Thủ đoạn bôi nhọ chính sách bảo hộ công dân Việt Nam tại Ukraine

08:51 21/03/2022

Chính phủ Việt Nam luôn thực thi chính sách bảo hộ công dân tại nước ngoài với tinh thần “tương thân tương ái” hỗ trợ tối đa để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là các điểm nóng xung đột, chiến tranh như Trung Đông, Bắc Phi và hiện nay là xung đột giữa Nga và Ukraine.

Tuy nhiên, các thế lực thù địch và những thành phần tự xưng đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền luôn rêu rao các quan điểm sai lệch về chính sách bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài nhằm gây hoang mang dư luận, làm suy giảm niềm tin của công dân trong và ngoài nước đối với Đảng, Nhà nước Việt Nam. Luận điệu này thể hiện trên một số điểm sau:

- Phủ nhận vai trò của các cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam tại Nga và Ukraine trong hỗ trợ người dân sơ tán khỏi vùng chiến sự. Truyền thông hải ngoại như đài RFA, BBC tiếng Việt, VOA, facebook của tổ chức khủng bố Việt Tân… đã vẽ ra bức tranh quy kết chính quyền Việt Nam “đứng ngoài lề, dửng dưng với những người dân đang kẹt lại tại khu vực xung đột Nga – Ukraine”. RFA ngày 11/3/2022 đăng tải bài viết về thực trạng người dân Việt Nam tại Ukraine và vu cáo “Không thấy vai trò của toà đại sứ Việt tại các quốc gia đó ở đâu! Lại cái cảnh “dân giúp dân” như tại Việt Nam thời COVID-19 hoành hành!”. Qua đó, nội dung bài viết phủ nhận những nỗ lực của các cơ quan ngoại giao Việt Nam ở Nga và Ukraine trong việc đưa ra các phương án bảo vệ tài sản, tính mạng, sức khoẻ những người dân và cho rằng, khi chiến sự nổ ra đã không quan tâm sơ tán người dân. Đây là luận điệu nguy hiểm, đánh vào tâm lý những người dân đang kẹt lại các điểm nóng và gây hoang mang cho người dân trong nước về tình hình cộng đồng người Việt tại Ukraine.

- Làm giảm niềm tin của người dân trong nước đối với hoạt động quản lý của cơ quan chức năng liên quan đến hỗ trợ người dân tại các quốc gia đang xung đột, chiến tranh. Sau khi vụ án liên quan đến hành vi nhận hối lộ của một số cá nhân tại Cục Lãnh sự, Bộ Ngoại giao được cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố, điều tra, các thế lực thù địch, giới dân chủ tự xưng đã khoét sâu vào những sai phạm này để quy chụp, bôi nhọ. Nhiều bài viết các đối tượng vu cáo chính quyền Việt Nam bao che, dung túng sai phạm, đồng thời rêu rao, kích động người dân không tin tưởng vào những hoạt động hỗ trợ của chính quyền đối với kiều bào Việt Nam ở nước ngoài. Họ nhắc lại những chiến dịch sơ tán người dân tại Bắc Phi, Trung Đông giai đoạn 2011-2014, đưa các clip, hình ảnh, bài viết sai lệch về việc người Việt “phải tự mình xoay xở” với hoàn cảnh khó khăn, từ đó suy diễn, vu cáo cơ quan ngoại giao của Việt Nam không thực hiện chính sách bảo hộ công dân Việt ở nước ngoài.

- Bôi lem hình ảnh, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, mục đích để thế giới nhìn nhận Việt Nam là quốc gia thiếu trách nhiệm trong giải quyết các vấn đề nóng trên thế giới. Việt Nam đã tham gia ký kết các Công ước về ngoại giao theo luật pháp quốc tế nên các cơ quan ngoại giao Việt Nam có cơ sở để lên tiếng yêu cầu các quốc gia đang có xung đột, chiến tranh phải có trách nhiệm đối với cộng đồng người Việt Nam. Thực tế, các cơ quan đại diện ngoại giao luôn đi đầu trong nắm diễn biến tình hình và thực hiện các biện pháp bảo vệ tài sản, tính mạng cho công dân theo chính sách bảo hộ của pháp luật. Tuy nhiên, nhiều cá nhân, tổ chức quốc tế có những góc nhìn thiếu khách quan, trung thực trong đánh giá hoạt động của cơ quan ngoại giao của Việt Nam. Một số tổ chức thiếu thiện chí đưa ra thông tin, hình ảnh sai lệch nhằm bôi lem, hạ uy tín Việt Nam tại các diễn đàn quốc tế, các hội thảo đa phương, thậm chí lên án Việt Nam tại các phiên điều trần của nghị viện Mỹ, EU… Một số cơ quan truyền thông phương Tây tô vẽ góc nhìn lệch lạc, trái với bản chất, tạo ra dư luận xấu về hình ảnh của Việt Nam, mục đích làm cho quốc tế nhìn nhận Việt Nam là quốc gia thiếu tin cậy, thiếu trách nhiệm, thậm chí hướng lái thành “đứng ngoài cuộc” trong tham gia giải quyết các điểm nóng, xung đột trên thế giới.

Thực tế, những hoạt động tích cực của các cơ quan chức năng Việt Nam thể hiện xuyên suốt, từ chủ trương, chính sách đến hành động bảo hộ công dân Việt Nam tại nước ngoài. Điều đó được biểu hiện ở các nội dung:

Một là, Đảng, Nhà nước Việt Nam khẳng định công dân Việt ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn hội nhập quốc tế, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài là một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập sâu rộng với thế giới. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định chính sách nhất quán “nâng cao hiệu quả công tác bảo hộ công dân”. Nhằm cụ thể hóa tinh thần này của Đại hội XIII, Hội nghị Ngoại giao lần thứ 31 nhấn mạnh cần “triển khai toàn diện, mạnh mẽ, kịp thời, hiệu quả công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài và bảo hộ công dân, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người Việt Nam ở nước ngoài”; “chăm lo, hỗ trợ đồng bào ta, nhất là ở những địa bàn khó khăn”. Đối với các điểm nóng, xung đột trên thế giới như tại Ukraine hiện nay, Chính phủ đã gửi Công điện 201 ngày 26/2/2022 về việc “Bảo hộ công dân và pháp nhân Việt Nam và một số vấn đề cần lưu ý trước tình hình tại Ukraine”, yêu cầu các bộ, ngành, các cơ quan đại diện Việt Nam tại Ukraine và các nước lân cận Ba Lan, Nga, Rumania, Hungaria, Slovakia phối hợp chặt chẽ trong việc triển khai các phương án bảo hộ công dân, đảm bảo an ninh, an toàn, các điều kiện cần thiết để sơ tán công dân Việt Nam khỏi vùng chiến sự, đến các nước lân cận và về nước nếu có nguyện vọng.

Hai là, dưới góc độ luật pháp, Việt Nam cam kết thực hiện chính sách bảo hộ công dân tại nước ngoài theo quy định pháp luật Việt Nam và phù hợp với luật pháp quốc tế. Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Công dân Việt Nam ở nước ngoài được Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam bảo hộ” (Khoản 3, Điều 17). Luật Quốc tịch Việt Nam ghi nhận: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam bảo hộ quyền lợi chính đáng của công dân Việt Nam ở nước ngoài. Các cơ quan nhà nước ở trong nước, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài có trách nhiệm thi hành mọi biện pháp cần thiết, phù hợp với pháp luật của nước sở tại, pháp luật và tập quán quốc tế để thực hiện sự bảo hộ đó” (Điều 6, Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008, sửa đổi, bổ sung năm 2014). Việt Nam cũng đã chủ động sửa đổi Luật Cơ quan đại diện nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ở nước ngoài năm 2009 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nhằm phù hợp với Công ước quốc tế như Nghị định thư bổ sung Công ước Geneva về bảo hộ nạn nhân trong các cuộc xung đột quốc tế; Công ước Viên về quan hệ ngoại giao năm 1961.

