Không thể xuyên tạc chủ trương thành lập Quỹ Công nghiệp quốc phòng, an ninh

Thứ hai, 26/08/2024 - 05:55

Việc thành lập Quỹ Công nghiệp quốc phòng, an ninh (QPAN) là chủ trương đúng đắn nhằm hỗ trợ ngân sách nhà nước phục vụ cho phát triển công nghiệp QPAN để chủ động bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Song, trên một vài trang mạng xã hội vẫn có thông tin cố tình xuyên tạc, bóp méo chủ trương này với âm mưu phá vỡ sự đồng thuận xã hội, gây mất niềm tin vào Đảng, Nhà nước, Quân đội hòng phục vụ mưu đồ đen tối của các thế lực thù địch, phản động.

Theo quy định của Luật Công nghiệp QPAN và động viên công nghiệp (ĐVCN), Quỹ Công nghiệp QPAN là quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, được thành lập ở Trung ương, do Chính phủ quản lý để hỗ trợ triển khai thực hiện các nhiệm vụ cấp bách, có tính mới, rủi ro cao hoặc nghiên cứu, chế tạo vũ khí, trang bị kỹ thuật có ý nghĩa chiến lược, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ đặc biệt.

Tuy nhiên, sau khi Luật Công nghiệp QPAN và ĐVCN được Kỳ họp thứ bảy, Quốc hội khóa XV thông qua thì trên một vài trang mạng xã hội đã xuất hiện luận điệu xuyên tạc, quy chụp, như: "Bộ Quốc phòng muốn lập Quỹ Công nghiệp QPAN để chiếm đoạt ngân sách quốc gia”; "quỹ này là hình thức lách luật để bòn rút ngân sách lâu dài, có tính toán của phía Quân đội”... Các đối tượng phản động cố tình bóp méo mục đích, cơ chế hoạt động của Quỹ Công nghiệp QPAN với luận điệu: “Sản phẩm "mật" có tính rủi ro cao, chẳng khác nào những sản phẩm không bảo đảm chất lượng nhưng vẫn phải bảo mật thông tin, nghĩa là quỹ này sẽ chế tạo ra sản phẩm "mật", người dân không được biết thông tin, và nếu sản phẩm không có chất lượng thì đó là rủi ro, người dân không được lên tiếng ý kiến”...

Không thể xuyên tạc chủ trương thành lập Quỹ Công nghiệp quốc phòng, an ninh
 

Không thể xuyên tạc chủ trương thành lập Quỹ Công nghiệp quốc phòng, an ninh.

Trước hết, cần khẳng định rõ, việc chuẩn bị Luật Công nghiệp QPAN và ĐVCN (trong đó có quy định thành lập Quỹ Công nghiệp QPAN) được tiến hành rất kỹ lưỡng, trong suốt thời gian dài, bảo đảm sự bài bản, cẩn trọng, phát huy dân chủ trên cơ sở cụ thể hóa quan điểm, đường lối của Đảng và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phù hợp với các bộ luật có liên quan và tình hình thực tiễn đất nước.

Từ đầu năm 2022, Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo đã xác định: Công nghiệp quốc phòng là ngành đặc thù, phải được chăm lo, xây dựng và phát triển theo một cơ chế đặc thù, được ưu tiên trong đầu tư, phát triển và coi trọng phát triển nguồn lực khoa học, công nghệ, huy động tối đa thành tựu của nền công nghiệp quốc gia phục vụ công nghiệp quốc phòng.

Cuối tháng 3-2024, trong Chương trình Hội nghị đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách lần thứ năm, Quốc hội khóa XV, khi thảo luận về dự thảo Luật Công nghiệp QPAN và ĐVCN, đại đa số các đại biểu tán thành việc thành lập Quỹ Công nghiệp QPAN nhằm hỗ trợ ngân sách nhà nước phục vụ cho phát triển công nghiệp QPAN; coi đây là giải pháp, cơ chế đặc thù, vượt trội, có ý nghĩa chiến lược, nhất là trong triển khai các chương trình, dự án đầu tư có tính cấp bách, nghiên cứu, chế tạo vũ khí, trang bị kỹ thuật có ý nghĩa chiến lược, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ đặc biệt, có tính rủi ro cao.

Tiếp đó, tại Kỳ họp thứ bảy, Quốc hội khóa XV (tháng 5-2024), khi thảo luận về dự thảo Luật Công nghiệp QPAN và ĐVCN, một lần nữa, đa số ý kiến đại biểu Quốc hội khẳng định, thành lập Quỹ Công nghiệp QPAN là rất cần thiết để bảo đảm yêu cầu xây dựng nền công nghiệp QPAN chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại.

Thực tế những năm qua cho thấy, công nghiệp QPAN là lĩnh vực có tính đặc thù cao; trực tiếp liên quan đến khả năng tác chiến, sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang. Để đáp ứng yêu cầu tăng cường tiềm lực QPAN, bảo vệ Tổ quốc, cần có các cơ chế để huy động nguồn lực cho phát triển công nghiệp QPAN, nhất là các nhiệm vụ cấp bách hoặc nghiên cứu, chế tạo các sản phẩm mới, công nghệ cao, có tính rủi ro lớn. Trong khi đó, nguồn ngân sách QPAN của chúng ta thời gian qua chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm, nâng cấp vũ khí, trang bị kỹ thuật, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ. Việc bố trí ngân sách cho hoạt động nghiên cứu, thử nghiệm chưa được thường xuyên, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra.

Trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (4.0), để tiếp cận nhanh với nền khoa học, công nghệ tiên tiến trên thế giới, tiệm cận với các nước có nền công nghiệp QPAN phát triển, việc thành lập Quỹ Công nghiệp QPAN sẽ giúp giảm “gánh nặng” cho ngân sách nhà nước, tăng tính chủ động, linh hoạt trong bố trí nguồn lực, để các chuyên gia, nhà khoa học tập trung nghiên cứu phát triển, sản xuất sản phẩm mới, công nghệ cao phục vụ nền công nghiệp QPAN, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đặc biệt, tại phiên thảo luận ngày 30-5-2024 của Kỳ họp thứ bảy, Quốc hội khóa XV, Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã chia sẻ: Nếu chúng ta sử dụng ngân sách theo quy trình của sử dụng ngân sách nhà nước thì có những trường hợp không đáp ứng được tính thời sự của nhiệm vụ quân sự, quốc phòng và độ bảo mật cũng hạn chế hơn rất nhiều. Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy, các quốc gia có nền công nghiệp quốc phòng phát triển đều xây dựng các quỹ tài chính phục vụ cho lĩnh vực công nghiệp quốc phòng với nhiều tên gọi, hình thức khác nhau.

Mặt khác, Điều 22 Luật Công nghiệp QPAN và ĐVCN đã quy định rõ việc Chính phủ thành lập, quản lý, sử dụng Quỹ Công nghiệp QPAN. Đồng thời, các nội dung về nguồn hình thành quỹ này được Luật Công nghiệp QPAN và ĐVCN quy định rất cụ thể, rõ ràng và có tính khả thi, nhất là khoản trích lập từ lợi nhuận sau thuế theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 21; nguồn đóng góp tự nguyện của tổ chức, cá nhân trong nước, ngoài nước; nguồn tài chính hợp pháp khác theo quy định của pháp luật. Nguyên tắc hoạt động của Quỹ Công nghiệp QPAN cũng được quy định rõ: Không vì mục đích lợi nhuận; quản lý, sử dụng đúng mục đích, đúng pháp luật, kịp thời, hiệu quả; hỗ trợ triển khai thực hiện các nhiệm vụ cấp bách, có tính mới, rủi ro cao hoặc nghiên cứu, chế tạo vũ khí, trang bị kỹ thuật có ý nghĩa chiến lược, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ đặc biệt. Đây chính là cơ sở pháp lý bảo đảm việc huy động, sử dụng Quỹ Công nghiệp QPAN được thực hiện đúng mục đích, công khai, minh bạch. Hoàn toàn không có cái gọi là “người dân không được lên tiếng ý kiến” như các thế lực thù địch đang cố tình xuyên tạc, bóp méo.

