Đâu phải dựa dẫm, lệ thuộc!

 30/12/2021 05:00

Không khó để nhận ra, dịp kỷ niệm 77 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam (22-12) vừa qua, bên cạnh những lời chúc mừng tốt đẹp, bày tỏ sự ghi nhận của đông đảo quần chúng dành cho cán bộ, chiến sĩ quân đội, vẫn còn đó một vài cá nhân chủ ý nêu lên chính kiến trái chiều, bày tỏ sự hoài nghi, lo ngại về tính hiệu quả của công tác đối ngoại quốc phòng (ĐNQP) và hợp tác trên lĩnh vực quân sự của QĐND Việt Nam.'

Các ý kiến này cho rằng, quân đội chỉ nên tập trung vào công tác huấn luyện sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc; rằng "không nên dấn thân vào một lĩnh vực "trái ngành", non yếu về nguồn lực, không những chẳng mang lại ích lợi gì, mà còn tự “vạch áo cho người xem lưng” về sự dựa dẫm, lệ thuộc vào nước lớn".

1. Phải khẳng định ngay: Những phát ngôn trên là hoàn toàn thiếu cơ sở, mang nặng tính phiến diện, áp đặt-là dấu hiệu ban đầu nhưng khá rõ nét của biểu hiện “tự diễn biến” ở một bộ phận cán bộ, quần chúng về vị trí, chức năng và đặc thù hoạt động của QĐND Việt Nam. Dù chỉ là những phát ngôn nhỏ lẻ, nhưng tác hại gây ra là rất rõ, khiến một số quần chúng băn khoăn về tính hiệu quả trong một lĩnh vực hoạt động quân sự quan trọng. Về lâu dài, những ý kiến này nếu “lây lan” sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả công tác ĐNQP; tác động tiêu cực đến việc hiện thực hóa quan điểm bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa” của Đảng và chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng; tạo rào cản vô hình, kìm hãm sức lan tỏa hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ đến với bè bạn quốc tế.

Phủ định những biểu hiện “tự diễn biến” nêu trên, chúng tôi cung cấp cho bạn đọc một số tư liệu thực tế, phác họa bức tranh tổng thể về hoạt động ĐNQP và tính hiệu quả của lĩnh vực công tác này đối với sự nghiệp cách mạng nói chung, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc nói riêng.

Đâu phải dựa dẫm, lệ thuộc!

Bệnh viện Dã chiến cấp 2 số 1 triển khai đến Nam Sudan tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của

Liên hợp quốc. Ảnh: Cục Gìn giữ hòa bình Việt Nam.  

Còn nhớ, khoảng tháng 3-2021, mạng xã hội dậy sóng trước sắc đẹp và bày tỏ sự cảm phục về câu chuyện Thiếu úy QNCN Lê Na công tác tại Bệnh viện Quân y 175 mang trên mình bộ quân phục của lực lượng Gìn giữ hòa bình (GGHB). Với hai lần tự nguyện nộp hồ sơ, trải qua quá trình tuyển chọn nghiêm khắc, Lê Na tự hào khi được lựa chọn tham gia bệnh viện dã chiến cấp 2, số 3 làm nhiệm vụ GGHB của Liên hiệp quốc (LHQ) tại Cộng hòa Nam Sudan. Người thân và bạn bè toan lo, liệu Lê Na có vững vàng đối diện thử thách và hoàn thành nhiệm vụ nơi "chảo lửa", cũng là quốc gia còn nghèo khó? Thế nhưng, Lê Na không hề ngần ngại trước mọi vất vả, niềm tự hào đã hiện hữu trên gương mặt tinh khôi của nữ quân nhân.

Lê Na cho biết chị là người may mắn, bởi đội hình những cán bộ, sĩ quan quân đội lên đường thực hiện sứ mệnh GGHB chỉ là số ít trong danh sách những bộ hồ sơ, những người chủ động xung phong thực hiện nhiệm vụ quốc tế. Có lẽ bởi thế mà Thiếu tướng Hoàng Kim Phụng, Cục trưởng Cục GGHB Việt Nam luôn tự hào: "... Ít ai trên hành tinh này có thể hiểu được giá trị của một nền hòa bình như những cán bộ, chiến sĩ QĐND Việt Nam, những người đứng trong đội quân cách mạng từng kinh qua nhiều cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Do đó, tham gia hoạt động GGHB tại các phái bộ ở châu Phi cũng là một đóng góp của quân đội và đất nước vào việc duy trì hòa bình bền vững trên thế giới".