Ba là, xuất phát từ thực tế thực hiện chính sách bảo hộ công dân Việt Nam ở các nước trên thế giới luôn được Chính phủ Việt Nam đặc biệt quan tâm và xác định đó không chỉ là lợi ích của mỗi cá nhân mà còn thể hiện trách nhiệm của Chính phủ Việt Nam đối với công dân khi công tác, học tập làm ăn ở nước ngoài theo tinh thần “không ai bị bỏ lại đằng sau”. Ngày 6/3/2022, trong cuộc làm việc với Bộ Ngoại giao liên quan đến sơ tán công dân Việt từ Ukraine khỏi vùng chiến sự, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc đã nhấn mạnh: Công tác bảo hộ công dân cần được đặc biệt quan tâm; quá trình tổ chức cần thực hiện những chuyến bay miễn phí đưa trường hợp khó khăn về nước, đồng thời phải thực hiện nhất quán “ưu tiên phụ nữ, trẻ em, người già”. Đó là minh chứng cho những lời hứa thực hiện bảo hộ công dân Việt tại nước ngoài nhằm thực hiện cam kết của Chính phủ với người dân trước những diễn biến phức tạp tại Ukraine.

Mặt khác, trong những năm qua, Việt Nam đã từng tổ chức nhiều phương án, biện pháp thiết thực như lập cầu hàng không sơ tán người lao động ở Libya năm 2011 và 2014; đưa hành khách ra khỏi châu Âu do núi lửa phun trào năm 2010; giải cứu hành khách bị kẹt tại Thái Lan do khủng hoảng chính trị năm 2008; vận chuyển công dân Việt Nam trở về từ Malaysia, Trung Đông các năm 2005-2007... Năm 2021, Bộ Ngoại giao đã phối hợp với các bộ, ngành, địa phương và các cơ quan liên quan tổ chức gần 600 chuyến bay đưa hơn 130.000 công dân từ hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ về Việt Nam.

Thực tế đó thể hiện rõ chủ trương, chính sách và hành động thiết thực của Việt Nam trong công tác bảo hộ công dân ở nước ngoài; là bằng chứng sinh động phủ nhận những luận điệu sai trái, vu cáo của các thế lực xấu.

ThS Nguyễn Xuân Thịnh (Học viện An ninh nhân dân)

Giữ vững rường cột nước nhà

21/03/2022 05:00

Tuổi trẻ cả nước đang tổ chức đại hội đoàn các cấp, hướng tới Đại hội đại biểu toàn quốc Đoàn Thanh niên Cộng sản (TNCS) Hồ Chí Minh lần thứ XII, nhiệm kỳ 2022-2027.

Trong lúc đoàn viên, thanh niên (ĐVTN) cả nước, với vai trò, vị thế là cánh tay đắc lực, đội dự bị tin cậy của Đảng, là rường cột của nước nhà, đang bước vào đợt sinh hoạt chính trị, văn hóa sâu rộng, thì các thế lực thù địch cũng nhân cơ hội này đẩy mạnh các chiến dịch tuyên truyền, xuyên tạc, chống phá...

Ngụy biện thông tin, lèo lái dư luận

Giới trẻ nói chung, ĐVTN nói riêng vừa là mục tiêu, đối tượng, vừa là công cụ được các thế lực thù địch triệt để khai thác, lợi dụng, tập trung chống phá. Các chiến dịch tuyên truyền, chống phá của các thế lực thù địch từ trước đến nay đều đặt giới trẻ ở vị trí trung tâm, trọng tâm. Mục tiêu của chúng là hủy hoại “cánh tay đắc lực của Đảng”, làm tan rã “đội dự bị tin cậy”, phá vỡ “rường cột” đất nước. Chúng muốn thanh niên Việt Nam bị mất phương hướng, bị kích động, quay lưng, phai nhạt lý tưởng của Đảng, đi theo con đường phản nước, hại dân... 

Trong chiến lược “diễn biến hòa bình” xuyên suốt ấy, chúng thường bám vào các sự kiện chính trị quan trọng của đất nước và diễn biến đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội theo dòng thời sự chủ lưu để tạo cớ đào rộng, khoét sâu, ngụy tạo chứng cứ gây nhiễu thông tin, nội công ngoại kích, lèo lái dư luận theo ý đồ, kịch bản đã được vạch sẵn. Bám vào đại hội đoàn các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu Đoàn TNCS Hồ Chí Minh lần thứ XII và kỷ niệm 91 năm truyền thống của Đoàn để đẩy mạnh chiến dịch công kích, xuyên tạc, chống phá là hoạt động nằm trong chuỗi chiến lược ấy. Bình tĩnh, sáng suốt nhận diện rõ âm mưu, thủ đoạn để có phương án đấu tranh, ngăn chặn, làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch là trách nhiệm, bổn phận trước hết của mỗi tổ chức đoàn, mỗi ĐVTN yêu nước.

Giữ vững rường cột nước nhà
Đoàn Thanh niên TTXVN phát động Tháng thanh niên tại Khu Di tích Tân Trào. Ảnh: TTXVN

Theo dõi tình hình, chúng ta thấy rõ, sau những chiến dịch truyền thông dồn dập trên không gian mạng chống phá Đại hội XIII của Đảng, cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, xuyên tạc công tác phòng, chống dịch Covid-19... chiến dịch công kích, chống phá của các thế lực thù địch hiện nay đang chĩa mũi nhọn vào tuổi trẻ Việt Nam, vào tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.

Cụ thể những ngày gần đây, bám vào tình hình thời sự nóng bỏng từ cuộc xung đột vũ trang Nga-Ukraine, tình hình phức tạp trên Biển Đông và những vụ án, vụ việc tiêu cực trong nước... chúng lồng ghép thông tin, bình luận, ngụy biện, lèo lái dư luận xã hội nhằm phủ nhận vai trò của Đoàn đối với tuổi trẻ đất nước, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng. Bằng các hình thức “tọa đàm”, phỏng vấn, lấy ý kiến thế hệ trẻ Việt Nam, chúng sắp xếp sẵn những đối tượng thanh niên là người Việt Nam ở nước ngoài có tư tưởng chống đối Đảng, Nhà nước để gieo rắc, truyền tải tư tưởng phản động. Từ ý kiến cá nhân trên một số diễn đàn, chúng đòi xóa bỏ Huy hiệu Đoàn, kêu gọi tuổi trẻ tẩy chay tổ chức đoàn và các phong trào thanh niên.

Từ việc ngụy biện cho rằng, Đoàn chỉ còn là “cái vỏ hình thức”, không còn phù hợp với tuổi trẻ thời hội nhập quốc tế, chúng kêu gọi thanh niên, trí thức trẻ đi theo trào lưu “cấp tiến”, tư tưởng “tự do”, “dân chủ”, tung hô những bạn trẻ lầm đường lạc lối là những “anh hùng”. Nhiều phương tiện truyền thông hải ngoại phát tiếng Việt gọi những đối tượng này bằng những danh xưng lộng ngôn, ngoa ngôn, kiểu như: “Nhà hoạt động dân chủ”, “nhà đấu tranh nhân quyền”, “nhà hoạt động xã hội”, “nhà bất đồng chính kiến”, “nhà phản biện xã hội” v.v.., cổ xúy trào lưu lợi dụng tự do ngôn luận để “phản biện”, lôi kéo thanh niên rời xa Đảng. Thời gian qua, có không ít đối tượng núp bóng một số tổ chức phi chính phủ, lợi dụng các hoạt động từ thiện, bảo vệ môi trường để tập hợp, lôi kéo thanh niên tham gia các khóa đào tạo ở nước ngoài nhằm “tẩy não”, gieo rắc tư tưởng cực đoan, chống đối Đảng, Nhà nước, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng.

Trên thực tế, không ít bạn trẻ non kém bản lĩnh, nhẹ dạ cả tin, ăn phải thứ “bánh vẽ” ảo tưởng, đã tha hóa về nhân cách, trở thành công cụ đắc lực cho các thế lực thù địch lợi dụng. Có thể thấy, chiến lược, thủ đoạn của các  thế lực thù địch nhằm “tẩy não” giới trẻ Việt Nam đã và đang được điều chỉnh, thay đổi ngày càng tinh vi nhằm chuyển hóa tư tưởng, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến” ở thế hệ rường cột nước nhà. Thực tế đó đòi hỏi chúng ta phải luôn tỉnh táo, chú trọng các hình thức, giải pháp củng cố trận địa tư tưởng trong thanh niên, nhất là thanh niên giới trí thức và công nhân, người lao động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, giữ vững lực lượng rường cột nước nhà.