Như vậy, có thể thấy, việc thành lập Quỹ Công nghiệp QPAN là rất cần thiết nhằm hỗ trợ triển khai thực hiện các nhiệm vụ cấp bách hoặc nghiên cứu phát triển sản phẩm QPAN. Quỹ này chính là nguồn lực quan trọng để đẩy mạnh xây dựng nền công nghiệp QPAN chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại; góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu đã được Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XIII) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới và Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XIII, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, giữ nước từ khi nước chưa nguy.

Trung tá, TS TẠ QUANG ĐẠO, Phòng Khoa học Quân sự, Trường Sĩ quan Chính trị

Nhận diện và đấu tranh phản bác luận điệu sai trái về con đường đi lên CNXH ở nước ta hiện nay (bài 2)

Thứ Ba, 27/08/2024, 05:25

Thực tiễn đất nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đặt ra yêu cầu cần tìm đường để giải quyết vấn đề độc lập dân tộc và tự do, dân chủ cho nhân dân. Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và từng bước biến nước ta trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến.

Xã hội Việt Nam lúc bấy giờ chịu sự chi phối bởi hai mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp: Mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam và ách đô hộ của thực dân Pháp; mâu thuẫn giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với địa chủ phong kiến. Để giải quyết mâu thuẫn đặt ra đã có nhiều phong trào đấu tranh theo lập trường phong kiến và tư sản mặc dù anh dũng, yêu nước nhưng đã không tránh khỏi thất bại.

Mô hình CNXH ở nước ta ngày càng sáng rõ

Từ thực tiễn khủng hoảng, bế tắc, yêu cầu về con đường cứu nước, trong hành trình bôn ba nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh nghiên cứu lịch sử cách mạng Hà Lan, Anh, Mỹ, Pháp, Đức, Trung Quốc…; tìm hiểu lịch sử cách mạng Nga, nhất là Cách mạng tháng Mười Nga (1917). Hồ Chí Minh nhận định: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật…

luan dieu.jpg -0
Đi lên Chủ nghĩa xã hội, đất nước ta ngày càng phát triển vững mạnh, thể hiện diện mạo mới.

Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”. Sau khi trở thành người cộng sản, Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Đây là con đường có triển vọng giải quyết triệt để hai nhiệm vụ dân tộc và giai cấp, mang đến độc lập dân tộc thật sự.

Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên (1930), Đảng ta xác định “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đại hội II của Đảng (2/1951) nêu rõ: “Đảng Lao động Việt Nam đoàn kết và lãnh đạo toàn dân kháng chiến cho đến thắng lợi hoàn toàn, tranh lại thống nhất và độc lập hoàn toàn; lãnh đạo toàn dân thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều kiện để tiến đến CNXH”. Đại hội III (1960) khẳng định: “Đẩy mạnh cách mạng XHCN ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”.

Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất, Đại hội IV của Đảng (1976) chỉ rõ: “Cách mạng nước ta trong giai đoạn mới là hoàn thành thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH”. Đại hội lần thứ V của Đảng (1982) nêu lên hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta trong giai đoạn mới: “Một là, xây dựng thành công CNXH; hai là sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Hai nhiệm vụ chiến lược đó quan hệ mật thiết với nhau”.

Đại hội lần thứ VI, Ðảng ta khẳng định: “Toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đoàn kết một lòng, quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng tiếp tục thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN”. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH được thông qua tại Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) xác định: “Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và CNXH. Đó là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện CNXH và CNXH là cơ sở đảm bảo vững chắc cho độc lập dân tộc”. Đại hội Đảng lần thứ VIII (1996), Đảng tiếp tục xác định bài học quan trọng đầu tiên đối với cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới là: “Giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trong quá trình đổi mới; nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”.

Bước sang thế kỷ XXI, với nhiều cơ hội và thách thức mới, Đại hội Đảng lần thứ IX (2001) khẳng định: Trong quá trình đổi mới, phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đại hội lần thứ X (2006) của Đảng nhấn mạnh bài học: “Trong quá trình đổi mới, phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”. Và trong bối cảnh mới, tại Đại hội XIII Đảng ta xác định: “Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Kiên định đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Thực tiễn sống động minh chứng cho sự lựa chọn đúng đắn

Nhờ giải quyết, xử lý đúng đắn quan hệ dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc và CNXH, Đảng ta đã quy tụ được sức mạnh toàn dân làm nên Cách mạng Tháng Tám (1945), đưa người dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, thực hiện thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân dân, đế quốc và các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam (1978) và biên giới phía Bắc (1979); thực hiện thành công công cuộc đổi mới từ năm 1986 đến nay.

Từ khi Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới, nhờ kiên định độc lập dân tộc và CNXH, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Việt Nam tiếp tục là điểm sáng của kinh tế toàn cầu, cơ bản đạt được mục tiêu tổng quát đề ra trên các lĩnh vực. Trong đó, năm 2023 kinh tế vĩ mô ổn định; lạm phát thấp hơn mục tiêu; nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài, bội chi ngân sách Nhà nước được kiểm soát; tăng trưởng được thúc đẩy; các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm. Tăng trưởng GDP cả năm khoảng 5%.

Chỉ số thu nhập bình quân đầu người tăng nhanh qua các năm. Nếu như ở thời điểm năm 1988, GDP bình quân đầu người của nước ta chỉ có 86 USD thì đến năm 2023 ước đạt 101,9 triệu đồng/người, tương đương 4.284 USD, tăng 160 USD so với năm 2022, tầng lớp trung lưu đang hình thành - hiện chiếm 13% dân số, tức khoảng hơn 13 triệu người.

Hiện nay, Việt Nam được cộng đồng quốc tế ghi nhận là điểm sáng về công tác giảm nghèo và là quốc gia duy nhất ở châu Á thực hiện chương trình giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững. Theo báo cáo của Chính phủ về việc thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, ước tính tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều năm 2023 còn 2,93%, giảm 1,1%; tỷ lệ hộ nghèo tại các huyện nghèo còn khoảng 33%, giảm 5,62%. Công tác an sinh xã hội được thực hiện tốt cũng là một điểm nhấn góp phần mang lại cuộc sống hạnh phúc cho người dân như: hỗ trợ, chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, trẻ em, người khuyết tật, thương binh, gia đình liệt sĩ... Cơ cấu mạng lưới cơ sở trợ giúp xã hội của cả nước ngày càng mở rộng đáp ứng nhu cầu sử dụng dịch vụ trợ giúp xã hội của đối tượng cần trợ giúp xã hội.

Bên cạnh đó, việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế được chú trọng, triển khai thực hiện với những kết quả tích cực. Tuổi thọ trung bình cũng tăng nhanh, năm 2023 là 73,7 tuổi, xếp vào nhóm cao giữa các quốc gia trong khu vực có mức thu nhập tương đương. Trong những năm qua, Việt Nam đã ngừng nỗ lực để người dân được sống trong một môi trường hạnh phúc. Điều này đã được ghi nhận qua việc tăng 12 bậc, từ vị trí thứ 77 lên 65 trong xếp hạng chỉ số hạnh phúc thế giới 2023 của Liên hợp quốc.