2. Với trọng trách ấy, qua hơn 7 năm xây dựng và trưởng thành (2014-2021), lực lượng GGHB Việt Nam đã đạt thành tựu nổi bật, có nhiều đóng góp ngày càng thiết thực, hiệu quả cho hoạt động GGHB LHQ, được LHQ và bạn bè quốc tế đánh giá cao. Lực lượng tham gia tại các phái bộ của Việt Nam tiếp tục được duy trì và bảo đảm chất lượng, đáp ứng các tiêu chuẩn cao của LHQ. 100% cán bộ, sĩ quan đều hoàn thành tốt và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Bệnh viện dã chiến cấp 2 Việt Nam được LHQ đánh giá cao về chuyên môn y tế, nhận được nhiều thư khen của lãnh đạo LHQ. Đặc biệt, Việt Nam có nhiều sĩ quan trúng tuyển vào các vị trí tại Cục Hoạt động hòa bình tại trụ sở LHQ ở New York (Hoa Kỳ). Với sự tham gia của các sĩ quan ở cơ quan đầu não của LHQ về GGHB, Việt Nam không chỉ tuân thủ và làm theo các quy tắc, luật lệ được hoạch định sẵn mà còn tiến tới tham gia vào quá trình xây dựng các quy tắc, luật lệ của hoạt động GGHB.

Có lẽ bởi thế mà trong ánh nhìn của những nhà ngoại giao có tên tuổi ở Việt Nam, việc tham gia lực lượng GGHB nói riêng, ĐNQP nói chung đã thực sự trở thành một trụ cột quan trọng trong công tác đối ngoại của đất nước. GS, TS Phạm Quang Minh, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) từng chia sẻ với báo giới, khẳng định công tác ĐNQP của Việt Nam đã góp phần thiết thực vào duy trì hòa bình, ổn định, an ninh tại khu vực và trên thế giới. Trong đó, dấu ấn nổi bật là sự tham gia tích cực, hiệu quả của Việt Nam vào hoạt động GGHB của LHQ. Trong khi đó, đánh giá về kết quả các sĩ quan QĐND Việt Nam thực hiện trong lĩnh vực hoạt động GGHB, cựu Tổng thư ký LHQ Ban Ki-moon khẳng định chỉ có hai từ để nói, đó là: “Tuyệt vời!”.

Đặc biệt, trong ánh nhìn của phần lớn người dân Việt Nam, những sĩ quan QĐND Việt Nam thực hiện nhiệm vụ biệt phái là một cuộc đi nhiều ý nghĩa, giúp thế giới hiểu hơn về một dân tộc yêu chuộng hòa bình, nể phục hơn Bộ đội Cụ Hồ qua các giai đoạn cách mạng đều hoàn thành vẻ vang nghĩa vụ quốc tế thiêng liêng. Kết quả ĐNQP, đẩy mạnh hợp tác song phương và đa phương đã tạo nên hình ảnh về một đối tác tin cậy, một đội quân biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo ra tiềm lực, tiềm năng và khả năng bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”; góp phần khẳng định vai trò, vị thế, uy tín của một Việt Nam luôn sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước, là một quốc gia yêu chuộng hòa bình, có trách nhiệm cao với cộng đồng quốc tế.

3. Thế nhưng, vị thế và vóc dáng của Bộ đội Cụ Hồ không chỉ khẳng định trên mặt trận ngoại giao mà còn hiện hữu trong chính những "cuộc chiến thương trường" toàn cầu.

Hãy nghĩ về thuật ngữ địa chính trị “tây bán cầu”-một miền đất vô cùng xa xôi với Việt Nam, gồm Bắc Mỹ, Trung, Nam Mỹ và các đảo vùng Caribe trong đó có quốc đảo Haiti. Ở nơi ấy, đã có những quân nhân Việt Nam tìm đến để làm kinh tế và giúp nước bạn. Càng ấn tượng và đáng ghi nhận là cách đến, cách ở lại và cách đi lên của những chiến sĩ Bộ đội Cụ Hồ ở Tập đoàn Công nghiệp-Viễn thông Quân đội (Viettel).