Khắc phục “nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị”

Phát biểu tại Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ XI, nhiệm kỳ 2017-2022, bên cạnh khẳng định thành tích của tuổi trẻ Việt Nam và Đoàn là rất to lớn và đáng tự hào, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ trách nhiệm của Đoàn trong định hướng giáo dục thanh niên là “tránh nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị”. Sự chỉ đạo, lời căn dặn của người lãnh đạo cao nhất Đảng ta rất súc tích, vừa mang tính khái quát cao, vừa cụ thể.

Tình trạng “nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị” xuất phát từ thực tế công tác Đoàn và phong trào thanh niên còn nhiều hạn chế, chậm đổi mới. Một số hoạt động của Đoàn còn nặng về bề nổi, dàn trải, hình thức, kết quả thiếu bền vững. Một bộ phận thanh niên giảm sút niềm tin, phai nhạt lý tưởng cách mạng, sống thực dụng, xa rời truyền thống tốt đẹp của dân tộc...

Sau 5 năm nhìn lại, với tinh thần khách quan, thẳng thắn, nghiêm túc, chúng ta thấy rằng, nhiều mặt hạn chế, bất cập trong công tác Đoàn và phong trào thanh niên vẫn chậm được khắc phục. Tại các hội nghị góp ý xây dựng Văn kiện Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ XII do Trung ương Đoàn tổ chức, nhiều đại biểu đã kiến nghị các giải pháp nhằm khắc phục tình trạng “nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị” trong một bộ phận thanh niên hiện nay.

Đại hội đoàn các cấp tiến tới Đại hội Đoàn toàn quốc nhiệm kỳ 2022-2027 là đợt sinh hoạt chính trị, văn hóa sâu rộng, có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với thanh niên cả nước. Đây cũng là giai đoạn thanh niên Việt Nam thể hiện sứ mệnh là lực lượng chủ lực của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, trọng tâm là công cuộc chuyển đổi số, thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế của đất nước ngày càng sâu rộng. Với phương châm “lấy xây để chống”, việc củng cố trận địa tư tưởng của Đảng trong thanh niên phải được coi trọng, đặt lên hàng đầu. Nghiên cứu, tìm kiếm các mô hình tập hợp, giáo dục thanh, thiếu niên phù hợp với nguyện vọng, mục tiêu phấn đấu của tuổi trẻ, tích cực, mạnh dạn, quyết liệt đổi mới để công tác Đoàn và phong trào thanh niên thực sự hấp dẫn, thu hút thanh niên, là những vấn đề đã và đang được Trung ương Đoàn lấy ý kiến rộng rãi.

Với tư cách là “Đội dự bị tin cậy của Ðảng, thường xuyên bổ sung lực lượng trẻ cho Ðảng, kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Ðảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh”, thanh niên Việt Nam phải luôn là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong nhiệm vụ đấu tranh chống các quan điểm, khuynh hướng chính trị sai trái, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng. Để mỗi ĐVTN thực sự là một chiến sĩ trên mặt trận đấu tranh phức tạp, nhiều thách thức này, tổ chức đoàn các cấp phải khắc phục tình trạng hình thức, hời hợt, thiếu bền vững trong các phong trào, chương trình hành động.

Biến quy trình giáo dục thành tự giáo dục để ĐVTN có ý thức tự giác, tự chủ trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, nâng cao ý thức, thái độ, kỹ năng đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thông tin xấu độc của các thế lực thù địch trên không gian mạng là những mục tiêu, giải pháp tổ chức đoàn các cấp dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đoàn cần có các mô hình thực hiện một cách bài bản, kiên trì, hiệu quả.

Thanh niên vừa là chủ thể, vừa là đối tượng của không gian mạng. Khi ĐVTN được giáo dục, trang bị đầy đủ lý luận chính trị, được tập hợp, thống nhất dưới ngọn cờ Đoàn, sẽ tạo nên sức đề kháng mạnh mẽ, là bức tường thành vững chắc của trận địa tư tưởng, ngăn chặn, đẩy lùi các khuynh hướng lệch lạc, giữ vững rường cột nước nhà. Giáo dục, vận động ĐVTN về thái độ sử dụng mạng xã hội, về văn hóa ứng xử trên không gian mạng để ngày hội lớn của tuổi trẻ cả nước trở thành sắc màu, nội dung chủ đạo trên các tài khoản cá nhân và các trang, nhóm trên mạng xã hội là điều cần làm của tổ chức đoàn các cấp trong giai đoạn hiện nay. Đó cũng là cách lấy xây để chống, ngăn chặn sự xâm nhập của các thông tin độc hại, phản động mà các thế lực thù địch đang hướng vào thanh niên.

THANH KIM TÙNG

Bài 4: Những kẻ giả danh vì dân và “viên đạn bọc đường” (Tiếp theo và hết)

20/03/2022 05:00

“Diễn biến hòa bình” là chiến lược của các nước đế quốc và thế lực phản động quốc tế, sử dụng như một phương tiện, công cụ để tấn công các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) và những quốc gia tiến bộ nhằm thay đổi thể chế chính trị-xã hội từ bên trong theo hướng có lợi cho họ, bằng biện pháp phi quân sự là chủ yếu, thực hiện chiến thắng chủ nghĩa xã hội (CNXH) không cần chiến tranh. Chiến lược “diễn biến hòa bình” được Đảng ta xác định là một trong 4 nguy cơ ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ.

Thủ đoạn của những kẻ giả danh vì dân, vì nước

Trên các diễn đàn, hội nhóm thời gian qua, chúng ta chứng kiến không ít luận điệu rêu rao rằng học thuyết Mác-Lênin là "lạc hậu", là "sai lầm". Họ tỏ ra tiếc nuối, hối hận vì đi theo “con đường CNXH” của Mác và phát đi những tiếng kêu lạc lõng kêu gọi xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng ta là Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đi theo con đường tư bản chủ nghĩa.

Khi đất nước diễn ra các sự kiện quan trọng như đại hội đảng, bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND các cấp, chúng ta lại thấy “một đội quân bàn phím” tán phát nhiều tài liệu với những luận điệu xuyên tạc, giả danh vì dân, vì nước để đòi: Xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp năm 2013; đòi “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập”; đòi “phi chính trị hóa quân đội và công an”... Hay xuyên tạc rằng: “Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội nước ta là không chính danh, chỉ là hội nghị Đảng Cộng sản mở rộng”; “cuộc bầu cử chỉ do Đảng độc diễn, người dân không có vai trò gì”... Thực chất, đây là những thủ đoạn đòi xây dựng một thiết chế bầu cử theo kiểu phương Tây...

Bài 4: Những kẻ giả danh vì dân và “viên đạn bọc đường” (Tiếp theo và hết)
 Ảnh minh họa: tuyengiao.vn

Ngoài ra, chúng lợi dụng một số sai phạm của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ cấp cao, rồi hồ đồ lớn tiếng vu khống, dựng chuyện. Khi có những sự kiện ở khu vực, thế giới ảnh hưởng đến Việt Nam, chúng lại lên mạng xã hội, tập hợp những phần tử cơ hội, bất đồng chính kiến kêu gọi tuần hành phản đối, gây sức ép đối với hệ thống chính trị các cấp, làm rối loạn trật tự, an toàn xã hội...

Những việc làm, thủ đoạn trên của các thế lực thù địch trước hết nhằm tìm mọi cách xóa bỏ Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh-nền tảng tư tưởng của Đảng ta để thay thế bằng tư tưởng tư sản. Chúng xác định rõ, chính trị, tư tưởng là mặt trận hàng đầu, là khâu đột phá của chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam trong tình hình hiện nay. Do vậy, đây là mục tiêu nhất quán của chiến lược “diễn biến hòa bình” chống CNXH mà các thế lực thù địch hướng tới.

Thứ hai, chúng muốn xóa bỏ vị trí, sứ mệnh lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm thực hiện “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập”. Về thực chất, chúng mưu đồ hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; nhen nhóm lực lượng phản động chống đối để giành quyền thống trị xã hội cho giai cấp tư sản.

Ba là, chúng muốn gây mất ổn định về chính trị ở nước ta. Chúng tác động vào những cán bộ, đảng viên thiếu rèn luyện, tu dưỡng, từng bước làm tha hóa họ, dùng “cộng sản diệt cộng sản”, “cộng sản con diệt cộng sản cha”. Chúng không tiếc công sức và tiền bạc để thực hiện những hành vi lén lút, lôi kéo những người có chính kiến bất đồng, chống CNXH, chống sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dùng họ như một “con rối chính trị” trong tay để thực hiện mưu đồ về chính trị.

