Hãy trở về để thấy và tin vào sự thật

QĐND - Trong suốt 36 năm trước khi trở về quê hương lần đầu tiên, Tổng biên tập kiêm nhà báo Việt kiều Nguyễn Phương Hùng của trang web hải ngoại kbchn.net thừa nhận, đó là quãng thời gian ông mù tịt thông tin về tình hình đất nước và đã không ít lần tham gia các cuộc biểu tình chống đối Việt Nam ở Mỹ. Nhưng sau lần đầu trở về quê hương, ông đã thay đổi hẳn cách nhìn về Việt Nam. Chia sẻ với phóng viên Báo Quân đội nhân dân, ông Hùng đã tâm sự nhiều câu chuyện trong hành trình “trở về” nguồn cội...
Vượt qua quá khứ nặng nề
- Xin ông cho biết ông đã trở về Việt Nam bao nhiêu lần?
- Lần đầu tiên tôi về nước là vào tháng 9-2011 để dự Hội nghị Người Việt Nam ở nước ngoài lần thứ nhất. Từ đó đến nay, tổng cộng tôi đã trở về 6 lần trong 18 tháng. Lần nào về tôi cũng chụp rất nhiều ảnh, quay những thước phim phóng sự, tư liệu… rồi đưa lên trang web kbchn.net.
- Vậy trước đây cũng như hiện nay, trang web của ông tập trung vào những nội dung gì?
- Từng là một cựu quân nhân dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa nên tôi muốn lập ra một trang web để lưu giữ và ghi lại lịch sử của những người lính dưới chế độ này. Nhưng giờ đây, hai phần ba tin tức của trang web là các tin trong nước, có thể do tôi tự viết hoặc chọn lọc đăng lại của báo chí trong nước.
- Ông có thể cho biết do đâu ông quyết định thay đổi như vậy?
- Ngay lần trở về đầu tiên đã khiến tôi thay đổi suy nghĩ. Tại sao mình mãi ám ảnh, than vãn về quá khứ để cuối cùng cũng chẳng giải quyết được gì, trong khi đất nước Việt Nam đã và đang có rất nhiều sự thay đổi? Thực sự tôi đã bị bất ngờ trước những hình ảnh thực của đất nước sau 36 năm lưu lạc, không như những gì tôi hình dung và tưởng tượng.
Nhà báo Nguyễn Phương Hùng. Ảnh: Xuân Phong.

Thực tế, suy nghĩ của tôi đã bắt đầu có chuyển biến từ năm 1995, sau khi Tổng thống Mỹ Bin Clin-tơn dỡ bỏ cấm vận chống Việt Nam. Khi đó, tôi đã viết một lá thư cho ông Bin Clin-tơn, trong đó đặt câu hỏi người Mỹ quan niệm thế nào là nhân quyền? Mỹ đã công nhận Việt Nam là nơi có nhân quyền hay sao mà đã giải tỏa cấm vận? Tôi đã nhận được câu trả lời rằng chủ trương của nước Mỹ là họ muốn đặt vấn đề liên kết tất cả các nước trên thế giới. Từ đó, tôi nghĩ rằng như vậy là người Mỹ đã công nhận Việt Nam là một quốc gia trong cộng đồng thế giới. Tôi cũng nghĩ, dỡ bỏ cấm vận sẽ đem lại lợi ích cho chính người Mỹ và nhân dân Việt Nam. Vậy hà cớ gì mình là người Việt Nam lại quá nặng nề với quá khứ và có những hành động đi ngược lại lợi ích dân tộc?
Bên Mỹ, sự thực là vẫn còn một bộ phận nhỏ cộng đồng người Việt mang tâm lý nặng nề về quá khứ, thậm chí có suy nghĩ và hành động cực đoan và dường như với họ rất khó thay đổi. Nhưng tôi vẫn nghĩ, mình đã thay đổi được thì không lý gì họ lại không thể.
- Như vậy, phải chăng qua trang web của mình, ông mong giúp họ thay đổi cách nhìn?
- Tất nhiên là tôi rất mong được như vậy nhưng chưa dám nói hiệu quả tới đâu. Tôi không bình luận theo các chủ ý cá nhân của mình trong các tin, bài hay hình ảnh, clip đưa trên web. Tôi chỉ đưa một cách khách quan, trung thực những hình ảnh đổi mới ở Việt Nam, những hình ảnh đất nước đang trong quá trình xây dựng và phát triển, cùng những thành công của giới trẻ…
Chúng tôi thống kê, kbchn.net có lượng độc giả tại Mỹ nhiều gấp 5 lần trong nước. Điều đó chứng tỏ cộng đồng Việt kiều bên Mỹ cũng rất quan tâm tìm hiểu đất nước.
Lời nhắn: “Ai chưa về Việt Nam hãy về một lần cho biết”
- Vậy theo ông, tại sao ở Mỹ vẫn có một bộ phận cộng đồng mang tâm lý chống lại đất nước và có các hành động phá hoại trong nước?
- Từng là người trong cuộc, tôi hiểu rất rõ nội tình chuyện này. Trong bộ phận nhỏ cộng đồng chống đối hiện nay phần lớn là những người đã cao tuổi, không thạo về máy tính hay Internet nên việc cập nhật thông tin về tình hình đất nước hạn chế. Họ đã bị hướng dẫn sai lạc để hiểu lầm về tình hình đất nước. Cộng thêm những tư tưởng cực đoan, lỗi thời nên càng dễ để bị lừa gạt bởi các trò xuyên tạc sự thật mang mục đích chính trị.
Lý do quan trọng nữa là những người này chưa một lần trở lại đất nước nên càng bị “mù lòa” trước sự thật. Như trường hợp của tôi, nếu không có lần về Việt Nam tháng 9-2011, có lẽ tôi sẽ không bao giờ mở mắt thấy được thực tế tình hình đất nước. Khi trở lại Mỹ, nhiều người đã không tin những gì tôi nói, những gì tôi đưa lên trang web. Họ còn cho tôi là ngụy biện để che đậy hoặc biện minh cho hành động mà họ gọi là “phản bội” cộng đồng. Tôi cũng không hiểu tại sao họ lại coi việc tôi quay trở về với cội nguồn dân tộc, với đại đa số đồng bào là sự “phản bội”.
Nhưng rồi dần dần qua những chuyến đi sau này, với sản phẩm là những bức ảnh, thước phim video và bài viết của tôi, đã có nhiều người bắt đầu tin và cũng báo tin cho tôi là họ đã về Việt Nam như lời kêu gọi của tôi: “Ai chưa về Việt Nam hãy về một lần cho biết” trên kênh truyền hình VTV4. Qua Báo Quân đội nhân dân, tôi cũng xin gửi lại lời nhắn nhủ này tới kiều bào ở hải ngoại. Bà con hãy trở về và tự mình tìm câu trả lời, chứ đừng tin vào những lời kể lại đã bị bóp méo nhằm mục đích tuyên truyền sai trái, phản động về đất nước. Cũng có nhiều phản hồi từ độc giả khuyến khích, động viên tôi tiếp tục những gì đang làm trên kbchn.net.
- Có cơ hội đi nhiều nơi ở Việt Nam, ông có suy nghĩ gì khi một số tổ chức phản động lưu vong ở Mỹ luôn đòi hỏi dân chủ, nhân quyền và tự do tôn giáo ở Việt Nam?
- Ở bên kia chúng tôi cũng bị họ tuyên truyền là ở Việt Nam không có tự do tôn giáo, dân chủ và nhân quyền nhằm lôi kéo nhiều người tham gia các hoạt động chống phá trong nước. Tôi thừa nhận mình đã bị ít nhiều tác động. Nhưng đó là chuyện trước đây. Những tuyên truyền về “đàn áp tôn giáo” ở Việt Nam đã hoàn toàn biến mất trong tôi khi về nước, tôi được chứng kiến kiến trúc đồ sộ của Đại Chủng viện (Công giáo) Long Khánh hay chùa Bái Đính ở Ninh Bình được công nhận là lớn nhất ở khu vực Đông Nam Á. Làm sao có thể tin có đàn áp tôn giáo khi ở nhiều nơi tôi đi qua, rất nhiều chùa chiền, nhà thờ được xây dựng dọc bên đường Quốc lộ 1 từ ngã tư Tam Hiệp đến Long Khánh, với những buổi thánh lễ ngày chủ nhật giáo dân đứng chật thánh đường, người dân tấp nập thăm viếng chùa chiền... Các tôn giáo như Phật giáo, Công giáo, Tin lành, Hòa Hảo, Cao Đài và Hồi giáo tự do phát triển ở Việt Nam. Lễ Phật đản vừa qua tôi cũng có mặt tại Việt Nam nên đã được chứng kiến khắp nơi tưng bừng mừng Đức Thích Ca đản sinh. Ngoài tôn giáo, tín ngưỡng cũng được tự do phát triển, thí dụ hầu đồng đã được phép tái hoạt động.
Tôi đã đi, đã thấy, đã tin và vì đã tin nên tôi phải viết, viết sự thật bằng tiếng nói trung thực của người làm báo. Những hình ảnh đó tôi đã đưa hết lên trang web rồi nhưng tôi cũng không bình luận gì thêm để tự mọi người nhìn vào đó và suy ngẫm xem Việt Nam có tự do tôn giáo hay không.
Tôi khâm phục!
- Ở Mỹ vẫn tồn tại một số tổ chức phản động luôn rêu rao Việt Nam đàn áp nhân quyền. Vậy thực chất hoạt động của các tổ chức này ở bên đó là như thế nào?
- Tôi công khai lên án tất cả những tổ chức chống đối Nhà nước Việt Nam như Chính phủ Việt Nam tự do của ông Nguyễn Hữu Chánh, Việt Nam cộng hòa Foundation của Hồ Văn Sinh, tổ chức Việt Tân… Hay các tổ chức đòi tự do tôn giáo, dân chủ nhân quyền ở Việt Nam của linh mục Nguyễn Hữu Lễ, Ngô Thị Hiển… Và nhất là tổ chức Mạng lưới nhân quyền Việt Nam.
Thực ra, những tổ chức này không gây được ảnh hưởng đáng kể cho cộng đồng bên đó. Như tổ chức Mạng lưới nhân quyền Việt Nam đã tự trao giải nhân quyền cho toàn những người chống phá Nhà nước Việt Nam để được xuất ngoại, do Việt Tân bảo trợ.
Các tổ chức này luôn tìm cách đề nghị Mỹ đưa Việt Nam trở lại danh sách “Các quốc gia cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo” (CPC). Nhưng tôi còn nhớ, có lần chính ông Đại sứ Mỹ trước đây là Mai-cơn Mi-ha-lắc (Michael Michalak) đã nói rằng: “Muốn đặt một quốc gia vào danh sách CPC đòi hỏi nhiều điều kiện. Tôi không thấy chúng ta có lợi ích gì trong việc đưa Việt Nam trở lại danh sách này”.
Tựu trung các hành động phản động đó đều nhằm nuôi tham vọng gây mất ổn định tình hình trong nước, làm suy yếu và lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản…
Hiện nay họ đang tích cực xúi giục người thiếu thiện chí trong nước đòi bỏ Điều 4 trong bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, thậm chí đòi bỏ cả bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp.
Theo tôi biết, họ sống dựa vào tiền của những thế lực thù địch với Việt Nam, nên cần nói và hành động theo lập trường của các thế lực thù địch đó. Vì vậy họ buộc phải khoét sâu vào các vấn đề như dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo… ở Việt Nam để có việc làm nhằm nhận được tiền.
- Ông suy nghĩ thế nào về những hành động này?
- Họ không chịu hiểu một thực tế rằng, chính Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo đất nước vượt qua thời kỳ khó khăn sau chiến tranh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước Việt Nam có thể nói đã có được thời gian hòa bình lâu dài và có sự phát triển gần như “lột xác”. Đó chính là nhờ Việt Nam đã giữ được chính trị ổn định, tạo điều kiện cho kinh tế phát triển, đời sống người dân được bảo đảm, vị thế của Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế, được nhiều nước công nhận. Ở Việt Nam, tôi không gặp lực lượng quân đội hay cảnh sát có vũ trang trên đường như ở Mỹ. Điều đó chứng tỏ sự ổn định về an ninh chính trị ở Việt Nam, sự an toàn của người dân được bảo đảm. Như thế chính là thiết thực bảo đảm nhân quyền cho người dân.
Tôi thực sự khâm phục về khả năng điều hành đất nước của Nhà nước Việt Nam trong hơn 3 thập niên qua. Tôi đã nhìn thấy những tòa nhà cao tầng từ những thành phố tôi đi qua như Hà Nội, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Huế, TP Hồ Chí Minh, Long Khánh và Cần Thơ cũng như các thành phố khác của miền Tây Nam Bộ, cùng những khu resort sang trọng ở Đà Nẵng… Tôi chưa có cơ hội đi hết những nơi khác ở Việt Nam, nhưng tôi tin rằng cũng đã có nhiều đổi mới.
- Xin cảm ơn ông!