Vào tháng 8-2012, cơn bão Isaac quét qua Haiti gây thiệt hại nặng nề, hầu hết các mạng viễn thông đều gián đoạn. Trong tình hình đó, hệ thống cầu truyền hình nội bộ của Chính phủ do Natcom xây dựng là công cụ duy nhất để Tổng thống Michel Martelly liên lạc và điều hành việc chống bão lũ tới các địa phương của Haiti. Ngay sau bão là động đất và nạn dịch tả tràn qua, nhiều đối tác không ngần ngại “bỏ của chạy lấy người”, thế nhưng, với bản lĩnh Bộ đội Cụ Hồ, cán bộ, nhân viên Tập đoàn Công nghiệp-Viễn thông Quân đội đã không nao núng. Họ kiên định đồng hành nơi đất nước nghèo khó ở châu Mỹ Latinh, với lời hứa chắc nịch: "Chúng tôi là Bộ đội Cụ Hồ thì hẳn sẽ có cách để giúp các bạn". Và liên danh Natcom ra đời đã góp phần giúp Haiti vượt qua khó khăn, bình ổn đến hôm nay.

Với trách nhiệm quốc tế cao cả, Bộ đội Cụ Hồ ở Viettel không chỉ khẳng định tầm cao trí tuệ, nhạy bén, sáng tạo trong tham gia hội nhập kinh tế mà còn mạnh dạn đầu tư ra hàng chục thị trường trên thế giới. Ở tất cả những quốc gia có sự hiện diện của Viettel, người bản địa luôn ngợi ca, tôn vinh và bày tỏ sự biết ơn sâu sắc. Chính phủ Việt Nam và ngay cả ban lãnh đạo của Tập đoàn Viettel đã nhiều lần thừa nhận: Có nhiều nguyên nhân giúp Viettel thành công, nhưng cái lõi và hồn cốt chính là phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ đã được thấm, ngấm trong văn hóa Viettel, trở thành máu thịt của mỗi con người Viettel. Đó là ý chí, nghị lực, tinh thần kỷ luật, đức hy sinh, sự kiên định vươn lên không mệt mỏi vì những lý tưởng và khát vọng không chỉ vì lợi nhuận kinh tế đơn thuần mà còn là lợi ích quốc gia, dân tộc, là danh dự, uy tín của QĐNĐ Việt Nam.

4. Vậy nên, công tác ĐNQP và các hoạt động hợp tác quốc tế của QĐND Việt Nam không thể là phần việc vô bổ, thiếu hiệu quả; cũng có nghĩa, QĐND Việt Nam hoàn toàn không phải là đội quân "ăn bám, lệ thuộc vào các nước khác" như cách nhìn phiến diện của một số cá nhân hoặc chủ ý suy diễn, giả ngơ, giả điếc của một số người. Thực tế là hằng ngày, hằng giờ, dù ở bất kể nơi nào trên mọi miền Tổ quốc hay trên địa cầu này, cán bộ, chiến sĩ quân đội đều đang hoạt động, làm việc, thực hiện sứ mệnh đặc thù riêng có, âm thầm mang đến những điều kỳ diệu cho Tổ quốc và bạn bè quốc tế.

Đó là những cán bộ, chiến sĩ trong các quân chủng, binh chủng đã và đang tích cực tham gia vào hoạt động ĐNQP, hợp tác quân sự trên các lĩnh vực đặc thù để kết nên sức mạnh quân sự Việt Nam. Đó là bộ đội biên phòng cùng các quân khu, bộ đội địa phương làm tốt việc giữ vững an ninh biên giới, thực hiện tốt chủ trương ngoại giao với các nước láng giềng, xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị. Đó là những quân nhân trí thức ở các học viện, nhà trường, trung tâm nghiên cứu, chủ động hợp tác với quân đội các nước vươn lên chiếm lĩnh đỉnh cao khoa học công nghệ, tạo ra những sản phẩm có hàm lượng trí tuệ cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước... mới đây nhất là sự hợp tác nghiên cứu với Cuba, Liên bang Nga trong sản xuất vaccine, thuốc phòng và điều trị Covid-19; mở rộng trao đổi kinh nghiệm phòng, chống dịch với các nước: Liên bang Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc, các nước ASEAN... Đặc biệt, việc hợp tác giữa QĐND Việt Nam với quân đội các nước, đối tác và bè bạn quốc tế hướng đến cả lĩnh vực trao đổi, nghiên cứu, phát triển lý luận; chia sẻ kinh nghiệm tiến hành công tác Đảng, công tác chính trị; hợp tác trên nhiều mặt, lĩnh vực của hoạt động quân sự cả về chính trị, quân sự, hậu cần, kỹ thuật.