Với quần chúng nhân dân, chúng kích động những vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo”, tạo tâm lý hoài nghi, giảm dần niềm tin vào Đảng và hệ thống chính trị ở nước ta, gây mâu thuẫn nội bộ, làm mất sự đồng thuận xã hội.

Bốn là, bằng nhiều thủ đoạn bao vây, cấm vận kinh tế, lợi dụng các tổ chức quốc tế, tác động từng bước, làm suy yếu tiềm lực kinh tế, xâm nhập, chi phối, lũng đoạn kinh tế-tài chính, chuyển hóa nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta chệch hướng theo con đường tư bản chủ nghĩa.

Năm là, xóa bỏ nền văn hóa, đạo đức, lối sống của chế độ XHCN, nhường chỗ để văn hóa, đạo đức, lối sống tư sản xâm nhập vào. Từ đó làm tha hóa phẩm chất, đạo đức con người, làm băng hoại nhiều giá trị truyền thống của dân tộc ta, dẫn đến rối loạn an ninh chính trị, trận tự an toàn xã hội.

Sáu là, phi chính trị hóa lực lượng vũ trang, mục tiêu là loại bỏ sự lãnh đạo của Đảng ta đối với quân đội và công an, hòng tạo ra sự bất ổn chính trị trong nước và cao hơn là sụp đổ chế độ...

Sách “Phòng, chống “diễn biến hòa bình” trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” do Thiếu tướng, PGS, TS Nguyễn Bá Dương (chủ biên) nhận định: Thực chất của “diễn biến hòa bình” và chống “diễn biến hòa bình” là cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt giữa giai cấp vô sản và tư sản, được biểu hiện ở sự đối kháng giữa hai hệ thống chính trị thế giới: XHCN và tư bản chủ nghĩa. Chừng nào còn tồn tại hai hình thái kinh tế-xã hội đối lập nhau, còn đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và tư sản thì nhân loại tiến bộ phải phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình".

Vô hiệu hóa “viên đạn bọc đường”

Để phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình” hiệu quả thì Đảng ta phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp như: Phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; làm tốt công tác dự báo, nắm chắc diễn biến thông tin, chủ động định hướng tư tưởng trong mọi tầng lớp nhân dân; lấp những “khoảng trống” thông tin trên mạng xã hội, đặc biệt là ở cơ sở, vùng sâu, vùng xa theo phương châm “nơi nào nhân dân tiếp cận thông tin, nơi đó có cán bộ định hướng thông tin”.

 Trong nhiều giải pháp triển khai, theo chúng tôi, công tác phòng, chống tốt “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là giải pháp mang tính then chốt. Lênin-nhà tư tưởng vĩ đại, người sáng lập nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới đã căn dặn những người cộng sản: Không ai có thể tiêu diệt được chúng ta, ngoài những sai lầm của bản thân chúng ta.

Nói chuyện với cán bộ trước khi vào tiếp quản Thủ đô Hà Nội năm 1954, nhiều người thắc mắc không biết về dưới xuôi rồi thì lương bổng thế nào, công tác sau này ra sao? Bác Hồ đã bổ sung thêm một điều đáng thắc mắc mà không ai nêu ra: Khi về xuôi thì đạo đức và nhân cách của mình phải thế nào? Người căn dặn: Bom đạn của địch không nguy hiểm bằng “đạn bọc đường” vì nó làm hại mình mà mình không trông thấy.

Đất nước ta đang mở cửa, hội nhập kinh tế sâu rộng, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng đem lại cho đất nước ta, nhân dân ta những thành tựu to lớn. Nhưng mặt trái của nền kinh tế thị trường khiến không ít cán bộ, đảng viên của Đảng sa ngã, đánh mất mình.

Nhận rõ nguy cơ này là “mảnh đất màu mỡ” để các thế lực thù địch thực hiện thành công chiến lược “diễn biến hòa bình”, Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII, Đảng ta chỉ rõ những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, suy thoái về đạo đức, lối sống và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Nghị quyết chỉ rõ suy thoái về tư tưởng chính trị trong đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.

Thời gian qua, Đảng, Nhà nước ta kiên quyết xử lý những cán bộ thoái hóa, biến chất, dẫu chúng ta vô cùng đau xót khi đồng chí mình bị kỷ luật! Song vì sự nghiêm minh của kỷ luật Đảng, sự thượng tôn pháp luật của Nhà nước, sự trong sạch, vững mạnh và uy tín của Đảng và ý nguyện của nhân dân, Đảng, Nhà nước ta phải xử lý nghiêm khắc những cán bộ vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật của Nhà nước với phương châm “không có vùng cấm”, “không có ngoại lệ”.

Cựu chiến binh Nguyễn Viết Phiên, ở thị trấn Ngọc Lặc, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa tâm sự: “Nhìn thẳng sự thật, nhiều lãnh đạo từ cấp cơ sở đến Trung ương rất năng động, sáng tạo, luôn đau đáu lo cho dân được ấm no, hạnh phúc, đất nước ngày một phồn vinh. Nhưng có một bộ phận cán bộ chỉ lo vun vén cho cá nhân, gia đình, “nhóm lợi ích” của mình. Số cán bộ này, cái gì có lợi cho mình thì ra sức làm, ra sức bảo vệ; cái gì không thu được lợi cho mình thì thờ ơ, phó mặc. Cho nên, cán bộ dù ở vị trí nào cũng phải luôn nghĩ cho dân, cho nước là trên hết, trước hết. Đó là niềm mong mỏi chung của toàn Đảng, toàn dân ta đối với đội ngũ cán bộ các cấp”.

Do vậy, cuộc chiến chống "viên đạn bọc đường" phải bắt đầu từ công việc tự soi, tự sửa, giống như việc đánh răng, rửa mặt hằng ngày của mỗi cán bộ, đảng viên; phải phòng ngừa, ngăn chặn ngay những cám dỗ danh vọng, quyền lực xung quanh mình, giữ cho mình thực sự trong sạch. Khi Đảng ta đã lựa chọn, xây dựng được một Ban Chấp hành Trung ương mạnh, Bộ Chính trị mạnh, cán bộ chủ chốt mạnh, được nhân dân tin tưởng, ủng hộ thì chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động không đạt mục đích.

Thay lời kết

Khẳng định rằng: Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ rõ có quan hệ chặt chẽ và nguy cơ nào cũng nguy hại, đều phải đấu tranh, ngăn chặn đẩy lùi, không thể chủ quan xem thường bất cứ nguy cơ nào. Muốn đẩy lùi các nguy cơ thì Đảng, Nhà nước, cả hệ thống chính trị và toàn xã hội phải tiến hành nhiều giải pháp đồng bộ, bài bản và phải có những giải pháp rất tích cực, trong đó, xây dựng hệ thống thể chế, pháp luật và chế tài đồng bộ, đặc biệt là kiểm soát quyền lực, chế tài xử lý nghiêm minh kết hợp với giáo dục, tuyên truyền, nâng cao nhận thức trong toàn Đảng, toàn dân là trọng tâm để khắc phục các nguy cơ mà Đảng chỉ ra.

Các thế lực thù địch luôn luôn muốn thực hiện “diễn biến hòa bình” đối với Đảng ta, chế độ ta. Thế nhưng, bằng sự đoàn kết, vững vàng, bản lĩnh chính trị cao, dựa trên trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân thì không thế lực nào có thể ngăn cản con đường phát triển của đất nước chúng ta.

“...nguy hiểm nhất là sự phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường XHCN, mơ hồ, dao động, thiếu niềm tin; nói trái, làm trái quan điểm, đường lối của Đảng; sa sút về ý chí chiến đấu, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh; thậm chí còn phụ họa theo những nhận thức, quan điểm sai trái, lệch lạc; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn bổn phận, chức trách được giao; không thực hiện đúng các nguyên tắc xây dựng Đảng và tổ chức sinh hoạt Đảng. Sự suy thoái về đạo đức, lối sống thể hiện ở chỗ: Sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, hám quyền lực, tham nhũng, tiêu cực; bè phái cục bộ, mất đoàn kết; quan liêu, xa dân, vô cảm trước những khó khăn, bức xúc của dân”. (Trích phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 4, khóa XIII của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng)

Nhóm PV Báo QĐND

Bài 3: Ngăn những “tổ mối” trong “con đê” phòng, chống tham nhũng, tiêu cực

18/03/2022 22:16

Sau hơn 35 năm đổi mới, đất nước ta đạt được nhiều thành tựu to lớn. Thế nhưng, trong quá trình đó cũng bộc lộ không ít khuyết điểm, hạn chế, nhất là nạn tham nhũng, tiêu cực có chiều hướng gia tăng và ngày càng phức tạp. Đây được ví như những “tổ mối” làm gia tăng nguy cơ, thách thức ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ.

