Vạch trần bản chất lừa bịp của tà đạo “Giê Sùa”, “Bà Cô Dợ”

Thứ Hai, 25/03/2024, 07:35

Thời gian qua, trong vùng đồng bào dân tộc Mông trên địa bàn một số tỉnh phía Bắc và Tây Nguyên xuất hiện hoạt động của tà đạo “Giê Sùa”, “Bà Cô Dợ”. Tà đạo “Giê Sùa”, “Bà Cô Dợ” đã xuyên tạc Kinh Thánh để lừa mị, lôi kéo đồng bào dân tộc Mông tham gia vào hoạt động phức tạp về an ninh, trật tự; lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để tập hợp phát triển lực lượng lập “Nhà nước Mông”.

Các đối tượng cầm đầu các tà đạo “Giê Sùa”, “Bà Cô Dợ” ở nước ngoài đã triệt để sử dụng phương thức, thủ đoạn thông qua điện thoại, mạng xã hội, các phần mềm họp trực tuyến để chỉ đạo số đối tượng cốt cán ở trong nước tích cực tuyên truyền, lôi kéo người Mông tham gia với mục đích kích động tư tưởng ly khai, tự trị, tập hợp lực lượng lập “Nhà nước Mông”. Mặc dù đã được lực lượng chức năng tổ chức tuyên truyền, vận động nhưng hiện nay vẫn còn một bộ phận đồng bào dân tộc Mông bị ảnh hưởng bởi các luận điệu tuyên truyền của các đối tượng cầm đầu bên ngoài, vẫn còn lén lút tin theo và tham gia sinh hoạt tà đạo “Giê Sùa”, “Bà Cô Dợ” trên mạng xã hội hoặc ẩn thân vào các tổ chức tôn giáo hợp pháp để chờ thời cơ thuận lợi để tái hoạt động trở lại gây phức tạp về tình hình an ninh, trật tự trong vùng đồng bào dân tộc Mông.

Vậy bản chất hoạt động của các tà đạo “Giê Sùa”, “Bà Cô Dợ” là gì? Tác động, ảnh hưởng các tà đạo “Giê Sùa”, “Bà Cô Dợ” trong vùng đồng bào dân tộc Mông sẽ như thế nào?

Bản chất hoạt động của tà đạo “Giê Sùa”, “Bà Cô Dợ”

 - Về đối tượng cầm đầu: Tà đạo “Giê Sùa” và tà đạo “Bà Cô Dợ” đều do các đối tượng là người dân tộc Mông gốc Lào, quốc tịch Mỹ, hiện đang sinh sống ở Mỹ lập ra. Tà đạo “Giê Sùa” do đối tượng David Her (tên thật là Hờ Chá Sùng, khoảng 60 tuổi, người Mông, quê quán ở huyện Phông Xa Vẳn, Xiêng Khoảng, nước Cộng hòa DCND Lào, hiện đang định cư ở bang California, Mỹ) tự lập ra năm 2000 và bắt đầu tác động, ảnh hưởng vào vùng dân tộc Mông ở Việt Nam vào thời điểm từ đầu năm 2015. David Her đã sáng tác lôgô của tà đạo “Giê Sùa” gồm chữ YESHUA ở phía trên, ngôi sao 6 cánh ở giữa cùng một số họa tiết và phía dưới là dòng chữ “House of Healing” (tạm dịch là “Ngôi nhà an lành”), lợi dụng một số câu, điều trong Kinh Thánh của đạo Tin Lành soạn ra giáo lý, giáo luật của tà đạo “Giê Sùa” và tuyên truyền vào vùng đồng bào dân tộc Mông. Trong khi đó, tà đạo “Bà Cô Dợ” (Tiếng Mông: “Pawg ntseeg vajtswv hlub peb” nghĩa là “Hội thánh Đức Chúa trời yêu thương chúng ta”) do Vừ Thị Dợ, sinh năm 1977, người Mông gốc Lào, quốc tịch Mỹ, hiện đang sinh sống tại thành phố Milwaukee, bang Wiscosin, Mỹ lập ra và làm “Hội trưởng” từ cuối năm 2016. Vừ Thị Dợ đã tuyên truyền lôi kéo một số người Mông sinh sống gần nhà để thành lập ra nhóm đạo và tuyên truyền, phát triển qua các nước, trong đó có Việt Nam thông qua các đoạn video clip tuyên truyền trên mạng xã hội YouTube để lôi kéo mọi người tin theo nhằm lập “Nhà nước riêng” của người Mông.

- Về đối tượng tham gia và địa bàn hoạt động của tà đạo: Đối tượng tham gia của tà đạo “Giê Sùa”, “Bà Cô Dợ” chủ yếu là người Mông theo các hệ phái Tin lành như: Hội thánh Tin lành Việt Nam (miền Bắc), Hội thánh Tin lành Truyền giáo Phúc âm…, thân nhân, người nhà của số đối tượng cầm đầu, cốt cán và một bộ phận người dân tộc Mông thiếu hiểu biết, khó khăn về đời sống kinh tế nên dễ bị lôi kéo, mua chuộc. Địa bàn ảnh hưởng và hoạt động của “Giê Sùa”, “Bà Cô Dợ” chủ yếu tại các bản, xã vùng sâu, vùng xa, biên giới các tỉnh phía Bắc (Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Bắc Kạn…) và một số tỉnh vùng Tây Nguyên (Đắk Nông, Đắk Lắk).

- Về phương thức truyền giáo: Kết hợp giữa truyền giáo thông qua hệ thống công nghệ thông tin, còn sử dụng lực lượng tại chỗ; nội dung tuyên truyền vừa vẽ ra viễn cảnh tạo hi vọng như theo đạo không làm cũng có ăn, được sung sướng, có đất đai, còn dùng biện pháp đe dọa tạo nên nỗi sợ hãi với người tin theo. Chúng tuyên truyền “sắp có chiến tranh xảy ra, Chúa dạy phải tích lũy lương thực, than đá...”, khiến một số hộ tin theo mua, tích trữ lương thực, than đá với số lượng lớn, gây hoang mang trong dân chúng, ảnh hưởng đến ANTT. Số cầm đầu “Bà Cô Dợ” bên ngoài thường xuyên thông qua mạng xã hội (YouTube, Facebook) đăng tải, chia sẻ bài viết, video clip để tuyên truyền cho tà đạo “Bà Cô Dợ” hoặc lập các hội kín thông qua ứng dụng Zoom để mọi người tham gia sinh hoạt, tuyên truyền, rao giảng về Kinh Thánh và chỉ đạo hoạt động trong nước. Số đối tượng cầm đầu ở bên ngoài thường xuyên hướng dẫn, chỉ đạo, tài trợ cho số đối tượng cốt cán ở trong nước để sử dụng vào mục đích tuyên truyền, phát triển tà đạo.

- Về kinh sách: Tà đạo “Bà Cô Dợ” sử dụng Kinh Thánh cựu ước và tân ước, in bằng chữ Mông Latinh (chữ Mông mới) và chữ phổ thông giống đạo Tin lành đang sử dụng. Ngoài ra, một số trường hợp nghiên cứu Kinh Thánh và tự biên soạn tài liệu có nội dung giải thích Kinh Thánh theo cách hiểu riêng của mình để tuyên truyền, hướng dẫn người tin theo.

- Về giáo lý, giáo luật: Tà đạo “Giê Sùa”, “Bà Cô Dợ” đều chưa hình thành hệ thống giáo lý, giáo luật riêng mà chủ yếu cắt xén, cóp nhặt, xuyên tạc từ Kinh Thánh. Những người tuyên truyền “Bà Cô Dợ” phủ nhận vai trò cứu thế của Chúa Giê Su, chỉ có chúa tái lâm lần thứ 2 mới là chúa thật. Vừ Thị Dợ tự nhận mình là nhà tiên tri được “Chúa Cha” chọn làm sứ giả giúp cai quản công việc ở trần gian, hơn nữa bà còn được “Chúa Cha” chọn làm người sinh ra chúa tái lâm lần 2, tên là Nu-Long (con trai út của Vừ Thị Dợ) để cứu giúp người Mông và cai quản công việc trần gian; những người theo đạo khác sẽ bị đày xuống hỏa ngục, ai theo chúa tái lâm lần 2 sẽ được lên thiên đường; khi có chiến tranh xảy ra, chúa tái lâm sẽ cứu sống những người tin theo và đưa họ về vùng đất do chúa tái lâm lần 2 đứng đầu để sinh sống. Những người theo “Bà Cô Dợ” không thờ cúng ông bà, tổ tiên, không thừa nhận Chúa Giê Su, chỉ thừa nhận chúa tái lâm lần 2. Còn tà đạo “Giê Sùa” không thừa nhận tên chúa là Giê Su mà gọi là “Giê Sùa”; không thừa nhận các nhân vật Adam và Eva trong Kinh Thánh mà thay thế bằng nhân vật khác có tên là “Chàng Ong” và “Cô Ía” theo truyền thuyết của người Mông. David Her tự nhận mình chính là thiên sứ (người đưa tin), sứ giả của Chúa Giê Sùa và biết trước ngày chúa tái lâm và sẽ làm vua của người Mông, ai tin và đi theo Chúa Giê Sùa sẽ có đất nước riêng; cho rằng, đạo Tin lành không phải là tôn giáo của người Mông, chỉ có Giê Sùa mới là tôn giáo của người Mông. Những người theo “Giê Sùa” cũng không thờ cúng ông bà, tổ tiên, phủ nhận Chúa Giê Su mà chỉ thờ Chúa Giê Sùa.