Như vậy, rõ ràng dù cán bộ, chiến sĩ quân đội công tác ở nhiều lực lượng, lĩnh vực hoạt động khác nhau, chức năng, nhiệm vụ cũng không hẳn giống nhau, nhưng đều có chung tinh thần, trách nhiệm tham gia hoạt động ĐNQP, hướng đến mục tiêu hợp tác toàn diện, hiệu quả để thúc đẩy công cuộc kiến thiết, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; vì sự trưởng thành, lớn mạnh của quân đội, vì sự phát triển của đất nước và hạnh phúc của nhân dân. Tất cả những điều đó đã, đang và sẽ kết nên những giá trị phẩm chất mới, tiêu biểu của Bộ đội Cụ Hồ trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

TẤN TUÂN - QUỐC HÙNG

Dân chủ không đồng nghĩa với đa nguyên, đa đảng

 08:28 27/12/2021

Vấn đề một đảng hay nhiều đảng lãnh đạo, cầm quyền không phải là vấn đề mới và vấn đề này phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Về khách quan, vấn đề này phụ thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước, mỗi đảng khi lên lãnh đạo, cầm quyền. Về chủ quan, nó phụ thuộc tương quan so sánh lực lượng giữa các giai cấp, các bộ phận trong một xã hội, mà mỗi nước có thể có một đảng hoặc nhiều đảng.

Lâu nay, các phần tử cơ hội chính trị, chống đối cho rằng, Việt Nam không có dân chủ vì thực hiện chế độ nhất nguyên, nhất đảng nên “vừa đá bóng, vừa thổi còi” và vì thế dẫn đến dân chủ hình thức hoặc mất dân chủ. Trong khi đó, các tổ chức nhân danh dân chủ phương Tây đã và đang tìm cách cổ suý “tiêu chuẩn nhân quyền” kiểu phương Tây vào Việt Nam, đồng thời tung tin bịa đặt với các luận điệu cho rằng: “Việt Nam thiếu văn hóa dân chủ, không có dân chủ, hạn chế quyền riêng tư của công dân”, “Việt Nam vi phạm nghiêm trọng quyền con người”, “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội tức là theo chế độ đảng trị, bằng “đảng chủ”; “một đảng cầm quyền thì không thể có dân chủ, chỉ dẫn đến độc tài, độc trị”; “chế độ một đảng lãnh đạo, độc quyền là trái với nguyên tắc nhà nước pháp quyền”; “chế độ nhất nguyên chính trị, một đảng cầm quyền ở Việt Nam là “vừa đá bóng, vừa thổi còi” dẫn đến ở Việt Nam không có dân chủ hoặc dân chủ hình thức”.

Đây là những luận điệu phản khoa học, hết sức nguy hiểm bởi nó cố tình đánh đồng giữa vấn đề đa nguyên, đa đảng với dân chủ, phát triển của đất nước, dân tộc. Thực chất luận điệu trên là muốn phủ nhận vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội, tiến tới thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập để đi đến xóa bỏ định hướng XHCN ở nước ta. Vấn đề mấu chốt trong học thuyết “dân chủ, nhân quyền kiểu phương Tây cần áp dụng đối với Việt Nam” là xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với cách mạng Việt Nam. Như vậy, chiêu bài dân chủ thực chất là các thế lực thù địch nhằm phá hoại Đảng, Nhà nước và định hướng XHCN ở nước ta.

Trên thế giới hiện nay có ba chế độ dân chủ: Dân chủ tư sản, dân chủ nhân dân, dân chủ xã hội chủ nghĩa. Mỗi chế độ dân chủ nói trên đều có những thiết chế khác nhau, nhưng đều có những yếu tố chung: (1) Sự bình đẳng về quyền và nghĩa vụ của công dân (bao gồm tất cả thành viên xã hội); (2) bầu cử tự do và theo nhiệm kỳ bầu ra các cơ quan, người lãnh đạo đất nước; (3) quyền lực của nhà nước được chia làm ba nhánh lập pháp, hành pháp và tư pháp. Mỗi cơ quan trên có chức năng riêng: Hiến pháp và pháp luật được xem là tối thượng; các quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân được tôn trọng và bảo đảm.