MỸ HẠNH-XUÂN PHONG

Cơ sở của Điều 4 trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992

QĐND - Hiến pháp là văn kiện chính trị pháp lý cao nhất của một nhà nước. Khác với các nước tư bản chủ nghĩa, Hiến pháp của nước ta thể hiện được mối quan hệ giữa ba đại diện là nhân dân, Đảng Cộng sản cầm quyền và Nhà nước pháp quyền. Hiến pháp năm 1980 quy định Nhà nước ta là “Nhà nước chuyên chính vô sản…”; Hiến pháp năm 1992 đã có những bước phát triển quan trọng, có những quy định mới về chế độ chính trị, kinh tế, như: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa…; Đảng Cộng sản là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. 
Kể từ khi Hiến pháp năm 1992 được ban hành cho đến nay đã hơn hai thập kỷ. Hai thập kỷ qua cũng chỉ ra rằng, từ khi Đảng ta ra đời cũng như trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chưa bao giờ các thế lực thù địch từ bỏ âm mưu “diễn biến hòa bình”, nhằm gạt bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiến tới lật đổ chính quyền cách mạng, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 
Với mưu đồ xuyên tạc Điều 4 của bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, một số phần tử chống đối lập luận rằng, Hiến pháp các năm 1946 và 1959 không có điều nào quy định Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, nhưng Đảng “vẫn lãnh đạo nhân dân đánh thắng thực dân đế quốc xâm lược và hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thì cũng không nhất thiết phải xác nhận lại vai trò lãnh đạo của Đảng như trong Hiến pháp hiện tại”(!). Lập luận này là lập lờ, thiếu toàn diện, không có quan điểm lịch sử cụ thể. Sở dĩ Hiến pháp năm 1946 không có quy định vai trò lãnh đạo của Đảng, vì trước đó ngày 11-11-1945, thời điểm lịch sử do tình thế đặc biệt của cách mạng, Đảng ta đã ra tuyên bố tự giải tán, nhưng sự thật là rút vào hoạt động bí mật, giữ vững vai trò lãnh đạo. 
Trong những năm thập niên 50 của thế kỷ XX, đế quốc Mỹ nhảy vào can thiệp miền Nam, đất nước ta bị chia cắt, Đảng bộ miền Nam cũng chưa ra hoạt động công khai vì bộ luật 10-59 của ngụy quyền Sài Gòn nhằm “tiêu diệt Cộng sản” cực kỳ hà khắc, man rợ. Vì vậy, Hiến pháp năm 1959 cũng chưa thể đề cập nhiều đến vai trò lãnh đạo của Đảng. Sau khi giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, dân tộc ta có chung một bản Hiến pháp mới, trong đó khẳng định Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Điều này là tất yếu khách quan, phù hợp với yêu cầu lịch sử, nhiệm vụ cách mạng mới, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân và thực hiện đúng cơ chế vận hành “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Kế thừa tinh thần Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992, Điều 4 của bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 xác định: "1. Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội"; "2. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”; "3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Việc quy định Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội không chỉ là tư tưởng xuyên suốt, nhất quán để khẳng định vị trí, vai trò độc tôn lãnh đạo của Đảng, mà còn là một nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam, phù hợp với thể chế chính trị-xã hội mà Việt Nam đã lựa chọn. 
Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội không chỉ bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức và kiểm tra; mà phần cốt yếu là thông qua đội ngũ tiên phong của mình là những cán bộ, đảng viên tiêu biểu về bản lĩnh, trí tuệ, phẩm chất và năng lực. Vì vậy, Điều 4 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 khẳng định: “Các tổ chức của Đảng và đảng viên hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” nhằm bảo đảm cho Đảng giữ vững bản chất, mục tiêu, lý tưởng của mình, đồng thời là giải pháp quan trọng hàng đầu để phòng, chống, ngăn ngừa mọi nguy cơ thoái hóa, biến chất có thể xảy ra trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền ở nước ta. Mặt khác, việc xác định trách nhiệm của các đảng viên trong việc tự giác, gương mẫu thực hiện, chấp hành Hiến pháp và pháp luật cũng không ngoài mục đích làm cho “đội ngũ tiên phong của Đảng” phải thường xuyên nêu cao ý thức, thái độ, trách nhiệm cả về tư tưởng, hành động trong cuộc sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, làm gương cho nhân dân noi theo.
Có ý kiến băn khoăn: Liệu có phải “luật hóa” vai trò cầm quyền của Đảng không? Phải khẳng định rằng, dù không có một đạo luật cụ thể về Đảng, nhưng Đảng ta đã tự nguyện, tự giác đưa mọi hoạt động của mình vào khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Hơn nữa, không chỉ chấp hành Hiến pháp, pháp luật, Đảng hoạt động còn dựa trên cơ sở Cương lĩnh, Điều lệ, Nghị quyết, Quy chế làm việc của Đảng và các chỉ thị, nghị quyết liên quan đến việc điều chỉnh các vấn đề trong nội bộ Đảng cũng như điều chỉnh các mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước, xã hội và nhân dân. Thực tế trong những năm qua, Đảng ta đã ban hành nhiều chỉ thị thể hiện trách nhiệm của Đảng trước đất nước và nhân dân như: Quy định 115-QĐ/TW ngày 7-12-2007 của Bộ Chính trị (khóa X) về những điều đảng viên không được làm và gần đây được thay thế bằng một văn bản có tính pháp lý cao hơn là Quy định 47-QĐ/TW ngày 1-11-2011 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) về những điều đảng viên không được làm; Quy định số 101-QĐ/TW ngày 7-6-2012 của Ban Bí thư (khóa XI) về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, … Chứng tỏ rằng, Đảng ta luôn tự nghiêm khắc với chính mình thông qua việc ban hành các chỉ thị, quy định nhằm giáo dục, rèn luyện, đưa mọi hoạt động của các tổ chức Đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên vào khuôn khổ ý thức tổ chức, kỷ luật, qua đó bảo đảm cho Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải thực hiện theo Hiến pháp và pháp luật.
Muốn hiểu được bản chất của một đảng cầm quyền, phải nhận thức rõ mục đích hoạt động của đảng đó mang lại lợi ích cho ai. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác”. Vì vậy, Điều 4 của bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã bổ sung: “Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình”. Để sửa chữa những khuyết điểm của mình, nhiều lần Đảng đã tiến hành tự chỉnh đốn, mà gần đây nhất là đợt kiểm điểm tự phê bình và phê bình của các cấp ủy, tổ chức Đảng trong toàn Đảng theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” bước đầu mang lại nhiều hiệu quả tích cực, được nhân dân đồng tình, ủng hộ. 
Tại Hội nghị Trung ương 6 (khóa XI) vừa qua, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương công khai thừa nhận và thành thật nhận lỗi trước toàn Đảng, toàn dân về những yếu kém, tồn tại trong công tác xây dựng Đảng và về những suy thoái, tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Điều đó đã thể hiện tinh thần cầu thị nghiêm túc của Đảng, đồng thời khẳng định ý chí quyết tâm đẩy lùi những khuyết điểm, yếu kém để Đảng không ngừng nâng cao sức chiến đấu, phẩm chất, trí tuệ, năng lực lãnh đạo, ngày càng ngang tầm với trọng trách được giao.
Đối với nhân dân Việt Nam, nói đến Đảng là nói đến tình cảm thiêng liêng, là thể hiện niềm tin và tình yêu son sắt của nhân dân dành cho Đảng. Có một sự thật mà hầu như mọi người Việt Nam ai cũng biết, đó là: Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng chính trị duy nhất đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời; 30 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược giành thắng lợi vẻ vang, hoàn thành sự nghiệp thống nhất Tổ quốc, cùng với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của hơn 26 năm thực hiện đường lối đổi mới vừa là minh chứng thực tiễn sinh động, vừa là cơ sở khoa học thực tiễn để khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với dân tộc và nhân dân Việt Nam.
Như vậy, khác với những quan điểm tư sản, sự khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được quy định trong bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 chính là thể chế hóa vai trò lãnh đạo của Đảng, khẳng định Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là sự thể hiện ý chí, lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân. Ý chí, lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích cơ bản của nhân dân lao động và cả dân tộc, đó là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Việc hiến định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thành quy định trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 chính là thể hiện ý chí của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và toàn thể dân tộc Việt Nam. Đây là điểm khác nhau căn bản giữa Hiến pháp nước Việt Nam với hiến pháp của các nước tư bản chủ nghĩa. Các thế lực thiếu thiện chí đã cố tình lờ đi bản chất, chỉ lấy hiện tượng và vin vào đó để công kích, xuyên tạc, bôi nhọ, hòng xóa bỏ Điều 4 trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Và như vậy, vấn đề vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được ghi trong Hiến pháp, không chỉ đơn giản là “văn bản hóa” mà còn thể hiện thái độ công khai tuyên bố tính đảng, tính giai cấp trong Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Thượng tướng, Viện sĩ, TS KHQS Nguyễn Huy Hiệu, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng

Nhận diện âm mưu, thủ đoạn chống phá về tư tưởng, lý luận của các thế lực thù địch

(ĐCSVN) - Thời gian qua, các thế lực thù địch đã ra sức tấn công về tư tưởng, lý luận, nhằm mục đích "đa nguyên, đa đảng", xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với nhà nước và xã hội. Vì vậy, việc nhận rõ âm mưu, thủ đoạn đó và xác định các biện pháp phòng chống và đấu tranh của chúng ta là hết sức cần thiết.
Năm 2012 và những tháng đầu năm 2013, nước ta tổ chức nhiều sự kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại sâu rộng, đặc biệt là triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, các nghị quyết Trung ương, nhất là Nghị quyết Trung ương 4; Quốc hội tổ chức nhiều kỳ họp quan trọng, tập trung vào chuẩn bị và lấy ý kiến toàn dân về sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 và Luật Đất đai (sửa đổi); các hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta diễn ra sâu rộng trên mọi bình diện quốc tế và khu vực... Cay cú trước những thành công đó, các thế lực thù địch đã tìm mọi cách chống phá chúng ta, nhất là trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận.
1. Về âm mưu, thủ đoạn chống phá 
Nhằm mục tiêu “chuyển hóa” niềm tin của nhân dân, chúng thường xuyên theo dõi, bám nắm mọi diễn biến đời sống chính trị, kinh tế và xã hội của nước ta. Chúng “dày công” nghiên cứu, tổng hợp có hệ thống mọi vấn đề; tận dụng triệt để những nhận định hạn chế, yếu kém, sơ hở trên các mặt, nhất là về chính trị, kinh tế, an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại qua các báo cáo chính thức của các cấp lãnh đạo Đảng, Nhà nước, bộ, ngành, địa phương… xem đó là điểm tựa, “chứng minh” cho những quan điểm, chính kiến, nhận địch sai lầm của chúng. 
Chúng luôn tập hợp những ý kiến, phát biểu của những người có “uy tín”, “vị thế”, nhưng có quan điểm, chính kiến trung dung, thậm chí trái với đường lối, quan điểm của Đảng, chủ trương, luật pháp của Nhà nước; kết hợp với sự tích hợp, dẫn dắt những quan điểm, tư tưởng đối lập, sai lầm về chính trị từ những kẻ tạo dựng là “nhà khoa học”, “nhân sĩ, trí thức yêu nước”, giả danh “chủ bút” báo này, tạp chí nọ… để trực tiếp xen lồng, tuyên truyền các quan điểm, tư tưởng thù địch chế độ ta.
Nham hiểm hơn, chúng sử dụng chiêu thức tỏ ra “có” tính lý luận, “bác học”, “uyên thâm”; “khoe mẽ” ở nước ngoài, “thông thạo” ngôn ngữ nước sở tại để chế áp, ám thị theo lối “cả vú lấp miệng em”…, buộc người đọc chấp nhận, tin theo. Chúng ra sức “tỉ thí”, thách đố các nhà khoa học, chính giới lý luận của ta về những “luận cứ”, “luận điểm” bảo là tìm thấy từ các nguyên tác, “gốc” được C.Mác và Ph.Ăngghen viết hoặc xuất bản bằng tiếng Đức. 
Để tăng “hiệu quả” tiến công, chúng luôn đan cài những tư tưởng, quan điểm mácxít - giả danh mácxít, đúng - sai lẫn lộn, làm cho người đọc mất phương hướng, không phân biệt được ngay - gian, chính - tà. Ví như: Trích dẫn một cách cắt xén, nửa vời những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để đối lập, bác bỏ, phủ nhận hệ thống đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, luật pháp của Nhà nước ta, nhằm bác bỏ, phủ nhận luôn cả chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; hướng lái người đọc theo định hướng tư tưởng của chúng, mà thực chất chỉ là những tư tưởng hận thù dân tộc, dân tộc cực đoan hay dân chủ tư sản phản động.
Chúng luôn khoét sâu những điểm yếu kém, hạn chế trong thực thi công vụ của các cơ quan, cán bộ lãnh đạo, quản lý từ Trung ương đến cơ sở; tạo dựng ra cái gọi là phe này, phái nọ hay những “cuộc đấu đá”, tranh giành quyền lực… để gây lòng nghi kỵ, ngờ vực, phá hoại lòng tin vào Đảng, Chính phủ, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; qua đó, phát tán những tư tưởng chống Cộng, dân chủ tư sản phản động, kích động lòng người, cổ vũ cho những tư tưởng, hành động cực đoan, chống phá chính quyền Nhà nước.
Tiến công qua Internet là hình thức, phương tiện chủ yếu của chúng. Qua đây, chúng liên kết, chia sẻ, phát tán rộng khắp thông tin, kể cả qua tin nhắn, tin đồn, truyền miệng trong các cộng đồng, tầng lớp dân cư. Chúng tán dương, cổ vũ lẫn nhau trong một “thế trận” tuyên truyền chống phá có “kịch bản” cụ thể và dày đặc. Mới đây, chúng còn tuyên truyền cả các phương thức công nghệ để thu hút, tổ chức lực lượng tiến công và lẩn tránh, xóa dấu vết trước sự đấu tranh của các cơ quan nghiệp vụ của ta.
2. Về nội dung chống phá trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận
Theo sát các sự kiện trong nước, trong năm 2012 và những tháng đầu năm 2013, các thế lực thù địch tiến công chống phá đa dạng, rộng khắp trên nhiều vấn đề tư tưởng, lý luận, song tập trung chủ yếu vào các vấn đề sau:
Một là, chúng xuyên tạc, lật ngược, bác bỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn trong bài phát biểu của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Trong đó, với học thuyết Mác - Lênin, chúng xuyên tạc, phủ nhận tới những lý luận căn bản nhất, để từ đó bác bỏ hoàn toàn những tư duy lý luận mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, cùng những thành tựu trong những năm đổi mới vừa qua.
Hai là, chúng xuyên tạc những chân lý, nguyên lý khoa học của chủ nghĩa Mác, đối lập thực tiễn cách mạng Việt Nam với chủ nghĩa Mác; coi chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Trung Quốc và Việt Nam hiện nay chính là cái “thực thể” đã bị chủ nghĩa Mác phủ định từ nền móng.
Ba là, chúng xúc phạm lòng tôn kính của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu; kết hợp với xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh và những cố gắng, nỗ lực hết mình của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trong việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, ngăn chặn đẩy lùi những tiêu cực, tệ tham nhũng trong xã hội; xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng và văn minh.
Bốn là, chúng phủ nhận sự nhận thức lý luận và thực tiễn về sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của dân tộc ta. Chúng thiết lập và giả tạo những tư liệu, nhận định sai lầm, khó kiểm chứng về lịch sử; chúng reo rắc hoài nghi về việc lựa chọn con đường cách mạng vô sản, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; chúng buông những lời cay nghiệt đối với “sự lựa chọn của lịch sử” về con đường đi lên của dân tộc… hòng làm cho người đọc nhầm lẫn, thế hệ trẻ hoài nghi, đặt ra những câu hỏi ngờ vực, dao động niềm tin trong nhân dân.
Năm là, chúng xóa nhòa ranh giới mọi giai cấp, tầng lớp, phủ nhận cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc đang diễn ra đầy khó khăn, phức tạp hiện nay; xuyên tạc bản chất, nguồn gốc giai cấp của Đảng, phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân và vai trò lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng nước ta.
Sáu là, chúng tập trung xuyên tạc tinh thần, nội dung Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), đặc biệt là phá hoại niềm tin về việc thực hiện thành công Nghị quyết. Chúng tiến công trực diện, trực tuyến, trực tiếp và dày đặc vào việc triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4; coi việc làm này là “không có hy vọng” để lấy lại niềm tin trong nhân dân và cán bộ, đảng viên và đó là “Sự khốn cùng của (phương pháp) cách mạng”.