- Về sinh hoạt: Những người tin theo tà đạo “Giê Sùa”, “Bà Cô Dợ” sinh hoạt đạo bằng hình thức trực tuyến là chủ yếu; các đối tượng và người tin theo sử dụng mạng xã hội Facebook, qua ứng dụng Zoom, điện thoại thông minh để hội họp, nghe, xem đối tượng cầm đầu ở Mỹ giảng trực tiếp, sử dụng Kinh tân ước và cựu ước như đạo Tin lành. Khi giảng đạo họ trích nguyên câu Kinh Thánh nhưng lại giải thích khác đi theo ý của mình. Ngoài ra còn tập trung tại nhà riêng của số đối tượng cầm đầu để sinh hoạt, các điểm nhóm tụ tập sinh hoạt không có nhóm trưởng mà nhiều người thay nhau chủ trì buổi sinh hoạt.

Tà đạo “Bà Cô Dợ” không tổ chức lễ Phục sinh, chỉ tổ chức lễ Giáng sinh vào ngày 23/11 hằng năm vì cho rằng đây là ngày sinh của chúa tái lâm lần 2; không bắt tín đồ đóng 10% thu nhập mà ai theo sẽ được chia tiền khi những người ở nước ngoài gửi về; thời gian sinh hoạt do “Bà Cô Dợ” đưa ra từ 22h ngày thứ bảy đến 3h ngày chủ nhật, nhưng ở Việt Nam các điểm nhóm thường sinh hoạt vào buổi sáng (7-9h), chiều (13-15h) ngày chủ nhật. Còn tà đạo “Giê Sùa” không tổ chức lễ Giáng sinh, Phục sinh, coi đây là bịp bợm, chuyển ngày sinh hoạt từ chủ nhật sang sáng thứ bảy hằng tuần với lý do chúa đã làm việc và tạo dựng đất trời, muôn loài trong sáu ngày, đến ngày cuối cùng chúa phải được nghỉ ngơi.

Tác động, ảnh hưởng tiêu cực của tà đạo “Giê Sùa”, “Bà Cô Dợ” trong vùng đồng bào dân tộc Mông

Sự du nhập và phát triển của tà đạo “Giê Sùa”, “Bà Cô Dợ” vào vùng đồng bào dân tộc Mông các tỉnh phía Bắc, Tây Nguyên đã có những ảnh hưởng, tác động tiêu cực đến tình hình an ninh, trật tự và đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội trên địa bàn.

Thứ nhất, hoạt động của các tà đạo “Giê Sùa”, “Bà Cô Dợ” đã làm ảnh hưởng đến sinh hoạt của đồng bào dân tộc thiểu số, làm hủy hoại các giá trị văn hóa, tín ngưỡng truyền thống: Nhiều người sau khi tin theo tà đạo “Giê Sùa”, “Bà Cô Dợ” đã từ bỏ các hoạt động văn hóa cộng đồng, truyền thống tốt đẹp của dân tộc; tâm lý trong tình trạng hoang mang khi số đối tượng cầm đầu tà đạo “Giê Sùa”, “Bà Cô Dợ” thường xuyên tuyên truyền về ngày tận thế, chúa tái lâm, chiến tranh... Đời sống sinh hoạt hằng ngày của người dân bị xáo trộn, tạo sự hoang tưởng khiến bà con không nghĩ đến việc lao động sản xuất, tập trung phát triển kinh tế gia đình gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.

Thứ hai, hoạt động của các tà đạo “Giê Sùa”, “Bà Cô Dợ” đã gây mâu thuẫn, chia rẽ khối đoàn kết dân tộc, chia rẽ trong từng gia đình, dòng họ, giữa các tôn giáo với nhau, gây chia rẽ giữa một bộ phận quần chúng nhân dân với cấp ủy, chính quyền địa phương. Những đối tượng cầm đầu tà đạo “Giê Sùa”, “Bà Cô Dợ” thường xuyên đả kích các tôn giáo chính thống, chê bai phong tục truyền thống người dân tộc Mông; tuyên truyền gây chia rẽ người Mông với các dân tộc khác, kích động tư tưởng ly khai, tự trị, gây phức tạp về an ninh, trật tự.

Thứ ba, hoạt động của các tà đạo “Giê Sùa”, “Bà Cô Dợ” đã gây cản trở việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước tại địa phương: Sự xâm nhập của các tà đạo vào địa bàn ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện các chế độ chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước. Một số đối tượng theo tà đạo “Giê Sùa”, “Bà Cô Dợ” đã hướng dẫn cách thức đối phó với chính quyền khi được mời lên làm việc, hướng dẫn cách thức thu thập thông tin, tài liệu, viết bản tường trình, báo cáo cho các cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí nước ngoài và tuyên truyền cho số người tin theo không thực hiện tiêm vaccine phòng ngừa COVID-19 trong thời điểm dịch đang bùng phát.

Thứ tư, lợi dụng tà đạo “Giê Sùa”, “Bà Cô Dợ” để hoạt động thành lập “Nhà nước Mông”. Bản chất của “Giê Sùa”, “Bà Cô Dợ” là một tà đạo, lợi dụng những yếu tố đặc trưng của đồng bào dân tộc Mông để tuyên truyền, kích động gây chia rẽ dân tộc Mông với các dân tộc khác; tạo dựng ngọn cờ, tập hợp lực lượng ly khai, tự trị thành lập “Nhà nước Mông”. Điển hình như trong quá trình tuyên truyền, David Her đã kích động người Mông ở các nước, trong đó có Việt Nam, kéo về Lào để chiến đấu, xây dựng “Nhà nước Mông” tại Xiêng Khoảng, Lào. Các đối tượng cầm đầu đã tuyên truyền: “Đức Chúa trời Giê Hô Va đã chia đất nước cho người Mông nhưng người Mông không đoàn kết nên bị các nước khác xâm chiếm; người Mông không có lãnh thổ, nhà nước riêng, suốt đời đi làm thuê cho các dân tộc khác, thời gian tới chúa sẽ tái lâm làm vua của dân tộc Mông. Ai tin tưởng chúa “Giê Sùa” thì có được đất nước riêng của người Mông, cuộc sống sẽ ấm no, hạnh phúc…

Số đối tượng cầm đầu tà đạo “Giê Sùa”, “Bà Cô Dợ” ở Mỹ thường xuyên tuyên truyền luận điệu cho rằng đây là tôn giáo chính thống của người Mông; coi các tôn giáo khác là tà giáo để từ đó gây chia rẽ những người theo tà đạo “Giê Sùa”, “Bà Cô Dợ” với các tôn giáo khác, tập hợp lực lượng, hình thành tôn giáo riêng của người Mông. Sự xuất hiện của tà đạo “Giê Sùa”, “Bà Cô Dợ” gắn liền với vấn đề “Nhà nước Mông” và gần đây các đối tượng có xu hướng sử dụng tà đạo như một dạng của Tin lành của người Mông. Hoạt động này cùng với sự hậu thuẫn của các cá nhân, tổ chức chống phá bên ngoài và một số đối tượng phản động trong vùng dân tộc Mông tiềm ẩn nhiều yếu tố, gây phức tạp về an ninh, trật tự trong vùng đồng bào dân tộc Mông.

Phan Dương – Lường Tuấn

Nhận dạng chiêu trò "đề cao để hạ bệ"

Thứ hai, 25/03/2024 - 05:37

Với âm mưu thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và chế độ chính trị ở nước ta, các thế lực thù địch dùng mọi thủ đoạn chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng.

Một trong những luận điệu tinh vi mà chúng thường sử dụng là ra sức đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh nhưng lại đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với Chủ nghĩa Mác-Lênin nhằm phá hủy gốc rễ nền tảng tư tưởng của Đảng. Vì thế, chống lại luận điệu xuyên tạc này là một nội dung căn cốt trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và phản bác các quan điểm sai trái, thù địch hiện nay.

Sự tinh vi của những giọng điệu phản khoa học

Giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và Chủ nghĩa Mác-Lênin tồn tại mối quan hệ biện chứng. Chủ nghĩa Mác-Lênin là cội nguồn lý luận cơ bản hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam và đều là bộ phận cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mọi luận điệu đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với Chủ nghĩa Mác-Lênin đều là phản khoa học, phản lịch sử.