Chế độ dân chủ sau Cách mạng Tháng Tám ở Việt Nam là chế độ dân chủ Nhân dân hướng theo con đường xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. Một trong những đặc trưng của chế độ dân chủ ở Việt Nam là do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và cầm quyền. Tuy nhiên, vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam phải tuân thủ nguyên tắc Hiến định: “Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình; các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” (Điều 4, Hiến pháp năm 2013).

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Nhà nước Việt Nam ngày càng hoàn thiện các quan điểm về dân chủ, nhân quyền, coi nỗ lực thể chế hóa, luật hóa quan điểm dân chủ, nhân quyền là yêu cầu bức thiết của phát triển. Năm 1998, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, khẳng định “phải phát huy quyền làm chủ của dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất dân chủ và nạn tham nhũng”. Sau đó, Chính phủ ban hành Nghị định 29/1998/NĐ-CP (đến năm 2003 thay thế bằng Nghị định số 79/2003/NĐ-CP) kèm theo Quy chế thực hiện dân chủ ở xã quy định về nội dung, phương thức, trách nhiệm của chính quyền cấp xã trong việc thực hiện quyền dân chủ của Nhân dân. Năm 2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XI thông qua Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn... Đây là các bước đi thống nhất, đồng bộ về chủ trương kết hợp hành động cụ thể tạo điều kiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.

Vấn đề một đảng hay nhiều đảng lãnh đạo, cầm quyền không phải là vấn đề mới và vấn đề này phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Về khách quan, vấn đề này phụ thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước, mỗi đảng khi lên lãnh đạo, cầm quyền. Về chủ quan, nó phụ thuộc tương quan so sánh lực lượng giữa các giai cấp, các bộ phận trong một xã hội, mà mỗi nước có thể có một đảng hoặc nhiều đảng.

Đảng là tổ chức chính trị của giai cấp, mang tính chất giai cấp, là sự liên kết tự nguyện của những người cùng chí hướng và cùng quyền lợi. Bản chất của đảng chính trị chính là bản chất giai cấp mà đảng ấy đại diện. Lịch sử hiện đại đã chứng minh rằng, trình độ dân chủ và sự phát triển của đất nước không tỷ lệ thuận với sự gia tăng của số lượng đảng phái chính trị. Trong xã hội có sự phân chia giai cấp, mỗi giai cấp khác nhau có đảng khác nhau, thậm chí trong cùng một giai cấp cũng có thể có nhiều đảng khác nhau. Những đảng của cùng một giai cấp sẽ có cùng bản chất của giai cấp, có lợi ích gắn liền với giai cấp sinh ra nó, chúng chỉ khác nhau về hình thức tổ chức, phương thức hoạt động và những mục tiêu cụ thể mà không đối lập về bản chất.

Những đảng của các giai cấp khác nhau hoặc đối lập nhau thì không chỉ khác nhau về tôn chỉ, mục đích, phương cách hoạt động, nguyên tắc tổ chức mà còn đối lập về bản chất của đảng. Như vậy, sự đa đảng cũng có nhiều sắc thái khác nhau. Có hiện tượng đa đảng nhưng vẫn nhất nguyên chính trị, có hiện tượng đa đảng đồng thời là đa nguyên chính trị.

Quan điểm một đảng thì mất dân chủ, cản trợ sự phát triển, còn đa đảng đồng nghĩa với dân chủ, phát triển là luận điệu sai trái. Cho đến nay chưa có cơ sở khoa học nào chứng minh điều này. Bởi đất nước có dân chủ hay phát triển không phụ thuộc vào chế độ một đảng hay đa đảng mà phụ thuộc vào đảng cầm quyền đó có mang bản chất cách mạng, tiên phong hay không, có bảo vệ quyền và lợi ích cho đa số nhân dân lao động hay chỉ cho một bộ phận thiểu số người trong xã hội đó.