Ở Việt Nam, công dân tự do làm những việc mà pháp luật không cấm. Vấn đề tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do Internet… luôn được pháp luật tôn trọng, bảo vệ theo quy định của pháp luật. Nhà nước tạo điều kiện cho cá nhân, tổ chức tự do làm giàu chính đáng; mọi ý kiến, đóng góp xây dựng quê hương đất nước giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc luôn được khuyến khích, bảo vệ. Mọi người dân đều được hưởng lợi về chính sách giáo dục. Hệ thống giáo dục quốc dân phát triển, bảo đảm cho mọi công dân được thụ hưởng nền giáo dục công bằng và tiến bộ.

Từ một nước bị bao vây, cấm vận, đến nay, nước ta đã có quan hệ ngoại giao với 193 quốc gia, trong đó có 7 nước đối tác chiến lược toàn diện, 11 nước đối tác chiến lược và 12 nước đối tác toàn diện. Trước một thế giới đầy biến động, diễn biến phức tạp khó lường, Việt Nam luôn là điểm đến của hòa bình, hữu nghị, nơi các nước lớn trên thế giới luôn xem Việt Nam là đối tác quan trọng. Mặt khác, công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ngày càng được được đẩy mạnh, kiên quyết, kiên trì với quan điểm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai” đã đạt được nhiều kết quả toàn diện, rõ nét, để lại dấu ấn tốt, tạo hiệu ứng tích cực, lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao.

Những nỗ lực vì con người, vì hạnh phúc nhân dân đã đạt được trong gần 40 năm đổi mới là to lớn, đánh dấu một bước tiến chưa từng thấy trên con đường xây dựng, phát triển đất nước, minh chứng thuyết phục cho tính chất ưu việt của con đường đi lên CNXH. Thực tế những chặng đường lịch sử cách mạng đã chứng minh, đi lên CNXH là con đường duy nhất đúng đắn của dân tộc Việt Nam. Mặc dù hiện thực hóa mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH là vấn đề lâu dài với vô vàn khó khăn, thách thức, song toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta có quyền tự hào về những thành tựu đã đạt được. Kỷ niệm 79 năm ngày Quốc khánh 2/9 là dịp để chúng ta tăng cường hơn nữa tinh thần đoàn kết, tiếp tục đồng sức, đồng lòng vững bước trên con đường đã chọn và kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch.

Chu Thắng – Trịnh Thúy 

    Nhận diện và đấu tranh phản bác luận điệu sai trái về con đường đi lên CNXH ở nước ta hiện nay

    Thứ Hai, 26/08/2024, 04:45

    Ngày Quốc khánh 2/9 là dấu mốc chói lọi, hào hùng của lịch sử nước nhà, mở ra một kỷ nguyên mới độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội (CNXH). Chính nhờ đoàn kết, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH đã mang lại thành quả cách mạng như ngày hôm nay, đất nước hòa bình, ổn định, ngày càng phát triển phồn vinh, nhân dân ngày càng có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Thế nhưng bất chấp thực tế đó, các thế lực thù địch, phản động vẫn tìm mọi cách chống phá con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.

    Luận điệu xuyên tạc, chống phá

    Ngay từ khi Việt Nam xác lập và quyết tâm thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH cũng là lúc các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội đòi thay đổi, từ bỏ con đường CNXH, muốn đất nước ta lùi về giai đoạn dân chủ nhân dân, đòi đổi tên Đảng, tên nước, công khai hô hào đi theo con đường Tư bản chủ nghĩa (TBCN).

    Gần đây, họ cho rằng, con đường mà Việt Nam muốn đi là thứ TBCN theo định hướng XHCN, nhưng con đường này không thể thành công vì không thể nào giải quyết thỏa hiệp giữa hai chủ nghĩa đối lập nhau.

    cã¡ch mạng thã¡ng tã¡m.jpg -0
    Mít tinh hưởng ứng cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền tại Quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội sáng 19/8/1945. Ảnh tư liệu

    Đặc biệt, sau khi mô hình CNXH ở Liên Xô, các nước Đông Âu sụp đổ và ngày nay CNTB đã có sự điều chỉnh, thích nghi, có những yếu tố mới, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị gia tăng các hoạt động công kích, chống phá chế độ. Họ cho rằng CNXH là “không tưởng” để ra sức bôi đen, bóp méo CNXH hiện thực. Gần đây, các thế lực thù địch đưa ra luận điệu vu cáo rằng: “Đất nước giành chính quyền 79 năm mà dân vẫn khổ cực, từ người già đến trẻ nhỏ, nam giới hay phụ nữ rời bỏ thiên đường để xâm nhập vào tư bản Mỹ”. Nguy hại hơn, các đối tượng phản động lợi dụng một bộ phận người dân khó khăn trong cuộc sống, một bộ phận cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất, có hành vi tham nhũng để miệt thị mục tiêu, lý tưởng của Đảng, dân tộc ta.

    Bên cạnh đó, họ công công khai ca ngợi, ra sức cổ súy, tán dương chế độ TBCN khi cho rằng CNTB đã thay đổi về bản chất, CNTB có thể hội tụ với CNXH trong thời đại hậu công nghiệp, văn minh tin học. Họ lấy một số khuyết điểm về quản lý kinh tế, quản lý xã hội để hạ bệ, phủ nhận CNXH, xuyên tạc rằng, ở nước ta không có CNXH. Hiện nay, Việt Nam đang ở trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH, họ lại đòi hỏi những nhân tố của CNXH phải xuất hiện đầy đủ.

    Không những thế, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị tìm cách xuyên tạc lịch sử, đưa ra luận điệu lố bịch rằng vì mục tiêu XHCN mà Đảng ta gây ra cảnh chiến tranh cho dân tộc. Từ đó, các thế lực thù địch quy kết rằng chỉ có đi theo con đường TBCN thì mới giữ vững được nền độc lập, CNXH ở Việt Nam là ảo tưởng. Phương thức mà các thế lực thù địch sử dụng là triệt để khai thác tính năng của Internet như tốc độ lan truyền nhanh, lượng thông tin lớn, độ tương tác rộng; thiết lập nhiều tài khoản mạng xã hội như youtube, facebook, blog… để phát tán video, hình ảnh, bài viết có nội dung xấu độc, xuyên tạc hiện thực về thành quả thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH.

    Những luận điệu nói trên của các thế lực thù địch và những kẻ cơ hội tuy không mới nhưng hết sức nguy hại, mục đích nhằm gây sự hoài nghi, phá vỡ sự đồng thuận xã hội, làm suy giảm niềm tin của nhân dân ta đối với mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước; tiến tới xóa bỏ chế độ XHCN, hướng lái đất nước đi vào con đường TBCN. Chính vì vậy, việc đấu tranh, phê phán các quan điểm sai trái, thù địch; củng cố, giữ vững sự kiên định niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta vào con đường XHCN là vấn đề vô cùng quan trọng của cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” trên mặt trận tư tưởng, lý luận ở nước ta hiện nay.

    Cần hiểu đúng về CNTB

    CNTB với tư cách là phương thức sản xuất được hình thành và thay thế phương thức sản xuất phong kiến trong lịch sử, là chế độ kinh tế - xã hội tiến bộ hơn nhiều so với các chế độ kinh tế - xã hội trước đó khi đã vận dụng hiệu quả quy luật của kinh tế thị trường, sau khi ra đời chưa đầy một thế kỷ đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại.

