Lại bàn về “thư ngỏ”!

08:16 21/12/2015
Trước ngày khai mạc Hội nghị Trung ương lần thứ 13 (khóa XI), trên mạng internet xuất hiện văn bản đề “thư ngỏ của 127 nhân sĩ, trí thức”, được nói là gửi Bộ Chính trị, Trung ương Đảng.
Sau đó ít ngày, một số trang mạng có máy chủ ở nước ngoài bắt đầu bình chế, tán dương “thư ngỏ” với những ngôn từ có cánh như “nội dung thư sâu sắc”, “dám thẳng thắn phê phán” hay “như một hành động chưa từng có”…  Tuy nhiên, xem lại nội dung “thư ngỏ” và những người được liệt vào danh sách để ký tên lại không có gì mới, ngay cả văn phong cũng chỉ là lối cũ được xới lại mà thôi.
Nói về “thư ngỏ” hay “kiến nghị”, đây cũng là cụm từ mà những nhóm ký tên “nhân sĩ trí thức” dùng để đề cập vấn đề chính trị theo chủ ý của họ. Đầu năm 2013 cũng xuất hiện nhóm “nhân sĩ, trí thức” ký tên 72 người, gửi Quốc hội bản kiến nghị sửa đổi Hiến pháp (còn gọi Kiến nghị 72), kèm theo một văn bản mà họ nói đó là “dự thảo mới”.
Tháng 5-2014, trên mạng internet lại xuất hiện “thư ngỏ” được nói của “61 đảng viên trung thành” gửi Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương và đảng viên, nội dung thư tỏ ý “lo lắng thời cuộc, vận mệnh nước nhà” và đưa ra kiến nghị đòi đa nguyên, đa đảng… Xem danh sách của “Kiến nghị 72”, “Thư ngỏ 61” và nay “Thư ngỏ 127” thì thấy rằng, nhiều gương mặt cũ đều có tên ở cả 3 thư ngỏ, kiến nghị này, trong đó có người ghi là giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ. Tuy nhiên, việc những người này tự nhận đại diện cho giới văn nghệ sĩ, trí thức thì thực không có căn cứ nào cả bởi những người hoạt động trong giới này cũng không có đề nghị nào để số đó đại diện và họ cũng không có tư cách nào để đại diện. Thứ nữa, có người trong số này là đảng viên nhưng đã ra khỏi Đảng, lại “khuyên” nên từ bỏ Chủ nghĩa Mác – Lê nin thì không đủ tư cách đứng trong hàng ngũ của Đảng, sao gọi “trung thành”!
Về nội dung, trong “thư ngỏ 127” thực cũng không có gì mới, đó là đòi đa nguyên, đa đảng, đòi đổi tên Đảng Cộng sản, đổi tên nước, đòi thả những người bị bắt, bị xử phạt tù mà họ gọi là “nhà hoạt động dân chủ”… Tức là những nội dung này cũng chỉ là bản sao, xào xáo lại ngôn từ mà chính họ đã nêu trong “Kiến nghị 72”, “Thư ngỏ 61” hay nhìn rộng hơn, đó đều là những quan điểm trái với đường lối của Đảng, của dân tộc vốn đã là chiêu bài của các thế lực chống phá lâu nay. Nhiều lần, trước những quan điểm sai lệch nói trên, cơ quan chức năng của Đảng, Nhà nước đã giải thích rõ vì sao không đa nguyên, không đa đảng, vì sao phải giữ Điều 4 trong Hiến pháp, vì sao phải kiên định Chủ nghĩa Mác – Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh… chứ không phải “giữ thái độ im lặng” như một số ý kiến.
Tất cả ý kiến, dù là đồng thuận hay không đồng thuận, nếu gửi đến cơ quan chức năng đều được tổng hợp, xem xét. Chẳng hạn, khi sửa đổi Hiến pháp 1992, Ủy ban dự thảo sửa đổi Hiến pháp cũng đã cử bộ phận chức năng tiếp nhận bản “Kiến nghị 72”, trong đó có bản dự thảo Hiến pháp do những người này đưa ra. Những ý kiến, kiến nghị đó đều được tập hợp nhưng việc tiếp thu, chỉnh lý ra sao hiển nhiên phải dựa trên các cơ sở khoa học chứ không phải chỉnh sửa theo kiểu “đẽo cày”, triệu ý kiến thì sửa cả triệu lần! Ngay như ý kiến đổi tên nước thành “Việt Nam Dân chủ cộng hòa”, ý kiến này đã được nêu ra khi Quốc hội sửa đổi Hiến pháp 1992 và đã được tổng hợp để nghiên cứu. Sau đó, Ban Biên tập sửa đổi Hiến pháp cho biết, đa số ý kiến đề nghị tiếp tục quy định tên nước là Cộng hòa XHCN Việt Nam bởi tên gọi này ra đời trong bối cảnh cả nước vừa hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, thống nhất đất nước, cả nước đi lên CNXH, khẳng định con đường mục tiêu xây dựng chế độ XHCN của Đảng, nhà nước và nhân dân. “Việc thay đổi tên nước trong thời điểm này sẽ dẫn đến những hệ quả không có lợi, thậm chí bị xuyên tạc là đang xa rời mục tiêu, con đường lên CNXH và làm phát sinh nhiều thủ tục hành chính, gây tốn kém, phức tạp” – Ban Biên tập sửa đổi Hiến pháp khẳng định. Việc giải thích như vậy là rõ, kể cả những vấn đề về chế độ chính trị, về đường lối kinh tế, quốc phòng, an ninh, cho nên nói “không nhận được phản hồi” hay “giữ thái độ im lặng” là không chính xác!
Trong sự vận động xã hội, việc có những quan điểm, ý kiến khác nhau là bình thường và chúng ta cũng luôn tôn trọng chính kiến, ý kiến đa chiều. Tuy nhiên, quan điểm, ý kiến khác nhau nếu thực sự là “góp ý, kiến nghị” thì cũng cần phải thực hiện theo đúng hình thức và đúng địa chỉ chứ không phải cứ tung bừa lên mạng internet. Với những người có quan điểm khác với quan điểm của Đảng, của Nhà nước, lại đứng danh nghĩa nhân sĩ, trí thức, khi nêu quan điểm hay hành động điều gì càng phải làm sao cho đúng và có văn hóa như cái mỹ từ này.
Đa đảng hay một đảng, xin kể lại câu chuyện khi Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đề cập trong chuyến thăm chính thức Hoa Kỳ năm 2007. Ông kể, nhà báo Mỹ Paul hỏi rằng Việt Nam hiện nay chỉ có duy nhất Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, trong tương lai, chúng ta có thực hiện đa đảng không? Khi đó, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết trả lời: “Tôi nói như ông thấy, bên Mỹ có hai đảng Dân chủ và Cộng hòa thay nhau cầm quyền. Bên Pháp thì rất nhiều đảng thay phiên nắm quyền. Vừa rồi qua Thụy Sĩ thấy nước này cũng nhiều đảng lắm. Nhưng tôi không bao giờ thấy Tổng thống Pháp nói Tổng thống Mỹ: “Ông Mỹ ơi, ông nên có nhiều đảng hơn, chứ không phải chỉ hai đảng”. Rõ ràng, do điều kiện lịch sử, đặc điểm của từng nước mà dân ở đó họ chấp nhận. Nếu một đảng thì có các cơ chế để lắng nghe ý kiến của người dân. Việt Nam có Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể như công đoàn, hội nông dân, hội phụ nữ... Đó là những tiếng nói góp phần vận động xây dựng Đảng. Có một đảng nhưng vẫn lắng nghe được tiếng nói của nhân dân. Đảng là đại diện của nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ. Điều kiện lịch sử cụ thể nên sự khác nhau là bình thường”…
Tại hội đàm, khi Tổng thống Bush đề cập về những người bị bắt mà một số người gọi đó là “nhà hoạt động dân chủ”, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết nói: “Chúng tôi đấu tranh đòi độc lập dân tộc, tự do dân tộc cũng chính là giành quyền con người. Chúng tôi yêu cái quyền đó lắm. Vì vậy, bây giờ, chúng tôi không nỡ đối xử không tốt với nhân quyền. Chúng tôi bảo vệ nhân quyền. Nhưng họ vi phạm pháp luật thì chúng tôi phải xử”.
Đăng Trường

Thực tiễn sinh động phủ nhận các “học thuyết” chống đối

07:49 14/12/2015
Kể từ khi thành trì CNXH Liên Xô và Đông Âu tan rã tới nay, nhân loại đã chứng kiến nhiều sự thay đổi ngay trong lòng các nước TBCN và có những đánh giá sát thực hơn về mô hình, xu hướng đi lên CNXH của nhiều quốc gia trên thế giới.
Đối với các nước đã lựa chọn con đường đi lên CNXH như Trung Quốc, Việt Nam, Cuba…, đây là giai đoạn hết sức khó khăn, phức tạp nhưng thực tiễn lịch sử cũng khẳng định ý chí, bản lĩnh, lập trường, sự kiên định mục tiêu, mô hình phát triển đi lên CNXH. Hơn hai thập kỷ qua, các thế lực thù địch tiếp tục tấn công vào hệ lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm cách khoét sâu vào cơ sở lý luận “thời kỳ quá độ”, cổ súy hệ tư tưởng TBCN và vội vàng kết luận rằng, các nước XHCN “đã đến hồi cáo chung”.
Không những không bị lay chuyển trước sự đả phá, tấn công của các thế lực thù địch, các quốc gia nói trên từng bước làm sáng tỏ mô hình CNXH một cách khoa học, sáng tạo, phù hợp điều kiện thực tiễn mỗi nước. Thực tiễn này đã phủ nhận luận điệu mang danh “học thuyết” tuyên truyền của các thế lực chống CNXH, cho rằng “CNXH đã lỗi thời”, “CNXH không tưởng” hay những quan điểm phê phán mô hình “kinh tế thị trường định hướng XHCN”, về lý luận lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở các nước XHCN…
Khi Trung ương Đảng công bố dự thảo văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, tiếp tục xuất hiện những bài viết công kích, đả phá nhằm vào hệ thức luận của Đảng, cho rằng điều kiện thực tiễn ở Việt Nam không thể vận dụng mô hình CNXH và con đường mà Việt Nam đang thực hiện cũng không phải là con đường đi lên CNXH. Chúng cho rằng, mô hình phát triển ở Việt Nam là “mơ hồ, không giống ai”. Sự phán xét có tính quy chụp, đả phá nói trên trái với thực tiễn sinh động ở Việt Nam cũng như việc bổ sung, hoàn thiện cơ sở lý luận về mô hình phát triển của đất nước ta.
Đi lên CNXH từ một nền sản xuất còn nhiều yếu kém và trong bối cảnh thế giới thay đổi phức tạp, các thế lực thù địch ra sức chống phá, đó là thách thức lớn đối với Việt Nam nhưng chúng ta khẳng định rõ sự kiên định trong mọi hoàn cảnh. Sau 30 năm đổi mới, Đảng ta đã xây dựng một hệ thống quan điểm lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH trong điều kiện cụ thể ở Việt Nam làm cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách phát triển đất nước.
Trên cơ sở khái quát, tổng kết thực tiễn đổi mới, tư duy, nhận thức lý luận của Đảng ta về các đặc trưng của xã hội XHCN được phát triển qua các nhiệm kỳ Đại hội, nhất là trong Cương lĩnh năm 1991 và Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011. Từ những đặc trưng của xã hội XHCN được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (Cương lĩnh năm 1991), đến năm 2011, Cương lĩnh bổ sung, phát triển đã khái quát thành 8 đặc trưng XHCN ở Việt Nam là: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới. Tám đặc trưng này vừa phản ánh quan niệm tổng quát về CNXH, vừa làm rõ nội dung từng bước hình thành, bảo đảm yêu cầu phát triển hài hòa, bền vững của CNXH ở Việt Nam chứ không phải “mô hình mơ hồ, viển vông” như luận điệu các thế lực thù địch. Trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, Đảng ta xác định 8 phương hướng bao quát các mặt, các lĩnh vực của mô hình CNXH  ở Việt Nam. Đến dự thảo văn kiện Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo, con đường đi lên CNXH phù hợp với thực tiễn của Việt Nam.
Từ cuối thế kỷ XX đến nay, các nước XHCN trên thế giới tích cực đổi mới tư duy và cải cách chính sách phát triển trên mọi lĩnh vực. Những nguyên lý và các giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin được nhận thức khách quan hơn, những kinh nghiệm thành công và những hạn chế, vấp váp của CNXH được xác định một cách chân thực hơn, những xu thế vận động của thế giới hiện đại được lĩnh hội kịp thời, toàn diện hơn. Không thể có một khuôn mẫu máy móc áp dụng mà sự vận dụng là tùy điều kiện cụ thể mỗi nước, quá trình đó đòi hỏi sự sáng tạo và không ngừng hoàn thiện lý luận. Chính vì vậy, bài học được Đảng ta đúc kết là “không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam”.
Chia sẻ kinh nghiệm xây dựng CNXH ở Việt Nam trong chuyến thăm chính thức Cuba, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Điều hết sức quan trọng là phải luôn luôn kiên định và đứng vững trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin - học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin là những giá trị bền vững, đã và đang được những người cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống”. Tổng Bí thư khẳng định, đi lên CNXH là công việc vô cùng phức tạp, là công việc chưa có tiền lệ, phải vừa làm vừa mò mẫm, rút kinh nghiệm. Vả lại, mục tiêu của CNXH có thể giống nhau nhưng biện pháp, cách đi đến các mục tiêu đó có thể rất đa dạng, phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi nước. Đó là cả một không gian sáng tạo to lớn, đầy sức sống.
Đăng Trường