Trước hết, họ phủ nhận sự tồn tại của tư tưởng Hồ Chí Minh với lý do Hồ Chí Minh chỉ là nhà hoạt động thực tiễn chứ không phải nhà tư tưởng. Mặc dù giá trị, tầm vóc của tư tưởng Hồ Chí Minh đã được kiểm định bằng thắng lợi của cách mạng Việt Nam và phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới, được thừa nhận bởi các học giả trong và ngoài nước, những kẻ xuyên tạc vẫn rêu rao rằng “tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là sự tô vẽ của Đảng Cộng sản Việt Nam”. Việc phủ nhận sự tồn tại và giá trị to lớn, bền vững của tư tưởng Hồ Chí Minh không xuất phát từ lý do khoa học mà từ động cơ chính trị đen tối là làm mất đi sức mạnh nền tảng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Các đối tượng chống phá còn có một giọng điệu hoàn toàn khác là ra sức ca tụng, đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh và phủ nhận giá trị của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Để hạ bệ Chủ nghĩa Mác-Lênin, họ đã đưa ra nhiều lý do khác nhau. Đầu tiên, họ vin vào “yếu tố thời đại”, rằng Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ phù hợp với thế kỷ 19, cùng lắm là đầu thế kỷ 20, chỉ thích hợp với văn minh công nghiệp; còn bây giờ nhân loại đã ở thế kỷ 21, trong thời đại kinh tế tri thức và toàn cầu hóa, sứ mệnh của giai cấp công nhân đã khác đi, vai trò của trí thức “lên ngôi” nên Chủ nghĩa Mác đã trở nên lỗi thời và bị lịch sử vượt qua. Đây cũng là cách lập luận rất hàm hồ bởi cho dù thời đại mà chúng ta đang sống khác rất nhiều so với thời đại mà Mác, Ăngghen, Lênin đã sống nhưng những biến đổi của nó vẫn không vượt ra ngoài những quy luật chung nhất mà Chủ nghĩa Mác-Lênin đã khám phá ra. Với đặc tính mở, Chủ nghĩa Mác-Lênin vẫn là lý luận và phương pháp luận khoa học cho sự nhận thức xã hội, nhận thức thời đại mà chưa có một chủ nghĩa, học thuyết chính trị nào có thể thay thế.

Nhận dạng chiêu trò "đề cao để hạ bệ"
Ảnh minh họa / tuyengiao.vn 

“Yếu tố địa lý” cũng là lý do để đối tượng chống phá ra sức phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin, rằng Chủ nghĩa Mác-Lênin không phải là sản phẩm của Việt Nam, nó là học thuyết  “ngoại lai”, “nhập ngoại” từ phương Tây nên không phù hợp với Việt Nam. Những đối tượng đưa ra luận điệu trên đã cố tình không hiểu sức mạnh của sự trừu tượng hóa, khái quát hóa và tầm nhìn thời đại của lý luận Mác-Lênin. Mặc dù Chủ nghĩa Mác-Lênin có nguồn gốc lý luận trực tiếp từ phương Tây nhưng đúng như Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định, “chủ nghĩa Mác sẽ còn đúng cả ở đó”(1), tức là ở phương Đông, nhất là khi nó đã được bổ sung bằng “dân tộc học phương Đông” như Nguyễn Ái Quốc từng nhấn mạnh và nỗ lực thực hiện.

Lý do thứ ba để họ phản bác Chủ nghĩa Mác-Lênin chính là sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, rằng sự sụp đổ đã chứng tỏ Chủ nghĩa Mác-Lênin sai lầm từ bản chất chứ không phải là do nhận thức sai, vận dụng sai. Họ cố tình không hiểu rằng sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô là sự sụp đổ của một mô hình xã hội chủ nghĩa nhiều khuyết tật và chậm được sửa chữa chứ không phải sự sụp đổ của một học thuyết khoa học. Tính bền vững của Chủ nghĩa Mác-Lênin so với các học thuyết khác nằm ở chỗ nó dựa trên một thế giới quan khoa học là phép biện chứng duy vật. Lý do thứ tư họ đưa ra để đòi hủy bỏ Chủ nghĩa Mác-Lênin chính là sự khác biệt giữa Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, vì Chủ nghĩa Mác chủ trương đấu tranh giai cấp, Hồ Chí Minh lại chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc và Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không phải theo chủ nghĩa cộng sản; do đó, không có gì chung giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và Chủ nghĩa Mác-Lênin. Họ còn cho rằng, trong lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam đã tồn tại “cuộc nội chiến về tư tưởng giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và Chủ nghĩa Mác-Lênin” nhưng thực chất đó chỉ là sự đấu tranh giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với các quan điểm giáo điều, cứng nhắc trong vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lênin mà thôi.

Sau khi đưa ra nhiều “cơn cớ” đầy tính ngụy biện như vậy, họ đi đến kết luận: Lúc này chỉ cần nói đến tư tưởng Hồ Chí Minh là đủ, chỉ có tư tưởng Hồ Chí Minh là “đáng giá” và vì thế, cần loại bỏ Chủ nghĩa Mác-Lênin ra khỏi nền tảng tư tưởng của Đảng.

Kiên định, kiên quyết bảo vệ Chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh

Luận điệu “đề cao” tư tưởng Hồ Chí Minh, đem tư tưởng Hồ Chí Minh đối lập với Chủ nghĩa Mác-Lênin là hoàn toàn đối lập với tình cảm, tâm nguyện của bản thân Hồ Chí Minh.

Sinh thời, từ lúc trở thành người cộng sản (năm 1920) cho đến khi từ giã cõi đời, Hồ Chí Minh luôn gắn bó chặt chẽ và hết lời đề cao Chủ nghĩa Mác-Lênin. Từ năm 1927, Người đã khẳng định: Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là Chủ nghĩa Lênin. Câu nói của Hồ Chí Minh, rằng “tất cả mọi người đều có quyền nghiên cứu một chủ nghĩa. Riêng tôi, tôi đã nghiên cứu Chủ nghĩa Các Mác”(2) đã nói lên sự lựa chọn kiên quyết của Người. Để nói về vai trò to lớn của Chủ nghĩa Mác-Lênin với cách mạng Việt Nam, Người còn khẳng định: “Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản".

Sự gắn bó không thể tách rời của Hồ Chí Minh với Chủ nghĩa Mác-Lênin còn thể hiện qua những tình tiết rất sinh động và cảm động. Khi viết Di chúc gửi lại, Người đã gọi việc từ giã cõi đời của mình là “đi gặp cụ Các Mác, cụ Lênin” bởi giữa các bậc vĩ nhân ấy là sự đồng điệu về khát vọng giải phóng con người và “tình hữu ái vô sản” thiêng liêng. Trong lần trả lời phỏng vấn cuối cùng vào ngày 15-7-1969, Hồ Chí Minh còn khẳng định: “Chúng tôi giành được thắng lợi đó là do nhiều nhân tố, nhưng cần phải nhấn mạnh rằng... trước hết là nhờ cái vũ khí không gì thay thế được là Chủ nghĩa Mác-Lênin".

Như vậy, từ lúc rơi những giọt nước mắt hạnh phúc khi đọc bản “Luận cương” của Lênin cho đến tháng ngày cuối cùng của cuộc đời, Hồ Chí Minh đều gắn bó với Chủ nghĩa Mác-Lênin bằng tình yêu và lòng trung thành trên tinh thần biện chứng. Do đó, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với Chủ nghĩa Mác-Lênin là một sự xuyên tạc lịch sử mà Hồ Chí Minh là một nhân chứng sống động nhất.

Phải khẳng định rằng: Việc đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh và hạ thấp Chủ nghĩa Mác-Lênin thực chất là một âm mưu đen tối, thủ đoạn tinh vi. Sự nguy hiểm của nó nằm ở tính ngụy biện, dễ làm người ta ngộ nhận, tin theo bởi nó “đánh vào” tình yêu lãnh tụ và tinh thần tự tôn dân tộc. Tuy nhiên, đây thực chất không phải là sự ca ngợi, không phải là đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh theo đúng giá trị của nó mà chỉ là thủ pháp “nâng lên để hạ xuống”, là tìm cách cô lập, tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh khỏi ngọn nguồn lý luận chủ yếu của nó để qua đó làm suy yếu và tiến tới phủ định chính tư tưởng Hồ Chí Minh. Sâu xa hơn, những kẻ chống phá không chỉ phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin hay tư tưởng Hồ Chí Minh mà còn muốn phủ nhận toàn bộ cương lĩnh, đường lối của Đảng được hoạch định trên nền tảng tư tưởng đó để đi đến mục tiêu cuối cùng là xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ chế độ đang hiện hành, xóa bỏ định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.   

Để chống lại giọng điệu xuyên tạc, xảo trá này, trước hết cần giáo dục nâng cao nhận thức cho toàn Đảng, toàn dân về mối quan hệ biện chứng giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và Chủ nghĩa Mác-Lênin và động cơ đen tối của lực lượng chống phá khi phủ nhận mối quan hệ này. Phải làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân thấu hiểu rằng, quan hệ giữa Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là quan hệ giữa cội nguồn và phát triển, giữa cái chung và cái đặc thù nên “tuy hai mà là một, tuy một mà là hai”. Cho dù tư tưởng Hồ Chí Minh có nhiều điểm sáng tạo so với Chủ nghĩa Mác-Lênin nhưng nó lại thống nhất với Mác-Lênin ở chiều sâu bản chất, ở lý tưởng giải phóng con người cùng khổ.

Cùng với đó, cần tăng cường công tác giáo dục lý luận chính trị để cán bộ, đảng viên thấu hiểu nội dung, bản chất, giá trị bền vững của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Hiện trạng “nhạt đảng, phai đoàn, khô lý tưởng” và căn bệnh lười học lý luận chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên chính là “mảnh đất màu mỡ” cho kẻ thù đẩy mạnh công tác phản tuyên truyền. Vì thế, làm tốt công tác giáo dục, tích cực bồi đắp tri thức khoa học cho cán bộ và nhân dân chính là tạo “vắc-xin” phòng, chống sự xâm nhập của các luồng thông tin xấu, độc.

Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta phải kiên định và tăng cường hơn nữa sự vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bởi thực tiễn là nơi kiểm nghiệm mọi chân lý một cách xác thực nhất. Ngược lại, mỗi hành vi sai trái của cá nhân và tổ chức đảng đều là sự tiếp tay cho các thế lực thù địch trong việc tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng. Vì thế, việc tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng phải gắn chặt với công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh.  

Lịch sử phát triển của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh luôn song hành với cuộc đấu tranh bảo vệ chân giá trị của học thuyết và chống lại những quan điểm sai trái thù địch. Vì thế, đấu tranh chống lại quan điểm đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với Chủ nghĩa Mác-Lênin là việc làm mang tính quy luật nhằm gia tăng sức mạnh của Đảng và làm thất bại mưu đồ xuyên tạc, chống phá của các lực lượng thù địch. Bằng sự đúng đắn trong nhận thức cũng như trong hành động, mỗi cá nhân, tổ chức trong hệ thống chính trị phải có trách nhiệm tham gia vào việc khẳng định chân lý: Thế giới còn đổi thay nhưng Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh sống mãi.   

PGS, TS TRẦN THỊ MINH TUYẾT, Khoa Tư tưởng Hồ Chí Minh, Học viện Báo chí và Tuyên truyền 

(1) Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 2011, tập.1, tr.509

(2) Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd, tập.4, tr.315

Chỉ số hạnh phúc - minh chứng phản bác các luận điệu bôi đen, miệt thị đất nước

Thứ Sáu, 22/03/2024, 08:16

Dịp kỷ niệm Ngày quốc tế hạnh phúc (20/3) năm nay, Việt Nam đón nhận những thông tin tích cực khi trong bảng xếp hạng các quốc gia hạnh phúc của Báo cáo hạnh phúc thế giới 2024, Việt Nam đứng thứ 54, tăng 11 bậc so với năm 2023.

Đây là bảng xếp hạng do Mạng lưới Giải pháp phát triển bền vững của Liên hợp quốc công bố dựa trên kết quả khảo sát tại 143 quốc gia và vùng lãnh thổ. Dù chưa thể vươn lên top đầu nhưng chỉ số tăng đều qua các năm cho thấy kết quả đạt được rất quan trọng của Đảng, Nhà nước ta về chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, đem lại hạnh phúc cho nhân dân.

Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động vẫn kiểu “mũ ni che tai”, phớt lờ không nghe, không thấy, tiếp tục bôi đen đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, lấy cớ đả kích Đảng, Nhà nước “kéo lùi lịch sử”, “làm dân vất vả, cơ hàn”… 

Nhận diện các luận điệu chỉ trích, bôi đen

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”, nhằm đưa đất nước ta từng bước phát triển hùng cường, thịnh vượng. Đây là một mục tiêu cao đẹp, thể hiện quyết tâm của Đảng trong chăm lo đời sống nhân dân, là khát vọng của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, các thế lực thù địch không ngừng xuyên tạc, cho rằng chủ trương “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” được Đại hội XIII của Đảng thông qua là “duy tâm, siêu hình”, là “chủ quan, nóng vội, duy ý chí”, chỉ là “ảo vọng viển vông, hão huyền”...

ngay-gd-viet-nam.jpg -0
Báo cáo của Liên hợp quốc cho thấy, chỉ số hạnh phúc của Việt Nam tăng đều trong các năm qua.

Trước tình hình đó, yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra hiện nay là cần nhận diện rõ và kiên quyết đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch, nhằm góp phần tăng cường sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội về con đường, mục tiêu, động lực phát triển đất nước.

Các thế lực thù địch sử dụng không gian mạng, các báo, đài phản động ở nước ngoài để xuyên tạc quan điểm “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” trong văn kiện của Đại hội, cho rằng đây là quan điểm duy tâm chủ quan, một khẩu hiệu trống rỗng, phản khoa học, thiếu cơ sở lý luận và thực tiễn, rơi vào chủ quan, duy ý chí. Họ lồng ghép các nội dung vu cáo, xuyên tạc khác vào như phủ nhận lịch sử và thành quả đấu tranh cách mạng vẻ vang của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cho rằng Đảng đã hết vai trò lịch sử, không còn đủ khả năng để lãnh đạo khiến đất nước ngày càng yếu thế và lạc hậu so với các nước trên thế giới. Từ đó, họ viện dẫn, đưa ra những luận điểm vô căn cứ, xuyên tạc thực tiễn lịch sử để biện minh chế độ một đảng lãnh đạo là “sai lầm”, rằng nếu không có Đảng Cộng sản Việt Nam thì dân tộc ta không phải trải qua cuộc chiến tranh lâu dài và đau thương như thế và “nếu không có Đảng Cộng sản thì Việt Nam đã đứng trong hàng ngũ các nước phát triển từ lâu”!

Hùa theo những luận điệu đó, số phần tử cơ hội, phản động, bất mãn chính trị trong nước đã tích cực móc nối với các thế lực bên ngoài đẩy mạnh tuyên truyền xuyên tạc với nhiều hình thức khác nhau nhằm gây nên sự hoài nghi trong các tầng lớp nhân dân, kích thích tâm lý bi quan, chán chường của một bộ phận người dân; hạ thấp uy tín của Đảng, của đất nước trên trường quốc tế.

Những luận điệu xuyên tạc, kích động trên, dù được các thế lực thù địch, số đối tượng phản động và phần tử cơ hội tô vẽ, thêu dệt thế nào chăng nữa cũng không thể phủ nhận được tính cách mạng, khoa học của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nói chung, quan điểm “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” nói riêng. Đó là quan điểm hoàn toàn đúng đắn, là nguyện vọng chính đáng của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta; được Đảng xây dựng trên cơ sở lý luận, thực tiễn.

Hiện thực hoá khát vọng đem lại hạnh phúc cho nhân dân

Hạnh phúc được hiểu là một giá trị văn hóa - xã hội mang tính phổ quát toàn nhân loại. Tại bất cứ quốc gia hay dân tộc nào, cũng như trong bất kỳ thời đại lịch sử nào, hạnh phúc vẫn luôn là khát vọng vươn tới của con người. Hạnh phúc mang nội hàm vô cùng rộng lớn; trong mỗi thời điểm và mỗi con người theo từng hoàn cảnh khác nhau thì sẽ có nhu cầu và cảm nhận về hạnh phúc khác nhau. Như vậy, hạnh phúc luôn tồn tại xung quanh cuộc sống thường ngày và trong nhu cầu của mỗi người. Ngày nay, hạnh phúc có thể được hiểu là những điều lớn lao như chấm dứt chiến tranh, đem lại hòa bình cho nhân loại, đẩy lùi đói, khát, dịch bệnh và tăng sự gắn kết giữa con người với con người mà không phân biệt tôn giáo hay màu da.

Từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn nêu cao khát vọng phát triển đất nước, lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua những chặng đường đầy thách thức nhưng rất vẻ vang và lớn mạnh cùng đất nước. Lấy độc lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu, động lực phấn đấu, Đảng đã đưa đất nước tiến lên, giành được thành quả rất to lớn. Khát vọng ấy chính là sợi chỉ đỏ, là cội nguồn sức mạnh để Đảng ta phát huy nội lực sẵn có, tận dụng ngoại lực vượt qua những khó khăn, thử thách, đưa đất nước đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong suốt gần 40 năm đổi mới.

Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, trở thành quốc gia đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội khu vực Đông Nam Á. Quy mô GDP đã tăng hơn 100 lần, từ con số 4 tỷ USD lên 406 tỷ USD (năm 2022). Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, GDP năm 2023 của cả nước ước tính tăng 5,05% so với năm trước, đưa quy mô nền kinh tế theo giá hiện hành ước đạt 10.221,8 nghìn tỷ đồng, tương đương 430 tỷ USD; GDP bình quân đầu người ước đạt 101,9 triệu đồng/người, tương đương 4.284 USD, tăng 160 USD so với năm 2022. Như vậy đến cuối năm 2023, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đã đạt mốc 100 triệu đồng/người/năm.

Từ một nước bị bao vây, cấm vận, đến nay, nước ta đã có quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia. Với việc Việt Nam - Australia vừa tuyên bố nâng cấp quan hệ ngoại giao lên đối tác chiến lược toàn diện vào ngày 7/3/2024, đến nay, Việt Nam có quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 7 quốc gia, 12 nước là đối tác chiến lược và 12 nước đối tác toàn diện. Việt Nam là tâm điểm của nhiều mạng lưới liên kết kinh tế năng động với hơn 230 đối tác thương mại, 60 hiệp định thương mại tự do sâu rộng với nhiều phương diện hợp tác. Qua đó sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.

Trên cơ sở của những thành tựu to lớn đó, cùng với cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín của đất nước ngày càng được khẳng định và lan tỏa, tại Đại hội XIII, Đảng ta đã cụ thể hóa khát vọng phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay là phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc với những mục tiêu cụ thể: Đến năm 2025: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao.  Đến năm 2045: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Ngày 6/7/2021, phát biểu tại Hội nghị thượng đỉnh trực tuyến giữa Đảng Cộng sản Trung Quốc với các chính đảng trên thế giới, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Mưu cầu hạnh phúc là nguyện vọng và quyền lợi chính đáng của mọi người dân, trong đó có việc con người phát triển toàn diện, cuộc sống ấm no, hạnh phúc, sống trong hòa bình, bình đẳng và yêu thương giúp đỡ nhau. Chỉ khi nào các quốc gia, các dân tộc chung sống hòa bình, hữu nghị, tôn trọng lẫn nhau, vì tương lai tốt đẹp chung của nhân loại, khi đó người dân trên thế giới mới thực sự được hưởng hạnh phúc một cách đầy đủ và đích thực”.