Thực tiễn cho thấy, dân chủ và sự phát triển của một nước không tỷ lệ thuận với số lượng các đảng mà quốc gia đó có. Vì thực tiễn nhiều quốc gia trên thế giới hiện nay, đa đảng nhưng vẫn mất dân chủ, vẫn là những nước nghèo, kém phát triển. Trong khi, nhiều quốc gia chỉ có một đảng lãnh đạo nhưng dân chủ được bảo đảm, kinh tế-xã hội phát triển, đời sống nhân dân được bảo đảm, nhân dân cảm thấy hạnh phúc, ấm no và có vị thế trên thế giới. Vấn đề thuộc về bản chất của các đảng, lợi ích xã hội mà nó đại diện, bảo vệ; uy tín và năng lực tập hợp, liên kết, lãnh đạo các lực lượng xã hội cùng thực hiện mục tiêu chung của quốc gia - dân tộc. Nếu một đảng chỉ phục vụ cho lợi ích riêng của đảng mình, giai cấp mình thì đảng đó khó có thể được các giai tầng khác chấp thuận làm lực lượng lãnh đạo xã hội, lãnh đạo đất nước. Một đảng đại diện cho lợi ích của giai cấp, của nhân dân và dân tộc, vì dân vì nước mà hành động, chắc chắn sẽ được nhân dân suy tôn, ủy thác làm lãnh đạo. Điều đó là bằng chứng hùng hồn, là minh chứng khẳng định đa nguyên, đa đảng không phải là cứu cánh cho dân chủ và sự phát triển.

Điển hình như hiện nay, Armenia có khoảng 40 đảng, Hà Lan có 25 đảng, Na Uy có 23 đảng... nhưng rõ ràng chúng ta không thể kết luận Armenia dân chủ hơn Hà Lan hay Na Uy. Trên thế giới hiện nay có hơn 30 quốc gia, vùng lãnh thổ theo chế độ một đảng. Điều đó cho thấy rằng, chế độ chính trị do một đảng cầm quyền không phải là đặc điểm chỉ có ở các nước XHCN do Đảng Cộng sản lãnh đạo và không phải các nước theo chế độ một đảng không bảo đảm dân chủ, đất nước không phát triển.

Ngay trong chủ nghĩa tư bản, có những thời kỳ một số quốc gia và vùng lãnh thổ theo chế độ một đảng duy nhất cầm quyền vẫn bảo đảm dân chủ và phát triển mạnh mẽ. Điển hình như vào cuối những năm 1980, Singapore, Hàn Quốc... vẫn theo chế độ một đảng duy nhất cầm quyền nhưng đất nước vẫn phát triển mạnh mẽ và ngược lại, ở một số quốc gia đa đảng vẫn không thực hiện tốt dân chủ. Đồng thời, trong hệ thống chính trị đa đảng, tại một giai đoạn chính trị nhất định cũng chỉ có một đảng thực chất cầm quyền và thậm chí ngay cả trường hợp khi liên minh đảng cầm quyền để thành lập chính phủ, đảng nào chiếm số ghế nhiều hơn trong nghị viện sẽ có quyền quyết định trong các chính sách phát triển của đất nước. Ở một số quốc gia khác (điển hình là Mỹ), mặc dù có nhiều đảng nhưng chỉ có hai đảng luân phiên cầm quyền là Đảng Cộng hoà và Đảng Dân chủ. Những đảng này đại diện cho giai cấp tư sản thì tất yếu phải hướng đến phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản chứ không thể là một “chính quyền của tất cả mọi người”.

Trải qua hơn 90 năm ra đời và lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn khẳng định được vị trí, vai trò không thể thay thế đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Những thành tựu to lớn và ý nghĩa lịch sử kết tinh sức sáng tạo của Đảng và Nhân dân Việt Nam đã khẳng định con đường đi lên CNXH của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đồng thời, đó cũng là minh chứng rõ nét rằng bản chất của một nền dân chủ không phụ thuộc vào chế độ đa đảng hay một đảng và đối với Việt Nam dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, nền dân chủ trong xã hội không những không bị mất đi, không bị hạn chế mà còn được bảo đảm, được phát huy sâu rộng trong thực tế.

Phan Dương
 

Mang danh bảo vệ ký giả, CPJ lại phớt lờ lẽ phải

 08:50 20/12/2021

Đã trở thành quy luật, mỗi khi các cấp tòa án ở Việt Nam mở phiên tòa xét xử các đối tượng phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia, chống phá Nhà nước thì một số cá nhân, tổ chức, đài báo ở nước ngoài có quan điểm, tư tưởng thù địch Việt Nam như Tổ chức phóng viên không biên giới (RSF), tổ chức Bảo vệ ký giả (CPJ)... lại xuyên tạc, vu cáo Việt Nam “đàn áp tự do ngôn luận, tự do báo chí”.