Câu chuyện của một cựu chiến binh

QĐND - Thứ tư, 09/12/2015 | 7:52 GMT+7
QĐND - Cạnh nhà tôi (phường Thượng Thanh, quận Long Biên, TP Hà Nội) có bác cựu chiến binh tên là Nguyễn Văn Vi. Bác Vi là bộ đội kỹ thuật thời chống Mỹ, cứu nước. Những năm 60 của thế kỷ trước, bác Vi là người đã cùng đồng đội giấu mình trong dãy Trường Sơn để sửa chữa súng, pháo cung cấp cho các đơn vị đánh địch khắp các chiến trường. Nghỉ hưu với quân hàm cấp tá, được vài năm loanh quanh việc nhà, bác Vi thấy chồn chân, chồn tay, nên mới giở nghề cũ ra làm với cái việc mà bác cho là “nhẹ nhàng đối với dân kỹ thuật”, đó là sửa xe đạp. Nhiều lần mang xe đạp của con ra chỗ bác Vi sửa, tôi mới rõ, bác Vi là người cởi mở, hay chuyện và có hiểu biết khá sâu về tin tức thời sự, chính trị. Thông tin chủ yếu bác Vi thu lượm được từ chiếc ra-đi-ô mở gần như 24/24 giờ trong quán sửa xe của bác.
Chủ nhật vừa rồi, tôi lại mang xe đạp ra sửa và thấy bác có cả chiếc smartphone màn hình khá rộng. Tôi hơi ngạc nhiên, bác Vi bảo: “Thằng út đổi điện thoại, nên tặng tôi cái điện thoại này để đọc báo, xem phim, nghe hát. À chú này, hôm qua tôi mới vào mạng, định tìm mấy bài hát chèo nghe cho đỡ nhớ quê, bỗng gặp ngay một đoạn clip có tựa đề là “Những vấn đề của chúng ta”. Tôi nghe thử, hóa ra toàn chuyện bịa đặt, xuyên tạc chú ạ. Cái tay dẫn chương trình trong đoạn clip ấy tên là Trần Hưởng, đọc lại bài báo của tay Phạm Trần nào đó. Thú thực với chú, tôi nghe tay Trần Hưởng lải nhải trong đoạn clip ấy mà sôi cả máu. Mấy tay này đúng là loại nói lấy được và có lẽ chúng không trải qua chiến tranh, không có đóng góp gì vào công cuộc đánh đuổi giặc ngoại xâm, nên mới nói về đất nước, về Đảng và Bác Hồ, về cuộc kháng chiến, về truyền thống Quân đội ta theo kiểu xiên xẹo như thế. Nghe tay này nói, tôi bỗng nghĩ, tại sao cũng là người Việt Nam, đáng lẽ phải tự hào về truyền thống của đất nước, phải thấy được sự kỳ vĩ của cuộc kháng chiến đánh đuổi ngoại xâm do Đảng ta lãnh đạo, giành lại độc lập tự do cho dân tộc thì những cái tay như Trần Hưởng và Phạm Trần này lại ăn nói hàm hồ, quy chụp, kiểu “vơ đũa cả nắm”. Tôi thấy, những con người như Trần Hưởng khi đã không còn coi trọng danh dự của bản thân mình, nói như một cái máy thì có nghĩa là tâm hồn anh ta đã bị khiếm khuyết, tri thức bị bại hoại. Làm người thì thiếu gì cách để kiếm sống một cách đàng hoàng, đâu cứ phải đi “nói thuê” như thế thì mới sống được. Tôi nói thế có hơi nặng không chú?”.
Tôi đáp lời: "Bác nói thế em thấy đúng rồi, chả nặng đâu. Mấy tay này mà về quê, khéo các cụ bậc ông bà, chú bác của họ còn “choảng” cho một trận ấy chứ. Nhưng thôi bác ạ, họ nói năng thế thì tự họ cảm thấy xấu hổ thôi, sự thật có phải thế đâu. Những thành quả mà Đảng và Nhà nước đem lại cho dân thì ai chả thấy. Chứ nghe theo luận điệu của mấy tay như Trần Hưởng thì có mà “đổ thóc giống ra mà ăn”. Em cũng chẳng tin vào những điều lừa phỉnh của họ đâu. Mà kìa, bác rót trà ra uống đi chứ kẻo nguội hết rồi...".