Với những thành tựu nêu trên tiếp tục khẳng định rằng, dù thời cuộc có nhiều biến động, thế giới có nhiều đổi thay nhưng vai trò Đảng Cộng sản Việt Nam trong dòng chảy lịch sử của dân tộc đã, đang và tiếp tục là lực lượng chính trị duy nhất có đủ vị thế, trí tuệ, năng lực, uy tín để lãnh đạo nhân dân Việt Nam thực hiện toàn diện công cuộc đổi mới, bảo vệ độc lập, chủ quyền và xây dựng, phát triển đất nước theo con đường XHCN. Mọi sự xuyên tạc về vai trò, vị trí, uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam đều không có giá trị và bị thực tiễn bác bỏ

Như vậy, trước khi Liên hợp quốc chọn Ngày Quốc tế hạnh phúc, tại Việt Nam, khát vọng hạnh phúc đã được thể hiện ngay dưới quốc hiệu nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đó là “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”... Hưởng ứng Ngày Quốc tế hạnh phúc, ngày 26/12/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2589/QĐ-TTg về Phê duyệt Đề án Tổ chức các hoạt động nhân Ngày Quốc tế hạnh phúc 20 tháng 3 hằng năm.

Năm 2014, lần đầu tiên Việt Nam tổ chức Ngày Quốc tế hạnh phúc với chủ đề “Yêu thương và chia sẻ”, qua đó nhấn mạnh thông điệp yêu thương và chia sẻ trong gia đình, dòng tộc, cộng đồng, bạn bè, đồng chí, cơ quan, đơn vị, nhà trường... nhằm đem lại hạnh phúc cho chính bản thân, gia đình và cộng đồng; góp phần phát triển an sinh xã hội, thực hiện mục tiêu xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; làm chuyển biến mạnh mẽ nhận thức và hành động của các tầng lớp nhân dân; khẳng định mục tiêu, động lực phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh...

Theo Báo cáo hạnh phúc thế giới 2023 (The World Happiness Report), Việt Nam đứng thứ 4 trong khu vực Đông Nam Á và thứ 65 trên thế giới với điểm số hạnh phúc đạt 5,8. Theo đó, chỉ số hạnh phúc của Việt Nam đã tăng 12 bậc, từ vị trí 77 vào năm 2022, lên vị trí 65 năm 2023. Mặt khác, Việt Nam được xếp hạng cao về bình đẳng khi mà khoảng cách giữa một nửa dân số cảm thấy hạnh phúc hơn và nửa dân số ít hạnh phúc hơn rất nhỏ. Ở tiêu chí này, Việt Nam là nước châu Á duy nhất lọt vào top 20 thế giới. Và trong bảng xếp hạng các quốc gia hạnh phúc của Báo cáo hạnh phúc thế giới 2024, Việt Nam đứng thứ 54, tăng 11 bậc so với năm 2023. Chủ đề của Ngày Quốc tế hạnh phúc (20/3) năm nay là “Hạnh phúc cho mọi người” và đây cũng là mong ước chung của nhân loại.

Liêm Chính - Bình Nguyên

Sĩ quan trẻ-đừng cuộn tròn trong chiếc kén an toàn

Thứ năm, 21/03/2024 - 05:45

Sĩ quan trẻ trong Quân đội nhân dân Việt Nam là nguồn kế cận tin cậy, vững chắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; cùng với các thế hệ thanh niên thời đại Hồ Chí Minh viết tiếp những trang sử vẻ vang của dân tộc; xứng đáng với danh hiệu cao quý Bộ đội Cụ Hồ. Song, bên cạnh rất nhiều tấm gương đã và đang ngày đêm vượt khó vươn lên; tích cực đổi mới, sáng tạo; sẵn sàng xông pha “đi trước mở đường” trên nhiều lĩnh vực, vẫn còn một bộ phận nhỏ có biểu hiện sa vào “tư duy lối mòn”. Đây là điều nguy hại, cần nhận diện, phê phán, đấu tranh...

Giống như “con lắc đồng hồ”

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Câu nói ấy của Bác có nghĩa là, mỗi tổ chức, mỗi cá nhân phải thực hiện việc học tập, rèn luyện thường xuyên, liên tục, không có điểm dừng.

Còn nhớ, trong một buổi kiểm tra và làm việc tại Học viện Hậu cần, Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã nhấn mạnh: “Súng không lau súng mau han gỉ/ Người không rèn ý chí không cao”. Đây chính là lời đúc kết quý báu qua nhiều thế hệ, được người chỉ huy cao nhất của Quân đội ta dẫn lại để nhắc nhở mỗi cán bộ, chiến sĩ cần tích cực rèn giũa bản thân để không ngừng tiến bộ, trưởng thành. 

Tuy nhiên, một số sĩ quan trẻ vì thiếu kinh nghiệm thực tiễn, chưa thực sự tự tin trong công tác, sợ sai, sợ chịu trách nhiệm... nên đã bị cuốn vào “tư duy lối mòn” với những biểu hiện như: Vận dụng hình thức, rập khuôn, máy móc các nghị quyết, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên; bình quân chủ nghĩa, làm việc cảm tính theo thói quen, hời hợt, cầm chừng, qua loa đại khái; thiếu chủ động, không có chính kiến, chỉ huy “bảo sao nghe vậy”, “chỉ đâu đánh đó”; ít suy nghĩ, tìm tòi; ỷ lại hoặc trông chờ người khác làm xong rồi bắt chước, “nhào nặn”, “copy-paste”, “xào xáo”, thậm chí đem “râu ông nọ cắm cằm bà kia” để báo cáo cấp trên cho “đúng tiến độ”... Hệ quả là công việc "giẫm chân tại chỗ", việc sau vẫn giống việc trước, đơn vị này cũng như đơn vị khác, năm mới chẳng có gì chuyển biến so với năm cũ...

Sĩ quan trẻ-đừng cuộn tròn trong chiếc kén an toàn
Cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn Đặc công 60, Bộ Tham mưu Quân khu 7 nỗ lực phấn đấu, rèn đức luyện tài. Ảnh minh họa: qdnd.vn

Những biểu hiện trên thật đáng phê phán và cần phải kiên quyết đấu tranh để loại bỏ, bởi lẽ thành công sẽ không đến với những ai ngại khó, ngại khổ, ngại rèn luyện, sợ thất bại... mà chặng đường vươn tới những đỉnh cao của mỗi con người luôn chứa đựng rất nhiều chông gai, thử thách. Do đó, mỗi sĩ quan trẻ cần nêu cao tinh thần ham học hỏi, cầu tiến bộ, xung kích, sáng tạo trên mọi lĩnh vực, cũng giống như “Dao có mài mới sắc, người có học mới nên”, tuyệt đối không để bản thân thất bại ngay từ trong suy nghĩ, để rồi... suốt đời phải sống theo phong cách của “con lắc đồng hồ”.

Đừng để sáng tạo bị “chết yểu”!

Quân đội là môi trường đặc thù với nhiều khó khăn, gian khổ, hy sinh. Trải qua 80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta đã luôn đoàn kết, quyết tâm, sắt son lời thề: “Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Thực tiễn chứng minh một sự thật, đó là chẳng ranh giới nào có thể ngăn cản bước chân Bộ đội Cụ Hồ tiến lên phía trước. Vậy thì tại sao một số sĩ quan mới tốt nghiệp ra trường, tuổi đời còn rất trẻ đã vội thỏa mãn, dừng lại, “ngủ quên trên vòng nguyệt quế”, vì sự thoải mái, nhàn nhã trước mắt mà dấn bước vào vòng luẩn quẩn dẫn tới tự đào thải chính mình.

Không chỉ ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng thực hiện nhiệm vụ của bản thân; uy tín, danh dự của người cán bộ, đảng viên; tư tưởng của đồng chí, đồng đội và kết quả hoàn thành các mặt công tác của đơn vị. Sâu xa hơn, “tư duy lối mòn” còn là tư tưởng lỗi thời, lạc hậu, đi ngược với xu thế phát triển của thời đại, gây tổn hại đến sự phát triển của đất nước.

Được cống hiến, trưởng thành trong Quân đội nhân dân Việt Nam là niềm vinh dự, tự hào lớn lao của mỗi người. Chính bởi vậy, chúng ta cần luôn đề cao tinh thần tận tâm, tận hiến sao cho xứng đáng với trọng trách được giao phó; tích cực “rèn cán, rèn binh, rèn mình như rèn chiến sĩ” để có đủ tài, đức phục vụ Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Hay nói cách khác là phải học thường xuyên, rèn toàn diện để nâng cao phẩm chất, năng lực về mọi mặt; có “sức đề kháng” trước những cám dỗ và ham muốn tầm thường; không tự tạo cơ hội khiến “tư duy lối mòn” làm cho khả năng sáng tạo của bản thân bị “chết yểu”.