Bảy là, chúng cổ súy, hô hào lẫn nhau tập trung phản bác các luận cứ, phương pháp, quy trình, cách thức và thời gian tổ chức lấy ý kiến nhân dân về sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992; xuyên tạc tinh thần sửa đổi Hiến pháp; phủ nhận lý luận và các nguyên tắc xã hội chủ nghĩa về lập hiến, lập pháp; tuyên truyền các học thuyết, nguyên tắc tư sản về lập hiến. Cụ thể: Chúng phủ nhận thể chế chính trị nước ta, đòi hiến định thể chế đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; chúng phủ nhận chế độ xã hội chủ nghĩa; phủ nhận công lao của Đảng đối với đất nước và dân tộc, bác bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với chế độ xã hội, Nhà nước, đòi xóa bỏ Điều 4 trong Hiến pháp; phủ nhận việc hiến định “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý theo quy định của pháp luật”, đòi hiến định “đất đai thuộc sở hữu tư nhân”;  bác bỏ sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang, đòi phi chính trị hóa quân đội, quân đội phải trung lập, kêu gọi quốc gia hóa quân đội; đánh đồng công lao của những người, gia đình đã chiến đấu, hy sinh vì nền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội với những kẻ tử thương một thời theo chân ngoại xâm chống lại độc lập, thống nhất dân tộc…
Tám là, kết hợp xuyên tạc tình hình khiếu kiện đất đai, hướng lái, kích thích tư tưởng chống đối trong một bộ phận nông dân với nói xấu, vu cáo lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước; xuyên tạc bản chất, chia rẽ sự đoàn kết, thống nhất giữa Công an, Quân đội với Đảng, Nhà nước và nhân dân nhằm tuyên truyền, kích động tư tưởng bạo loạn, lật đổ bằng ngôn từ mới.
3. Một số biện pháp phòng, chống đấu tranh tư tưởng, lý luận của ta
Với những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại quan trọng của đất nước, trong năm 2013, đặc biệt là nhiệm vụ tiếp tục quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, các nghị quyết Trung ương, cũng như tổ chức thành công việc lấy ý kiến nhân dân vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp, Luật Đất đai (sửa đổi), các thế lực thù địch và cả những người có tư tưởng chính trị đối lập sẽ tiếp tục lợi dụng những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực, tiến công tư tưởng, lý luận một cách quyết liệt nhất. Để cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận có hiệu quả hơn, chúng ta cần thực hiện tốt một số biện pháp sau đây:
Thứ nhất, nâng cao nhận thức trách nhiệm về đấu tranh tư tưởng, lý luận. Các cấp ủy đảng, các ban, ngành, địa phương và đơn vị trong hệ thống chính trị, cùng toàn thể cán bộ, đảng viên, quần chúng cần thấy rõ: Cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận hiện nay là một nhiệm vụ chính trị vừa cấp bách, vừa thường xuyên và lâu dài của mỗi tổ chức, mỗi cá nhân. Đây là cuộc đấu tranh ý thức hệ giữa tư tưởng vô sản với tư tưởng tư sản, giữa chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản với chủ nghĩa chống Cộng, dân tộc cực đoan đang tận dụng thời cơ, nổi lên hết sức quyết liệt hiện nay ở nước ta. Đây là cuộc đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng lý luận, đường lối, quan điểm của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; bảo vệ những giá trị tư tưởng, lý luận đúng đắn, cũng đồng thời là bảo vệ những thành quả cách mạng mà nhân dân ta đã đổ bao xương máu, hy sinh mới có được. Đây thực sự đang là cuộc đấu tranh “một mất, một còn” giữa ta và địch. Mất trận địa tư tưởng, lý luận sẽ mất tất cả. Do vậy, cần xác định, đấu tranh tư tưởng, lý luận không chỉ là việc làm của riêng Đảng, Nhà nước và các cơ quan mà là cuộc đấu tranh của chính mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân; mỗi người trước hết phải là một trận địa vững vàng nhất và là một chiến sĩ đấu tranh có hiệu quả nhất.
Thứ hai, tiếp tục củng cố “thế trận”, tổ chức lực lượng đấu tranh kịp thời, sắc bén và hiệu quả. Dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, các cấp ủy đảng cần chủ động xây dựng kế hoạch, nội dung đấu tranh trọng tâm, sát với sự chỉ đạo của trên; dự báo kịp thời với sự phát triển của tình hình; phát huy triệt để các lực lượng tinh nhuệ, thiện chiến, các chuyên gia khoa học hàng đầu, đội ngũ cán bộ đầu ngành, các nhà khoa học, nhà báo và đông đảo các cộng tác viên nhiệt huyết và bản lĩnh cùng tham gia đấu tranh. Mỗi cơ quan chuyên ngành, mỗi nhà khoa học, lãnh đạo và quản lý, trước những tư tưởng phản động, thù địch có liên quan đến trực tiếp chuyên ngành, lĩnh vực của mình phụ trách cần chủ động định hướng nội dung và triển khai tổ chức, lực lượng đấu tranh kịp thời.
Thứ ba, chủ động định hình, thiết lập hệ thống khung lý luận, luận cứ, luận điểm đấu tranh tư tưởng, lý luận khoa học, sẵn sàng tuyên truyền và đáp trả những quan điểm, tư tưởng thù địch. Đây là việc làm cấp bách hiện nay, cần có sự chỉ đạo, lãnh đạo sáng suốt, tập trung, thống nhất từ Trung ương, Bộ, ngành liên quan đến các cơ quan nghiên cứu và các nhà khoa học. Các cơ quan khoa học, các học viện, nhà trường hàng đầu về khoa học xã hội và nhân văn trong cả nước phải là lực lượng tiên phong, nòng cốt trong việc nghiên cứu, tham mưu cho Đảng, Nhà nước để xác lập hệ thống các luận cứ đấu tranh tư tưởng, lý luận chính xác, thống nhất; đồng thời ra sức giáo dục, tuyên truyền trong các cơ quan, đơn vị, tạo dựng được một hệ thống cán bộ chuyên trách, sắc sảo về đấu tranh và hiệu quả trong tuyên truyền, giáo dục quần chúng.
Thứ tư, kết hợp đa dạng, mở rộng các hình thức đấu tranh với giáo dục, tuyên truyền, giải thích rộng khắp trong quần chúng nhân dân. Phải làm cho cuộc đấu tranh giữ vững “trái tim, khối óc” của nhân dân, không chỉ là việc làm, nhiệm vụ của hệ thống chính trị mà còn là hành động tự giác của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; nhân dân chính là người sáng tạo ra các hình thức đấu tranh mới. Phải huy động hết thảy những người dân thực sự có tinh thần yêu nước chân chính, có năng lực và dũng khí cùng tham gia đấu tranh, trở thành một phong trào toàn dân đấu tranh, áp đảo chống các tư tưởng, quan điểm sai trái, thù địch. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, cần có những diễn đàn mới về đấu tranh tư tưởng của nhân dân, trong đó, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ, đảng viên, các nhà khoa học làm nòng cốt. Mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi người dân cần trở thành người chiến sĩ đấu tranh tích cực ngay từ cơ sở; tăng cường tổ chức các hội thảo, hội nghị khoa học trong nước và quốc tế; tổ chức nhiều “vệt” đấu tranh tư tưởng, lý luận phục vụ kịp thời cho các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại quan trọng của đất nước.
Thứ năm, đẩy mạnh công tác quản lý nhà nước về báo chí và tuyên truyền. Có biện pháp quản lý chặt chẽ mạng Internet, ngăn ngừa các trang mạng độc hại kết hợp với tăng cường mở mới, đa dạng các trang mạng, báo chí có nội dung đấu tranh tư tưởng, lý luận của ta. Đây là một nội dung, biện pháp quản lý nhà nước đặc biệt quan trọng, nhằm ngăn chặn tận “gốc” nguồn tuyên truyền, phát tán những tư tưởng, quan điểm sai trái, thù địch; quản lý chặt chẽ, không để lộ, lọt, sơ hở về đăng tải thông tin theo quy định của Nhà nước. Các cơ quan, đơn vị, lực lượng nghiệp vụ về tin học cần tăng cường theo dõi, kịp thời xử lý, khống chế có hiệu quả các trang mạng có nội dung phản động; phối hợp cùng các cơ quan tuyên truyền từng bước làm chủ thế trận tiến công về tư tưởng, lý luận trên mạng Internet./.