TRẦN THÔN

Không thể đánh lừa, mê hoặc tuổi trẻ Việt Nam

QĐND - Thứ ba, 01/12/2015 | 8:41 GMT+7
QĐND - Gần đây, trên một số trang mạng, các thế lực thù địch lại tuyên truyền xuyên tạc, chống phá, hòng mê hoặc, gây phân tâm, tác động tiêu cực đến niềm tin của thế hệ trẻ Việt Nam đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây vẫn là thủ đoạn cũ, những ý kiến "lạc điệu", nhạt nhẽo... mà họ đã từng thực hiện trong những năm qua.
Về thời điểm, họ tập trung vào dịp diễn ra các sự kiện chính trị của đất nước, lần này là đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng và tháng 3-2016 tới, chúng ta kỷ niệm 85 năm Ngày thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Về luận điệu, họ tiếp tục phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, "soi mói" một số hạn chế, khuyết điểm, một số vụ việc mang tính đơn lẻ để phê phán, phủ nhận đường lối lãnh đạo và thực tiễn những thành tựu to lớn, quan trọng của công cuộc đổi mới đất nước, hòng phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng và kêu gọi nhân dân, nhất là thế hệ trẻ chống lại Đảng, Nhà nước, chế độ... Về đối tượng, họ tập trung vào lực lượng quân đội, công an, học sinh, sinh viên, trong đó thanh niên là một mục tiêu trọng điểm chống phá, nhằm tạo hiệu ứng tiêu cực ra toàn xã hội… Về giọng điệu, các thế lực thù địch đã có sự điều chỉnh, vừa tỏ ra hằn học, thậm chí sử dụng nhiều ngôn từ “vô văn hóa” để minh chứng cho luận điệu sai trái của họ, nhưng lại rất “mềm dẻo” khi nói về vai trò của tuổi trẻ Việt Nam, từ đó đánh đồng một số gương mặt cơ hội chính trị, những phần tử “thanh niên” phản cách mạng… để rồi đi đến kết luận: “Tuổi trẻ Việt Nam hôm nay đã có sự chuyển hướng về suy nghĩ…”-thực chất, họ ám chỉ là sự chuyển hướng về chính trị. Và họ kêu gọi: “Mong rằng ý thức ấy ngày càng phát triển vững mạnh, đông đảo, tạo thành dòng thác cách mạng…”.
Ảnh minh họa: Tuyengiao.vn.
Thoáng nghe qua, những luận điệu trên có vẻ khách quan, nhất là khi họ ngụy biện rằng: Tư duy của con người sẽ thay đổi để phù hợp với cuộc sống; và rằng: Nếp nghĩ hôm nay sẽ không là nếp nghĩ của ngày mai, mà nó sẽ biến dạng để thích nghi… Nhưng thực chất sâu xa, đây là âm mưu đánh đổ niềm tin của thanh niên Việt Nam vào sự lãnh đạo của Đảng, vào tiền đồ tương lai tươi sáng của đất nước, mà trong đó tuổi trẻ Việt Nam, sức trẻ Việt Nam có đóng góp quan trọng. Nguy hại hơn là âm mưu của chúng kích động thanh niên, sinh viên phai nhạt mục tiêu, lý tưởng phấn đấu, thay đổi “ý thức hệ”, từng bước làm giảm, tiến tới mất vai trò lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức Đoàn, lực lượng thanh niên; kích động thanh niên, sinh viên chống đối Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, đòi đa nguyên, đa đảng…
Tuy nhiên, khi đưa ra những luận điệu trên, một số cá nhân có tư tưởng thù địch, phản động lại thiếu hiểu biết, hoặc cố tình “không hiểu” thực tiễn sống động ở Việt Nam, qua đó tiếp tục khẳng định sự đúng đắn, tính cách mạng và khoa học của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của tuổi trẻ, những đoàn viên, thanh niên cộng sản thế hệ Hồ Chí Minh. Trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn xác định thanh niên là lực lượng xung kích cách mạng, là “Lực lượng quan trọng của dân tộc”; “Nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn là do các thanh niên”(1). Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, tổ chức thanh niên thành lực lượng hùng hậu, trung thành, kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc. Đương nhiên, ở từng thời kỳ, Đảng luôn có sự đổi mới trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác thanh niên để phù hợp yêu cầu, nhiệm vụ chiến lược của cách mạng, nhằm phát huy cao độ nhiệt huyết chính trị, sức mạnh và tinh thần cống hiến của tuổi trẻ Việt Nam cho Tổ quốc, cho nhân dân.
Kế tục truyền thống đánh giặc, giữ nước của ông cha ta, ngay từ khi cách mạng Việt Nam còn trong trứng nước, biết bao thanh niên Việt Nam yêu nước đã tự nguyện đứng lên cùng dân tộc chống áp bức, bất công, tiêu biểu là tấm gương của người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã bôn ba khắp thế giới, đến với Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tìm ra “cẩm nang cách mạng” đúng đắn để cứu nước, giải phóng dân tộc từ khi tuổi đời còn rất trẻ. Cũng phải nhắc lại để những kẻ đang cố tình “lập lờ” về ý thức hệ của thanh niên Việt Nam hiểu rõ rằng: Ngay từ giữa năm 1925, tại Quảng Châu, Trung Quốc, tổ chức cách mạng Việt Nam đầu tiên có xu hướng cộng sản được hình thành, đó là: Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, với 9 hội viên là những thanh niên Việt Nam đầu tiên được Nguyễn Ái Quốc trực tiếp giác ngộ, kết nạp đưa vào tổ chức. Sự xuất hiện của nhóm thanh niên cách mạng này tuy còn nhỏ bé, nhưng đó là thời điểm khai sinh ra một thế hệ thanh niên mới, một sự kiện quan trọng mở đầu cho quá trình hình thành và phát triển các tổ chức thanh niên cách mạng theo xu hướng cộng sản chủ nghĩa ở Việt Nam. Tiếp đó, sự xuất hiện của Nhóm thiếu nhi cộng sản đầu tiên của Việt Nam vào năm 1926 với 8 thiếu nhi đầu tiên là quá trình chuẩn bị cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, lực lượng để hình thành tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Đông Dương vào tháng 3-1931, sau khi Đảng ta ra đời một năm. Lịch sử vẻ vang của cách mạng Việt Nam và truyền thống gần 85 năm xây dựng, phấn đấu, trưởng thành của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh cho thấy: Đảng ta luôn quan tâm lãnh đạo công tác thanh niên và trực tiếp lãnh đạo Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Nhà nước luôn coi trọng việc quản lý thanh niên và công tác thanh niên, thể chế hóa thành pháp luật, chính sách, chiến lược, đề án phát triển. Về phần mình, các thế hệ đoàn viên, thanh niên Việt Nam đều thể hiện sự kiên định vững chắc Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và nguyện suốt đời phấn đấu theo mục tiêu, lý tưởng của Đảng, vì đó là lý luận và thực tiễn đã giải phóng và đem đến sự phát triển đúng đắn của cả dân tộc; vì đó là nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam, là điều kiện phát triển, là quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi thanh niên Việt Nam.
Thực tiễn cũng cho thấy, trong mọi thời kỳ cách mạng, thanh niên Việt Nam luôn nêu cao tinh thần yêu nước nồng nàn, gắn bó thiết tha, trung thành tuyệt đối với Đảng, với nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; chưa khi nào và không bao giờ thiếu niềm tin vào Đảng, vào chế độ xã hội chủ nghĩa và tiền đồ tươi sáng của đất nước. Thanh niên Việt Nam trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, trong thời kỳ kiến thiết đất nước sau chiến tranh, cũng như thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước luôn nêu cao tinh thần xung phong, tình nguyện, xung kích đi đầu để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
Về sự phát triển của thanh niên ngày nay, Đảng ta đã nhận định: Một trong những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước là đã xây dựng được thế hệ thanh niên thời kỳ mới có đạo đức, nhân cách, tri thức, sức khỏe, tư duy năng động và hành động sáng tạo; tiếp nối truyền thống hào hùng của Đảng và dân tộc, nêu cao lòng yêu nước, ý thức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; không ngại khó khăn, gian khổ, tình nguyện vì cộng đồng; có trách nhiệm với gia đình, xã hội; có ý chí vươn lên trong học tập, lao động, lập thân, lập nghiệp, quyết tâm đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu; mong muốn được tin tưởng, cống hiến cho đất nước, có việc làm, thu nhập ổn định, đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh phong phú, môi trường sống an toàn. Dù còn có những tâm trạng khác nhau, song tuyệt đại đa số thanh niên luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và phát triển của đất nước… Đồng thời Đảng ta tiếp tục khẳng định, thanh niên “là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội… Chăm lo, phát triển thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển vững bền của đất nước"(2).
Với bề dày truyền thống gắn bó, cống hiến, hy sinh của thanh niên Việt Nam cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta; với hàng vạn đoàn viên, thanh niên ưu tú tự nguyện phấn đấu để được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam mỗi năm; với hàng nghìn công trình, phần việc thanh niên tiêu biểu, hầu hết ở những nơi “cần thanh niên” và nơi khó khăn, gian khổ, hiểm nguy đã được gắn biển, vinh danh. Với hình ảnh hàng chục nghìn đoàn viên, thanh niên thủ đô Hà Nội và các địa phương tự tập hợp nghiêm trang đứng dưới cờ Đảng, cờ Tổ quốc hát vang Quốc ca, Đoàn ca, thể hiện tình yêu đất nước nồng nàn và khát vọng cống hiến. Với chương trình sử thi nghệ thuật ấn tượng sâu sắc “Niềm tin Việt Nam - sức mạnh Việt Nam” của hơn 10.000 thanh niên quân đội tại Quảng trường Ba Đình lịch sử cùng sự hưởng ứng của đông đảo nhân dân và cựu chiến binh. Hoặc câu chuyện xúc động do đảng viên trẻ Lê Hoài Thu ở U-crai-na kể tại buổi tọa đàm “Triệu tấm lòng - một niềm tin” vào Đảng, với việc nhiều thanh niên, sinh viên Việt kiều ở Ki-ép (Thủ đô của U-crai-na) tổ chức thi kể chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, nhưng hơn một nửa số người tham dự và các em sinh ra, lớn lên ở đây không nói sõi tiếng Việt, khi kể chuyện các em còn ấp úng, nhưng trong mỗi câu chuyện đều thể hiện tình cảm sâu sắc của mình với quê hương, với Bác Hồ - đó cũng là tình yêu thiết tha với Đảng. Tất cả những điều đó cho thấy: Thanh niên Việt Nam đã và sẽ tiếp tục tuyệt đối tin tưởng và trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, luôn xung kích, sáng tạo, phát huy tốt vai trò, trọng trách nặng nề, nhưng hết sức vẻ vang của mình trong sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Thực tế đó khẳng định, không bao giờ có chuyện “chuyển hướng suy nghĩ” của thanh niên và những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc, kích động, bóp méo sự thật… của các thế lực thù địch càng trở nên nhạt nhẽo, lạc điệu, theo kiểu “tự nói, tự nghe” mà thôi!
TRẦN VĂN KIM