Mạnh mẽ bước ra ngoài “vùng an toàn”

Tại Hội nghị Quân ủy Trung ương lần thứ sáu, nhiệm kỳ 2020-2025, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Bí thư Quân ủy Trung ương đã khẳng định: “Người cán bộ chỉ huy quân sự mà thiếu quyết đoán, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm thì sẽ bỏ lỡ thời cơ, dẫn đến thất bại trong xử trí các tình huống xảy ra”. Để khắc phục tình trạng đó, người lãnh đạo cao nhất của Đảng yêu cầu: “Cần đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh, đủ đức, đủ tài, có uy tín cao; cấp trên phải làm gương cho cấp dưới, chỉ huy phải mẫu mực trước toàn đơn vị”. Qua đó để thấy được niềm tin, sự kỳ vọng của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với Bộ đội Cụ Hồ.

Chúng ta đều biết rằng, chinh phục những vinh quang đã khó, nhưng để giữ vững được thành quả ấy còn khó hơn rất nhiều, bởi lẽ quy luật của sự phát triển không phải theo đường thẳng và thành công của lần này chính là áp lực để những lần tiếp theo phải làm tốt hơn nữa. Đành rằng, không ai có thể đứng trên “lầu thắng lợi” được mãi, nhưng để tránh “tụt dốc không phanh” thì trước hết, mỗi người cần thường xuyên đề cao ý thức tự bảo vệ. Điều đó nhắc nhở mỗi sĩ quan trẻ phải biết cách làm chủ, làm mới bản thân; vừa trân trọng, kế thừa các bài học kinh nghiệm cũ, vừa không ngừng nghiên cứu, tìm tòi những thành tựu, tri thức mới để giữ vững và nâng cao hơn nữa thành tích đã đạt được. Đừng để cho cuộc sống trở nên nhàm chán, một màu, vì sức mạnh tiềm tàng bên trong mỗi con người chỉ bộc lộ khi gặp phải “thuốc thử mạnh” và mỗi lần vượt qua thách thức là một lần chúng ta có thêm động lực để vươn lên.

Là “cái gốc của mọi công việc”, mỗi cán bộ, đảng viên nói chung, đội ngũ sĩ quan trẻ nói riêng cần thấm nhuần tư tưởng “học tập suốt đời” của Chủ tịch Hồ Chí Minh và tinh thần “7 dám”, đó là: “Dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, và dám hành động vì lợi ích chung”.

Thực tiễn luôn luôn vận động, phát triển nên không có bất cứ khuôn mẫu nào và cũng chẳng có gì gọi là “khuôn vàng thước ngọc” đối với những việc làm ở thì tương lai. Bên cạnh đó, nhiệm vụ xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, tiến lên hiện đại trong tình hình mới đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao; các hình thái chiến tranh hiện đại đã phá vỡ mọi giới hạn, quy ước cũ và không ngừng “tiến hóa”, trở nên rất phức tạp, khó đoán cả về quy mô, tính chất, mức độ... Do đó, ngay từ lúc này, chúng ta phải đề cao tinh thần chủ động về mọi mặt, tập trung làm tốt công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược; tích cực tiến quân vào khoa học-công nghệ; nâng cao năng lực làm chủ đối với các loại vũ khí, khí tài được trang bị; bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa, “giữ nước từ khi nước chưa nguy”. Trong đó, lực lượng được coi là rường cột của nước nhà phải tiên phong gánh vác trọng trách cao cả ấy.

Bộ đội Cụ Hồ luôn được dân trọng, dân mến, dân tin là do cán bộ, chiến sĩ Quân đội suốt đời “vì nhân dân quên mình, vì nhân dân hy sinh”. Trách nhiệm của những người trẻ hôm nay là phải giữ gìn và phát huy truyền thống, bản chất tốt đẹp đã được các thế hệ cha anh hun đúc bằng biết bao mồ hôi, xương máu.

V.I.Lenin-lãnh tụ vĩ đại của những người cộng sản và nhân dân lao động trên toàn thế giới đã chỉ ra rằng, phải “Học, học nữa, học mãi”. Nếu mỗi cá nhân đều nêu cao tinh thần ham học hỏi, cầu tiến bộ, mạnh dạn đột phá, thi đua đổi mới, sáng tạo, sẵn sàng phá vỡ cái gọi là “vùng an toàn” để vượt lên chính mình thì sẽ tạo ra môi trường lý tưởng để mọi quân nhân cùng thi đua phấn đấu hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ. Đặc biệt, sĩ quan trẻ trong Quân đội lại là lực lượng được tuyển chọn kỹ lưỡng, được giáo dục, rèn luyện bài bản, có trí tuệ và khả năng sáng tạo cao. Do đó, sẽ không khó để các bạn hiện thực hóa những ước mơ, hoài bão, khát vọng cống hiến, trưởng thành nếu như “tư duy lối mòn” bị loại bỏ.

VĂN QUỐC - TƯỜNG LÂN

Lật tẩy luận điệu xuyên tạc về bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc

Thứ Sáu, 15/03/2024, 05:47

Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị tung ra các bài viết xuyên tạc, phủ nhận đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta về quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo.

Đặc biệt, khi tình hình trên Biển Đông có những diễn biến phức tạp hay đến dịp kỷ niệm các sự kiện lịch sử xảy ra trên biển, đảo thì ngay lập tức, trên các báo, đài ở nước ngoài như BBC, RFA, RFI, các trang web, mạng xã hội của các tổ chức, đối tượng phản động lại tăng cường phát tán tài liệu, hình ảnh, video xuyên tạc về vấn đề này.

Những luận điệu xuyên tạc

Cứ đến ngày 14/3 hằng năm, một số đối tượng, tổ chức chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam lại tung những hình ảnh, video clip ghi lại phát biểu của chuyên gia này, chuyên gia kia hoặc áp đặt ý kiến chủ quan, cho rằng trận chiến bảo vệ chủ quyền ở Trường Sa ngày 14/3/1988, Việt Nam mất Gạc Ma là do có lệnh không được nổ súng, bưng bít thông tin chuyện mất đảo…

Lật tẩy luận điệu xuyên tạc về bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc -0
Ảnh minh họa.

Đây là những luận điệu xuyên tạc, quy chụp, làm sai lệch bản chất, ý nghĩa của công cuộc bảo vệ chủ quyền biển đảo của Việt Nam. Chúng ta thấy rằng, không chỉ riêng sự kiện Gạc Ma ngày 14/3/1988 mà các sự kiện khác như: Cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc (17/2/1979), cuộc hải chiến Hoàng Sa (19/1/1974)…, các thế lực thù địch, phản động cũng luôn tìm cách xuyên tạc, bóp méo sự thật để lấy cớ kích động chống phá Đảng, Nhà nước.

Gần đây, các tổ chức phản động lưu vong tiếp tục lợi dụng sự kiện Trung Quốc điều tàu hải cảnh hoạt động bất hợp pháp tại bãi đá Tư Chính thuộc vùng thềm lục địa của Việt Nam để tuyên truyền những luận điệu sai trái, thù địch, quy chụp Đảng, Nhà nước “không lo bảo vệ biển đảo”, né tránh, lãng quên những vấn đề này; lấy cớ việc tổ chức “tưởng niệm” để lôi kéo, kích động chống phá, tổ chức các hoạt động tụ tập đông người, gây rối an ninh, trật tự tại các địa điểm công cộng trên địa bàn TP Hà Nội và một số thành phố lớn khác…

Lợi dụng vấn đề này, các đối tượng chống đối ở trong nước, các tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài đã tiến hành lồng ghép, xuyên tạc, vu cáo chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước hòng làm sai lệch thông tin, tình hình về biển Đông và chủ trương nhất quán của Việt Nam trong quan hệ với các nước láng giềng trên biển; kêu gọi sự can thiệp của bên ngoài, đòi thả tự do cho những kẻ chống phá chính quyền đã bị pháp luật trừng trị. Thay vì tổ chức các hoạt động tưởng niệm tại nghĩa trang liệt sĩ hay một cơ sở thờ tự nào đó với mục đích, ý nghĩa nhân văn, hướng lòng tưởng nhớ các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc thì số phản động, chống đối thường chọn “tưởng niệm” tại khu vực công cộng, nơi tập trung đông người nhằm phô trương thanh thế, gây rối trật tự, chống phá Đảng, Nhà nước. Mục đích nhằm lợi dụng danh nghĩa “tưởng niệm” để xuyên tạc, kích động, cổ súy các hành vi chống phá chính quyền, chia rẽ quan hệ đối ngoại giữa Việt Nam với các nước láng giềng trên biển, tập dượt, tiến hành cuộc “cách mạng đường phố” nhằm tiến tới bạo loạn, lật đổ chính quyền nhân dân.

Lịch sử dựng nước, giữ nước đã chứng minh lòng yêu nước nồng nàn của dân tộc Việt Nam. Khi chủ quyền lãnh thổ quốc gia đứng trước những thách thức hoặc bị xâm phạm, người dân đặc biệt quan tâm, thường xuyên dõi theo những thông tin liên quan và có các ý kiến thể hiện quan điểm góp phần bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc. Lợi dụng tâm lý này, các thế lực thù địch, các tổ chức phản động đã lồng ghép và đưa ra những thông tin xuyên tạc, sai sự thật hòng bẻ lái dư luận, kích động người dân thiếu hiểu biết nhằm xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước, chia rẽ mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước và làm ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam với quốc tế. Các đối tượng cũng tìm cách lồng ghép, quy chụp lãnh đạo Đảng, Nhà nước, xuyên tạc lực lượng trực tiếp làm công tác bảo vệ chủ quyền như Hải quân, Cảnh sát biển, Kiểm ngư, cho rằng các lực lượng này “phản ứng chậm” hoặc “né tránh, không dám đối đầu, để chủ quyền lãnh thổ quốc gia và tính mạng của nhân dân bị đe dọa”.