Đại tá, TS Nguyễn Văn Quang

Thanh niên xung kích xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

QĐND – Ngày 26-3, tuổi trẻ cả nước tưng bừng hoạt động kỷ niệm 82 năm Ngày thành lập Đoàn Thanh niên cộng sản (TNCS) Hồ Chí Minh. Suốt 82 năm qua, với sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội và nhân dân cả nước, tuổi trẻ Việt Nam luôn nỗ lực phấn đấu, vượt qua nhiều khó khăn, thử thách mang lại nhiều vinh quang cho Tổ quốc, cho dân tộc trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; xứng đáng với lời dạy của Bác Hồ kính yêu “Đâu cần thanh niên có, việc gì khó có thanh niên”.
Thanh niên tham gia làm đường. Ảnh: Internet

82 năm qua, Đảng ta luôn dành sự quan tâm, chăm lo đặc biệt tới thế hệ trẻ nói chung, thanh niên Việt Nam nói riêng. Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, một trong những nhân tố quan trọng, quyết định tương lai, vận mệnh dân tộc; là lực lượng lao động chủ yếu trên các lĩnh vực, đảm nhiệm những công việc đòi hỏi hy sinh, gian khổ, sức khỏe và sự sáng tạo. Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X) khẳng định: “Thanh niên là rường cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng CNXH… Chăm lo phát triển thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước”. Đặc biệt, tại Đại hội XI, Đảng không những đánh giá cao vai trò, sự đóng góp to lớn của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, mà cũng thẳng thắn chỉ rõ những hạn chế, yếu kém của công tác đoàn và phong trào thanh niên. Điều đó cho thấy, Đảng ta luôn đánh giá cao vị trí, vai trò và sự đóng góp to lớn của thanh niên nói chung, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh nói riêng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế, năm 2013, Trung ương Đoàn xác định các cấp bộ đoàn tập trung nâng cao hiệu quả công tác giáo dục cho đoàn viên, thanh niên, thiếu niên. Trung ương Đoàn xác định 4 nhiệm vụ trọng tâm để các tổ chức đoàn và đoàn viên, thanh niên cả nước tập trung trí tuệ, huy động mọi nguồn lực, triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm mang lại hiệu quả thiết thực. Nội dung trọng tâm trong chương trình hành động năm 2013 của Trung ương Đoàn là triển khai thực hiện hiệu quả Đề án “Giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức lối sống cho thanh thiếu nhi trong giai đoạn hiện nay”; thí điểm nhân rộng các mô hình giáo dục mới, hiệu quả. Triển khai các phong trào "Xung kích, tình nguyện phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc" và "Đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp", đẩy mạnh cuộc vận động "Tuổi trẻ chung tay xây dựng nông thôn mới” và cuộc vận động "Tuổi trẻ với văn minh đô thị”...
Như vậy, năm 2013, các tổ chức đoàn trong cả nước đã xác định phải tập trung làm chuyển biến và tạo sức bật mới trong tiến hành công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức lối sống cho thanh thiếu nhi; phát huy vai trò xung kích của tuổi trẻ tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, trước những bước phát triển mới của xã hội, trước thực trạng một bộ phận người trẻ tuổi lười lao động, ngại học tập, phấn đấu, thích hưởng thụ, chạy theo lối sống thực dụng; xa rời mục tiêu lý tưởng phấn đấu, vi phạm đạo đức, thậm chí còn có những biểu hiện đi ngược lại lợi ích chung của dân tộc, thì những nội dung được Trung ương Đoàn xác định ở trên là những đòi hỏi mang tính cấp bách. Nhiều vấn đề đang đặt ra, nhưng vấn đề cốt lõi nhất, bản chất nhất là nâng cao nhận thức, xây dựng bản lĩnh, hình thành lối sống vì cộng đồng, vì xã hội, vì Tổ quốc Việt Nam XHCN giàu mạnh và phát triển cho thanh niên có ý nghĩa quyết định.
Hiểu đúng vai trò, thấy rõ thực trạng trong đời sống thanh niên hiện nay để từ đó mỗi cấp ủy Đảng, chính quyền, đặc biệt là tổ chức đoàn các cấp xây dựng cho mình những chủ trương, biện pháp quản lý, bồi dưỡng, giáo dục, giúp đỡ để thanh niên có cơ hội cống hiến được nhiều cho Tổ quốc, cho dân tộc... 
Thanh niên Quân đội là bộ phận ưu tú của thanh niên Việt Nam, là lực lượng quần chúng chủ yếu của Đảng trong quân đội, là lực lượng đông đảo có tiềm năng to lớn, chiếm tỷ lệ cao và có mặt trên mọi lĩnh vực của hoạt động quân sự. Điều đó càng đỏi hỏi tuổi trẻ quân đội phải phát huy hơn nữa bản chất tốt đẹp Bộ đội Cụ Hồ. Thanh niên Quân đội không chỉ phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ huấn luyện, SSCĐ; phát huy tính sáng tạo, làm chủ khoa học công nghệ, mà còn phải tích cực tham gia lao động sản xuất giúp nhân dân xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế-xã hội bằng những công trình, những việc làm thiết thực; thể hiện vai trò nòng cốt trong phòng, chống thiên tai, bão lũ…
Kỷ niệm 82 năm Ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và thực hiện tốt các mục tiêu trong năm 2013 đã được Trung ương Đoàn xác định thực sự là dịp để tuổi trẻ cả nước thể hiện rõ trách nhiệm và tài trí của mình phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