Mới đây, CPJ lại ra thông cáo báo chí vu cáo Nhà nước Việt Nam là một trong ba nước giam giữ nhiều nhà báo nhất trên thế giới. Thông cáo cho rằng, Việt Nam vi phạm tự do báo chí nghiêm trọng và nêu yêu sách đòi Việt Nam phải “trả tự do cho các nhà báo”! Những cái tên được CPJ xướng lên làm “ví dụ điển hình” cho các nhà báo bị giam giữ gồm Nguyễn Văn Hóa, Nguyễn Tường Thụy, Phạm Thị Đoan Trang, Trương Duy Nhất… Thực ra đây là một luận điệu không mới của CPJ khi tổ chức này luôn có những quy kết không đúng về tình hình nhân quyền của Việt Nam nói chung cũng như tự do báo chí nói riêng. Chỉ cần nhìn vào những cái tên trên đủ để thấy rằng CPJ xuyên tạc, bóp méo vấn đề quyền con người ở nước ta như thế nào. Phạm Chí Dũng, Nguyễn Tường Thụy, Phạm Thị Đoan Trang… dù trước đây từng có giai đoạn hoạt động tại một số cơ quan báo chí, song do vi phạm pháp luật, họ đã bị kỷ luật, thay đổi công việc, ở thời điểm bắt giữ thì họ không còn là những nhà báo hay phóng  viên như CPJ công bố. Trái lại, đó đều là những đối tượng vi phạm pháp luật, bị bắt giữ và xét xử theo các quy định của pháp luật.

Đơn cử, ngày 5/1/2021, TAND thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử sơ thẩm và tuyên phạt bị cáo Phạm Chí Dũng 15 năm tù, Nguyễn Tường Thụy và Lê Hữu Minh Tuấn, mỗi bị cáo 11 năm tù về tội “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống phá Nhà nước CHXHCN Việt Nam".

Bản án nghiêm minh, đúng pháp luật này được đưa ra dựa trên những tài liệu, chứng cứ rõ ràng, không thể bác bỏ về hành vi phạm tội của ba bị cáo này, trong đó riêng Phạm Chí Dũng đã sử dụng nhiều bút danh khác nhau để viết, đăng tải 1.530 tin, bài viết trên trang “Việt Nam Thời báo” của tổ chức bất hợp pháp “Hội Nhà báo độc lập Việt Nam” với nội dung tuyên truyền, xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân, bịa đặt, xâm phạm uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam và chống Nhà nước XHCN Việt Nam.

Hoặc gần đây, phiên tòa xét xử Phạm Thị Đoan Trang ngày 14/12/2021. Theo cáo trạng của Viện Kiểm sát, từ ngày 16/11/2017 đến 5/12/2018, Đoan Trang có hành vi làm ra, tàng trữ, lưu hành các tài liệu, bài viết có nội dung nhằm chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Cáo trạng xác định, Đoan Trang đã trả lời phỏng vấn trên truyền thông nước ngoài với nội dung xuyên tạc đường lối, chính sách của Nhà nước, phỉ báng chính quyền nhân dân. Cụ thể, Đoan Trang có hành vi tàng trữ các tài liệu: "Báo cáo tóm tắt về thảm họa môi trường biển Việt Nam"; "Đánh giá chung về tình hình nhân quyền tại Việt Nam"; "Báo cáo đánh giá về luật tôn giáo và tín ngưỡng năm 2016 liên quan đến việc thực hiện quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng ở Việt Nam". Theo cáo trạng của Viện Kiểm sát, các tài liệu trên có nội dung tuyên truyền "luận điệu chiến tranh tâm lý, phao tin bịa đặt gây hoang mang trong nhân dân, tuyên truyền thông tin xuyên tạc đường lối, chính sách của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam". Như vậy, Phạm Thị Đoan Trang vừa viết bài, vừa trả lời phỏng vấn với các nội dung tuyên truyền chống Nhà nước. Đồng thời, vẫn còn nhiều đầu mục ấn phẩm khác có nội dung sai trái như việc xuất bản, tán phát tài liệu “Báo cáo Đồng Tâm”, “Chính trị bình dân”…

Tiêu chuẩn để trở thành một nhà báo theo quy định của Pháp luật Việt Nam là gì?