Nước mắt người đảng viên già

Cựu chiến binh, đảng viên Nguyễn Trung Dật (82 tuổi) ở xã Canh Nậu (Thạch Thất, Hà Nội) là người đã dũng cảm lên tiếng đấu tranh và đưa ra ánh sáng những cán bộ lợi dụng chức vụ, quyền hạn để tư lợi cá nhân, góp phần mang lại lẽ phải cho người dân, giữ gìn sự nghiêm minh của pháp luật và sự trong sạch của tổ chức đảng. Giờ đây, mỗi lần xem, nghe trên các phương tiện thông tin đại chúng về những cán bộ tham nhũng, bòn rút của công, ông lại không cầm được nước mắt. Ông chia sẻ: “Tôi cũng như phần lớn đảng viên đều đau xót trước sự thoái hóa, biến chất của một bộ phận không nhỏ cán bộ các cấp thời gian qua. Tôi khóc không phải vì thương những cán bộ ấy khi bị xử tù, bị cách hết tất cả chức vụ trong Đảng và chính quyền mà khóc thương cho Đảng, cho đất nước. Chính những cán bộ ấy đã bóp méo những chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng ta, kéo sự phát triển của đất nước chậm lại và nghiêm trọng hơn là làm giảm niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành của Nhà nước”.

Bài 3: Ngăn những “tổ mối” trong “con đê” phòng, chống tham nhũng, tiêu cực

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực

kết luận phiên họp thứ 21 của Ban Chỉ đạo. Ảnh: TTXVN 

Phải khẳng định: Tham nhũng là hiện tượng xã hội, tồn tại tất yếu, khách quan trong xã hội có nhà nước (có giai cấp). Tham nhũng tồn tại ở mọi quốc gia, hiện diện trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội, không phụ thuộc vào chế độ chính trị đa đảng hay một đảng, cũng không phụ thuộc vào trình độ phát triển. Tổ chức Minh bạch quốc tế (TI) công bố Chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) năm 2020 cho thấy, tình trạng tham nhũng diễn ra ở khắp nơi trên thế giới, với hơn 2/3 trong số 180 quốc gia được đánh giá chỉ đạt điểm dưới 50 trên thang điểm 100.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi tham ô, lãng phí là tội lỗi đê tiện nhất trong xã hội. Người chỉ rõ bản chất của hành vi tham ô là lấy của công làm của tư, là gian lận, tham lam, là trộm cướp. Trong bài nói chuyện năm 1952 về “Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu”, Người nói rõ: Đứng về phía cán bộ mà nói, tham ô là ăn cắp của công làm của tư; đục khoét của nhân dân; ăn bớt của bộ đội; tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung của Chính phủ để làm quỹ riêng cho địa phương mình, đơn vị mình... Đứng về phía nhân dân mà nói, tham ô là ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế.

Nhận rõ những nguy cơ, thách thức của tệ tham nhũng, tiêu cực, đe dọa đến vị thế, uy tín, vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, trong quá trình lãnh đạo, điều hành, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, bộ luật cho công tác PCTN. Đặc biệt, những năm gần đây, từ Đại hội XI đến Đại hội XIII của Đảng, Trung ương tiếp tục khẳng định những quan điểm, chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp lớn về PCTN, tiêu cực.

Mới năm đầu thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Bộ Chính trị đã ban hành Kế hoạch số 01 về việc tiếp tục thực hiện Chỉ thị 05 về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Ngày 10-9-2021, tại trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì cuộc họp Bộ Chính trị cho ý kiến về Đề án “Sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng (PCTN)”. Về tên gọi của Ban chỉ đạo, Bộ Chính trị thống nhất là “Ban chỉ đạo Trung ương về PCTN, tiêu cực” (bổ sung từ “tiêu cực”) để bao quát đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban chỉ đạo. Cùng với đó, Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII) cũng ban hành Kết luận số 21 về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) với tinh thần thực hiện đồng bộ nhiệm vụ xây dựng Đảng cùng với xây dựng hệ thống chính trị thực sự trong sạch, vững mạnh, trong đó có nhiều nhiệm vụ và giải pháp quyết liệt hơn; Trung ương cũng ban hành Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25-10-2021 quy định về những điều đảng viên không được làm. Ngày 28-12-2021, Quân ủy Trung ương ban hành Nghị quyết số 847-NQ/QUTW về phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới... Đây chính là những căn cứ quan trọng để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân làm tốt hơn nữa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; chủ động ngăn ngừa các sai phạm, tiêu cực của cán bộ, đảng viên.

Phát biểu tại Phiên họp thứ 21 của Ban chỉ đạo Trung ương về PCTN, tiêu cực (ngày 20-1-2022), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng ban chỉ đạo Trung ương về PCTN, tiêu cực nhấn mạnh: Năm 2022 có ý nghĩa rất quan trọng, là năm bản lề thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; đất nước tiếp tục đứng trước những thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức mới đan xen; dịch Covid-19 còn diễn biến phức tạp và có thể còn kéo dài; tình hình tham nhũng, tiêu cực trên một số lĩnh vực còn nghiêm trọng, có mặt còn phức tạp, tinh vi hơn. Do đó, đòi hỏi chúng ta không được chủ quan, thỏa mãn, bằng lòng với những kết quả đạt được, mà phải tiếp tục kiên quyết, kiên trì đẩy mạnh công tác đấu tranh PCTN, tiêu cực, trọng tâm là phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống liên quan đến tham nhũng, tiêu cực; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên tham nhũng, tiêu cực, suy thoái.

Điều đó một lần nữa khẳng định rõ quyết tâm của Đảng, Nhà nước ta về công tác PCTN, tiêu cực; làm cho mọi người thấy rõ việc đẩy mạnh PCTN, tiêu cực, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, kiên quyết xử lý nghiêm khắc nhiều cán bộ, đảng viên sai phạm không những không làm cho Đảng ta yếu đi, mà ngược lại, làm cho Đảng đoàn kết hơn, trong sạch, vững mạnh hơn. Qua đó, tạo động lực mới, khí thế mới để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời đập tan những luận điệu của các thế lực thù địch, phản cách mạng cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam không thể chống tham nhũng, suy thoái thành công.

Để “4 không” thành hiện thực

Kết quả điều tra dư luận xã hội do Ban Nội chính Trung ương phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương tiến hành, trong thời gian từ năm 2013 đến 2020, tuyệt đại đa số ý kiến người dân (93%) bày tỏ tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng trong đấu tranh PCTN. Bên cạnh những kết quả đạt được, nghiêm túc kiểm điểm, nhìn nhận công tác đấu tranh, PCTN, tiêu cực của Đảng ta thời gian qua vẫn còn nhiều tồn tại, khó khăn, thách thức, đó là: Vẫn xuất hiện nhiều vụ tham nhũng, tiêu cực rất lớn, tinh vi hơn, vi phạm pháp luật nghiêm trọng hơn, không chỉ ở một số người, trong một bộ phận nhỏ mà đã xuất hiện sự liên kết, liên thông ở nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều địa phương...

Vấn đề đặt ra là làm thế nào để cán bộ, đảng viên “4 không” (không thể, không dám, không muốn và không cần) với tham nhũng, tiêu cực. Chúng tôi xin đề cập một số giải pháp sau:

Trước hết, mỗi cấp ủy, tổ chức đảng cần tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục, xây dựng văn hóa tiết kiệm, không tham nhũng, tiêu cực trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, hình thành văn hóa “không muốn” tham nhũng. Liên quan đến giải pháp này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần nhấn mạnh: Tham nhũng và suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đều là những biểu hiện tiêu cực. Chính vì vậy, Tổng Bí thư nêu rõ, không chỉ đấu tranh PCTN trong lĩnh vực kinh tế, mà quan trọng hơn phải chống tiêu cực trong cả lĩnh vực tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Hai vấn đề này có liên quan đến nhau, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn đến tham nhũng; đây mới là cái gốc, cái cơ bản cần phải chống. Lợi ích kinh tế thường gắn liền với quyền lợi chính trị, chức quyền, với sự hư hỏng về đạo đức, lối sống.