QĐND

Quân đội trung lập về chính trị: Đừng mơ hồ

QĐND - Trong lịch sử nhân loại, quân đội chưa bao giờ là một lực lượng xã hội tự lập, đương nhiên quân đội cũng không phải là một nhánh quyền lực. ở quốc gia nào cũng vậy, quân đội luôn luôn gắn với lực lượng chính trị cầm quyền. Trong thời bình và trong chiến tranh chống xâm lược, chức năng của quân đội, sứ mệnh của quân đội là bảo vệ Tổ quốc (bao hàm cả bảo vệ nhân dân và chế độ xã hội hiện hữu), sự toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất đất nước. Để có thể làm tròn được chức năng đó, quân đội phải đặt dưới sự lãnh đạo của lực lượng cầm quyền nhằm bảo vệ chế độ, bảo vệ nhà nước và do đó cũng chính là bảo vệ lực lượng cầm quyền. 
Đối với dân tộc ta, Đảng Cộng sản Việt Nam chẳng những là người khai sinh mà còn là người rèn luyện, giáo dục quân đội, là người đề ra đường lối quân sự cách mạng, thống lĩnh các lực lượng vũ trang. Trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta, Bộ Chính trị, Trung ương Đảng không chỉ là người lãnh đạo, chỉ đạo phối hợp các mặt trận đấu tranh, quân sự, chính trị, ngoại giao mà còn là người chỉ đạo chiến lược, trực tiếp chỉ đạo quân đội ta trong những cuộc tiến công, những chiến dịch lớn như: Điện Biên Phủ, Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968; "Điện Biên Phủ trên không", Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975...
Trong các xã hội hiện đại, không có quốc gia nào không do một đảng chính trị lãnh đạo cầm quyền. Và không có quân đội nào không gắn với đảng chính trị cầm quyền. ở một số quốc gia, quân đội còn tuyên thệ trung thành với người đứng đầu nhà nước (đương nhiên cũng là người đứng đầu đảng chính trị cầm quyền). Trong các cuộc khủng hoảng chính trị, xã hội, quân đội luôn luôn là đối tượng của các lực lượng chính trị tranh thủ, lôi kéo nhằm biến quân đội thành công cụ giành và giữ chính quyền. ở nhiều quốc gia, khởi đầu của các cuộc đảo lộn xã hội là những cuộc binh biến. Nếu đi sâu nghiên cứu thì ở các quốc gia đó, trong hoặc đằng sau quân đội, lực lượng làm đảo chính vẫn là những tổ chức chính trị, những đảng chính trị đang hoạt động... Tiếp đó là sự can thiệp của những lực lượng chính trị từ bên ngoài vì lý do "dân chủ", “nhân quyền” chẳng hạn, nhằm định hướng cuộc binh biến theo các giá trị mà người ta mong đợi. Đó là một mẫu kịch bản đảo lộn chính trị hoặc cách mạng trong các xã hội hiện đại.
Trong thời đại ngày nay, các quốc gia - dân tộc không chỉ đối diện với tình huống của những cuộc chiến tranh xâm lược bằng lực lượng vũ trang chớp nhoáng từ bên ngoài mà còn phải đối diện với những cuộc chiến tranh “không khói súng”, những cuộc chiến tranh tư tưởng chính trị và cả pháp lý. Đó là thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và chiến tranh kinh tế - giành giật “biên giới mềm” của các thế lực thù địch phản động, kể cả những đối tác chuyển hóa thành đối tượng đấu tranh. Đó là những cuộc chiến tranh không còn theo nghĩa đen mà nhằm thay đổi chế độ xã hội hoặc thay đổi ê -kíp lãnh đạo, cầm quyền vì lợi ích kinh tế, chiếm đoạt các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là dầu lửa… Chính vì vậy mà trong các cuộc khủng hoảng xã hội, bạo loạn lật đổ ở các quốc gia ngày nay luôn có sự can thiệp của những lực lượng bên ngoài. Những lực lượng can thiệp này thường câu kết với những nhóm chính trị “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, những tổ chức đối lập trong nước.
Ngày nay, chiến lược bảo vệ Tổ quốc không chỉ là xây dựng quân đội tinh nhuệ, bảo đảm vũ khí, trang bị hiện đại mà còn phải có Bộ tham mưu kiên định về chính trị, tuyệt đối trung thành với dân tộc, có khả năng đánh giá đúng tình hình, phân tích tình huống, không sa vào cạm bẫy, các thủ đoạn chính trị, quân sự xảo quyệt của đối phương. Điều này càng nói lên rằng để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân ngày nay, quân đội càng không thể nằm ngoài chính trị, không thể thoát ly sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng. 
Không phải ngẫu nhiên, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài nói chuyện nhân kỷ niệm 20 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam đã nói: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” [1]. 
Cũng trong bài nói chuyện này, Người còn phân tích, sở dĩ quân đội ta phải trung với Đảng, hiếu với dân là vì quân đội ta “là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục” (tr. 345). 
Đặt trong bối cảnh chính trị quốc tế và trong nước hiện nay, Điều 70 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 dựa trên nội dung chủ yếu câu nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài nói chuyện trên: “Lực lượng vũ trang nhân dân phải tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổ quốc và nhân dân, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, cùng toàn dân xây dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế” là phù hợp, hơn nữa là cần thiết.
Tất nhiên trong bối cảnh chính trị quốc tế, khu vực và trong nước hiện nay, nội hàm sự trung thành có nội dung xác thực hơn. Sự trung thành với Đảng lúc này không còn mang nội dung chung chung nữa mà là trung thành với Cương lĩnh, đường lối của Đảng, kiên định mục tiêu và con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, thực hiện đường lối đối ngoại “độc lập tự chủ… giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho sự phát triển” [2]. Trung thành với Đảng trong lúc này còn có nghĩa quân đội ủng hộ và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, chống lợi ích nhóm.
Lợi dụng việc lấy ý kiến nhân dân góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, trên nhiều trang mạng hải ngoại, người ta đang tác động hướng chế độ ta sang chế độ “dân chủ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”. Thậm chí có kẻ còn nói thẳng ra rằng: Góp ý kiến không phải nhằm hoàn thiện văn bản mà là “một cơ hội” để tạo ra phong trào đấu tranh nhằm chuyển hóa từ một xã hội “độc tài đảng trị” sang chế độ "dân chủ”, “nhân quyền”... Trắng trợn hơn, có kẻ còn viết bài đặt câu hỏi với cán bộ, chiến sĩ quân đội rằng: “Các anh còn ngủ đến bao giờ?”... Đây thực chất là một lời kêu gọi lực lượng vũ trang ta phản loạn. 
Những ai có đôi chút kinh nghiệm chính trị hãy xem những ai, những tổ chức chính trị nào ở hải ngoại, cùng với các phương tiện thông tin nào, chẳng hạn như BBC, VOA, RFI…- mà mọi người có thể tiếp cận được, xem người ta đang cổ vũ cho việc xóa bỏ Điều 4 trong Hiến pháp… để trả lời câu hỏi: Vì sao người ta muốn đưa Điều 4, nội dung cơ bản Điều 70 ra ngoài Hiến pháp năm 1992 sửa đổi.  
Cho dù xã hội ta còn nhiều vấn đề khiến cho cán bộ, đảng viên, nhân dân không hài lòng, thậm chí là bức xúc như tình trạng phân hóa giàu nghèo, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên như Hội nghị Trung ương 4 của Đảng đã chỉ ra, nhưng nếu lấy đó để phủ nhận những vấn đề có tính quy luật trong chính trị, cho rằng: “Lực lượng vũ trang phải trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không phải trung thành với bất kỳ tổ chức nào” hoặc “Quân đội là để bảo vệ nhân dân, bảo vệ Tổ quốc… không phải bảo vệ bất cứ một đảng phái nào” là hoàn toàn sai lầm về nhận thức… Về khách quan, điều đó, việc làm đó làm tổn hại đến lợi ích của đại đa số nhân dân, đến sứ mệnh bảo vệ Tổ quốc của quân đội ta. 
Không phủ nhận rằng, Tổ quốc, đồng bào là phần “cứng”, là cái tồn tại vĩnh hằng của một quốc gia, dân tộc. Nhưng thử hỏi trên thế giới ngày nay, có tổ quốc nào, có dân tộc nào không tồn tại trong những điều kiện lịch sử cụ thể? Nói Tổ quốc, nhân dân trừu tượng, chung chung, thoát ly khỏi hoàn cảnh lịch sử cụ thể là thiếu hụt những kiến thức sơ đẳng về xã hội. Trên thế giới ngày nay, không có tổ quốc nào, nhân dân nào không gắn liền với một chế độ xã hội, một nhà nước cụ thể với một lực lượng chính trị lãnh đạo, cầm quyền. Chính vì vậy, có thể khẳng định: Trên thế giới ngày nay không có quân đội nào không đặt dưới sự lãnh đạo của đảng cầm quyền. Không ít quốc gia ngày nay quân đội còn “tuyên thệ trung thành” với Tổng thống, Chủ tịch nước, cũng chính là với lãnh tụ của đảng cầm quyền. Quan điểm cho rằng quân đội chỉ “phải trung thành với Tổ quốc”, không gắn với sự lãnh đạo của một đảng chính trị nào là mơ hồ, thoát ly thực tế, là xa lạ với lịch sử thế giới hiện đại và của chính lịch sử cách mạng Việt Nam.
Thiết tưởng quan điểm trên, nếu không phải là một sự ngây thơ về chính trị thì cũng là một sự ngụy biện, là sai lầm về khoa học và nguy hại về chính trị. Chưa bao giờ quân đội trung lập về chính trị được thực tiễn xác nhận. Sự khác nhau chỉ là ở chỗ người ta có nói và viết ra điều đó công khai hay không mà thôi. Còn làm thế nào để có được một chế độ xã hội, một đảng cầm quyền, một nhà nước thực sự là của dân, do dân và vì dân lại là một chủ đề khác.
Lệ Chi - Vọng Đức
[1]- Hồ Chí Minh tuyển tập, NXB Sự thật, Hà Nội -1980, tập II, tr.345.