Đây là những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận những thành quả đạt được và quan điểm đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, nằm trong âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, phản động. Bằng luận điệu xuyên tạc, đả kích, các thế lực xấu muốn làm lòng dân bất an, dần mất niềm tin vào Đảng, Nhà nước, phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ mối quan hệ Việt Nam với các nước láng giềng, cần phải được nhận diện, lên án, đấu tranh kịp thời.

Tỉnh táo trong tiếp cận thông tin, không mắc mưu kẻ xấu

Thực tế, ngay sau sự kiện ngày 14/3/1988, Bộ Ngoại giao Việt Nam cùng các cơ quan chức năng của Việt Nam đã cực lực phản đối, tạo thành một phong trào mạnh mẽ nhất, khơi dậy ý chí, sự đồng lòng, đoàn kết và tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân dân. Từ tháng 2 đến tháng 6/1988, rất nhiều bài viết được đăng tải trên các báo và phát sóng trên đài khẳng định rõ quan điểm Việt Nam yêu cầu Trung Quốc phải chấm dứt ngay mọi hành động khiêu khích, xâm chiếm.

Trong và sau sự kiện Gạc Ma ngày 14/3/1988, các địa phương, đoàn thể trong cả nước hướng về Trường Sa mạnh mẽ. Đặc biệt, nhiều phóng viên báo chí theo các đoàn công tác đã trực tiếp ra Trường Sa để gặp gỡ nhân chứng, cung cấp cho độc giả, khán, thính giả trong nước và trên thế giới về hoạt động chiến đấu, hy sinh của các chiến sĩ ở quần đảo Trường Sa, truyền tải sự thật lịch về sự kiện này. Thực tế đó cho thấy, không có việc chúng ta bưng bít thông tin, che giấu sự việc trên đài, báo. Sự kiện Gạc Ma là một trang sử không thể nào quên trong công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của dân tộc, nơi ghi dấu sự anh dũng chiến đấu, hy sinh cao cả của các chiến sĩ QĐND Việt Nam. Xung quanh sự kiện này, từ trước tới nay, Việt Nam đã khẳng định quan điểm nhất quán và các hành động cụ thể để giải quyết tranh chấp, bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng trên khu vực quần đảo Trường Sa.

Nhìn lại lịch sử, trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc, biên giới phía Tây Nam và các cuộc chiến bảo vệ chủ quyền biển đảo, Đảng, Nhà nước ta luôn thể hiện tinh thần quyết chí, đồng lòng, quyết tâm bảo vệ từng vùng đất, vùng biển, vùng trời của Tổ quốc. Trên thực tế, trong những thời điểm mà chủ quyền quốc gia trên Biển Đông bị đe dọa, Đảng, Nhà nước và toàn dân ta luôn thể hiện tinh thần đoàn kết, đồng lòng, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, trong đó chủ quyền biển, đảo là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Tuy nhiên, về biện pháp tiến hành, cần phải hết sức bình tĩnh, tỉnh táo, linh hoạt, thực hiện “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong các tình huống cụ thể với mục tiêu cao nhất là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc, giữ gìn hoà bình, ổn định để phát triển.

Quan điểm, lập trường của Việt Nam về vấn đề Biển Đông, về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển quốc gia theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) là rất rõ ràng và có đầy đủ cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn. Với những vấn đề còn tồn tại bất đồng, tranh chấp, Việt Nam nhất quán giải quyết bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp và thông lệ quốc tế. Là một quốc gia thành viên của Liên hợp quốc đã tham gia ký kết UNCLOS 1982, Việt Nam luôn tuân thủ các quy định của luật pháp và nguyên tắc quan hệ quốc tế; kiên trì con đường giải quyết các vấn đề nảy sinh bằng biện pháp hòa bình, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau nhằm tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài, đáp ứng lợi ích chính đáng của tất cả các bên liên quan vì độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và vì hòa bình, ổn định, phát triển của khu vực, quốc tế.

Thời gian qua, trước những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch và các tổ chức phản động lưu vong, các phần tử bất mãn chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, các cơ quan chức năng, trong đó có báo chí, truyền thông đã tích cực tuyên truyền để người dân tỉnh táo hơn trong tiếp cận, đánh giá thông tin, sự việc, tránh mắc mưu kẻ xấu. Đảng, Nhà nước ta không bao giờ né tránh, lãng quên cuộc chiến tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc, cuộc chiến bảo vệ biên giới phía Bắc, biên giới phía Tây Nam và các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống để bảo vệ Tổ quốc. Chúng ta tưởng nhớ các anh hùng, liệt sĩ, những người đã ngã xuống trong các cuộc chiến đấu bảo vệ bình yên bờ cõi, chủ quyền quốc gia bằng các hành động thiết thực.

Quan tâm tuyên truyền, giáo dục cho quần chúng nhân dân, nhất là thế hệ trẻ về lịch sử các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta; quan tâm, chăm lo đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, người có công; tuyên truyền khẳng định chủ trương, chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta về bảo vệ chủ quyền biên giới, biển đảo, về đường lối đối ngoại…

Hơn lúc nào hết, mỗi người cần tỉnh táo trong tiếp nhận thông tin, nêu cao tinh thần cảnh giác, nhận diện rõ các luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, kích động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, các phần tử chống đối trong và ngoài nước. Mỗi chúng ta cần phải biết cách thể hiện lòng yêu nước, sự biết ơn đối với các anh hùng liệt sĩ theo đúng nghĩa, đúng cách, không để lòng yêu nước bị lợi dụng vào các mưu đồ chống phá Đảng, Nhà nước.     

B.Nguyên - H.Cầm

Người trẻ và cán cân lý tưởng - đồng tiền trong nhịp sống hiện đại-Bài 3: Nuôi dưỡng, vun trồng khát vọng đẹp (Tiếp theo và hết)

Thứ bảy, 16/03/2024 - 05:55

Cán cân lý tưởng - đồng tiền đang lệch hẳn về một phía ở một bộ phận người trẻ suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Nguy cơ lây lan, tác động tiêu cực của lối sống thực dụng, sùng bái đồng tiền đến phần còn lại của giới trẻ là điều không thể lơ là, xem nhẹ.

Câu trả lời từ thực tiễn sinh động

Thực trạng đáng buồn của lối sống chạy theo vật chất khiến nhiều người nghi hoặc rằng liệu giới trẻ ngày nay còn coi trọng lý tưởng, khát vọng cống hiến?

Có thể khẳng định rằng, một nền tảng căn cơ cho niềm tin chân lý, truyền thống tốt đẹp là trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, nhất là từ khi Đảng ra đời, lãnh đạo cách mạng Việt Nam trải qua hai cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại, cũng như trong thời kỳ xây dựng đất nước ta “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” luôn có những người trẻ với lòng yêu nước nồng nàn, anh hùng, kiên trung, tài năng xuất chúng, tận hiến cả cuộc đời mình phụng sự cách mạng, phục vụ nhân dân.

Ngay từ khi thành lập Đảng, nhiều đồng chí được tin tưởng giao trọng trách đảm đương cương vị cấp cao khi tuổi đời còn rất trẻ, như đồng chí Trần Phú, Nguyễn Văn Cừ được bầu làm Tổng Bí thư khi 26 tuổi; đồng chí Võ Nguyên Giáp ở tuổi 35 được Chủ tịch Hồ Chí Minh ủy quyền làm Tổng chỉ huy Quân đội quốc gia và Dân quân tự vệ Việt Nam, sau là Tổng Tư lệnh kiêm Tổng Chính ủy, Bí thư Tổng Quân ủy và được phong quân hàm Đại tướng ở tuổi 37. Đó là anh hùng Lý Tự Trọng, 16 tuổi nhận nhiệm vụ của Đảng trở lại Sài Gòn để thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản, nổi tiếng với tuyên bố đanh thép: Con đường của thanh niên chỉ là con đường cách mạng, không thể có con đường nào khác. Đó là Kim Đồng, Đội trưởng đầu tiên của Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, hy sinh vì nước khi vừa tròn 14 tuổi. Đó là Vừ A Dính, người anh hùng tuổi nhỏ chí lớn, 13 tuổi xung phong làm đội viên liên lạc của Đội vũ trang huyện Tuần Giáo, tỉnh Lai Châu (nay là tỉnh Điện Biên)...