Do vậy, công tác tuyên truyền, giáo dục là một trong những biện pháp căn bản để nâng cao đạo đức, xây dựng liêm chính, chống tha hóa, biến chất, qua đó tạo sự tự giác, thống nhất cao về ý chí và hành động trong cán bộ, đảng viên và nhân dân về PCTN, tiêu cực. Cán bộ, đảng viên, trước hết là người lãnh đạo phải biết trọng liêm sỉ, giữ danh dự, biết xấu hổ khi bản thân và người thân tham nhũng, tiêu cực.

Thứ hai, chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, bịt kín những "khoảng trống", "kẽ hở" để "không thể tham nhũng". Trước hết là hoàn thiện Luật PCTN, tiếp tục sửa đổi để quy định một cách toàn diện, bao quát, nhất là quy định cụ thể các biện pháp để bảo đảm thực hiện việc công khai, minh bạch, đầy đủ, kịp thời các hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị để mọi người biết; quy định các biện pháp hữu hiệu để quản lý, xác minh các tài sản, thu nhập của những người có chức vụ, quyền hạn.

Thứ ba, hoàn thiện pháp luật hình sự, đủ sức răn đe để “không dám” tham nhũng, tiêu cực. Trong đó, chúng ta cần hình sự hóa hành vi làm giàu bất hợp pháp để tăng hiệu quả chế tài xử lý tham nhũng. Nếu cán bộ, công chức có chức vụ, quyền hạn không chứng minh được tài sản của mình là hợp pháp thì tài sản đó là tài sản từ tham nhũng, tiêu cực mà có. Bổ sung trách nhiệm hình sự của pháp nhân đối với tội phạm đưa hối lộ và xây dựng chế tài thích hợp với pháp nhân. Việc làm này là cần thiết, vì thực tiễn cho thấy, các pháp nhân thương mại đã thực hiện hành vi đưa hối lộ cho người có chức vụ, quyền hạn để được các lợi thế trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, đấu thầu, được giao hoặc cho thuê “đất vàng”, được nhận nguồn hỗ trợ...

Thứ tư là đổi mới chế độ tiền lương và các chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức, viên chức để “không cần” tham nhũng, tiêu cực. Đây được xem là phương án phòng, chống hữu hiệu đối với nạn tham nhũng, tiêu cực. Bởi một trong những nguyên nhân sâu xa của hành vi tham nhũng là chế độ tiền lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ, công chức còn bất hợp lý, chưa đáp ứng được những nhu cầu cơ bản thiết yếu. Cán bộ, công chức, viên chức có nền tảng học thức cao và có ham muốn cống hiến cho đất nước nhưng mức lương còn khiêm tốn. Vì vậy, cần phải có chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức và nâng mức lương của cán bộ, công chức đủ nuôi sống bản thân, gia đình và có tích lũy thì mới hạn chế được tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam hiện nay.

Với tinh thần không ngừng, không nghỉ, không có “vùng cấm”, không có ngoại lệ, công tác PCTN, tiêu cực được Đảng ta và cả hệ thống chính trị thực hiện ngày càng quyết liệt, bài bản, ngày càng có hiệu quả hơn, được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, tin tưởng, ủng hộ, đánh giá cao, tạo nên sức mạnh nội sinh, triệt tiêu “giặc nội xâm”, làm cho sự nghiệp đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng đạt nhiều thành tựu to lớn, ý nghĩa hơn nữa.

 Chỉ tính trong năm 2021, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật 32 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó 26 cán bộ diện Trung ương quản lý liên quan đến các vụ án, vụ việc thuộc diện Ban chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo, gồm: 4 ủy viên, nguyên ủy viên Trung ương; 2 nguyên bộ trưởng, 1 bí thư tỉnh ủy, 5 thứ trưởng, nguyên thứ trưởng; 2 nguyên chủ tịch UBND tỉnh, thành phố; 3 nguyên phó bí thư tỉnh ủy, thành ủy; 13 sĩ quan đương chức cấp tướng trong LLVT.

(còn nữa)

Nhóm PV Báo QĐND

Bài 2: Không ngủ quên trên “vòng nguyệt quế”

18/03/2022 05:00

Nhìn lại chặng đường hơn 35 năm đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Những thành tựu đó là cả quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta. Nhưng chúng ta cũng không ngủ quên trên “vòng nguyệt quế” bởi nguy cơ tụt hậu về kinh tế vẫn hiện hữu.

Thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử

Dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, công cuộc đổi mới đất nước thực sự mang lại những thay đổi to lớn, có ý nghĩa lịch sử.

Quá trình tiến hành khảo sát ở một số địa phương trên cả nước, khi đặt vấn đề với các thế hệ trưởng thành trước đổi mới (năm 1986), nhiều người vẫn còn ám ảnh bởi sự tàn phá nặng nề của chiến tranh và những năm thiếu đói triền miên, người dân, nhất là nông dân làm không đủ no. Sau chiến tranh, các nước đế quốc áp đặt bao vây cấm vận kinh tế với Việt Nam trong suốt gần 20 năm, khoảng 3/4 dân số sống dưới mức nghèo khổ. “Lương thực, thực phẩm khan hiếm do nước ngoài cấm vận. Trong nước, cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp khiến người nông dân không mặn mà với ruộng đồng. Gia đình tôi cũng như nhiều người dân khác trong vùng thiếu đói triền miên”, ông Nguyễn Văn Bình (78 tuổi) ở xã Kim Chung, huyện Hoài Đức, TP Hà Nội chia sẻ.

Tại Đại hội VI (tháng 12-1986), Trung ương Đảng đề ra đường lối đổi mới toàn diện, đánh dấu bước chuyển rất quan trọng trong nhận thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội (CNXH), về thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta. Đại hội VI đã cụ thể hóa quan điểm mới về cơ cấu kinh tế, về công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong chặng đường đầu tiên, từ đó đề ra chủ trương tập trung cho "3 chương trình kinh tế lớn". Đại hội có quan điểm mới về cải tạo XHCN, coi cải tạo XHCN là nhiệm vụ thường xuyên, phải trải qua thời gian dài và liên tục với những bước đi, hình thức thích hợp. Đại hội nhận rõ, ngay khi quan hệ sản xuất XHCN chiếm ưu thế vẫn tồn tại những thành phần kinh tế khác, như kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa, kinh tế tư bản tư nhân ở mức độ nhất định...

Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế nước ta bắt đầu có những bước chuyển động tích cực và phát triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt hơn 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỷ USD, trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN; thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008.

Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay, Việt Nam không những bảo đảm được an ninh lương thực mà còn trở thành nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ liên tục tăng và hiện chiếm khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt hơn 540 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 280 tỷ USD. Đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỷ USD vào cuối năm 2020. Tỷ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều (tiêu chí cao hơn trước).

Cũng nhờ kinh tế có bước phát triển nên đời sống văn hóa cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hóa phát triển phong phú, đa dạng. Hiện Việt Nam có hơn 70% dân số sử dụng internet, là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển.

Đại hội XIII của Đảng một lần nữa khẳng định và nhấn mạnh: Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới.

Trong thời gian qua, chúng tôi có dịp khảo sát tại nhiều địa phương trong cả nước. Mỗi người dân dù ở miền núi hay vùng biển, thành phố hay nông thôn đều có chung cảm nhận: Diện mạo đất nước đổi thay từng ngày. Đặc biệt đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, trong những năm qua, nhờ có sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, sự đoàn kết vượt khó vươn lên của đồng bào các dân tộc, kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã có bước phát triển vượt bậc. Hiện nay, 98,4% xã có đường ô tô đến trung tâm, tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số được sử dụng điện lưới đạt 96.7%; 100% xã có trường tiểu học, THCS; 99,7% xã có trường mầm non, mẫu giáo; 99,5% xã có trạm y tế; 76,7% thôn có nhà văn hóa sinh hoạt cộng đồng...

Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên CNXH là đúng đắn. Những kết quả đạt được sau hơn 35 năm đổi mới là minh chứng cụ thể nhất, sinh động và thuyết phục nhất để đập tan các luận điệu xuyên tạc về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.