    Trong lịch sử ra đời và tồn tại hơn 300 năm, CNTB đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển, từ CNTB tự do cạnh tranh đến CNTB độc quyền, CNTB độc quyền nhà nước và ngày nay là CNTB hiện đại trong bối cảnh toàn cầu hóa. Mặc dù CNTB là chế độ ưu việt hơn so với các chế độ trước đó, có vai trò lớn trong việc nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội nhanh chóng, song xét về bản chất đây vẫn là chế độ bất công bởi những tiến bộ về kinh tế chủ yếu được sử dụng nhằm phục vụ cho lợi ích giai cấp tư sản, do đó CNTB càng phát triển thì các mâu thuẫn nội tại của nó càng sâu sắc. CNTB hiện đại ở một số nước có những thành tựu vượt bậc và điều chỉnh nhiều mặt nhưng về bản chất, mục đích không thay đổi. Sự điều chỉnh ấy là có giới hạn và mục đích thực chất của việc điều chỉnh là xoa dịu mâu thuẫn, vì lợi ích của giai cấp tư sản cầm quyền.

    Biểu hiện rõ nhất trong chế độ TBCN là sự bất bình đẳng trong quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, khi một bộ phận số ít trong xã hội nắm trong tay những tư liệu sản xuất chủ yếu thì đại bộ phận giai tầng trong xã hội đó dường như không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất. Hay sự phân cực ngày càng rõ nét trong sở hữu tài sản cho thấy sự bất bình đẳng xã hội ngày càng tăng ở trong lòng nội tại các nước tư bản mà còn trên phạm vi thế giới. Khoảng cách về thu nhập giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển năm 1960 là 30 lần thì hiện nay là 70 lần và giá trị tài sản của các tỷ phú trên thế giới đã tăng gấp đôi trong 10 năm qua. Xét về phạm vi thế giới, tình trạng phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc khiến các nước nghèo ngày càng nghèo hơn, các nước giàu ngày càng giàu hơn. Theo đó, tài sản của 1% người giàu nhất cao hơn 74 lần so với 50% người nghèo nhất.

    Chênh lệch về thu nhập, mức sống, tài sản giữa người giàu và người nghèo trong thế giới tư bản rất lớn, xu hướng ngày càng gia tăng. Theo đó, trong một báo cáo của Oxfam, từ năm 2020, nhóm 1% những người giàu nhất đang nắm giữ gần 2/3 số tài sản mới của nhân loại, trị giá 42.000 tỷ USD, gần gấp đôi số tài sản của 99% nhóm dân số còn lại. Riêng trong 2 năm đầu của đại dịch COVID-19, tài sản của 10 người giàu nhất thế giới đã tăng gấp đôi từ 700 tỷ USD lên 1.500 tỷ USD; trong khi thu nhập của 99% nhân loại giảm xuống và thế giới có thêm hơn 160 triệu người rơi vào cảnh nghèo đói. Riêng tại Mỹ, số tỷ phú ngày càng nhiều và giá trị tài sản của họ tăng khoảng 30% kể từ khi bắt đầu xảy ra đại dịch COVID-19 và tăng gần 90% trong thập niên qua. Trong khi đó, khoảng 30% lực lượng lao động Mỹ kiếm được chưa đến 15 USD/giờ. Thực tế các con số này là minh chứng rõ nhất sự bất bình đẳng tại Mỹ cũng như giữa các quốc gia trong những thập niên gần đây. Vì thế, chính CNTB là một nguyên nhân dẫn đến sự bất bình đẳng giữa các quốc gia - dân tộc, là một nhân tố làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo.

    Hiện nay, khi nhân loại sản xuất ra được khối lượng của cải vật chất khổng lồ, có thể bảo đảm dôi dư lương thực, thực phẩm cho toàn bộ dân số thế giới, nhưng vẫn còn khoảng 900 triệu người nghèo đói, không đủ ăn. Trong khi đó, ngoại trừ vài trường hợp của các quốc gia công nghiệp hóa mới (NICs), tuyệt đại đa số quốc gia đang phát triển vẫn đang loay hoay tìm cách thoát khỏi cái bẫy thu nhập trung bình; tuổi thọ bình quân của người dân các nước công nghiệp phát triển hiện nay cao hơn 32 năm so với người dân các nước châu Phi (Nam Sahara).

    Không những vậy, CNTB ngày nay ngày càng bộc lộ bản chất cực đoan, hiếu chiến. Lịch sử cho thấy, CNTB chỉ vì lợi nhuận mà đã sử dụng mọi thủ đoạn để tranh giành thị trường, thuộc địa và phạm vi ảnh hưởng, kể cả phải dùng đến bạo lực để độc chiếm lợi nhuận một cách tối đa. Nhân loại chứng kiến các cuộc xâm lược, đàn áp, nô dịch của chủ nghĩa thực dân, đế quốc - sản phẩm của CNTB đối với các quốc gia - dân tộc khác, biến các nước có chủ quyền thành thuộc địa hoặc nửa thuộc địa. Hơn bất kỳ các quốc gia – dân tộc trên thế giới, chính dân tộc Việt Nam đã kinh qua sự tàn bạo của chủ nghĩa thực dân, đế quốc. Hai cuộc chiến tranh thế giới và hàng trăm cuộc xung đột, chiến tranh, chạy đua vũ trang đều có sự góp mặt của CNTB. Ngày nay, trong thế giới tư bản vừa cạnh tranh, vừa liên kết, trong đó thành lập các liên minh bất chấp luật pháp quốc tế sử dụng sức mạnh kinh tế, quân sự để buộc các quốc gia phải lệ thuộc, đe dọa quyền tự quyết của các dân tộc.

    Những dẫn chứng trên cho thấy, CNTB không thể và không phải là tương lai của nhân loại mà “XHCN là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã hội hài hoà với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm” như khẳng định của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong phát biểu nhân kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì thế, mọi quan điểm cổ xúy, tán dương, tuyệt đối hóa CNTB và phỉ báng CNXH là sai lầm, cực đoan. (Còn nữa)

    Chu Thắng – Trịnh Thúy

    Phê phán nhận thức lệch lạc về bảo đảm chính sách tiền lương cho lực lượng vũ trang

    Thứ năm, 22/08/2024 - 05:38

    Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nghị quyết, chính sách liên quan đến cải cách tiền lương, trong đó có tiền lương của LLVT.

    Đây là những quyết sách đúng đắn, phù hợp, góp phần xây dựng LLVT nhân dân theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Tuy nhiên, lợi dụng vấn đề này, một số người đã có nhận định sai trái khi cho rằng, “cán bộ, chiến sĩ LLVT thời nay có phải chiến đấu, hy sinh đâu mà được bảo đảm tiền lương cao hơn các thành phần hưởng lương khác”. Đây là nhận thức lệch lạc cần phải phê phán.

    Việc cải thiện tiền lương cho LLVT là phù hợp với ý Đảng, lòng dân

    Tiền lương là một trong những động lực quan trọng hàng đầu để bảo đảm cuộc sống cho các đối tượng được hưởng lương trong khu vực công nói chung, LLVT nói riêng, Đảng ta đề ra nhiều chủ trương, giải pháp nhằm đổi mới chính sách tiền lương, tạo điều kiện cho cán bộ, công chức, viên chức và cán bộ, chiến sĩ LLVT ngày càng có mức thu nhập ổn định, cải thiện cuộc sống tốt hơn.

    Phê phán nhận thức lệch lạc về bảo đảm chính sách tiền lương cho lực lượng vũ trang
    Ảnh minh họa: TTXVN 

    Trên cơ sở quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại”, Nghị quyết Đại hội XI Đảng bộ Quân đội đề ra chủ trương: “Đến năm 2025 cơ bản hoàn thành việc điều chỉnh tổ chức, biên chế theo hướng tinh, gọn, mạnh; đến năm 2030 một số quân chủng, binh chủng, lực lượng hiện đại, phấn đấu từ năm 2030 xây dựng Quân đội hiện đại”.