Để đẩy lùi sự xuyên tạc, xóa nhòa lịch sử

QĐND - Thứ hai, 30/11/2015 | 7:50 GMT+7
Giáo dục lịch sử cho giới trẻ. Ảnh minh họa, nguồn: tamguong.vn
QĐND - Cắt ghép, bôi nhọ lịch sử dân tộc và nhân loại nhưng lại núp bóng “cách nhìn mới” để làm lệch lạc nhận thức giới trẻ. Nhấn mạnh chủ nghĩa kỹ trị, đề cao dạy kiến thức kinh tế, khoa học kỹ thuật mà xem nhẹ giáo dục truyền thống, giáo dục lịch sử… để tạo ra những con người thiếu hoàn thiện về nhân cách. Làm gì để ngăn chặn, đấu tranh với những biểu hiện sai trái đó? Một trong những việc làm cần thiết là phải tăng cường giáo dục lịch sử, giáo dục truyền thống. Phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã ghi nhận ý kiến của một số chuyên gia, nhà nghiên cứu, giáo dục lịch sử về vấn đề này.
PGS, TS Vũ Quang Hiển (Giảng viên Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội):
Cắt ghép và xuyên tạc - thủ đoạn nguy hiểm
Cắt ghép, xuyên tạc lịch sử vốn là cách làm của những người muốn bôi nhọ lịch sử dân tộc và nhân loại. Ngày càng có nhiều công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng làm lung lạc tinh thần thế hệ trẻ Việt Nam bằng cách cắt ghép và xuyên tạc lịch sử theo một lô-gíc chủ quan đã định trước, nhưng lại núp bóng “cách nhìn mới” về lịch sử. Xin nêu một số ví dụ:
Người ta bỏ qua Hiệp định Muy-ních giữa Anh, Pháp và Đức, chỉ tập trung khai thác và nhấn mạnh Hiệp ước Xô-Đức để đi tới kết luận kẻ gây ra chiến tranh thế giới thứ hai không phải là chủ nghĩa phát xít, mà là Liên Xô (?).
Người ta cố tình lãng quên những tội ác của chủ nghĩa thực dân, cố tình bỏ qua hành động xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cùng chính quyền do họ dựng ra, bỏ qua những việc làm đầy thiện chí nhân đạo và hòa bình của Chính phủ, nhân dân Việt Nam, để tập trung bôi nhọ, vu khống Đảng Cộng sản Việt Nam là thủ phạm gây ra những cuộc chiến tranh tàn khốc trong suốt 30 năm (1945-1975), đẩy nhân dân vào cảnh chết chóc, tang thương; “chỉ có nhân dân là chiến bại”(?).
Có không ít người xuất phát từ việc xuyên tạc rằng, Pháp và Việt Minh đã “tự ý” ký với nhau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 để chia Việt Nam thành “hai quốc gia”, đẩy đất nước vào cảnh “Trịnh-Nguyễn phân tranh”, để rồi đi đến kết luận cộng sản Bắc Việt xâm lược Việt Nam Cộng hòa là một quốc gia độc lập, có chủ quyền và vì thế Việt Nam Cộng hòa phải yêu cầu Mỹ “giúp đỡ” chống “cộng sản hiếu chiến xâm lăng”, phủ nhận chính sách xâm lược thực dân mới của Mỹ (?).
Đó là những thủ đoạn mạo danh khoa học để xuyên tạc lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc. Phải chăng những cách trình bày, giải thích lịch sử như trên là khách quan và khoa học? Việc giáo dục lịch sử thiếu hệ thống và toàn diện sẽ đặt thế hệ trẻ Việt Nam đứng trước những hiểm họa mà tất cả những người có lương tâm hôm nay phải có trách nhiệm nặng nề.
Nguy cơ lịch sử bị xuyên tạc và lợi dụng là không thể xem thường. Đây là bài toán mà Đảng, Chính phủ và toàn bộ hệ thống chính trị Việt Nam đều phải quan tâm.
Liệu thế hệ trẻ Việt Nam mai sau có biết và tin rằng "kẻ thù buộc ta ôm cây súng"(?), có còn phân biệt được đúng-sai, chính nghĩa-gian tà, xâm lược và chống xâm lược? Trong những biến đổi không ngừng của quan hệ quốc tế hiện đại, sự thay đổi điều kiện sống và làm việc, liệu các công dân Việt Nam trong tương lai có tin vào những việc cha anh mình đã làm là phù hợp với yêu cầu khách quan của lịch sử hay không?
Câu trả lời vẫn còn ở phía trước và tùy thuộc rất nhiều vào hiệu quả của việc giáo dục lịch sử, giáo dục truyền thống sao cho hiệu quả.
TS Tưởng Phi Ngọ (Phó chủ nhiệm Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh):
Giáo dục lịch sử để tăng cường ý thức bảo vệ Tổ quốc
Trong kháng chiến, việc dạy học lịch sử đã hoàn thành nhiệm vụ của mình. Vậy thời bình, hết giặc rồi, có cần thiết phải chú trọng môn Lịch sử như trước không?
Đúng là chúng ta đang sống trong hòa bình nhưng hòa bình không phải là giá trị bền vững tuyệt đối. Nền hòa bình của nước ta vẫn luôn đứng trước nhiều nguy cơ. Ai cũng biết điều này, nên vẫn rất cần ưu tiên cho giáo dục lịch sử.
Thực tế hiện nay, việc dạy học môn Lịch sử ở bậc học phổ thông đang gặp rất nhiều khó khăn, thử thách so với trước kia vì ba lẽ sau đây:
 Thứ nhất, do những quan điểm tuyên truyền phản động, xuyên tạc lịch sử nhằm bôi xấu, chống đối chế độ trong thực tế và qua internet. Nếu được trang bị kiến thức lịch sử đúng mức thì học sinh sẽ vững vàng hơn, có nhiều kiến thức để bác bỏ các quan điểm sai trái. Ngược lại, có thể phát sinh những hậu quả khôn lường.
Thứ hai, những tiêu cực của người lớn trong thực tế, qua các phương tiện thông tin đại chúng và dư luận khiến học sinh ít nhiều giảm sút lòng tin.
Thứ ba, khó khăn nhất vẫn là nhiều học sinh không muốn học môn Lịch sử vì mục đích thực dụng, để tập trung cho những môn học có lợi cho các em về tương lai kinh tế. Điều này sẽ dẫn đến những tai hại cho tương lai đất nước. Do đó, rất cần Bộ Giáo dục và Đào tạo điều tiết. Giống như đứa trẻ trong gia đình chỉ ăn thịt mà không ăn rau, tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến những căn bệnh nguy hiểm. Bộ nên điều tiết bằng cách xếp môn Lịch sử vào vị trí môn học bắt buộc, còn những nhược điểm về chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy học sẽ được giải quyết ở khu vực khác. Cần thiết phải làm thế vì nhà trường Việt Nam luôn chú trọng giáo dục lòng yêu nước cho học sinh.
Kinh nghiệm nước ngoài có nhiều, có nước không ưu tiên môn Lịch sử nhưng hầu hết các nước là ưu tiên. Trong trường phổ thông I-xra-en hiện nay, Lịch sử được xếp ngang hàng với môn Văn học, môn Kinh thánh và học sinh phải thi.
Cần chú trọng đặc điểm nước ta hiện nay để quyết định. Đất nước có hòa bình nhưng nguy cơ luôn tiềm ẩn, cần giáo dục lòng yêu nước, ý thức cảnh giác, bảo vệ Tổ quốc cho học sinh.
GS, TS Nguyễn Thị Côi (Giảng viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội):
Những bài học không bao giờ cũ
V.I.Lê-nin xem lịch sử là việc nghiên cứu kinh nghiệm, những sai lầm của ngày hôm qua để ngày nay và mai sau không lặp lại sai lầm đó nữa. Ông viết: “Chúng ta lấy năm tổng kết đã qua làm tài liệu, làm bài học, làm bậc lên và chúng ta phải ven theo bậc thang đó để đi lên hơn nữa”. Một trong những bài học kinh nghiệm bao trùm, trở thành một quy luật đặc thù trong lịch sử dân tộc là dựng nước và giữ nước luôn gắn liền với nhau. Bài học quý giá này chỉ cho chúng ta thấy tuy hoàn cảnh xây dựng đất nước ngày nay khác với trước đây, nhưng không bao giờ được tách rời hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa hiện nay cũng làm cho chúng ta dễ bị hòa tan vào thế giới phát triển hơn ta, đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc và độc lập dân tộc dễ bị xâm phạm. Điều này đòi hỏi chúng ta phải trang bị cho thế hệ trẻ kiến thức lịch sử, đặc biệt là lịch sử dân tộc để các em biết tự hào, giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp của cha ông.
Thực tế vừa qua, chất lượng học tập môn Lịch sử vẫn rất đáng lo ngại. Không chỉ học sinh phổ thông mà thậm chí những hiểu biết về lịch sử của một bộ phận sinh viên đại học, nhất là lịch sử dân tộc cũng rất hạn chế. Đặc biệt, có sinh viên ở một số tỉnh phía Nam còn xuyên tạc lịch sử, xuyên tạc về Bác Hồ, thích lá cờ của chính quyền Sài Gòn trước đây… Đó là tiếng chuông báo động cho giáo dục phổ thông, báo động cho việc chưa coi trọng giáo dục lịch sử.
PGS, TS Kiều Thế Hưng (nguyên Phó hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội):
Không chỉ là tri thức mà còn là tình cảm thiêng liêng
Giáo dục lịch sử không chỉ là giáo dục tri thức khoa học thuần túy mà còn là giáo dục tình cảm thiêng liêng, không chỉ của thế hệ trẻ mà còn là của mỗi người dân Việt Nam đối với dân tộc, với Tổ quốc và nhân dân mình. Đó không chỉ là niềm kiêu hãnh và tự hào mà còn là máu xương và nước mắt của biết bao thế hệ đã cống hiến, hy sinh cho dân tộc này, đất nước này. Mới đây, tại một lễ hội hóa trang Halloween trên một con phố trung tâm của TP Hồ Chí Minh, người ta có thể cười đùa và phấn khích với đủ loại hóa trang ma quỷ nhưng cộng đồng đã phẫn nộ, phản ứng dữ dội với một nhóm thanh niên lố lăng, hóa trang là mũ tai bèo và trang phục truyền thống của lực lượng vũ trang cách mạng. Nhiều người cho rằng, đó là sự vô cảm với truyền thống dân tộc và xúc phạm tới tình cảm thiêng liêng của thế hệ hôm nay đối với các thế hệ cha anh.
Động chạm tới lịch sử là động chạm tới những vấn đề rất nhạy cảm về chính trị, những vấn đề của tình cảm nhân văn mang đặc trưng bản sắc Việt Nam, bản sắc của một dân tộc tuy không phải hiếu chiến, nhưng không bao giờ được buông lơi cây súng, ngay cả khi đất nước đã hòa bình.
NGUYÊN MINH (ghi)

Điều ẩn giấu phía sau quan điểm đa đảng

QĐND - Thứ tư, 25/11/2015 | 8:41 GMT+7
QĐND - Vấn đề "đa nguyên, đa đảng" là đề tài luôn được các nhà "dân chủ" bàn bạc. Đáng lưu ý là, cứ mỗi khi gần đến thời gian đại hội Đảng thì số bài viết này càng dày thêm. Và, tới đây, khi Đảng ta chuẩn bị tổ chức Đại hội XII thì số bài viết về "đa nguyên, đa đảng" xuất hiện càng nhiều, điều đó không có gì lạ! Mới đây, trên internet xuất hiện một số bài viết ở blog cá nhân hoặc website dưới dạng "trao đổi", "diễn đàn"... đầy tính kích động, nhằm kêu gọi thiết lập chế độ đa nguyên về chính trị, đa đảng ở Việt Nam...
Chỉ cần lướt qua các bài viết, mọi người đều dễ nhận thấy: Trước hết, họ ca ngợi xã hội dân chủ tư sản; họ lợi dụng một số khuyết điểm trong lãnh đạo của Đảng ta và sự quản lý của chính quyền các địa phương để ra sức xuyên tạc, bóp méo sự thật, nhằm vào mục tiêu hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng.
Mọi người đều biết, từ năm 1858, khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, dân tộc ta rơi vào cảnh mất nước, nhân dân chịu cảnh nô lệ, lầm than. Triều đình phong kiến thối nát, nhu nhược khiến nhân dân ta "một cổ hai tròng". Biết bao cuộc khởi nghĩa nổ ra. Song mục tiêu đánh đuổi quân xâm lược vẫn chưa thành mà nguyên nhân chính là thiếu một đường lối cứu nước đúng đắn và một tổ chức lãnh đạo cách mạng, khoa học. Chỉ đến khi Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước, rồi việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta mới có một đảng lãnh đạo đúng đắn, vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện hoàn cảnh của Việt Nam, làm cuộc cách mạng giải phóng dân tộc có một không hai trên thế giới, đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược, đưa đất nước tiến lên CNXH. Sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội được toàn dân ghi nhận và đồng tình đưa vào Hiến pháp, làm cơ sở pháp lý cho Đảng thể hiện vị trí, vai trò lãnh đạo của mình đối với Nhà nước và xã hội. Có thể khẳng định, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Điều đó là tất yếu lịch sử, khách quan, không phải do ai áp đặt mà do lịch sử thừa nhận, nhân dân và dân tộc tự lựa chọn.
Một số bài viết trên các trang mạng xã hội gần đây có lời lẽ kích động, đi ngược lại xu thế của lịch sử và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Các "tác giả" đòi "đa nguyên, đa đảng" và cho rằng chế độ một đảng là "đảng trị", là "mất dân chủ nghiêm trọng". Chưa hết, các "tác giả" còn ra sức cổ súy, vận động kêu gọi một số người đứng lên thành lập cái gọi là "Đảng dân chủ xã hội" để "thúc đẩy dân chủ ở Việt Nam". Đây là việc làm lạc lõng với thời cuộc, khi mà sự hội nhập toàn cầu ngày càng rộng mở. Đây thực chất chỉ là việc làm "chọc gậy bánh xe" của một số kẻ cơ hội, nhằm hà hơi, tiếp sức cho các thế lực thù địch, phản động mà mục tiêu chính của họ là phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Chúng ta cũng thừa nhận, trong quá trình thực hiện vai trò lãnh đạo, Đảng không tránh khỏi một số sai lầm, khuyết điểm. Song, những khiếm khuyết đó đều được Đảng ta phân tích, làm rõ và xây dựng giải pháp để khắc phục. Vì thế, mọi mưu đồ lợi dụng những khiếm khuyết trong lãnh đạo của Đảng để đòi "đa nguyên, đa đảng", đòi "thúc đẩy dân chủ" hòng làm rối loạn đất nước là hành động không thể chấp nhận.

QUÝ HẢI

Tội ác và 'những cung đường đen' của Việt Tân từ điều tra của FBI (kỳ 2)

08:23 26/11/2015
Những “thâm cung” này lâu nay tổ chức Việt Tân vẫn xảo trá để trau chuốt cho bộ mặt giả nhân giả nghĩa của mình. Tuy nhiên, quá trình điều tra, FBI thu thập được những sự thật ghê rợn của tổ chức phản động này.