Bài 2: Không ngủ quên trên “vòng nguyệt quế”
 Ảnh minh họa: TTXVN.

Chúng ta sẽ tụt hậu nếu...

Ngày 28-3-2021, tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, khi giới thiệu, quán triệt chuyên đề về Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2021-2030 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2021-2025, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc (nay là Chủ tịch nước) đã khẳng định: “Cán bộ, đảng viên chúng ta đều có nguyện vọng đưa đất nước tiến bước. Đây là truyền thống quý, không chịu đói nghèo, không chịu tụt hậu, không chịu thua kém. Tất cả điều đó cũng là sự hiện thực hóa ước nguyện của Bác Hồ, đưa dân tộc Việt Nam sánh vai với các cường quốc năm châu và mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân... Áp lực đối với chúng ta là liên tục tăng trưởng cao. Các nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc có 2-3 thập niên liền liên tục tăng trưởng cao. Việt Nam hoàn toàn có khả năng tăng trưởng cao, nếu không có biện pháp để tăng trưởng cao thì sẽ tụt hậu, không phát triển bền vững, nghèo, thu nhập thấp, lạc hậu”.

Sau hơn 35 năm đổi mới, nhìn tổng quát, thế và lực của nước ta mặc dù đã mạnh hơn trước nhưng còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, nhiều nút thắt vẫn chưa được khơi thông; nguy cơ tụt hậu, nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình còn rất lớn, nhất là một số nhóm yếu tố, nhóm dễ bị tổn thương trước các biến động kinh tế... Đặc biệt, Việt Nam sẽ tiếp tục đối mặt với nhiều thách thức trong bối cảnh dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp, nền kinh tế có độ mở lớn và chịu tác động đan xen nhiều mặt bởi tình hình kinh tế quốc tế ngày càng khó lường; những căng thẳng địa chính trị, sự gia tăng bảo hộ thương mại và các rủi ro tài chính... Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra cơ hội lớn cho các nước đang phát triển có thể đuổi kịp nước giàu, nhưng cũng đi kèm theo nhiều thách thức bị bỏ lại hoặc lệ thuộc hơn vào nước giàu.

Đại hội XIII của Đảng đã đề ra mục tiêu cụ thể: Đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa XHCN Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Để đạt mục tiêu đề ra, chúng ta phải đổi mới tư duy phát triển, thay đổi cách làm. Chính phủ thể hiện rõ sự điều hành linh hoạt trong đại dịch Covid-19 khi có những chính sách phù hợp, đặc biệt là Nghị quyết 128 được ban hành thực sự đã thổi một luồng sinh khí mới vào nền kinh tế Việt Nam. GDP năm 2021 ước tính tăng 2,58%; thu ngân sách nhà nước ước tính cả năm 2021 đạt 1.523,4 nghìn tỷ đồng, bằng 113,4% dự toán năm (tăng 180,1 nghìn tỷ đồng). Việt Nam cũng trở thành một trong 20 nước thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn nhất thế giới.

Đầu năm 2022, lần đầu tiên Quốc hội khóa XV tổ chức Kỳ họp bất thường lần thứ nhất. Tại kỳ họp này, Quốc hội xem xét, quyết định thông qua những nội dung quan trọng, như: Nghị quyết về chính sách tài khóa, tiền tệ để hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư, Luật Đầu tư...; Nghị quyết về chủ trương đầu tư Dự án xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc-Nam phía Đông giai đoạn 2021-2025; Nghị quyết thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP Cần Thơ... Phát biểu bế mạc kỳ họp, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nhấn mạnh: “Tinh thần và kết quả của Kỳ họp bất thường lần thứ nhất, Quốc hội khóa XV đã tạo ra những khí thế mới, thời cơ mới, cùng với các chính sách mới được ban hành, sự điều hành quyết liệt của Chính phủ, sự vào cuộc của các cấp, các ngành và cả hệ thống chính trị, sự ủng hộ, đồng lòng của nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp, chúng ta tin tưởng sẽ thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội năm 2022 và cả giai đoạn 2021-2025, đất nước sẽ tiếp tục phát triển bền vững, đời sống người dân sẽ được nâng cao, niềm tin của nhân dân sẽ càng được củng cố vững chắc”.

Quyết tâm của cả hệ thống chính trị được thể hiện rõ nét nhất, sinh động nhất khi ngay đầu Xuân 2022, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tiến hành chuyến đi “xuyên Tết, xuyên Việt” khảo sát từ Bắc vào Nam, trực tiếp chỉ đạo, giải quyết những vướng mắc trong triển khai một số dự án trọng điểm. Để thực hiện mục tiêu đã đề ra, Thủ tướng nhiều lần nhấn mạnh, đối với các bộ, ngành, địa phương: Quyết tâm phải rất cao, nỗ lực phải rất lớn, hành động quyết liệt, hiệu quả, xác định trọng tâm, trọng điểm để lãnh đạo, chỉ đạo, đầu tư nguồn vốn, tổ chức thực hiện khoa học, hợp lý, hiệu quả.

Với niềm tin và khát vọng vươn lên mạnh mẽ, Việt Nam đã và đang bứt phá, nhanh chóng rút ngắn khoảng cách phát triển với khu vực và thế giới, nỗ lực phấn đấu hướng tới mục tiêu sớm trở thành nước thu nhập trung bình cao, tránh nguy cơ tụt hậu...

 Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ nhiệm kỳ 2021-2026, trong bối cảnh, tình hình có nhiều khó khăn, thách thức lớn hơn trước và gay gắt hơn so với dự báo, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã yêu cầu Chính phủ cần tập trung “ưu tiên thực hiện 6 nhiệm vụ trọng tâm và 3 đột phá chiến lược, xử lý dứt điểm những “điểm nghẽn”, vướng mắc, tồn tại để phát triển đất nước nhanh và bền vững hơn trên cơ sở tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của đất nước”, xứng đáng với vị thế là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất; trực tiếp tổ chức, quản lý, triển khai thực hiện hiệu quả mọi chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.

(còn nữa)

 

 Nhóm PV Báo QĐND

Đẩy lùi nguy cơ ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ

17/03/2022 05:00

LTS: Ngay từ Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII (từ ngày 20 đến 25-1-1994), Đảng ta xác định 4 nguy cơ cản trở thực hiện mục tiêu chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở nước ta, đó là: Tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới; chệch hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN); nạn tham nhũng và tệ quan liêu; "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch. Các nguy cơ đó có liên quan mật thiết, tác động lẫn nhau.

Sau gần 30 năm, vì sao Đại hội XIII của Đảng tiếp tục xác định: Bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra còn tồn tại, có mặt gay gắt hơn. Vậy nhận diện nguy cơ trong tình hình mới thế nào? Giải pháp nào để đẩy lùi, giữ vững sự trường tồn của dân tộc, giữ vững chế độ XHCN? Trong loạt bài này, chúng tôi chỉ góp một góc nhìn để nhận định, phân tích, làm rõ hơn vấn đề nêu trên để thêm vững tin vào con đường đi lên CNXH mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.

Bài 1: Nguy cơ “chệch hướng” và “người thuyền trưởng” vững lái

Với sứ mệnh là "người thuyền trưởng", trong suốt 92 năm chèo lái “con thuyền cách mạng” nước ta, có lúc, có thời điểm Đảng ta cũng phạm những sai lầm, khuyết điểm. Nhưng với tinh thần thẳng thắn, Trung ương Đảng đã không hề che giấu khuyết điểm mà luôn nhìn thẳng vào sự thật, kịp thời điều chỉnh để vững lái đưa cách mạng Việt Nam liên tục phát triển, đạt nhiều thành tựu to lớn.

Những “khúc cua” lịch sử và Đảng không giấu khuyết điểm

Thực tiễn phong phú, sinh động của cách mạng Việt Nam trong 92 năm qua đã chứng minh sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi, lập nên nhiều kỳ tích trong các thời kỳ cách mạng.