 
Người trẻ và cán cân lý tưởng - đồng tiền trong nhịp sống hiện đại-Bài 3: Nuôi dưỡng, vun trồng khát vọng đẹp (Tiếp theo và hết)
Thanh niên và các lực lượng tình nguyện giúp nhân dân vùng lũ dựng lại nhà cửa, ổn định cuộc sống. Ảnh minh họa: Báo Điện tử Đảng Cộng sản 

Trong công cuộc dựng xây và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, không ít người trẻ ở các lĩnh vực đã giành được nhiều thành tựu, góp phần khẳng định vị thế nước nhà trên trường quốc tế. Rất nhiều tấm gương người trẻ truyền cảm hứng để thế hệ thanh niên ngày nay thêm nhiệt huyết cống hiến vì Tổ quốc, vì nhân dân. Những câu chuyện kể về các thế hệ người trẻ giàu lý tưởng sống khiến chúng ta tin tưởng rằng người trẻ hôm nay sẽ càng thêm tự hào, nhiệt huyết để cống hiến, dựng xây quê hương, đất nước.

Từ giữa năm 2012, Bộ Nội vụ triển khai dự án thí điểm tuyển chọn 600 trí thức trẻ ưu tú, có trình độ đại học tăng cường về làm phó chủ tịch ủy ban nhân dân các xã đặc biệt khó khăn ở 64 huyện nghèo thuộc 20 tỉnh trong cả nước. Mục tiêu của dự án nhằm tăng cường nguồn nhân lực cho cấp ủy, chính quyền cơ sở các huyện nghèo, triển khai có hiệu quả chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững. Tại thời điểm kết thúc nhận hồ sơ để tổ chức phỏng vấn, có hơn 2.000 hồ sơ của trí thức trẻ đăng ký tham gia. Bộ Nội vụ đã tuyển chọn được 580 đội viên bảo đảm chất lượng theo yêu cầu đề ra của dự án. Con số hơn 2.000 hồ sơ chứng tỏ rất nhiều người trẻ mong muốn đóng góp sức mình cho quê hương, đất nước giàu mạnh. Sau 5 năm thực hiện, dự án đã đào tạo, bổ sung một đội ngũ cán bộ trẻ cho cơ sở và góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội của các xã nghèo. Kết quả rõ nhất của dự án là trong suốt 5 năm thực hiện nhiệm vụ, các đội viên trí thức trẻ không ngại khó, ngại khổ để đến với đồng bào nghèo; giữ gìn đoàn kết nội bộ; có tinh thần trách nhiệm cao và nhiệt tình trong công việc. Qua đánh giá của nhiều địa phương, hơn 97% đội viên hoàn thành nhiệm vụ trở lên, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của các xã.

Thực tiễn cho thấy, dù ở đâu, phần đa người trẻ đều mong muốn đem hết sức lực và tài năng cống hiến cho quê hương, đất nước và cũng trả lời cho câu hỏi “Người trẻ thời nay thực sự còn có lý tưởng?”. Một bộ phận người trẻ sa lầy trong bóng tối của “đồng tiền vạn năng” không phản ánh bản chất của thế hệ thanh niên Việt Nam thời nay, với mảng sáng bao trùm vẫn là những khát khao tận hiến. Lẽ dĩ nhiên, ở mỗi giai đoạn khác nhau, khát vọng, mục tiêu, lý tưởng của người trẻ cũng có những sự chuyển dịch cùng thực tiễn, nhưng điều căn cốt là không nằm ngoài, không đi ngược lại với lợi ích quốc gia, dân tộc. Quan trọng là chúng ta biết khơi nguồn động lực, phát huy ý chí, sức mạnh, khát khao cống hiến ở mỗi người trẻ. Để làm được điều này, song hành cùng yếu tố tiên quyết đến từ ý thức và trách nhiệm tự thân của người trẻ, cần có sự chung tay góp sức của toàn xã hội.

Thành quả của sự trao truyền, vun trồng lý tưởng sống trong thanh niên không chỉ có được từ ngày một, ngày hai mà là cả quá trình ươm mầm, dung dưỡng trong tổng thể hài hòa từ gia đình, nhà trường đến xã hội. Muốn tạo ra một thế hệ chủ nhân tương lai với lý tưởng đẹp, trách nhiệm cao thì hành động phải đến từ hôm nay.

Lấy tự học, tự tu dưỡng làm cốt

Thiếu bản lĩnh dẫn đến nóng vội, cả tin, dễ bị lôi kéo... đã hình thành nên một bộ phận giới trẻ lựa chọn lối sống ích kỷ, đề cao vật chất, xem nhẹ tình cảm gia đình, cộng đồng, hành xử vô cảm, ích kỷ, không dám đấu tranh bảo vệ lẽ phải, cái tốt, cái đúng, sẵn sàng đồng lõa, che giấu cái ác, cái sai, cái xấu. Một bộ phận người trẻ thiếu bản lĩnh chính trị vững vàng, vốn sống nghèo nàn, suy nghĩ nông cạn, ngày càng giảm sút niềm tin vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc, tương lai của đất nước, không dám dấn thân, dễ bị mua chuộc bằng vật chất và sẵn sàng tiếp tay cho các thế lực xấu.

Trong giai đoạn hiện nay, cùng với yêu cầu về năng lực, tri thức, hiểu biết xã hội thì bản lĩnh chính trị là một phẩm chất quan trọng hàng đầu của thanh niên. Bản lĩnh ấy giúp mỗi người trẻ tạo lập cho mình định hướng phát triển tích cực, luôn biết cách giữ vững lập trường, quan điểm, nắm bắt tình hình thực tiễn để từ đó kiểm soát được hành vi, thái độ của bản thân trong bất cứ hoàn cảnh nào. Bản lĩnh đó còn là sự kiên định, vững vàng, làm chủ bản thân cả về suy nghĩ và hành động, sẵn sàng đối diện với những khó khăn, thách thức của cuộc sống. Bởi vậy, việc xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng để nhận diện đúng mặt tốt, mặt xấu, không bị hoang mang trước những tác động tiêu cực từ mặt trái cơ chế thị trường là việc quan trọng hàng đầu đối với thế hệ trẻ. Bản lĩnh ấy được trui rèn, xây đắp, ngự trị như bức tường thành vững chãi khi mỗi người trẻ biết lấy tự học, tự tu dưỡng làm cốt.

Để nuôi dưỡng lý tưởng, nhen lên những khát vọng đẹp đòi hỏi mỗi bạn trẻ không ngừng học tập, rèn luyện, tích cực góp sức vào các hoạt động của cộng đồng, cùng chung mục tiêu tạo nên hình tượng của thế hệ trẻ Việt Nam giàu lòng yêu nước, mạnh về thể chất, giàu về tri thức, vững về kỹ năng, luôn sẵn sàng đáp ứng những yêu cầu của thực tiễn và đặc biệt là luôn tôi rèn bản lĩnh chính trị vững vàng trước di biến của hoàn cảnh.

Mỗi thanh niên cần nhận thức đúng đắn, xác định rõ động cơ, thái độ và trách nhiệm đối với bản thân, gia đình và xã hội. Đó là yếu tố bên trong thôi thúc tính tích cực, chủ động và sáng tạo nên những nhu cầu một cách thường xuyên và nghiêm túc đối với việc tự học, tự rèn, tự nguyện cống hiến. Không chỉ phải ra sức học tập trong nhà trường, ở gia đình và ngoài xã hội; học tập qua sách vở và trau dồi kiến thức, làm giàu tri thức của mình từ chính thực tiễn cuộc sống mà còn phải luôn nghiêm khắc với bản thân, tự phê bình và phê bình để khắc phục nhược điểm nóng vội, thiếu thực tế, hình thức, chủ quan; đồng thời nỗ lực học tập chính trị, văn hóa, nghề nghiệp và rèn luyện đạo đức cách mạng. Với sức trẻ của mình, đoàn viên, thanh niên, học sinh, sinh viên phải xung phong trong mọi công tác-đi trước, làm trước, gương mẫu trước trên tinh thần chủ động, gan dạ, sáng tạo, có chí khí hăng hái và tinh thần cầu tiến, vượt mọi khó khăn, gian khổ để tiến bộ không ngừng.

Tự học, tự tu dưỡng, mục đích cuối cùng là để phục vụ cho bản thân, gia đình và cao hơn là quê hương, đất nước. Kết quả của quá trình tự học, tự tu dưỡng phải được biến thành sự đóng góp thiết thực, ích nước lợi dân.

Tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống là phương cách quan trọng để chống lại cám dỗ, kiểm soát ham muốn. Bởi vậy, mỗi người trẻ cần không ngừng học cách lấy lý trí để kiểm soát cảm xúc; lấy đạo đức, lương tri hướng dẫn nhu cầu, tiết chế ham muốn không vượt qua “lằn ranh” pháp luật và chuẩn mực đạo đức xã hội; lấy văn hóa làm nền tảng tinh thần để sử dụng tài năng, trí tuệ một cách có trách nhiệm, tiêu dùng vật chất thông thái, hài hòa giữa đời sống vật chất và tinh thần, giữa cống hiến và hưởng thụ.

Điều rất quan trọng là người trẻ cần biết rèn dũng khí đối mặt với những yếu điểm của chính mình, để tỉnh táo, cảnh giác, lường trước mọi khả năng cám dỗ tấn công. Không ngừng hoàn thiện, nghiêm khắc với bản thân; không phóng túng, buông thả, nêu cao ý thức tự chủ trước mọi hoàn cảnh. Đó cũng chính là bản lĩnh sẵn sàng vượt qua mọi thách thức, để lý tưởng luôn là ngọn đuốc soi đường trên hành trình lập thân, lập nghiệp cùng hơi thở của nhịp sống hiện đại.

 

NHÓM PHÓNG VIÊN