[2] -Văn kiện Đại hội XI, NXB Chính trị Quốc gia, 2011, tr.46

Điều không thể và sự phi lý, ảo tưởng

Lợi dụng đợt sinh hoạt dân chủ lấy ý kiến đóng góp của nhân dân vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, các thế lực thù địch đang tung ra nhiều luận điệu xuyên tạc, hòng hạ thấp uy tín Đảng ta. Mục tiêu của chúng là phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và toàn xã hội, đòi bỏ Điều 4 trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
 Điều không thể
Bằng nhiều thủ đoạn, qua các phương tiện thông tin, nhất là thông qua mạng in-tơ-nét, các thế lực thù địch trong và ngoài nước đã và đang tung ra các luận điệu xuyên tạc thâm độc, để tuyên truyền chống phá Đảng và Nhà nước ta. Họ cho rằng, việc Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 khẳng định Điều 4 (hiến định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đối với Nhà nước và toàn xã hội) là tiếp tục chế độ “đảng trị”, “đảng chủ” chứ không phải “lãnh đạo”, “dân chủ”; rằng, duy trì Điều 4, thực chất là “ĐCSVN muốn bám lấy quyền lực để bảo vệ đặc quyền, đặc lợi của các cá nhân và những nhóm tư bản đỏ”. Thậm chí họ còn rêu rao và viện dẫn rằng, Điều 4 đã phản bác các điều: 2, 3, 8, 15, 16, 21, 83… của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, cũng là “phá hỏng nền tảng chính bản thân Hiến pháp”, nếu duy trì Điều 4 sẽ dẫn tới một nhà nước độc tài, độc đảng, tuyệt đối không phải là nhà nước dân chủ như Dự thảo đã lừa dối tuyên bố… Những lý lẽ, lập luận nói trên tuy chỉ dựa vào lô-gic hình thức cùng sự ngụy biện thô thiển nhưng rất nguy hiểm, dễ đánh lừa và gieo rắc nghi ngờ trong một bộ phận nhân dân, nhất là trong đợt sinh hoạt chính trị dân chủ lấy ý kiến đóng góp của toàn dân vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Thực chất đó chỉ là những luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật của các thế lực thù địch nhằm thực hiện mưu đồ chia rẽ nội bộ Đảng, làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, làm cơ sở để xóa bỏ vai trò lãnh đạo của ĐCSVN đối với Nhà nước và toàn xã hội.
Trong lập luận đòi xóa bỏ Điều 4 trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, họ cho rằng: sự lãnh đạo của ĐCSVN là “không chính danh, độc tài, toàn trị”. Cần khẳng định ngay rằng, lập luận này là không có sức thuyết phục, thể hiện sự thiếu hiểu biết về lịch sử. Rêu rao điều này, họ đã cố tình quên rằng, hơn 80 năm trước, trong cảnh nước mất, nhà tan, ĐCSVN là lực lượng duy nhất đứng ra nhận trọng trách lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, đưa dân ta từ kiếp nô lệ trở thành người làm chủ đất nước. Tiếp đó, ĐCSVN là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhân dân ta đương đầu và đánh thắng hai tên đế quốc đầu sỏ là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên CNXH. Hiện nay, ĐCSVN vẫn là lực lượng duy nhất khởi xướng và lãnh đạo nhân dân tiến hành công cuộc đổi mới với mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng không làm quan phát tài, mà hàng triệu đảng viên của Đảng đã đi đầu chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì CNXH và hạnh phúc của nhân dân; trong đó, những lãnh tụ cao cấp nhất của Đảng, như: Trần Phú, Nguyễn Văn Cừ, Lê Hồng Phong… cũng đã anh dũng ngã xuống vì sự trường tồn của dân tộc. Đó là sự thật không thể phủ nhận; là sự chính danh được lịch sử lựa chọn, nhân dân tín nhiệm, thừa nhận, ủy quyền và từ bản chất, tôn chỉ, mục đích, lý tưởng tốt đẹp của Đảng đối với Tổ quốc và nhân dân. Chính vì thế, luận điệu về vai trò lãnh đạo “không chính danh” của ĐCSVN đối với Nhà nước và xã hội là sự xuyên tạc thiếu cơ sở lý luận và thực tiễn.
Đương nhiên, trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, Đảng cũng không tránh khỏi những sai lầm, khuyết điểm; thậm chí có lúc nghiêm trọng, nhất là thời kỳ trước đổi mới. Cũng không thể phủ nhận trong xã hội ta hiện nay còn tồn tại những vấn đề bức xúc về phân hóa giàu – nghèo; quan liêu, tham nhũng và sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên… Song, những lúc như thế, Đảng đã nghiêm túc tự kiểm điểm trước nhân dân; tự gột rửa khuyết điểm, chỉnh đốn lại mình. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đang được triển khai sâu, rộng và đạt kết quả bước đầu quan trọng là biểu hiện quyết tâm xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Phớt lờ những thành quả cách mạng to lớn, trọng đại mà nhân dân ta đã giành được trong hơn 80 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các thế lực thù địch còn lớn tiếng cho rằng: “Hiến pháp Việt Nam là không chính danh, chỉ là Điều lệ ĐCSVN do một số đảng viên nắm quyền soạn thảo, sửa đổi, áp đặt lên 3 triệu đảng viên khác và toàn dân Việt Nam”. Từ đó, họ đòi phải có một bản Hiến pháp mới; trong đó quyền làm chủ đất nước, quyền quyết định tương lai chính trị quốc gia phải do nhân dân tự quyết định chứ không phải là ĐCSVN. Dễ nhận thấy, đây là luận điệu dựa trên tư duy chính trị dân chủ đa nguyên vẫn thường xuất hiện đâu đó trên các “diễn đàn dân chủ” và mạng in-tơ-nét. Ở đây, họ đã không thấy hoặc cố tình không thấy rằng, trong bất kỳ nền dân chủ hiện đại nào, kể cả ở các nước phương Tây, mặc dù có nhà nước pháp quyền (tất cả quyền lực thuộc về nhân dân), có nghị viện – cơ quan đại biểu cao nhất quyền lực của nhân dân bao giờ cũng có đảng chính trị lãnh đạo, cầm quyền. Phải chăng, theo họ, những đảng chính trị lãnh đạo, cầm quyền ở các nước đó là phù hợp, còn ĐCSVN là không phù hợp, phải loại bỏ? Phải chăng, thay thế sự lãnh đạo của ĐCSVN bằng một số đảng khác thì quyền làm chủ của nhân dân được cao hơn… Cần thấy rằng, thể chế đa nguyên hay nhất nguyên chính trị không phải là nhân tố quyết định đến quyền làm chủ của nhân dân, đến bản chất của nhà nước pháp quyền và càng không thể áp dụng cho tất cả mọi nước; việc lựa chọn hình thức thể chế chính trị nào phải phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể và ý nguyện của nhân dân nước đó, là quyền tự quyết của mỗi dân tộc. Đối với Việt Nam, vai trò lãnh đạo, cầm quyền của ĐCSVN trong hơn 80 năm qua đã được nhân dân và toàn xã hội thừa nhận, lựa chọn và ủy thác; được Quốc hội quyết định ghi vào Hiến pháp năm 1980, 1992 và tiếp tục khẳng định trong Dự thảo Hiến pháp mới là hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế. Về bản chất, không có sự mâu thuẫn giữa Đảng lãnh đạo với quyền làm chủ của nhân dân. Đường lối cách mạng, Cương lĩnh chính trị của Đảng cũng như mọi chủ trương, chính sách của Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN đều nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Về nguyên tắc, Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; nhân dân là chủ thể quyền lực. Đảng lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội bằng Cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động… Đảng lãnh đạo xây dựng Hiến pháp và pháp luật nhưng phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Hơn nữa, ở nước ta, quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện thông qua việc bầu ra Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất để quản lý xã hội bằng pháp luật. Quốc hội ban hành Hiến pháp là luật gốc sau khi đã lấy ý kiến đóng góp của toàn dân theo đúng trình tự lập hiến của Nhà nước pháp quyền XHCN; trong đó, vai trò lãnh đạo của ĐCSVN được hiến định tại Điều 4 để Nhà nước quản lý các hoạt động của Đảng. Điều 4 trong Dự thảo lần này không chỉ thừa nhận ĐCSVN là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội mà còn quy định những điều kiện cụ thể mà Đảng phải có để giữ được vai trò lãnh đạo. Vì vậy, lập luận rằng sự lãnh đạo của ĐCSVN là “đảng trị”, “đảng chủ”, “đi ngược nguyên tắc nhà nước dân chủ, pháp quyền” hay “đứng trên Hiến pháp và pháp luật” không đơn thuần là phản biện xã hội mà là mưu đồ chính trị hòng loại bỏ Điều 4. Điều đó là không thể.
Sự phi lý, ảo tưởng
Trong lịch sử lập hiến của nước nhà, đã có thời kỳ vai trò lãnh đạo của Đảng không được quy định trong Hiến pháp, nhưng trên thực tế ĐCSVN không lúc nào rời bỏ ngọn cờ lãnh đạo cách mạng. Điều đó không có nghĩa là sự lãnh đạo của Đảng không cần Hiến pháp cho phép, mà đó chỉ là sự thích nghi trong những hoàn cảnh cụ thể để Đảng có hình thức hoạt động phù hợp. Thực tiễn cho thấy, Hiến pháp năm 1946 không thể có quy định về sự lãnh đạo của Đảng; bởi lẽ, trong tình thế đặc biệt, ngày 11-11-1945, ĐCSVN đã tuyên bố tự giải tán để hoạt động với danh nghĩa Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác. Hiến pháp năm 1959 cũng không thể có quy định như Điều 4, vì đất nước còn bị chia cắt, Đảng bộ miền Nam còn phải hoạt động bí mật trong sự kìm kẹp của kẻ thù. Sau khi đất nước thống nhất, cả nước đi lên CNXH, việc hiến định vai trò lãnh đạo của Đảng trong các hiến pháp 1980, 1992 và nay được tái khẳng định tại Điều 4 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là cần thiết, tất yếu. Sự thừa nhận đó thể hiện tình cảm thiêng liêng, sự tin yêu, mối quan hệ máu thịt giữa nhân dân đối với Đảng; đồng thời, đó còn là cơ sở pháp lý để trừng trị những kẻ cố tình xuyên tạc, có hành vi làm tổn hại tới vai trò lãnh đạo của Đảng, chia rẽ nhân dân đối với Đảng.
Thử hỏi rằng, trong những năm đổi mới, hội nhập quốc tế vừa qua, ĐCSVN vẫn là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhân dân ta đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, được toàn xã hội và thế giới thừa nhận. Vậy mà, lại để các thế lực thù địch xuyên tạc, chống phá, thực hiện mưu đồ xóa bỏ Điều 4, loại bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng hòng chuyển hóa xã hội Việt Nam trở lại chế độ bóc lột, lệ thuộc vào ngoại bang thì thật là phi lý, không tưởng. Hơn 80 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, hàng triệu đảng viên của Đảng và quần chúng cách mạng đã đổ mồ hôi, xương máu, hy sinh cả tính mạng để giành được thành quả như ngày nay. Nếu để cho các thế lực thù địch loại bỏ Điều 4 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, thực hiện “không đánh mà thắng”, chuyển hóa chế độ chính trị, thì điều đó đồng nghĩa với sự phản bội lại hàng triệu đồng chí, đồng bào đã hy sinh, chiến đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng. ĐCSVN với đội ngũ đảng viên kiên trung, trí tuệ và đầy nhiệt huyết cách mạng, trong chiến tranh không hề khuất phục trước kẻ thù hung bạo, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên CNXH, mà khi có chính quyền, có cơ đồ như ngày nay lại chịu khuất phục trước “thế lực thù địch” mà phần lớn đang sống lưu vong hoặc vô hình, giấu mặt trong bóng tối thì thật là phi lý và ảo tưởng biết bao! Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã giành nhiều thắng lợi vẻ vang, nhưng để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” vẫn là quá trình dài. Chẳng lẽ chúng ta lại “dừng bước” khi chưa tới đích, càng là điều phi lý và ảo tưởng.
Với những điều phi lý và ảo tưởng ấy, việc loại bỏ Điều 4 của Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là điều không thể. Điều có thể là toàn dân ta tham gia thảo luận, góp ý vào Dự thảo phải theo đúng nguyên tắc và định hướng của Đảng và Quốc hội đã đề ra. Trong đó, việc tham gia vào Dự thảo phải bảo đảm vừa có đóng góp về trí tuệ, vừa nâng cao trình độ hiểu biết về pháp luật, nhất là nhận thức sâu sắc hơn vai trò lãnh đạo của ĐCSVN đối với Nhà nước và toàn xã hội. Đó cũng là thực tế đang diễn ra trong đợt sinh hoạt chính trị quan trọng mà toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang tham gia sôi nổi, đầy trách nhiệm.