“Trong vụ tàn sát Lê Triết và vợ, những tên giết người của mặt trận quả thật đã làm việc rất giỏi vì làm việc giỏi là một đòi hỏi hàng đầu mà một tay thiện xạ của mặt  trận có trách nhiệm phải đáp ứng khi thi hành mệnh lệnh của lãnh tụ” – FBI đánh giá.
Ở đây, FBI sử dụng ngôn từ “việc rất giỏi” để chỉ những tay giết người có kỹ nghệ được đào tạo bởi mặt trận, cho thấy hành vi giết người không phải là chuyện tức thời của một vài cá nhân nào đó trong mặt trận mà đã được tổ chức phản động này đào tạo bài bản để thực hiện các kế hoạch tàn sát phục vụ cho mưu đồ của mình. Số này là cựu quân nhân thuộc lực lượng đặc biệt của Việt Nam Cộng hòa trước đây và người nhái của hải quân.
Trong quá trình điều tra vụ giết vợ chồng Lê Triết, FBI nhận thấy có sự thay đổi về thái độ trong những người Việt ở Mỹ, đó là họ không ngần ngại “né” Việt Tân nữa mà đã hợp tác  tích cực và kín đáo để tố giác, cung cấp thông tin cho cơ quan điều tra. Theo FBI, đây là sự thay đổi thái độ trước đây chưa từng xảy ra. Việc điều tra tích cực của cơ quan FBI trong vụ ám sát vợ chồng Lê Triết đã làm cho cộng đồng người Việt ở Mỹ yên tâm về sự quyết tâm của FBI và các nhân viên công quyền trong việc duy trì luật lệ và trật tự cho những cộng đồng Việt Nam, mặc dù danh tính chưa được tiết lộ.
Đài phát thanh của mặt trận Hoàng Cơ Minh.
Theo điều tra của FBI tại thời điểm đó, Lê Triết bị giết bởi ông ta đã gia nhập cao trào Nhân Bản do bác sĩ Nguyễn Đan Quế cầm đầu. Bởi vì việc Lê Triết gia nhập cao trào Nhân Bản là một chướng ngại cho mặt trận Hoàng Cơ Minh, mặt trận muốn tham dự vào cao trào này. Trước sự kinh tởm của cộng đồng Việt Nam hải ngoại, mặt trận  bị mất hết tín nhiệm và danh dự, cho nên phương thức tốt nhất cho mặt trận là gia nhập cao trào và sử dụng nó để che đậy hoạt động của mình. Lê Triết đã gia nhập cao trào và giữ vai trò quan trọng ở đó, do vậy ông ta đã trở thành chướng ngại cho mặt trận.
Hai tuần trước khi Lê Triết bị giết, Hoàng Cơ Long và Nguyễn Văn Canh đã gặp Lê Triết ở nhà của Phạm Lộc ở Frederich, Maryland (dù Canh khai không gặp Lê Triết ở nhà Phạm Lộc nhưng FBI xác định Canh nói dối việc này). Nhận định của FBI, có thể dự tính của Phạm Lộc là giới thiệu Canh cho ban lãnh đạo của cao trào. Tuy nhiên, với sự có mặt của Lê Triết trong ủy ban lãnh đạo cao trào, Canh khả năng không được chấp nhận dù rằng giữa Canh và Triết là bạn thân.
Trong cao trào, đôi khi Lê Triết nói đùa: “Cơ quan CIA sẽ gửi một số cựu nhân viên của “chiến dịch Phượng Hoàng” về Việt Nam để hoạt động bí mật. Những cộng sản  “nằm vùng” trong mặt trận sẽ tin đó là sự thật”.  Lê Triết là người trực ngôn. Ở Việt Nam, ông ta làm việc với William Colby, lúc đó là trưởng nhiệm sở của CIA ở Việt Nam và trông coi chiến dịch Phượng Hoàng. Lê Triết phục vụ như một nhân viên đặc biệt trong bộ chỉ huy chiến dịch này.
Trong vụ Lê Triết, nhiều người Việt tại Mỹ đã có những nhận xét về FBI như sau: FBI đã đặc biệt quan tâm tới sự an ninh và thịnh vượng của cộng đồng người Việt tại Mỹ và làm cho họ tin rằng, họ được  bảo vệ và cộng đồng người Việt có thể được thanh lọc. Việc điều tra sâu rộng của FBI là một “cảnh cáo nghiêm trọng” đối với các tổ chức tội ác.
Từ vụ Lê Triết, FBI đã được sự hỗ trợ lớn của cộng đồng người Việt trên khắp Hoa Kỳ. Theo quan điểm của một nhóm người Việt ở đây thì họ chỉ còn việc là cộng tác với FBI trong việc tìm ra ai đã ra lệnh giết vợ chồng Lê Triết. Họ cho rằng, những tổ chức tội ác trong cộng đồng người Việt tại Mỹ không bị triệt hạ trừ khi những kẻ chủ mưu giết vợ chồng Lê Triết phải được nhận diện và truy tố trước tòa. Họ cho rằng, khi mà kẻ phạm tội vẫn ngoài vòng pháp luật, những tổ chức tội phạm vẫn tiếp tục gây ra tội lỗi dưới những chiêu bài “chống cộng” của mặt trận Hoàng Cơ Minh thì vẫn còn là mối đe dọa nguy hiểm cho cộng đồng người Việt Nam tại Hoa Kỳ.
Những nhóm K9 dưới sự chỉ huy chặt chẽ của Hoàng Cơ Định sau đó đã giải tán, được chuyển thành những đơn vị đặc biệt và đứng sau đảng Canh Tân của mặt trận. Những đơn vị này có thể làm súng với nòng hãm thanh và đủ khéo để không để lại một dấu vết nào ở hiện trường, như trường hợp ám sát Lê Triết. Một phần tử ly khai thuộc nhóm K9 khai với FBI rằng, mặt trận đã mua nhiều loại súng tay tối tân và chất nổ ở Hoa Kỳ, sau đó gửi cho cán bộ của họ ở Úc và châu Âu, nơi súng không được bán tự do trên thị trường. Được trang bị với những súng tay gửi sang Hoa Kỳ, các cán bộ của mặt trận bên Úc và châu Âu đã rất thành công trong việc kiềm chế các tổ chức đối nghịch.
Các vụ buôn bán vũ khí được mặt trận thực hiện với đủ thủ đoạn. Nhiều vụ chúng mua một cuốn từ điển cỡ lớn, khoét một lỗ trống ở trong đủ lớn để chứa một khẩu súng ngắn và đạn. Sau đó, chúng đổ một lớp cháo nếp loãng lên khẩu súng, phủ một tờ giấy nhôm mỏng rồi lại thêm lớp cháo dầy để dán chặt khẩu súng vào lỗ trống. Vì thế, nhìn cuốn từ điển trên tay, không ai đoán trong đó chứa khẩu súng ngắn bên trong.
Tiếp theo, chúng gói quyển từ điển rồi viết bên ngoài chữ “book” và gửi sang châu Âu hay Úc bằng đường biển. Người nhận ghi trên cuốn từ điển là một cái tên khác nhằm tránh bị lộ khi bị phát hiện sự thật trong cuốn từ điển. Theo lời kể của một kẻ ly khai thì với mánh khóe này, ít nhất có khoảng 20 cây súng đã được gửi sang Úc và nhiều khẩu khác gửi sang châu Âu, tất cả đều bằng đường biển. Cũng với thủ đoạn này, các đối tượng của tổ chức này đã chuyên chở số lượng bạch phiến từ Bangkok đến Mỹ. “Họ đã chấm dứt việc gửi bạch phiến bằng cách đó bởi vì số lượng bạch phiến gửi được quá nhỏ và có quá nhiều nguy hiểm cho người nhận, bây giờ họ thay thế bạch phiến bằng kim cương cùng với mánh khóe kể trên” – phần tử ly khai nói. 
Những kẻ ly khai đã khai nhận với nhân viên FBI rằng, cựu tướng Sudsai của quân đội Thái là người đỡ đầu của mặt trận ở Thái Lan. Theo nhận định của FBI, cơ quan CIA hoạt động ở Thái có thể có hồ sơ đầy đủ về trường hợp này. Bộ chỉ huy mặt trận ở Bangkok là nơi điều hành việc xuất cảng các đồ ăn Á châu sang Mỹ và Canada. Dưới hình thức là thực phẩm Á Đông, mặt trận đã nhập cảng ma túy bằng cách sử dụng mánh khóe đặc biệt qua mặt các nhân viên thuế quan ở San Francisco… Do vậy, sự dính líu của mặt trận Hoàng Cơ Minh với các đường dây buôn bán ma túy xuyên quốc gia ngày càng trở thành mối lo ngại cho cộng đồng người Việt tại Mỹ.
Đây chỉ là những căn cứ, tài liệu mà FBI thu thập được trong giai đoạn trước 1990, chưa đầy đủ song chừng đó cũng đã minh chứng rõ “khuôn mặt” của mặt trận Hoàng Cơ Minh, đảng Việt Tân. Bộ mặt mafia của tổ chức này – như đánh giá của cộng đồng người Việt tại Mỹ cũng bị lật tẩy với những hành vi tội ác giết người, diệt khẩu, thanh toán lẫn nhau. Việt Tân đối xử thành viên của họ như thế nào?
Không phải viễn cảnh “mơ nhà được nhà, ước xe có xe” như một số người lầm tưởng, sự thật cay đắng đã được chính những đối tượng ly khai thổ lộ rõ với FBI cũng như với cộng đồng người Việt. Họ bị vắt sức, bị đè nén và cả lừa dối, đủ trò xảo trá. Bởi vậy, cộng đồng người Việt coi đây là băng đảng tội phạm kiểu mafia hết sức nguy hiểm, cần phải xử lý. Từ việc nhận rõ bộ mặt thật của Việt Tân, cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ đã tích cực hợp tác với FBI, các cơ quan bảo vệ pháp luật Mỹ để đấu tranh, xử lý bởi theo họ, “khi những tổ chức tội phạm vẫn tiếp tục gây ra tội lỗi dưới những chiêu bài “chống cộng” của mặt trận Hoàng Cơ Minh thì vẫn còn là mối đe dọa nguy hiểm cho cộng đồng người Việt Nam tại Hoa Kỳ”.
Những lát cắt sự thật như vậy từ ống kính của cơ quan bảo vệ pháp luật Mỹ về mặt trận Hoàng Cơ Minh, về đảng Việt Tân là cách nhìn hết sức khách quan, đó cũng chính là sự cảnh báo đối với những cá nhân nào, ở trong hay ngoài nước đang có “ảo vọng trời Tây”, có ý muốn được làm tay chân cho tổ chức này hãy kịp nhận ra sự thật để hãm phanh trước khi chưa muộn.
Minh Đăng

Tội ác và "những cung đường đen" của Việt Tân từ điều tra của FBI

11:53 25/11/2015
Lâu nay, không ít quan điểm vẫn cho rằng, sở dĩ Việt Tân (đảng phái phản động) tồn tại, hoạt động được là nhờ sự ủng hộ của cộng đồng người Việt tại Mỹ. Tuy nhiên, mới đây, Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI) đã công bố tài liệu chỉ rõ những hoạt động tội ác và “cung đường đen” của Việt Tân ngay trên đất Mỹ, nhiều đối tượng đã bị các cơ quan bảo vệ pháp luật Mỹ truy bắt, điều tra xử lý. 

Đồng thời, không có chuyện cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ ủng hộ Việt Tân mà chỉ có một số ít, còn lại đều coi Mặt trận Hoàng Cơ Minh, Việt Tân là “băng đảng mafia” với các hoạt động khủng bố, giết người, buôn bán vũ khí nguy hiểm.