    Đảng ta xác định, củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, trọng yếu của cả hệ thống chính trị, trong đó LLVT giữ vai trò nòng cốt. Đây là cơ sở, tiền đề để bảo đảm đất nước có môi trường chính trị ổn định, hòa bình để thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, phồn vinh. Để thực hiện tốt nhiệm vụ chiến lược bảo vệ Tổ quốc hiện nay, điều có ý nghĩa căn cốt là phải chăm lo xây dựng LLVT vững mạnh, có sức mạnh chiến đấu, sức mạnh tổng hợp ngang tầm với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

    Hoạt động với cường độ áp lực cao, không kể thời gian, không gian, thời tiết, khí hậu, ở đâu gian nan, nguy hiểm nhất ở đó đòi hỏi cán bộ, chiến sĩ LLVT phải có mặt kịp thời. Với tinh thần “Vì nhân dân quên mình, vì nhân dân hy sinh”, “Vì nước quên thân, vì dân phục vụ”, cán bộ, chiến sĩ LLVT đã không ngại khó khăn, gian khổ, chấp nhận hy sinh về nhiều mặt để cống hiến, dấn thân, xông pha, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc, bảo vệ cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân.

    Tuy vậy, một bộ phận cán bộ, sĩ quan trong LLVT hiện nay, nhất là sĩ quan cấp úy công tác ở các đơn vị vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới gặp nhiều khó khăn về đời sống do tiền lương thấp, mức thu nhập có hạn. Điều đó ít nhiều ảnh hưởng đến tâm tư, tình cảm, nhu cầu chính đáng của cán bộ, sĩ quan và gia đình, hậu phương của họ. Trong khi đó, đời sống xã hội có nhiều chuyển biến, nhiều ngành nghề có lợi thế trong xã hội với mức thu nhập tương đối khá so với mức thu nhập của sĩ quan, nhất là sĩ quan cấp úy.

    Nói như vậy không có nghĩa đánh đồng toàn bộ LLVT hiện nay phải đối diện với những khó khăn mà sinh ra nhụt chí, không hoàn thành nhiệm vụ. Dù khó khăn đến đâu, LLVT vẫn luôn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, là chỗ dựa vững chắc cho nhân dân trong bất cứ hoàn cảnh nào, bất cứ nơi đâu. Chúng ta còn nhớ câu nói của Thiếu tướng Nguyễn Văn Man, Phó tư lệnh Quân khu 4 vào tháng 10-2020: “Việc thì gấp, vì nhiệm vụ, vì nhân dân chúng ta phải làm”; “Nhân dân đang cần chúng ta từng giờ, từng phút, dù khó khăn thế nào cũng phải đi, kể cả có hy sinh”. Đó cũng là lần cuối cùng, vị tướng và 12 đồng đội được phục vụ nhân dân rồi hy sinh, vĩnh viễn nằm lại đất mẹ tại Rào Trăng (Thừa Thiên Huế).

    Từ giữa năm 2021, đại dịch Covid-19 diễn biến hết sức phức tạp tại nước ta, nhất là các tỉnh phía Nam, khi sức khỏe và tính mạng của nhân dân bị đe dọa nghiêm trọng, cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta kịp thời có mặt ở những vùng tâm dịch, với tinh thần: “Chống dịch như chống giặc”, “Giúp dân là mệnh lệnh trái tim”. Rất nhiều việc làm có ý nghĩa thiết thực được triển khai như: Bộ đội nhường nơi ở, tiếp tế lương thực, thực phẩm cho nhân dân, thực hiện nhiệm vụ hỏa táng, mang tro cốt những người không may bị tử vong do dịch Covid-19 về từng gia đình. Vào thời điểm đó, có những cán bộ, chiến sĩ phải làm nhiệm vụ chống dịch trong khi người thân mất cũng không thể về chịu tang. Điển hình như Trung tá QNCN Trương Minh Dũng công tác ở Bộ chỉ huy Bộ đội Biên phòng TP Hồ Chí Minh, do đang làm nhiệm vụ phòng, chống dịch Covid-19 nên anh không thể về chịu tang khi nghe tin cha mất. Anh đành ngậm ngùi gác lại việc riêng để cùng đồng đội làm tròn nhiệm vụ của một quân nhân.

    Nhận thức lệch lạc về chính sách tiền lương cho LLVT là sai cả lý và tình

    Sau gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nước ta đã thoát ra khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, kinh tế tăng trưởng khá cao, quá trình phát triển, kinh tế luôn gắn liền với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Trong thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội thì việc bảo đảm thu nhập cho người dân nói chung và LLVT nói riêng là rất quan trọng.

    Từ Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21-5-2018 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về cải cách chính sách tiền lương, Chính phủ giao các cơ quan chức năng xây dựng phương án để trình Quốc hội khóa XV tại Kỳ họp thứ bảy. Ngày 29-6-2024, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết của kỳ họp, trong đó thống nhất thực hiện các nội dung cải cách tiền lương, điều chỉnh mức lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp xã hội, trợ cấp người có công từ ngày 1-7-2024. Mức lương cơ sở của cán bộ, công chức, viên chức và LLVT tăng từ 1,8 triệu đồng lên 2,34 triệu đồng. Việc cải cách tiền lương theo các nội dung xác định trong Nghị quyết số 27-NQ/TW sẽ được tiến hành theo lộ trình, bảo đảm chặt chẽ, khoa học, phù hợp với thực tiễn.

    Như vậy có thể thấy, việc tăng lương cho khu vực công, trong đó có LLVT là hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tiễn, qua đó khích lệ tinh thần cống hiến, sáng tạo, nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ. Đối với LLVT, do tính chất lao động đặc biệt, sẵn sàng hy sinh tính mạng để bảo vệ đất nước, bảo vệ tài sản Nhà nước, bảo vệ tài sản và tính mạng nhân dân nên bảng lương dành cho LLVT cần được nghiên cứu và có tính đặc thù là cần thiết.

    Tuy nhiên, thời gian gần đây, trên mạng xã hội xuất hiện ý kiến cho rằng: “Bộ đội, công an thời bình có hy sinh gì đâu mà mức lương đặc thù cao hơn công chức khác”. Đây là suy nghĩ chưa đúng và không thấy hết những cống hiến, hy sinh của cán bộ, chiến sĩ LLVT. Đáng tiếc là một bộ phận người dân hùa theo luận điệu này và có những bình luận thiếu thiện chí trên mạng xã hội. Đó chính là một trong những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

    Trên thực tế, dù gặp không ít khó khăn, vất vả trong cuộc sống, công việc và mức độ thu nhập, nhưng cán bộ, chiến sĩ LLVT vẫn một lòng tận trung với Đảng, với Tổ quốc, tận hiếu với dân, kiên trì bám trụ địa bàn, bám trụ đơn vị để sẵn sàng và thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao. Tự nguyện cống hiến, hy sinh vì bình yên của Tổ quốc, vì cuộc sống của nhân dân, tuyệt đại đa số cán bộ, chiến sĩ LLVT không hề so đo, tính toán thiệt hơn, mà luôn có “tâm trong, trí sáng”, vững vàng bản lĩnh trong mọi hoàn cảnh, xứng đáng là chỗ dựa tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Do đó, mọi luận điệu xuyên tạc, lời lẽ bình luận ác ý, thiếu thiện chí về chính sách cải thiện tiền lương của LLVT hiện nay là sai cả về lý và tình.