HIẾU GIANG 

Góp ý hay chống phá?

QĐND - Một đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng lấy ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, đang được toàn Đảng, toàn dân ta hưởng ứng sôi nổi với ý thức trách nhiệm cao. Lấy ý kiến đóng góp vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 là công việc rất hệ trọng. Bởi vậy, tại buổi làm việc với lãnh đạo TP Hà Nội của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 ngày 27-2 vừa qua, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, Chủ tịch Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã chỉ rõ: Việc lấy ý kiến người dân phải “vừa sâu, vừa rộng...”. Đi kèm với đó, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng yêu cầu cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể cần nêu cao tinh thần cảnh giác, ý thức tự “đề kháng”, năng lực phản bác của nhân dân trong cuộc đấu tranh làm thất bại những âm mưu, thủ đoạn, luận điệu sai trái của các thế lực thù địch...
Sở dĩ phải đặt vấn đề như vậy là vì hiện nay đang có một số phần tử cơ hội chính trị, được các thế lực thù địch phản động tiếp sức đang lợi dụng công việc quan trọng này để chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Những quan điểm sai trái, những luận điệu phản động được họ soạn thảo thành những tài liệu xấu mạo danh, nặc danh, thậm chí họ còn soạn ra hẳn một dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 khác với Bản dự thảo Hiến pháp duy nhất do Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 của Quốc hội công bố tổ chức lấy ý kiến nhân dân… phát tán trên internet nhằm kích động, lôi kéo người dân; lợi dụng việc đóng góp vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp để xuyên tạc, công kích, chống phá Đảng, Nhà nước. Nội dung mà họ tập trung là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (đòi bỏ Điều 4 trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp); “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, họ cho rằng: “lực lượng vũ trang phải trung lập”; lực lượng vũ trang chỉ trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam hay với bất kỳ tổ chức nào…
Đó là những luận điểm hết sức sai trái và không thể chấp nhận. Thực tế đòi hỏi các cơ quan chức năng cùng với việc quan tâm tạo điều kiện thuận lợi nhất để người dân nghiên cứu; thể hiện rõ quan điểm, thái độ, ý kiến đồng tình hay không đồng tình của mình đối với từng điều khoản trong dự thảo, cần đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền cung cấp cho người dân đầy đủ thông tin, định hướng để người dân hiểu đúng mục đích, ý nghĩa của công việc hệ trọng này, giúp người dân nâng cao tinh thần cảnh giác, phát hiện, đấu tranh kịp thời với mọi tư tưởng, quan điểm sai trái, không vì mục đích xây dựng đại cục mà theo đuổi động cơ, mục đích cá nhân để chống phá Đảng và Nhà nước ta. Trong việc tổng hợp và ghi nhận các ý kiến đóng góp của các tập thể, cá nhân, các cơ quan chức năng cần có sự nhìn nhận, đánh giá, phân tích kỹ lưỡng, thận trọng, tuyệt đối không để kẻ xấu lợi dụng việc góp ý vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp để thực hiện các mục đích cá nhân, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân; chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đồng thời, các lực lượng chức năng cần có biện pháp xử lý kịp thời, nghiêm minh những hành động tán phát tài liệu xấu, mạo danh, nặc danh, lợi dụng việc lấy ý kiến nhân dân vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp để xuyên tạc, công kích, chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

KIM THANH

Không thể áp đặt

QĐND - Hiện nay, trong khi nhân dân ta đang đóng góp cho Dự thảo Hiến pháp năm 1992, coi đây là một dịp để củng cố và phát triển nền dân chủ XHCN ở Việt Nam thì trên một số trang mạng trong và ngoài nước, một số người lại coi đó là cơ hội để áp đặt vào xã hội ta những quan điểm tư sản về dân chủ, nhân quyền.
Theo họ thì nhất thiết phải "loại bỏ Điều 4 (Hiến pháp năm 1992) khẳng định vai trò lãnh đạo Nhà nước, xã hội của Đảng Cộng sản Việt  Nam", để "chuyển đổi một Nhà nước “độc đảng” sang Nhà nước “đa đảng” tại Việt Nam...".  
Những lập luận của họ xung quanh vấn đề này không có gì mới. Cái mới ở đây chính là người ta đã chọn thời điểm toàn dân đang đóng góp vào Dự thảo Hiến pháp năm 1992 để mở một "chiến dịch" rầm rộ trên các trang mạng điện tử vừa tuyên truyền xuyên tạc, vừa phủ nhận lịch sử Đảng Cộng sản và lịch sử cách mạng Việt Nam, rồi nói như "đinh đóng cột" rằng, "sự thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam là điều không thể tránh khỏi”. Những người tỉnh táo, có cách nhìn nhận vấn đề một cách khách quan, công bằng thì lập luận, chứng cứ của họ không có tính thuyết phục.
Về nội dung và quy trình xây dựng Hiến pháp, hiện nay trên thế giới đang tồn tại nhiều hình thức Nhà nước với nhiều chế độ chính trị (cộng hòa dân chủ nhân dân; xã hội chủ nghĩa; quân chủ nghị viện; cộng hòa đại nghị; cộng hòa lưỡng thể; tôn giáo...) vì thế mà nội dung và quy trình xây dựng hiến pháp cũng khác nhau. Nói cách khác không có nội dung và quy trình xây dựng Hiến pháp "mẫu" chuẩn cho các dân tộc.
Xây dựng Hiến pháp là công việc, là chủ quyền của mỗi quốc gia dân tộc. Học hỏi các quốc gia, dân tộc khác là đương nhiên, nhưng không thể sao chép một cách thuần túy hiến pháp của Nhà nước thuộc chế độ chính trị này sang Nnhà nước thuộc chế độ chính trị khác. Kể cả những Nhà nước có chung chế độ chính trị cũng không thể "rập khuôn" hiến pháp của nhau được, vì lịch sử, truyền thống văn hóa, trình độ dân trí, đời sống kinh tế-xã hội mỗi nước một khác.
Còn về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được quy định trong Điều 4 Hiến pháp năm 1992 (văn bản cũ và sửa đổi) hoàn toàn có căn cứ lịch sử, chính trị và pháp lý. Về mặt lịch sử, với 3 sự kiện trọng đại: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 giành độc lập dân tộc; kháng chiến chống thực dân cũ, thực dân mới thắng lợi và khởi xướng công cuộc đổi mới đều do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Chế độ đa đảng bắt nguồn từ những hoàn cảnh lịch sử nhất định. Nói đơn giản, chế độ đó là kết quả của sự chia sẻ quyền lực giữa các lực lượng chính trị tham gia cách mạng. Cũng có thể nói đó là một cách phân bổ quyền lực nhằm tránh khủng hoảng chính trị, tái diễn xung đột bạo lực. Như vậy là chế độ đa đảng chỉ là sự phản ánh tương quan lực lượng chính trị, chứ không phải là "sự lựa chọn khôn ngoan của lực lượng chính trị chiến thắng" như họ đang rêu rao.
Hơn một nửa thế kỷ qua, cho dù cũng còn những vấp váp, bất cập, thậm chí sai lầm, khuyết điểm, nhưng con đường cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam xác lập là hoàn toàn đúng đắn. Đảng Cộng sản Việt Nam không có quyền lợi gì ngoài quyền lợi của dân tộc, của nhân dân. Tình trạng suy thoái ở một bộ phận cán bộ, đảng viên như Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) nêu ra không phải là điều Đảng Cộng sản Việt Nam mong muốn. Điều này đã được Đảng nghiêm khắc chỉ ra và đang nỗ lực sửa chữa.
Về mặt pháp lý, Điều 4 Hiến pháp năm 1992 dựa trên nguyên tắc pháp quyền và nền dân chủ XHCN do nhân dân ta xây dựng. Điều 4, quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Điều 4, chỉ là sự phản ánh thực tiễn lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam trên một nửa thế kỷ qua. Điều 4 trước hết là trọng trách của Đảng trong việc bảo vệ thành quả cách mạng của nhân dân ta; là tiền đề, điều kiện để Đảng làm tròn sứ mệnh lịch sử xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Không nên nhầm lẫn trách nhiệm của đảng viên phải thực hiện các nghị quyết của đảng với các cơ quan Nhà nước thực hiện các quyết định của cơ quan, tổ chức, chính quyền cấp trên, do các đảng viên của đảng lãnh đạo. Đảng Cộng sản Việt Nam không đưa ra các quyết định buộc Quốc hội và Chính phủ phải thực hiện. Nghĩa là, Đảng Cộng sản Việt Nam không đứng trên Nhà nước và pháp luật.
Vì những lý do khác nhau, những người lợi dụng cơ hội đóng góp ý kiến sửa đổi Hiến pháp năm 1992 hòng thực hiện một cuộc đảo chính mềm - thay đổi nội dung căn bản của Hiến pháp năm 1992, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ là ảo tưởng.

PHƯƠNG ANH – NGỌC VÂN