* Băng đảng mafia dưới chiêu bài chính trị giải phóng
Đầu tháng 11-2015, nhiều báo chí Mỹ và mạng xã hội đăng tải tài liệu do FBI điều tra có tựa đề “Tình trạng hiện nay của cộng đồng Việt Nam ở Hoa Kỳ: Những hoạt động chính trị và tội ác gia tăng như sóng trào với Mặt trận Hoàng Cơ Minh…”. Đây là tài liệu do FBI thực hiện trước năm 1990, nội dung phản ánh trong giai đoạn 1981-1990, Mặt trận quốc gia giải phóng Việt Nam (MTQGGP) đã tiến hành hàng loạt hoạt động vi phạm pháp luật Mỹ như buôn bán ma túy, đô la, vũ khí, ám sát, giết người…
Ngày 3-11-2015, kênh truyền hình Frontline của Mỹ phát sóng sự điều tra về “Biệt đội K9” của MTQGGP có tựa đề “Terror In little Saigon” (Nỗi kinh hoàng ở Sài Gòn nhỏ). Theo bộ phim này, trong giai đoạn 1981 – 1992, FBI đã thẩm vấn, thu thập thông tin, điều tra về “Biệt đội K9” do các thành viên cốt cán của MTQGGP cầm đầu, chuyên thực hiện nhiệm vụ tìm, thủ tiêu những nhà báo gốc Việt có quan điểm đối lập hoặc đưa tin vạch mặt hoạt động lừa đảo kiều bào của Hoàng Cơ Minh và đồng bọn. Bộ phim cũng liệt kê MTQGGP vào danh sách các tổ chức khủng bố.
Trong bản báo cáo về “Tình trạng hiện nay của cộng đồng Việt Nam ở Hoa Kỳ: Những hoạt động chính trị và tội ác gia tăng như sóng trào với Mặt trận Hoàng Cơ Minh…”, tài liệu này có chú thích rõ: “Được phân phát trong buổi họp của FBI tại San Francisco, kéo dài từ ngày 6 đến ngày 8-1-1992”.
Theo tài liệu của FBI, trên cơ sở phân tích tổng quan tình hình người Việt di cư sang Mỹ trước 1990 đã nêu khá rõ thực trạng đời sống, sinh hoạt của cộng đồng người Việt tại các khu vực trên lãnh thổ Mỹ. Đối với MTQGGP, FBI đánh giá “Mặt trận Hoàng Cơ Minh đã được cộng đồng người Việt Nam coi là một băng đảng mafia có nhiều thế lực nhất dưới chiêu bài chính trị giải phóng”. 
Hoàng Cơ Minh họp bàn với đồng bọn tìm cách xâm nhập về Việt Nam.
Như vậy, những quan điểm lâu nay cho rằng, ngay từ giai đoạn thành lập (năm 1982) và quá trình hoạt động, Mặt trận Hoàng Cơ Minh được sự dung dưỡng, ủng hộ của cộng đồng người Việt tại Mỹ là sai lầm. Chính FBI qua điều tra, khảo sát đã xác định cộng đồng người Việt tại Mỹ coi tổ chức này là “một băng đảng mafia có nhiều thế lực”.
Được thành lập năm 1982, cho đến 1985, mặt trận có khoảng 5.000 thành viên và 2/3 trong số đó sinh sống tại Mỹ. Sau khi tái sắp xếp, mặt trận tổ chức thành 3 vùng: vùng Trung Mỹ (từ Minnesota, Wisscousin xuống đến Oklahoma, Texas, Louisiana); vùng Đông Mỹ (từ New England đến Florida); vùng Tây Mỹ (từ Washington đến Califonia).
Cho đến 1990, phần lớn các thành viên kỳ cựu đã trở thành cán bộ chỉ huy hoặc đã được bổ nhiệm vào nhóm K9 của mặt trận dưới quyền chỉ huy của Hoàng Cơ Định. Thanh niên được tuyển mộ từ thành phần các trẻ vượt biên không có người giám hộ và Mỹ lai, trong khi một số thanh niên khác không rõ lai lịch. Số này thường xuyên di chuyển từ địa phương này đến địa phương khác (như năm 1990, một người tên là Nguyễn Danh đến quận Montgomery ở Maryland, ghi danh vào đại học Montgomery với mục đích tuyển mộ sinh viên, đã can dự vào nhiều hoạt động nhằm tạo những đường dây liên lạc với cộng đồng người Việt ở Mỹ).
Thời điểm đó, có khoảng 150 người làm việc theo dạng này và lĩnh lương theo các cách như: Làm việc bán thời gian ở tiệm phở hoặc ở những cơ sở khác của mặt trận. Theo điều tra của FBI thì “bọn đó làm việc toàn tính thời gian trên một năm rồi “làm lộ bị đuổi” để có thể xin tiền thất nghiệp và tiếp tục hoạt động cho mặt trận”. Trong khi đó, có đối tượng để cho vợ báo cáo là họ đã ly thân trên phương diện luật pháp để người vợ hội đủ điều kiện trợ cấp xã hội và y tế, trong khi người chồng có thể làm việc cho mặt trận và lãnh tiền mặt.
Một nhóm thân tín của Hoàng Cơ Minh (ảnh chụp tại Thái Lan năm 1981).
Những kẻ điều hành mặt trận thường tự vỗ ngực về khoản tài chính dư dả và “chém gió” rằng sẵn sàng chi trả xông xênh cho những ai hoạt động theo ý đồ, sự chỉ đạo của chúng. Sự huênh hoang này thực không dễ lừa những người Việt ở Mỹ, song một số người Việt ở trong nước hoặc do ảo vọng chính trị, hoặc là những kẻ bất hảo lại thích có tiền tiêu xài nên vẫn ôm mộng “giàu ở Việt không bằng nghèo Mỹ”.
Với dăm ba đồng lót tay, số này vẫn mơ tưởng rằng càng dấn sâu thì sẽ được Mặt trận Hoàng Cơ Minh rót tiền như rót mật, tha hồ đổi đời. Thực thì điều đó đều là ảo vọng cả, trước hết là những kẻ đã trót nhận lời làm việc cho tổ chức phản động này để kỳ vọng thay xe hơi, đổi nhà lầu đều bị lật sấp té ngửa. Chỉ được ít khoản gọi là ban đầu, sau thì chúng cúng dây dưa hứa trăng hứa sao, bói không ra tiền nhưng vì “trót lao phải theo lao”.
Vậy thực hư tài chính của mặt trận thời kỳ đó thế nào? Đọc tài liệu của FBI, chúng tôi thấy rõ Việt Tân kiếm tiền bằng những hành động phi pháp xuyên quốc gia. Và khi có được đồng tiền bằng cách chà đạp lên đạo đức và pháp luật thì hiển nhiên, chỉ "no xôi chén chè" cho những kẻ bề trên, còn tay chân dưới nhiều khi chỉ “ngửi khói”. Chính vì thế, những kẻ ảo mộng làm tay chân cho Hoàng Cơ Minh sẽ giàu lên đều thất vọng rơi tự do.
Để có tiền, những năm đầu Mặt trận Hoàng Cơ Minh tăng cường dịch vụ buôn bán với Thái Lan nhưng không phải những thứ to tát mà là nhập cảng bánh phở, mỳ tôm, bún khô, nước mắm… Tuy nhiên, những thứ như vậy thì sao đủ tiền cho các “quan bụng” của mặt trận tiêu pha, cho nên mạng lưới của FBI đã điều tra và phát hiện những nghi vấn “bạch phiến có thể nhập cảng vào Hoa Kỳ qua đường dây này”.
Cụ thể, một phần tử ly khai của nhóm Hoàng Cơ Định đã dùng mánh khóe đặc biệt là bao bạch phiến bằng loại lá cây đặc biệt rồi phủ ngoài bằng giấy nhôm mỏng, rồi lại bao bọc lớp lá cây đặc biệt, sau đó nhét gói bạch phiến vào cái hộp hoặc nhét trong chai mắm tôm đặc. Vậy là dưới hình thức buôn mắm tôm, mắm tép, tay chân của chúng đã qua mặt các nhân viên phòng, chống ma túy của Thái Lan, Mỹ.
Tổ chức này cũng tăng cường hoạt động mua bán, giao thương với Sài Gòn và đây được xem là kênh buôn bán quan trọng nhờ mối quan hệ qua lại của người Việt di cư sang Mỹ với quê nhà. FBI đã khai thác một phần tử ly khai với Mặt trận Hoàng Cơ Minh, người này nói rằng số vốn mặt trận gửi về Việt Nam tính đến thời điểm đó khoảng 3 triệu USD.
Trong các dịch vụ sử dụng nguồn vốn này, có buôn bán ma túy (chủ yếu là bạch phiến) từ Sài Gòn đến Băng Cốc rồi sang Francico. Buôn bán bạch phiến, mocphin là thứ mà người của mặt trận tham gia mạnh nhất, đồng thời kiêm cả chuyển đô la, vàng trái phép. Số này sử dụng các mánh khóe, thủ đoạn để đối phó cơ quan bảo vệ pháp luật các nước, trong đó thủ đoạn ưa dùng là dùng phụ nữ trá hình như du khách, mang trong người số lượng bạch phiến qua Băng Cốc, Manila rồi vào Mỹ.
“Đây là một dịch vụ có tầm vóc rộng lớn, mặc dù chỉ giới hạn vào một hoặc hai ký bạch phiến cho mỗi chuyến đi và thường thường là cán bộ nữ của mặt trận được chỉ định để làm việc này” – FBI nhận định.
Còn nữa
PV

Kiến nghị cần có chữ "tâm"