Thế nhưng, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, trước những “khúc cua” lịch sử ở từng giai đoạn, hoàn cảnh cụ thể, Đảng ta cũng từng mắc phải những sai lầm, khuyết điểm, thậm chí là nghiêm trọng. Trong cuộc cải cách ruộng đất và chỉnh đốn Đảng ở miền Bắc (1953-1956), khi nhận ra những sai lầm, Trung ương Đảng đã họp tự kiểm điểm suốt một tháng (từ ngày 25-8 đến 24-9-1956). Trung ương Đảng thẳng thắn thừa nhận: “Đó là những sai lầm nghiêm trọng, phổ biến, kéo dài về nhiều mặt, những sai lầm về những vấn đề nguyên tắc, trái với chính sách của Đảng, trái với nguyên tắc và điều lệ của một đảng theo Chủ nghĩa Mác-Lênin, trái với chế độ pháp luật của nhà nước dân chủ nhân dân”(*). Các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị phụ trách công tác này đều tự phê bình một cách sâu sắc và tự nhận hình thức kỷ luật rất nghiêm khắc. Tổng Bí thư Trường Chinh xin từ chức. Các đồng chí Lê Văn Lương, Hoàng Quốc Việt xin rút khỏi Bộ Chính trị. Sau khi hội nghị kết thúc, Đảng tổ chức cuộc mít tinh lớn tại Nhà hát Lớn Hà Nội, công khai thừa nhận sai lầm trước nhân dân.

Sau hơn 10 năm đất nước thống nhất, cả nước đi lên xây dựng CNXH nhưng rơi vào khủng hoảng kinh tế-xã hội, Đảng ta một lần nữa tiến hành đợt tự phê bình và phê bình nghiêm túc và sâu sắc. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội VI của Đảng (năm 1986) dũng cảm nhận thấy “những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”. Đảng tự thấy mình mắc “bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan, là khuynh hướng buông lỏng trong quản lý kinh tế-xã hội, không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và nguyên tắc của Đảng”.

Đẩy lùi nguy cơ ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ
Ảnh minh họa / tuyengiao.vn 

Những năm đầu của thời kỳ đổi mới, một số cán bộ, đảng viên muốn rập khuôn kinh nghiệm cải tổ, cải cách của nước ngoài, nhất là trong đổi mới chính trị, đổi mới kinh tế và hoạt động báo chí, văn hóa, văn nghệ. Đã chớm nở khuynh hướng đòi “dân chủ, công khai" một cách cực đoan; khuynh hướng phủ nhận quá khứ, bôi đen hiện thực; khuynh hướng muốn chuyển nhanh nhất loạt sang cơ chế thị trường tự do, muốn tư nhân hóa hoàn toàn, "thương mại hóa" báo chí, xuất bản... Những khuynh hướng này đã được ngăn chặn, uốn nắn kịp thời. Các nghị quyết, chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã định hướng tư tưởng trong toàn Đảng và xã hội. Thực sự có cuộc đấu tranh tư tưởng sâu rộng để đổi mới và giữ vững định hướng XHCN.

Thực tế Đảng ta cũng đã phạm những khuyết điểm, sai lầm. Điều quan trọng là Đảng ta không che giấu khuyết điểm, sai lầm, mà công khai thừa nhận, thành tâm lắng nghe ý kiến nhân dân. Và một khi phát hiện và nhận ra sai lầm thì quyết tâm sửa chữa để phấn đấu đi lên, từ đó Đảng ngày càng trưởng thành, lớn mạnh.

Có thể khẳng định, có được đường lối chính trị đúng trong hoàn cảnh phát triển bình thường đã là việc khó; ở những bước ngoặt của lịch sử, trong bối cảnh đất nước và quốc tế có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, thì việc Đảng ta xác định được một đường lối chính trị đúng và bảo đảm cho đường lối đó thành hiện thực càng khó khăn hơn. Nó là kết quả của trí tuệ, tài năng, phẩm chất, khí phách. Nó trải qua một quá trình suy tư gian khổ, tìm tòi, đổi mới tư duy lý luận, tổng kết thực tiễn, có khi phải làm đi làm lại nhiều lần, thậm chí có lúc đã không tránh khỏi sai lầm và tạm thời thất bại.

Giữ vững vai trò cầm quyền của Đảng

Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Tại Đại hội XI của Đảng (tháng 1-2011) trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta một lần nữa khẳng định: Đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.

Những bài học xương máu được Đảng ta rút ra trong suốt hơn 35 năm đổi mới, để giữ vững định hướng và kiên định con đường đã chọn là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH thì Đảng phải giữ vững vai trò cầm quyền của mình.

Sở dĩ phải kiên định sự lãnh đạo của Đảng, coi đây là vấn đề nguyên tắc, bởi sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố bảo đảm định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường và mọi hoạt động xã hội. Trong nhịp điệu và tiến trình của công cuộc đổi mới, vai trò lãnh đạo của Đảng rất quan trọng, ở những bước chuyển giai đoạn thì vai trò lãnh đạo của Đảng càng đặc biệt được khẳng định. Điều đó cắt nghĩa vì sao suốt mấy chục năm qua, nhất là những năm gần đây, các thế lực thù địch không ngừng tấn công vào Đảng Cộng sản Việt Nam, cổ vũ cho con đường phát triển "kinh tế thị trường tự do", "đa nguyên, đa đảng", tìm mọi cách thủ tiêu, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng... nhưng đều nhận lấy sự thất bại và không bao giờ hiện thực được những mưu đồ, tâm địa xấu xa.

Vấn đề đặt ra là chúng ta phải kiên định những gì để giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, để công cuộc đổi mới và chỉnh đốn Đảng đạt kết quả tốt? Chúng tôi xin đề cập một số giải pháp sau:

Trước hết, mỗi cấp ủy, tổ chức đảng và từng đảng viên cần giữ vững bản chất giai cấp và tính tiên phong của Đảng. Bản chất giai cấp của Đảng thể hiện trước hết ở mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Khi định ra đường lối, chính sách, Đảng phải luôn luôn đứng vững trên lập trường cách mạng của giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng kiên định lập trường có tính nguyên tắc của mình là lãnh đạo nhân dân xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh theo con đường XHCN. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, tình hình trong nước và thế giới dù khó khăn, phức tạp đến đâu, Đảng cũng vững vàng, không xa rời mục tiêu, lý tưởng của mình, đấu tranh không mệt mỏi cho lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

Hai là, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng. Đại hội VII của Đảng chính thức khẳng định nền tảng tư tưởng của Đảng là Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo quan điểm của Đảng ta, cho đến nay tuy có những vấn đề cần bổ sung và phát triển, nhưng Chủ nghĩa Mác-Lênin luôn là học thuyết cách mạng và khoa học nhất, tiên tiến nhất, không thể bác bỏ, phủ nhận (cả về phương pháp luận cũng như hệ thống những luận điểm cơ bản). Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn Việt Nam, kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa của dân tộc và nhân loại. Đó là một hệ thống những luận điểm về cách mạng Việt Nam gắn liền với những biến động của thế giới, có quan hệ đến đời sống của giai cấp và dân tộc, xã hội và con người, quốc gia và quốc tế.

Ba là, giữ vững và bảo vệ các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng. Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh. Sức mạnh của Đảng là ở tính thống nhất, đoàn kết chặt chẽ "trăm người tiến đánh chỉ như một người". Xa rời hoặc không thực hiện nghiêm túc tập trung dân chủ thì Đảng không thể có được sức mạnh. Bên cạnh đó, thực hiện các nguyên tắc: Tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Bốn là, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Bác Hồ khẳng định, Đảng ta là đảng cầm quyền, Đảng có trách nhiệm lãnh đạo tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, lo đến cả "tương cà, mắm muối” và những thứ cần thiết cho đời sống thường ngày của nhân dân. Phải giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời phải cải tiến, đổi mới phương thức lãnh đạo, bảo đảm nâng cao chất lượng và hiệu quả lãnh đạo của Đảng; phát huy mạnh mẽ vai trò của Nhà nước và các đoàn thể nhân dân. Đảng không phải là cơ quan quyền lực nhà nước; Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống chính trị.

Quán triệt những nguyên tắc cơ bản trên đây, chúng ta sẽ từng bước đổi mới, chỉnh đốn Đảng có kết quả, đồng thời tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng, xây dựng Đảng ta thực sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; làm cho Đảng có đủ trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo, phẩm chất đạo đức, đoàn kết thống nhất, có sức chiến đấu cao, đảm đương sứ mệnh lãnh đạo sự nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi cuối cùng, như Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong mỏi.

“Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”. 

(Trích Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, 2011, t.5, tr.301) 

(còn nữa)

Nhóm PV Báo QĐND

(*) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, 2002, t.17, tr.539-540.