    Những người xuyên tạc, bình luận thiếu thiện chí về tiền lương của LLVT không biết có thấm thía lời ca “Ai cũng chọn việc nhẹ nhàng, gian khổ biết dành phần ai”? Trong xã hội, nếu ai cũng muốn “việc nhẹ, lương cao” thì ai sẽ gánh vác nhiệm vụ bảo vệ non sông bờ cõi của tổ tiên, ông cha để lại? Trong khi đó, bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh trật tự là công việc hệ trọng, nhiệm vụ nặng nề, tính chất gian khổ mà những người ngày đêm lặng thầm với sứ mệnh đó vẫn đang phải đối mặt với bao khó khăn, hiểm nguy, thậm chí lúc nào cũng sẵn sàng hy sinh cả tính mạng mình cho cộng đồng, Tổ quốc thì liệu họ có xứng đáng được hưởng những đồng lương tương xứng với những gì họ đang đánh đổi? Đây là câu hỏi mà bất cứ người nào có lương tri cũng nên trả lời một cách thấu đáo, thỏa đáng.

    Như vậy, có thể khẳng định, cùng với bảo đảm chính sách tiền lương cho cán bộ, công chức, viên chức trong khu vực công, việc đổi mới chế độ, chính sách tiền lương cho cán bộ, chiến sĩ LLVT là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp trong tình hình hiện nay. Việc làm này cũng không ngoài mục đích động viên, khuyến khích, tạo động lực tích cực cho cán bộ, chiến sĩ LLVT thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và cuộc sống yên bình, hạnh phúc của nhân dân.

    QUỐC QUÂN - TÀI TIẾN - ĐỨC CẨM 

    Cách mạng Tháng Tám phủ định các luận điệu sai trái về vai trò của Đảng và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc

    Thứ Hai, 19/08/2024, 06:47

    Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là thắng lợi lịch sử vĩ đại, đánh dấu sự biến đổi to lớn trong tiến trình lịch sử của dân tộc Việt Nam. Thắng lợi này đã đập tan ách thống trị của thực dân, phát xít, đưa dân tộc ta bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, nhân dân ta là người làm chủ đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, nỗ lực bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước.

    Những luận điệu lạc lõng trong dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám thành công

    Hằng năm, cứ vào dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Tám, các thế lực thù địch, phản động lại tìm mọi cách tung ra những luận điệu cố tình xuyên tạc sự thật lịch sử, phủ nhận thành quả của cuộc cách mạng, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Gần đây, một số luận điệu tiếp tục cho rằng, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là “nhờ sự may mắn chứ Đảng Cộng sản Việt Nam không có vai trò gì”; bôi nhọ “Cách mạng Tháng Tám không đem lại dân chủ, tự do thực sự cho người dân”; vu cáo “cuộc cách mạng đánh dấu bước đi sai lầm của Đảng Cộng sản, đẩy dân tộc vào cảnh chiến tranh, đói nghèo, lạc hậu”...

    Cách mạng Tháng Tám phủ định các luận điệu sai trái về vai trò của Đảng và sức mạnh đại đoàn kết dân tộc -0
    Mít tinh hưởng ứng cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền tại Quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội sáng 19/8/1945.(Ảnh tư liệu)

    Thời gian qua, lợi dụng tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp, khó lường cùng một số mặt khó khăn của đất nước, các thế lực thù địch gia tăng hoạt động chống phá cách mạng nước ta trên nhiều hướng, đặc biệt trên môi trường mạng xã hội hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các trang VOA, RFA, BBC, RFI, Việt Tân… đã triệt để lợi dụng các nền tảng mạng xã hội như Youtube, Twitter, Facebook với các hình thức như bình luận theo chuyên đề, kể chuyện lịch sử, luận đàm, từ đó xuyên tạc, bịa đặt, bóp méo sự thật lịch sử. Các tổ chức trên còn đưa ra lập luận rằng, sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Đảng Cộng sản nắm độc quyền thống trị đất nước, thành lập Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Đảng “đã áp đặt một chế độ độc tài toàn trị, thay đổi hình thức từ chế độ “vua trị” sang chế độ “đảng trị”. Họ xuyên tạc chế độ hiện nay chính là chế độ phong kiến kéo dài, nhân dân vẫn tiếp tục bị áp bức, đô hộ, đòi Đảng ta phải thoái lui; đổ lỗi những yếu kém là do Đảng, cổ xuý thành tựu của nền dân chủ phương Tây, đòi thực hiện “đa nguyên, đa đảng”, từ bỏ con đường đi lên CNXH để đưa Việt Nam theo quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản.

     Âm mưu của những tổ chức, cá nhân thù địch, phản động nhằm hạ thấp uy tín, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và Chủ tịch Hồ Chí Minh; tạo ra những góc nhìn phiến diện, sai lệch, mơ hồ, nghi hoặc trong nhận thức của cán bộ, đảng viên, nhân dân trong nước và thế giới; làm phai nhạt niềm tin của người dân với Đảng, Nhà nước; kích động, làm sâu sắc hơn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” tiến tới phủ nhận, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, hướng lái con thuyền cách mạng nước ta đi chệch định hướng XHCN. Họ coi việc tuyên truyền trên Internet, nhất là mạng xã hội là cách hiệu quả để truyền bá tư tưởng thù địch, phản động đến với người dân, là con đường ngắn nhất để xóa bỏ mọi thành quả của cách mạng Việt Nam mà Đảng và nhân dân ta đã dày công vun đắp, tạo dựng.

    Song, dù có cố tình chống phá, xuyên tạc, họ cũng không thể phủ nhận ý nghĩa to lớn cùng những giá trị tự do, dân chủ đích thực mà Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã mang lại cho đất nước, dân tộc Việt Nam cũng như đóng góp cho phong trào cách mạng giải phóng dân tộc trên thế giới.

    Minh chứng lịch sử khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc

    Nhìn lại lịch sử, năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam. Triều đình phong kiến nhà Nguyễn rơi vào khủng hoảng và bất lực, chịu thất bại rồi đi đến đầu hàng (ký Hiệp ước Giáp Thân 1884), chấp nhận làm tay sai cho giặc. Từ đó, để phục vụ mục đích nô dịch thuộc địa và bóc lột lâu dài, thực dân Pháp thi hành chính sách “chia để trị”. Nhân dân sống trong cảnh “nước mất, nhà tan”, cuộc đời lầm than cơ cực. Trong bối cảnh đó, với truyền thống yêu nước nồng nàn, các tầng lớp nhân dân ta đã liên tiếp vùng lên chống giặc.

    Các phong trào yêu nước trong giai đoạn này có thể kể đến như Phong trào Cần Vương, Duy Tân, Đông Du và các cuộc khởi nghĩa Yên Thế, Yên Bái... cùng hàng chục cuộc đấu tranh khác đều bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp đẫm máu. Đi liền với đó là sự đô hộ của thực dân Pháp trong gần một thế kỷ trước khi Cách mạng Tháng Tám thành công đã chứng tỏ cả giai cấp phong kiến và đại diện cho các thế lực tư sản đã hết vai trò lịch sử, vận mệnh của dân tộc và đất nước lâm vào tình thế bế tắc, không có đường ra. Một trong những nguyên nhân căn bản nhất dẫn tới sự thất bại là các phong trào yêu nước thời điểm đó chưa phát huy được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dẫn đến các phong trào chỉ diễn ra nhỏ lẻ không có sự gắn kết. Đồng thời, do không có một đường lối cách mạng đúng đắn và phương pháp cách mạng thích hợp nên tất cả các phong trào nổi dậy, các cuộc khởi nghĩa mang sắc thái, giai tầng khác nhau dẫn đến không quy tụ được các tầng lớp nhân dân trong nước và đều bị thất bại. Vấn đề bức thiết đặt ra thời điểm này là bằng con đường nào, cách thức nào, tổ chức lực lượng thế nào để đánh đuổi thực dân Pháp, giành lại độc lập dân tộc.

    Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề đoàn kết toàn dân tộc. Trong hệ thống tư tưởng của Người, đại đoàn kết toàn dân tộc là một nội dung cốt lõi. Người thấu hiểu sức mạnh của muôn người đoàn kết như một trong truyền thống dân tộc để áp dụng vào cách mạng để trong một nước không có tầng lớp này chống lại tầng lớp kia, trong dân tộc không có hận thù, không phân biệt giai cấp, dân tộc, tôn giáo, giàu nghèo, sang hèn, già trẻ, gái trai... miễn là có sức, có lòng cùng mục tiêu vì một nền độc lập của dân tộc thì đều đáng quý, đáng trân trọng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ đã tập hợp, đoàn kết và phát huy sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, kiên trì và nhất quán quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vai trò quyết định của quần chúng nhân dân trong lịch sử, khẳng định quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra chế độ xã hội mới, là chủ nhân của sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Sự lựa chọn con đường cách mạng của Người vào thời điểm đó là phù hợp với yêu cầu của lịch sử dân tộc, là sự lựa chọn đúng đắn, duy nhất của Việt Nam. Ngày 3/2/1930, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là tất yếu của lịch sử.

    Với chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp với quyền lợi và nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân, ngay trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và được bổ sung, hoàn thiện xuyên suốt trong quá trình chuẩn bị để tập hợp lực lượng cho Cách mạng Tháng Tám, thể hiện rõ nét nhất là quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tám (tháng 5/1941). Để thực hiện mục tiêu chiến lược đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra đường lối đại đoàn kết dân tộc đúng đắn. Khi thời cơ ngàn năm có một đã tới, Đảng và Bác Hồ đã ra lời kêu gọi toàn quốc đồng bào gia nhập Việt Minh, đoàn kết chung quanh Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam, đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta. Nhân dân cả nước triệu người như một dưới sự lãnh đạo của Đảng đã nhất tề nổi dậy từ khởi nghĩa từng phần đến phạm vi cả nước. Chỉ trong 15 ngày, với sự đoàn kết của toàn dân, cả lực lượng vũ trang và lực lượng chính trị, trong đó lực lượng chính trị của quần chúng đóng vai trò quyết định, tạo nên sức mạnh to lớn giành thắng lợi hoàn toàn.

    Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là minh chứng sinh động về sức mạnh đồng thuận của cả dân tộc Việt Nam khi được Đảng khơi dậy, tổ chức, tập hợp với tinh thần tự lực, tự cường. Thắng lợi đó đã khẳng định trong thực tế lòng tin tuyệt đối của quần chúng nhân dân vào đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Khẳng định ý nghĩa lịch sử vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: “Cách mạng Tháng Tám đã lật đổ nền quân chủ mấy mươi thế kỷ, đã đánh tan xiềng xích thực dân gần 100 năm, đã đưa chính quyền lại cho nhân dân, đã xây dựng nền tảng cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, độc lập, tự do, hạnh phúc. Đó là một cuộc thay đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử của nước ta”.

    Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Đây không chỉ là thắng lợi của tinh thần “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” mà còn là thắng lợi đầu tiên của một dân tộc thuộc địa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã lật đổ chế độ thực dân phong kiến, xác lập chính quyền cách mạng của dân, do dân, vì dân. Ngoài ra, thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 còn có giá trị lan tỏa sâu sắc đối với cách mạng thế giới, đánh dấu sự mở đầu trên phạm vi quốc tế cho cao trào giải phóng dân tộc sau chiến tranh thế giới thứ hai; mở ra mối quan hệ ngoại giao của Việt Nam với các nước với tư cách và vị thế của một quốc gia - dân tộc có độc lập, có chủ quyền.

    Gần 80 năm đã trôi qua nhưng tầm vóc ý nghĩa thắng lợi, bài học kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Tám vẫn còn nguyên giá trị và ngày càng tỏa sáng. Đó là một trong những trang chói lọi nhất trong lịch sử của dân tộc ta, một dấu mốc lớn trên con đường phát triển trong suốt chiều dài mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Tầm vóc và giá trị lịch sử của Cách mạng Tháng Tám luôn là niềm tự hào thôi thúc toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta tiếp tục phát huy truyền thống đại đoàn kết, vượt qua mọi khó khăn, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

    Liêm Chính - Bình Nguyên

     

      Minh chứng bác bỏ luận điệu xuyên tạc, công kích việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam

      Thứ Sáu, 16/08/2024, 06:26

      Với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, trong đó vấn đề công bằng xã hội luôn được Đảng và Nhà nước ta xác định là mục tiêu đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển.

      Thực tiễn thời gian qua, Đảng, Nhà nước Việt Nam đã ban hành và hiện thực hóa các chủ trương, chính sách nhằm khắc phục những mặt trái của nền kinh tế thị trường, bảo đảm công bằng xã hội, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Vậy nhưng bất chấp những thành tựu mà Việt Nam đạt được trong bảo đảm công bằng xã hội, các thế lực thù địch, phản động lại vẽ ra những bức tranh xám xịt, tung các luận điệu sai trái, xuyên tạc.

      Nhận diện âm mưu, thủ đoạn chống phá

      Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động đã phát tán nhiều thông tin xấu độc xuyên tạc vấn đề công bằng xã hội ở Việt Nam. Lợi dụng một bộ phận người dân gặp khó khăn trong đời sống xã hội như nhà ở, việc làm, lao động, thu nhập…, các đối tượng thổi phồng để bôi nhọ thể chế. Họ vu cáo rằng, chế độ độc đảng ở Việt Nam gây ra tồn tại bất công xã hội, người dân bị phân biệt, đối xử; chính quyền không quan tâm đến các đối tượng yếu thế; công bằng xã hội chỉ dành cho quan chức chứ không thuộc về “dân đen”…

      Họ công kích việc thực hiện mục tiêu công bằng xã hội chỉ là khẩu hiệu suông, không có trong hiện thực; đồng thời ca ngợi thể chế chính trị ở phương Tây, cho rằng chỉ có chủ nghĩa tư bản mới có công bằng xã hội, mới là đích đến còn CNXH “chỉ là hư ảo, lừa mị dân”. Các đối tượng suy diễn, ngụy biện xảo trá rằng, do chế độ “độc tài”, “toàn trị” nên xã hội không có quyền bình đẳng, người dân không có quyền đòi hỏi, chỉ biết chấp nhận “an phận”. Từ đó, các đối tượng kích động trên mạng xã hội, kêu gọi người dân muốn có cơm no, áo ấm, muốn có công bằng, dân chủ, văn minh thì phải đấu tranh để thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, phải “xoá bỏ độc tài”... Trong dịp kỷ niệm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2/9 năm nay, các luận điệu công kích, xuyên tạc trên lại tái diễn với nhiều phương thức truyền bá khác nhau.

      Minh chứng bác bỏ luận điệu xuyên tạc, công kích việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam -0
      Ảnh minh hoạ.

      Không khó để nhận ra âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch nhằm kích động tâm lý hoài nghi, lung lay niềm tin về con đường đi lên CNXH, nhất là đối với giới trẻ. Từ đó, họ hướng tới phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc; làm suy giảm ý chí đồng lòng, quyết tâm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, hướng tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lật đổ chế độ XHCN ở nước ta.

      Công bằng xã hội – mục tiêu nhất quán, xuyên suốt của Việt Nam

      Ở nước ta, thực chất của bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội là giải quyết hài hòa giữa phát triển đất nước với thực hiện chính sách xã hội, đem lại cuộc sống hòa bình, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân; phát triển toàn diện phẩm chất, năng lực của con người, trên tinh thần tất cả vì con người. Trong đó, phát triển kinh tế thị trường dù theo mô hình CNXH hay chủ nghĩa tư bản đều tồn tại khuyết tật bẩm sinh là cạnh tranh, bất bình đẳng xã hội. Vì vậy, điều quan trọng là các quốc gia làm thế nào khắc phục hiệu quả nhất những tồn tại của khuyết tật bẩm sinh vốn có của nền kinh tế thị trường.