QĐND - Thứ tư, 18/11/2015 | 10:37 GMT+7
QĐND - Những năm gần đây, Đảng, Nhà nước ta chủ động đẩy mạnh việc thực hiện dân chủ, đồng thời tích cực thực hiện các giải pháp nhằm bảo đảm cho dân chủ được thể hiện rộng rãi trong thực tế. Các dự án luật mới xây dựng, dự án luật sửa đổi, bổ sung; dự thảo văn kiện trình Đại hội toàn quốc của Đảng... đều được đăng tải công khai trên phương tiện thông tin đại chúng. Mục đích cao nhất của việc này là nhằm tranh thủ ý kiến đóng góp của các tầng lớp nhân dân, bảo đảm cho đường lối, chủ trương của Đảng, hệ thống pháp luật của Nhà nước luôn phù hợp với lợi ích dân tộc và nhân dân. Chính vì vậy, đã có nhiều ý kiến tâm huyết đóng góp vào các dự thảo luật, dự thảo văn kiện. Trong đó có nhiều ý kiến chất lượng, thể hiện tính phát hiện cao và thực sự gợi mở ra những giải pháp, nhằm bảo đảm cho các dự thảo nói trên ngày càng hoàn thiện. Những ý kiến đó đã được hệ thống báo chí đăng tải công khai và được ban soạn thảo các văn kiện, văn bản luật nghiêm túc tiếp thu. Điều đó cho thấy, tính dân chủ trong xây dựng văn bản pháp luật của chúng ta đã có tiến bộ vượt bậc.
Một xã hội muốn phát triển thì tất yếu xã hội đó phải được quản lý bằng pháp luật một cách nghiêm chỉnh. Trong tất cả hoạt động, lĩnh vực của đời sống xã hội, đều cần phải được điều chỉnh bằng các điều luật, với đủ khung quy định mọi hành vi thì mới bảo đảm tính chặt chẽ của pháp luật. Đất nước nào cũng thế, xã hội hiện đại thì hệ thống luật càng hoàn thiện và đầy đủ. Ấy thế nhưng gần đây, một số người đã lợi dụng việc đóng góp ý kiến vào Dự thảo sửa đổi Bộ luật Hình sự (do Bộ Tư pháp chủ trì lấy ý kiến, kết thúc vào tháng 2-2015), các dự thảo Luật Tín ngưỡng, tôn giáo; Luật về hội... để xuyên tạc hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam. Đối với Bộ luật Hình sự, họ đòi hỏi phải bỏ hẳn các điều 39 (quy định về tội tử hình), 71 (áp dụng quy định của Bộ luật Hình sự đối với pháp nhân phạm tội), 109 (quy định về tội bạo loạn), 117 (quy định về tội chống phá trại giam), 258 (quy định về tội cưỡng bức người khác sử dụng ma túy)... mà theo họ là để nhằm “mở rộng quyền con người và tự do dân chủ”. Cũng nhân việc đóng góp ý kiến, họ xuyên tạc về cách xây dựng văn bản luật của Việt Nam, cho rằng cách làm hiện nay là không khoa học, nhiều điều luật còn “mơ hồ”. Hàm ý của một số người trong việc đóng góp ý kiến là muốn Bộ luật Hình sự của Việt Nam “càng sơ hở càng tốt”. Thế nên trong các góp ý của họ không thể hiện được chữ "tâm" để làm cho bộ luật tốt hơn, chặt chẽ hơn mà chỉ mang mục đích loại bỏ các điều luật.
Việc đóng góp ý kiến vào các văn bản luật là quyền của mọi công dân. Tuy nhiên những ý kiến thiếu bề “xây”, chỉ nhăm nhăm vào bề “chống” thì thật khó được chấp nhận cũng là lẽ đương nhiên.
KHUẤT TRỌNG NAM

Những âm mưu làm thay đổi bản chất chế độ xã hội chủ nghĩa

QĐND - Thứ hai, 16/11/2015 | 7:25 GMT+7
QĐND - Dự thảo văn kiện Báo cáo chính trị Đại hội XII của Đảng được công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng (ngày 15-9-2015) nhằm giới thiệu quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng ta với nhân dân, đồng thời tranh thủ ý kiến đóng góp của toàn dân cho văn kiện. Ngay sau khi công bố Dự thảo văn kiện, nhiều cuộc hội thảo, hội nghị đã được tổ chức. Tuyệt đại đa số các ý kiến đều thể hiện tinh thần trách nhiệm, cởi mở, chân thành mong muốn Đại hội XII sẽ là một Đại hội đổi mới mạnh mẽ, không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà cả trong chính trị, xã hội bao gồm cả lĩnh vực dân chủ, nhân quyền và quan hệ quốc tế… hướng tới mục tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Có ý kiến cho rằng không vì những khó khăn nhất thời của công cuộc đổi mới, không vì những vấn đề “nóng” trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển đảo mà dao động về con đường đi lên CNXH, về chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Báo cáo còn phản ánh sự lo lắng, bức xúc của người dân về tình trạng tham nhũng chưa được đẩy lùi; tệ nạn xã hội có khuynh hướng gia tăng; tình trạng người dân vẫn phải sử dụng thực phẩm không rõ nguồn gốc, thực phẩm không an toàn; tình trạng phá rừng, khai thác lâm sản trái phép vẫn diễn biến phức tạp; tình hình khiếu nại, tố cáo vẫn tiếp diễn…
Ảnh minh họa.
Về việc bảo vệ quyền con người, cử tri và nhân dân đề nghị: Tăng cường các biện pháp phòng, chống oan sai, làm rõ trách nhiệm bồi thường đối với cơ quan, đơn vị, tổ chức, cá nhân vi phạm và bảo đảm bồi thường cho người bị thiệt hại...Cử tri mong muốn thực hiện tốt Hiến pháp 2013, xây dựng Luật về hội, Luật trưng cầu ý dân, Luật biểu tình.
Thế nhưng lợi dụng việc góp ý kiến cho Dự thảo văn kiện Đại hội XII, có người đã “bày tỏ sự thất vọng” đối với Dự thảo văn kiện. Theo họ, Dự thảo Báo cáo chính trị “không có gì mới so với trước, Đảng vẫn chưa thoát khỏi một lối “tư duy chính trị” lạc hậu và do đó cần phải có một nhân tố mới, như một nhà lãnh đạo có tư duy cải tổ”…Có kẻ còn viết bài phân tích có “bài bản” gợi ý lợi dụng cơ hội biến góp ý cho Dự thảo văn kiện trở thành cuộc vận động cho “một cuộc cách mạng nhung”(!). Chẳng hạn, họ cho rằng hiện nay xã hội ta đã hình thành, xuất hiện “tình huống của cuộc cách mạng”. Họ viết: Cùng với nguy cơ về chủ quyền biển đảo, “Việt Nam đang ở bên bờ hủy diệt…Các số liệu cho thấy nền kinh tế và chính trị Việt Nam đều có thể sụp đổ bất cứ lúc nào” (!?). Về lực lượng cách mạng, họ cho rằng đã “có ngay trong thể chế” của xã hội, đó là: “Tầng lớp cấp tiến, bao gồm nhiều nhân sĩ trí thức, các tổ chức xã hội dân sự”. Về người lãnh đạo, họ phân tích người này gợi ý người kia, nhằm gây rối, chia rẽ nội bộ Đảng ta.  
Mục tiêu của cuộc “cách mạng nhung” theo họ là “thực hiện cấp bách một cuộc cải cách thể chế…, “chỉ cần Đảng bớt độc quyền, độc đoán, độc tài mà hãy vì nhân dân, vì Tổ quốc mở rộng tự do, dân chủ, tôn trọng nhân quyền”. Ai cũng biết cái gọi là “ thể chế” của họ là mô hình “đa nguyên chính trị-đa đảng đối lập” mà những người “bất đồng chính kiến” đã đề cập từ lâu, nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chẳng hạn cách đây không lâu, có người đã “kiến nghị”: “Việt Nam cần có một cuộc đổi mới thứ hai và cải cách thể chế”.
Vậy thực chất kịch bản chính trị này là gì? Tính hiện thực của nó ra sao?
Trước hết phải nói rằng, “kịch bản cách mạng nhung” ở Việt Nam là một cách nhìn kỳ thị, qua lăng kính “cận thị”, đen tối, nếu không nói rằng đó là một ý đồ chính trị thâm độc. Không phủ nhận rằng Việt Nam đang phải đối diện với các nguy cơ, nhiều khó khăn thách thức. Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm 1994) nêu lên vẫn tồn tại, thậm chí có mặt diễn biến phức tạp, như nguy cơ “diễn biến hòa bình”, nay còn có thêm nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng và Nhà nước. Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút; kinh tế phát triển chưa bền vững…Tuy nhiên không thể vì những khó khăn thách thức đó mà phủ nhận được những thành quả to lớn hơn 30 năm đổi mới.
Cho đến nay, nền kinh tế nước ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, quy mô và tiềm lực được nâng lên; kinh tế vĩ mô dần ổn định, lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng kinh tế tuy thấp hơn 5 năm trước, nhưng vẫn đạt tốc độ khá và có chiều hướng phục hồi. Chính trị-xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; đến nay Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 180 quốc gia, trong đó có quan hệ tốt với 5 nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Điều đó có nghĩa chế độ xã hội ta đã được xác lập, đứng vững trong lòng dân tộc và được cộng đồng quốc tế tin cậy, đánh giá cao.
Đường lối đối ngoại và quốc phòng của Việt Nam dựa trên sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, với chiến lược “đa phương hóa, đa dạng hóa” quan hệ quốc tế, không phân biệt sự khác biệt về ý thức hệ, vì lợi ích của các bên. Đường lối đó cũng không hạn chế Việt Nam tăng cường hợp tác toàn diện, kể cả an ninh, quốc phòng với các quốc gia, kể cả Hoa Kỳ.
Có thể nói, Dự thảo Văn kiện Đại hội XII đã thể hiện được thành quả về lý luận của 30 năm đổi mới. Nhìn một cách tổng thể so với mô hình XHCN kiểu cũ, mô hình xã hội ta ngày nay là một mô hình xã hội hiện đại, phù hợp với xu thế của thời đại. Về chính trị, đó là nền dân chủ XHCN, với nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; về kinh tế-đó là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; về đối ngoại, Việt Nam không chỉ “mở cửa” mà đã trở thành thành viên của nhiều tổ chức Liên hợp quốc, trong đó có Hội đồng nhân quyền (nhiệm kỳ 2014-2016).
Đại hội XII sẽ tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện hơn nữa. Chẳng hạn về kinh tế sẽ tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Về chính trị, xã hội, nhà nước ta đã và đang triển khai tích cực Hiến pháp 2013 dựa trên thể chế chính trị XHCN, tôn trọng và bảo đảm các quyền con người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; hội nhập quốc tế sâu rộng hơn…Những nội dung trên cho thấy không có chuyện Dự thảo văn kiện chỉ toàn là “tư duy chính trị cũ, lạc hậu”, không có chuyện “Việt Nam cần có một cuộc cải cách thể chế”, một cuộc “đổi mới thứ hai”. Càng không có chuyện Việt Nam cần một cuộc “cách mạng nhung” để bảo vệ chủ quyền biển đảo và phát triển đất nước.
Con đường đi lên CNXH của dân tộc ta không chỉ được lựa chọn trong lịch sử của thế kỷ XX mà còn đang được đổi mới, hoàn thiện, phù hợp với xu thế của thời đại, vì lợi ích của nhân dân ta.
BẮC HÀ

