đông Tây, kim cổ, là tiếng nói của tâm hồn vĩ đại, trí tuệ siêu việt, khí phách lớn. Đó cũng là lý do để nhiều nhà nghiên cứu văn học quốc tế đã khẳng định tập thơ “Nhật ký trong tù” là tài sản văn hóa nhân loại và được dịch ra hơn 40 ngôn ngữ trên thế giới.

3. Trong chuyên luận “Tiếng cười trào phúng Hồ Chí Minh” do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia-Sự thật xuất bản năm 2010, tác giả cuốn sách chứng minh Hồ Chí Minh là người “Việt Nam nhất”. Chỉ xét ở mục đích trào phúng, trong các tác phẩm, có 232 lần Bác Hồ sử dụng các dẫn ngữ(4). Thành ngữ, tục ngữ là sự kết tinh lời ăn tiếng nói có mạch nguồn từ đời sống tâm hồn, trí tuệ nhân dân. Không phải là người Việt Nam làm sao dùng được nhiều dẫn ngữ, chưa nói tới cách dùng của Bác rất đa dạng, phong phú, nhiều hình vẻ, sắc thái và rất mực tinh tế.

Với tư cách là người nghiên cứu, chúng tôi xin khẳng định, từ thời thanh niên đến khi về với thế giới người hiền, ở Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh có sự nhất quán về mục đích: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi”, rộng hơn là vì hạnh phúc nhân loại nói chung. Mọi suy nghĩ, việc làm, hành động, dù nói hay viết của Người tất cả đều vì mục đích cao cả ấy.

Cũng xin được nhắc lại 3 cuộc hội thảo khoa học quốc tế gần đây nhất về Hồ Chí Minh. Ngày 18-4-2023, tại thủ đô Roma (Italy) diễn ra hội thảo với chủ đề “Quãng đời làm việc của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Italy”. Trước đó, ngày 14-5-2022, tại Ấn Độ là Hội thảo “Hồ Chí Minh và Ấn Độ” tổ chức ở Kolkata. Tháng 10-2019, Hội thảo “Hồ Chí Minh toàn cầu” tổ chức tại thành phố New York (Mỹ).

Các hội thảo đều khẳng định ở Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh là sự hội tụ tuyệt đẹp 3 luồng văn hóa: Văn hóa yêu nước Việt Nam; văn hóa hòa bình, bình đẳng, bác ái của nhân loại tiến bộ và văn hóa giải phóng con người của Chủ nghĩa Mác. Các nhà nghiên cứu quốc tế đều nhấn mạnh Hồ Chí Minh không chỉ là anh hùng giải phóng dân tộc của Việt Nam, mà còn là cầu nối giữa Việt Nam với thế giới và nhân cách của Người mang tầm ảnh hưởng toàn cầu. Điều này khẳng định sự tôn trọng của giới học giả thế giới đương đại với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng và những giá trị văn hóa cao đẹp của Người được cả nhân loại đón nhận.

Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân Việt Nam tự hào có Bác Hồ, coi việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là lý tưởng, lẽ sống, niềm tin và cũng là hạnh phúc. Hạnh phúc được đón nhận ánh sáng thời đại vì đó là con người nhân văn nhất, ưu tú nhất, tiên tiến nhất của dân tộc Việt Nam và là một trong những nhà văn hóa lừng danh của nhân loại. Đó cũng là minh chứng sinh động để bác bỏ hoàn toàn những ý đồ, thủ đoạn xuyên tạc thân thế, tên tuổi, sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

PGS, TS NGUYỄN THANH TÚ

(1) Nguyễn Văn Khoan (2004): Nguyễn Ái Quốc và vụ án Hồng Kông năm 1931, NXB Văn học, tr. 88.

(2) Đặng Quang Huy (2012): Chủ tịch Hồ Chí Minh với Trung Quốc, NXB Chính trị Quốc gia-Sự thật, tr.29.

(3) Nhiều tác giả (2009): Hồ Chí Minh-nhà văn hóa của tương lai, NXB Thanh Niên, tr.124.

 (4) Nguyễn Thanh Tú (2010): Tiếng cười trào phúng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia-Sự thật, tr.329.