      Xuyên suốt sự nghiệp cách mạng, nhất là từ khi nước ta tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng, Nhà nước Việt Nam đều chủ trương, nhất quán thực hiện tiến bộ công bằng xã hội. Đại hội X của Đảng xác định: “Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục..., giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người”. Đến Đại hội lần thứ XIII tiếp tục khẳng định: “Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữ ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng XHCN; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất XHCN; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường...”. Đồng thời, “Phát triển vì con người, tạo điều kiện cho mọi người, nhất là trẻ em, nhóm yếu thế, đồng bào dân tộc thiểu số, người di cư hòa nhập, tiếp cận bình đẳng nguồn lực, cơ hội phát triển và hưởng thụ công bằng các dịch vụ xã hội cơ bản. Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện các chính sách dân tộc bình đẳng, đoàn kết, cùng phát triển”.

      Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là quốc gia thống nhất của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển”.

      Sinh thời, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nhấn mạnh: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội... Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và huỷ hoại môi trường”.

      CNXH ở nước ta hướng tới mục tiêu công bằng xã hội khác hoàn toàn về chất so với các nước tư bản chủ nghĩa. Công bằng xã hội ở nước ta trước hết nhân dân là chủ, là chủ thể nắm giữ tư liệu sản xuất, không giống như các nước tư bản “một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội... Sự rêu rao bình đẳng về quyền, nhưng không kèm theo sự bình đẳng về điều kiện để thực hiện các quyền đó đã dẫn đến dân chủ vẫn chỉ là hình thức, trống rỗng mà không thực chất” như cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng chỉ ra.

      Như vậy, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước là tăng trưởng kinh tế phải gắn liền chặt chẽ với tiến bộ và công bằng xã hội. Tăng trưởng kinh tế đóng vai trò là điều kiện, tiền đề thiết yếu để thực hiện công bằng xã hội và ngược lại, công bằng xã hội chính là động lực cho sự phát triển kinh tế. Công bằng xã hội không chỉ bảo đảm sự phân phối thu nhập hợp lý mà còn bảo đảm sự công bằng trong việc tiếp cận cơ hội và quyền lợi cho mọi tầng lớp nhân dân.

      Những con số sinh động

      Quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng là luôn thực hiện công bằng xã hội ngay trong từng chính sách, từng bước phát triển. Đảng và Nhà nước đã ban hành và thực hiện được nhiều chính sách xã hội như chính sách an sinh xã hội, chính sách xóa đói, giảm nghèo... để mọi người dân đều được thụ hưởng, đó chính là thực hiện công bằng xã hội cho mọi người dân. Thực tế cho thấy, công tác đảm bảo an sinh xã hội tương đối toàn diện, hiệu quả, điển hình là chính sách xóa đói, giảm nghèo đạt thành tựu nổi bật. Tỉ trọng chi ngân sách cho an sinh xã hội tăng dần trong các năm qua, từ 2,85% GDP năm 2005 lên 4,14% GDP năm 2010 và 4,67% GDP năm 2011 và khoảng 6,7% GDP năm 2021. Chỉ số thu nhập bình quân đầu người tăng nhanh (năm 2020, đạt 3.512 USD), tăng hơn 31,5 lần trong vòng hơn ba thập niên. Tuổi thọ trung bình cũng tăng nhanh, từ 70,5 (năm 1990) lên 75,4 (năm 2019), cao nhất trong các quốc gia nằm trong khu vực có mức thu nhập tương đương.

      Công tác xóa đói, giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội là một nội dung cơ bản, quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng, Nhà nước ta, được cụ thể bằng chính sách, pháp luật và chương trình phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước qua các thời kỳ. Từ một trong những quốc gia nghèo, chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh, thu nhập bình quân đầu người khoảng 100 USD những năm 90 thế kỷ XX, đến năm 2022, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đạt 3.900 USD. Năm 2023 thu nhập bình quân đầu người mỗi năm là 4.284 USD, tăng 6,2% so với năm 2022. Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá là điểm sáng về giảm nghèo, từ 60% dân số nghèo đói (năm 1990) đến năm 2022, tỷ lệ nghèo chỉ còn 2,23%, trong đó tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giảm khoảng 1,2%. Tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm trên 3%; tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện nghèo giảm từ 4 - 5%.

      Đảng, Nhà nước luôn quan tâm chăm lo cho người lao động, bằng chính sách hỗ trợ việc làm, hỗ trợ người thất nghiệp. Trong đại dịch COVID-19, các đối tượng yếu thế luôn được Nhà nước, Chính phủ, cấp ủy, chính quyền địa phương quan tâm, chú trọng, hơn 38.000 tỷ đồng từ quỹ bảo hiểm thất nghiệp đã được chi để hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động. Công tác khám, chữa bệnh, bảo vệ sức khoẻ cho mọi tầng lớp nhân dân cũng được chú trọng, tỷ lệ bao phủ BHYT tăng từ 60,9% dân số (2010) lên 90,7% dân số (2020), cơ bản bao phủ toàn dân. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp BHYT miễn phí. Chỉ số phát triển con người Việt Nam (HDI) phát triển mạnh mẽ. Trong đó, năm 2017: 0,687; năm 2018: 0,700; năm 2019: 0,703 và năm 2020: 0,702. Việt Nam từ nhóm trung bình lên nhóm cao.

      Các đối tượng yếu thế trong xã hội luôn được Đảng, Nhà nước và cộng đồng xã hội quan tâm. Trong năm 2023, 100% số đối tượng bảo trợ xã hội được hưởng trợ cấp hằng tháng; 100% số người dân bị thiệt hại do thiên tai, thiếu đói được trợ giúp kịp thời, không để ai bị đói; 99% số hộ người có công có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống trung bình của người dân nơi cư trú, 99% số xã, phường làm tốt công tác thương binh, liệt sĩ; hơn 90% số người khuyết tật khó khăn được trợ giúp xã hội, chăm sóc, phục hồi chức năng; hơn 90% số người cao tuổi khó khăn được trợ giúp xã hội, phụng dưỡng, chăm sóc. Cơ cấu mạng lưới cơ sở trợ giúp xã hội của cả nước ngày càng mở rộng đáp ứng nhu cầu sử dụng dịch vụ trợ giúp xã hội của đối tượng cần trợ giúp xã hội.

      Như vậy, hệ thống chính sách xã hội được thực hiện về cơ bản đã bảo đảm được tính công bằng, bao trùm, tiệm cận các tiêu chuẩn quốc tế, góp phần ổn định chính trị, phát triển kinh tế, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng cao, không để ai bị bỏ lại phía sau.

      Thực tiễn luôn có các tồn tại, khiếm khuyết và sự bất bình đẳng, bất công vẫn xảy ra trong đời sống, ở một số lĩnh vực và đơn vị, địa phương. Tuy nhiên, sự bất bình đẳng, bất công đó là do một số cá nhân, cấp lãnh đạo thực hiện chưa đúng hoặc vì các động cơ khác nhau chứ không phải nguyên do chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước. Điều quan trọng là quan điểm nhất quán của Đảng, Nhà nước ta trong kiểm tra, xử lý, chấn chỉnh những cá nhân, tổ chức để xảy ra các hiện tượng tiêu cực nhằm thực hiện công bằng xã hội được đầy đủ, đúng nghĩa.

      Do đó, người dân cần tỉnh táo nhận diện, đấu tranh với chiêu trò chống phá, xuyên tạc của các thế lực xấu; đoàn kết đồng lòng, quyết tâm thực hiện thắng lợi các mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước.

      Chu Thắng