Đằng sau “Tuyên bố” của những “tổ chức” mạng

QĐND - Thứ hai, 09/11/2015 | 7:58 GMT+7
QĐND - Thời gian gần đây, khi tình hình thế giới, khu vực và trong nước trở nên “nóng” hơn và phức tạp hơn, nhất là nhiều sự kiện diễn ra liên quan đến chủ quyền biển, đảo và tự do hàng hải ở Biển Đông, nhiều “tổ chức” ảo (trên mạng), không có tư cách pháp nhân đã ra “Tuyên bố”, “ký tên” ảo với nhiều động cơ bất chính. Chẳng hạn như các “Tuyên bố”: Hoa Kỳ đưa tàu khu trục USS Lassen vào Biển Đông; “Tuyên bố” về chuyến thăm Việt Nam của Chủ tịch Tập Cận Bình”; “Tuyên bố… về dự thảo “Luật về Hội”…
Những ai đã có dịp đọc qua những “Tuyên bố” này thì đều thấy đó là sự xuyên tạc quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, nhất là về đường lối đối ngoại. Mục tiêu của những cá nhân, “tổ chức” ảo này là đi từ làm giảm uy tín, niềm tin của nhân dân đối với Đảng, gây mất ổn định chính trị-xã hội để đi đến chuyển hóa chế độ xã hội ta sang mô hình “dân chủ-đa nguyên” ngoại nhập. Mặt khác, qua những “Tuyên bố” đó, người ta hy vọng sẽ từng bước khẳng định được vai trò ảo của mình để đi đến vai trò thật đối với Nhà nước và xã hội như mô hình “dân chủ-đa nguyên” nước ngoài. Để làm rõ những “ý tưởng” đó, xin được bình luận “Tuyên bố… dự thảo “Luật về Hội”.
Như mọi người đều biết, sau khi Hiến pháp 2013 được Quốc hội thông qua, có hiệu lực, nhiều dự án luật đã được cơ quan chức năng chuẩn bị, đệ trình và Quốc hội đã cho phổ biến rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, lấy ý kiến cá nhân, tổ chức. Trong những dự án luật đó có dự án Luật về Hội.
Một trong những nội dung chính của “Tuyên bố” là người ta đưa ra những đòi hỏi về quyền được tham gia vào dự thảo luật này. Hơn nữa, họ còn lớn tiếng rao giảng về “quyền con người”. Họ nói: “Chúng tôi đưa quyết tâm không để mình bị loại ra khỏi tiến trình đóng góp ý kiến cho bản dự thảo Luật về Hội,… chúng tôi không bao giờ từ bỏ Quyền tự do Lập hội của mình vì quyền này là quyền cốt lõi, có khả năng thúc đẩy các Nhân quyền quan trọng khác”. Họ còn viết: “Quyền lập hội là quyền hiến định, bất cứ người dân nào cũng có quyền lập hội và tham gia hội. Do đó việc lập hội chỉ cần ghi danh và công bố, không cần xin phép và đợi sự cho phép của cơ quan Nhà nước” (!).
Về nội dung dự thảo luật, họ viết: “Điều 4 Hiến pháp cho phép Đảng Cộng sản Việt Nam độc tôn đứng trên mọi lực lượng Nhà nước và xã hội... Khoản 3, Điều 2, cho phép Chính phủ Việt Nam quy định chi tiết về các hội đoàn… chỉ áp dụng đối với hội có tư cách pháp nhân, tức được chính quyền công nhận”... Lý do mà họ đòi quyền này, theo họ là vì quyền con người (QCN) đã được ghi trong các công ước quốc tế về QCN, hơn nữa còn được ghi trong Hiến pháp 2013-Chương II. Trong chương này đã quy định cụ thể: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định” (Điều 25).
Không phủ nhận rằng, Hiến pháp 2013 đã dành cả một chương quy định về “QCN, quyền và nghĩa vụ công dân”. Trong Chương II, Hiến pháp đã quy định một cách đầy đủ các QCN, tương thích với các công ước quốc tế cơ bản về QCN. Không những thế, Hiến pháp 2013 còn đưa ra những nguyên tắc về QCN bao gồm các nội dung cơ bản về mối quan hệ giữa Nhà nước với người dân, nguyên tắc “hạn chế quyền” và nguyên tắc “suy luận vô tội”.
Điều 14 quy định như sau: “1. Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các QCN, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. 2. QCN, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
Tuy nhiên, những người soạn thảo “Tuyên bố” đã cố ý không hiểu Hiến pháp là luật “khung”, Hiến pháp không trực tiếp điều chỉnh các mối quan hệ xã hội cụ thể. Hiến pháp là những quy định cơ bản về chế độ chính trị và những chuẩn mực chung về pháp lý. Các quy định cụ thể trong việc bảo đảm quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức phải do luật quy định. Tại Điều 25 có ghi: “Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Bởi vậy, dự thảo Luật về Hội đưa ra các quy định cụ thể về điều kiện thực hiện quyền lập hội của công dân, chức năng nhiệm vụ của hội… là hoàn toàn hợp lý, hợp pháp. Phân tích những đòi hỏi của các “tổ chức” ảo với những quy định của Hiến pháp 2013 có thể nói đó là những đòi hỏi không thể chấp nhận được.
Thứ nhất các cá nhân“tổ chức” ảo (mạng) đã bỏ lỡ thực hiện nghĩa vụ và cơ hội tham gia vào góp ý dự thảo Luật về Hội.
Dự thảo Luật về Hội đã được công bố vào tháng 6-2015 để lấy ý kiến của toàn dân. Theo quy định chung của pháp luật, tất cả công dân đều có quyền và nghĩa vụ tham gia đóng góp vào dự thảo luật. Cho đến nay đã có không ít cá nhân, tổ chức đóng góp vào dự thảo Luật về Hội. Chẳng hạn như một số ý kiến đăng tải trên nhiều phương tiện thông tin đại chúng của cá nhân vào tháng 6-2015(1). Phải chăng các cá nhân trong “tổ chức” ảo đã bỏ qua cơ hội thực hiện nghĩa vụ tham gia góp ý trong khuôn khổ thời gian cho phép?! Bỏ qua cơ hội này là lỗi thuộc về họ.
Nhân đây phải nói thêm rằng, các cá nhân, tổ chức “ký tên” ảo (trên mạng) là một đòi hỏi mang tính “đặc quyền”. Nói cụ thể, những đòi hỏi của cá nhân, “tổ chức” ảo (trên mạng) không có tư cách pháp nhân để góp ý kiến. Điều này là trái với pháp luật Việt Nam, đồng thời cũng trái với nguyên tắc bình đẳng về quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội trong luật quốc tế về QCN.
Thứ hai, những cá nhân và “tổ chức” ảo đòi quyền góp ý dự thảo Luật về Hội là trái pháp luật.
Hội là một pháp nhân, nghĩa là một tổ chức được pháp luật thừa nhận và bảo hộ. Bộ luật Dân sự quy định: “Pháp nhân là một tổ chức được thành lập theo quy định của bộ luật này, các luật khác có liên quan”. Việc đòi quyền tham gia góp ý dự thảo Luật về Hội với tư cách là một “tổ chức” ảo, “tổ chức” tự phong, tự lập, không được Nhà nước công nhận, đương nhiên là không có giá trị. Những đòi hỏi này chẳng những trái với Hiến pháp, pháp luật mà còn không phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc và “Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị”, 1966.
Điều 1, “Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, năm 1966” đã quy định:  
 “1. Mọi dân tộc đều có quyền tự quyết. Xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị của mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa...”. Quy định này có nghĩa, mỗi nhà nước có quyền xây dựng chế độ chính trị xã hội, thể chế quốc gia-bao gồm cả Hiến pháp và Luật của mình mà không có bất cứ ai có quyền can thiệp, kể cả Liên hợp quốc. Bộ luật Dân sự, Luật về Hội (nếu dự luật được thông qua) với những hạn chế nào đó về quyền như quy định việc “thành lập, đăng ký pháp nhân” trong Luật Dân sự và dự thảo Luật về Hội là hoàn toàn hợp pháp.
Xin được nhắc lại, quy định về pháp nhân trong Bộ luật Dân sự như sau: “1. Mọi cá nhân và pháp nhân đều có quyền thành lập pháp nhân,... 2. Pháp nhân được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền,... 3. Đăng ký pháp nhân bao gồm đăng ký thành lập, đăng ký thay đổi, đăng ký xóa đăng ký pháp nhân và đăng ký khác theo quy định của pháp luật”. Nói một cách cụ thể-các “tổ chức” tự phong, tự lập, cùng với “danh sách” cá nhân, “tổ chức” ảo là hoàn toàn không có tư cách pháp nhân. Và vì vậy những đòi hỏi quyền của cá nhân “tổ chức” ảo về quyền tham gia vào các hoạt động chính trị xã hội nói chung, tham gia vào dự thảo Luật về Hội nói riêng là trái với pháp luật hiện hữu.
Về chính trị, “Tuyên bố” cho rằng: “Điều 4, Hiến pháp cho phép Đảng Cộng sản Việt Nam độc tôn đứng trên mọi lực lượng Nhà nước và xã hội và các luật… Đảng Cộng sản Việt Nam cũng phải được định nghĩa như một hội thông thường trong Luật về Hội, không có ưu tiên độc tôn, độc quyền…” là một quan điểm xa lạ với nền chính trị và tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam.
Thực tế lịch sử cho thấy: Trong thế kỷ XX, Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội mà còn là tổ chức khai sinh ra Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là Nhà nước CHXHCN Việt Nam; là tổ chức khai sinh ra các tổ chức chính trị-xã hội chủ yếu của hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay. Mặt khác, Điều 4, Hiến pháp 2013 đã đưa ra quy định hạn chế quyền của Đảng. Điều này chứng tỏ không có chuyện Hiến pháp đặt Đảng đứng trên Nhà nước và xã hội như “Tuyên bố” viết. Điều 4 quy định như sau:
“1. Đảng Cộng sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội… Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân…Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” (Điều 4).
Nhân đây, xin được chia sẻ với những người soạn thảo “Tuyên bố” nói trên và những ai ký tên tham gia “văn kiện” này rằng: Các bạn hãy chuẩn bị các điều kiện để xin đăng ký thành lập hội, đoàn... sau khi Luật về Hội được Quốc hội thông qua. Một khi đã có tư cách pháp nhân, các bạn không chỉ có quyền, nghĩa vụ mà còn được Nhà nước bảo vệ.
BẮC HÀ

(1) Xem “Một số góp ý đối với dự thảo Luật về Hội”, website Viện Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp; hoặc đóng góp ý kiến dự thảo Luật về Hội, trong buổi tọa đàm về dự thảo Luật về Hội của Liên hiệp Các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam ngày 16-6-2015, tại Hà Nội.

Một số ý kiến về tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam trong Bộ luật Hình sự năm 1999

19:23 09/11/2015
Tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được quy định tại Điều 88 Bộ luật Hình sự năm 1999. Thực tiễn đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia thời gian qua cho thấy, các thế lực thù địch, phản động và các loại tội phạm ráo riết tiến hành các hoạt động “diễn biến hòa bình”, phá hoại tư tưởng nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Từ năm 2005 đến nay, Cơ quan An ninh điều tra các cấp đã khởi tố, điều tra 104 vụ án với 155 bị can về tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Qua công tác điều tra, truy tố, xét xử số đối tượng phạm tội này cho thấy, ngoài hành vi tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chúng còn có hành vi tuyên truyền chống Đảng Cộng sản Việt Nam.
Việc điều tra, xử lý số đối tượng phạm tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã góp phần bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Do vậy, chúng tôi không đồng tình với quy định tại Điều 117 về tội làm, tàng trữ, tán phát hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi), bởi lẽ thực tiễn thi hành quy định về tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được quy định tại Điều 88 Bộ luật Hình sự năm 1999 cho thấy, không có vướng mắc, khó khăn trong điều tra, xử lý đối với hành vi chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mà chỉ có vướng mắc trong điều tra, xử lý đối với hành vi tuyên truyền chống Đảng Cộng sản Việt Nam do chưa được quy định cụ thể trong điều luật này.
Để hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành về tội tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, góp phần bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội được quy định tại Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 và nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm an ninh quốc gia, chúng tôi đề nghị sửa đổi, bổ sung Điều 88 Bộ luật Hình sự hiện hành theo hướng:
“Điều 117. Tội tuyên truyền chống Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1. Người nào có một trong những hành vi sau đây nhằm chống Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:
a) Tuyên truyền, xuyên tạc, phỉ báng Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
b) Tuyên truyền những luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin, bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân;
c) Làm ra, tàng trữ, tán phát thông tin, tài liệu, vật phẩm có nội dung chống Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
3. Người chuẩn bị phạm tội này thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”./.
Phan Bá