Tại Điều 25, Luật Báo chí năm 2016 quy định, nhà báo là người hoạt động báo chí được cấp thẻ nhà báo. Nhà báo có các quyền như: Hoạt động báo chí trên lãnh thổ nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, hoạt động báo chí ở nước ngoài theo quy định của pháp luật và được pháp luật bảo hộ trong hoạt động nghề nghiệp; được khai thác, cung cấp và sử dụng thông tin trong hoạt động báo chí theo quy định của pháp luật; được đến các cơ quan, tổ chức để hoạt động nghiệp vụ báo chí…

Đồng thời, nhà báo có các nghĩa vụ như: Thông tin trung thực về tình hình đất nước và thế giới phù hợp với lợi ích của đất nước và của nhân dân; phản ánh ý kiến, nguyện vọng chính đáng của nhân dân; bảo vệ quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát hiện, tuyên truyền và bảo vệ nhân tố tích cực; đấu tranh phòng, chống các tư tưởng, hành vi sai phạm;  không được lạm dụng danh nghĩa nhà báo để sách nhiễu và làm việc vi phạm pháp luật… Vì vậy, để trở thành một nhà báo tại Việt Nam cần phải đáp ứng các yêu cầu rõ ràng, cụ thể nêu trên và yêu cầu hiển nhiên là phải tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam. Trong khi đó, các đối tượng nêu trên không có thẻ nhà báo, không tác nghiệp tại cơ quan báo chí nào, có đối tượng như Phạm Thị Đoan Trang dù trước đây có làm phóng viên tại một số cơ quan báo chí nhưng do vi phạm kỷ luật, đã bị sa thải. Vì vậy, không thể gọi đó là những nhà báo, lại càng không thể nói “nhà báo đấu tranh vì công lý, vì nhân quyền”! Thực tế, đây là những đối tượng lợi dụng quyền biểu đạt, thông tin để “tự phong nhà báo”, viết bài xuyên tạc, chống phá đất nước, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân.

Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí được Liên hợp quốc và pháp luật của nhiều quốc gia phát triển như Pháp, Anh, Mỹ quy định cụ thể. Trong bản“Tuyên ngôn về Nhân quyền và Dân quyền Pháp năm 1789”, vấn đề tự do báo chí được trình bày như là một trong những quyền cơ bản: “Bất kỳ công dân nào cũng có thể nói, viết và công bố tự do; tuy nhiên, họ sẽ chịu trách nhiệm nếu lạm dụng quyền tự do này theo quy định của pháp luật” (Điều 11). Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966, tại khoản 1, Điều 19 quy định rõ: “Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp”. Khoản 2, Điều 22 quy định: “Việc thực hiện quyền này không bị hạn chế, trừ những hạn chế do pháp luật quy định và là cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích an ninh quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, và để bảo vệ sức khỏe hoặc đạo đức của công chúng hay các quyền và tự do của người khác”.

Theo Bộ Thông tin và Truyền thông, hiện tại Việt Nam có khoảng 41.000 nhân sự đang tham gia hoạt động trong lĩnh vực báo chí, 779 cơ quan báo chí (trong đó có 142 báo, 612 tạp chí, 25 cơ quan báo chí điện tử độc lập), 72 cơ quan được cấp phép hoạt động phát thanh-truyền hình với tổng số 87 kênh phát thanh và 193 kênh truyền hình. Trong khi đó, sóng của các cơ quan truyền thông quốc tế lớn như CNN, BBC, TV5, NHK, DW, Australia Network, KBS, Bloomberg… đều được tiếp cận dễ dàng tại Việt Nam. Những năm qua, báo chí ở Việt Nam đã thể hiện được quyền tự do ngôn luận và đều được quyền thông tin. Báo chí đã có những đóng góp quan trọng vào công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc; luôn tích cực đấu tranh với các biểu hiện sai trái, tiêu cực trong xã hội, góp tiếng nói quan trọng vào việc phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố, hoàn thiện nền dân chủ XHCN, đồng thời là cầu nối quan trọng với bạn bè quốc tế. Thông qua báo chí, nhân dân cũng có diễn đàn để trình bày những tâm tư, tình cảm, nguyện vọng đối với Đảng, Nhà nước, đồng thời phản biện, đề xuất những ý kiến tâm huyết với Đảng, Nhà nước.

Nhà nước Việt Nam luôn đảm bảo các quyền tự do báo chí vì lợi ích của quốc gia, dân tộc, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và nhân dân. Đi liền với đó, pháp luật Việt Nam nghiêm cấm hành vi lợi dụng tự do báo chí, tự do Internet, tự do ngôn luận để vi phạm pháp luật, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước, xâm phạm lợi ích của công dân, kích động gây mất ổn định, chống lại Tổ quốc và sự thật thì những cá nhân và tổ chức trên không được công nhận là “nhà báo”

Bình Nguyên - Hoàng Ly