Tự do tôn giáo ở Việt Nam: Sự thật không thể xuyên tạc

30/11/2020 05:00

Thời gian gần đây tiếp tục xuất hiện những thông tin sai lệch, tiêu cực, những đánh giá phiến diện về tình hình hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng tại Việt Nam. Thực tế đó càng cần thiết phải lên tiếng bảo vệ sự thật, bảo vệ lẽ phải, tái khẳng định chính sách đúng đắn cũng như những thành tựu mà đất nước ta đã đạt được trong việc bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân.

Chính sách còn nguyên giá trị

Thực tế hoạt động của các tôn giáo ở Việt Nam hiện nay cho thấy rõ ràng chính sách nhất quán và đúng đắn của Đảng, Nhà nước Việt Nam là: Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của các công dân; các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Tuy nhiên, cũng như các nước khác, Việt Nam không chấp nhận việc lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hòa bình, độc lập, thống nhất đất nước hay kích động bạo lực, chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, tôn giáo, gây rối trật tự công cộng, xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự và tài sản của người khác, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân... Chính sách đó đã luôn được Nhà nước Việt Nam khẳng định và thực hiện nhất quán.

Cũng có thể khẳng định rằng, đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay khá sôi động, đa dạng với nhiều hình thức sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau, nhiều tổ chức tôn giáo và mô hình tổ chức tôn giáo. Trong xu thế phát triển của đất nước và xu thế chung của thời đại, các tôn giáo tại Việt Nam luôn được tạo điều kiện hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật. Cụ thể, chức sắc và tín đồ thuộc các tôn giáo đều được tự do sinh hoạt, tự do thực hành các lễ nghi tôn giáo, biểu hiện đức tin, được tạo điều kiện tốt nhất để mở mang cơ sở vật chất, tu sửa nơi thờ tự và mở mang, phát triển quan hệ giao lưu quốc tế. Các ngày lễ trọng, lễ hội truyền thống như Lễ Phật đản của Phật giáo, Lễ Giáng sinh, Lễ Phục sinh của Công giáo và Tin lành... được tổ chức trang nghiêm, thu hút đông đảo không chỉ tín đồ mà cả quần chúng nhân dân tham gia. Cùng với sự phát triển về tổ chức, đăng ký hoạt động cho các tôn giáo đủ điều kiện, số lượng tín đồ và các hoạt động tôn giáo tại Việt Nam cũng không ngừng gia tăng trong những năm gần đây.

Tự do tôn giáo ở Việt Nam: Sự thật không thể xuyên tạc
Chính sách nhất quán và đúng đắn của Đảng, Nhà nước Việt Nam là: Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của các công dân; các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Ảnh minh họa. TTXVN.

Sự ra đời của các tổ chức tôn giáo một mặt phản ánh sự quan tâm của Nhà nước Việt Nam trong thực hiện nhất quán quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, mặt khác khẳng định Việt Nam không phân biệt đối xử giữa người có tín ngưỡng, tôn giáo; không phân biệt hay kỳ thị bất kỳ tôn giáo nào, dù là nội sinh hay truyền từ nước ngoài, tôn giáo đã ổn định hay mới được công nhận, miễn sao hoạt động của họ nằm trong khuôn khổ pháp luật. Dư luận của tuyệt đại bộ phận chức sắc, tín đồ cũng thừa nhận rằng, chính sách, pháp luật về tôn giáo của Nhà nước Việt Nam là đúng đắn, phù hợp, không có cản trở nào trong các hoạt động và sinh hoạt tôn giáo của họ.

Sự thật là thế, vậy mà những năm gần đây, trong các báo cáo tự do tôn giáo của một số nước lại đề cập đến Việt Nam với những thông tin sai lệch, vu cáo Việt Nam đàn áp tôn giáo, vi phạm quyền “tự do tôn giáo” của người dân. Họ cho rằng Chính phủ Việt Nam vẫn tiếp tục hạn chế các hoạt động có tổ chức của nhiều tôn giáo, thậm chí có hành động đàn áp một số tín đồ tôn giáo. Bên cạnh đó, còn một bộ phận nhỏ chức sắc, tín đồ của một số tôn giáo cho rằng họ không được hưởng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; rêu rao rằng ở Việt Nam không có tự do tôn giáo, Nhà nước Việt Nam xâm phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của giáo hội...

Những đánh giá ấy chẳng những không phản ánh đúng bản chất tình hình mà thậm chí cố tình phớt lờ những thành tựu của Việt Nam trong tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Thực chất đây không chỉ là những nhận thức sai lệch, mà xuất phát từ âm mưu, mục đích chính trị, nhằm lợi dụng vấn đề tự do tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước ta và chính quyền các cấp. 

 Phải có hàng rào pháp luật

Ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới, quyền tự do tôn giáo đều phải diễn ra trong khuôn khổ pháp luật, chứ không thể có sự tự do vô chính phủ, tự do vô nguyên tắc. Và dĩ nhiên, ở Việt Nam cũng vậy!

Nói về điều này, trước hết phải nhắc lại Điều 18 Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, trong đó nêu rõ, quyền tự do của cá nhân thể hiện tôn giáo hay tín ngưỡng của mình phải chịu các giới hạn, chẳng hạn như các giới hạn được luật pháp quy định và các giới hạn cần thiết để bảo vệ an toàn, trật tự, sức khỏe xã hội, hay tinh thần hoặc các quyền cơ bản và quyền tự do của những người khác. Nói cách khác, quyền tự do tôn giáo hay bất cứ một quyền nào khác trên phương diện pháp lý đều bị giới hạn bởi khuôn khổ luật pháp.

Cần phải thấy rằng, quyền tự do tôn giáo là vấn đề gắn với thể chế chính trị-xã hội và điều kiện kinh tế-văn hóa-xã hội ở từng quốc gia cụ thể, không thể tồn tại một khái niệm quyền tự do tôn giáo chung chung, trừu tượng. Cũng không thể đem giá trị, quan niệm về tự do tôn giáo ở một quốc gia này để áp dụng, đo lường hoặc đánh giá mức độ quyền tự do tôn giáo ở một quốc gia khác. Trên phương diện đối ngoại giữa các quốc gia, không thể đem tiêu chuẩn về tự do tôn giáo ở quốc gia này để áp đặt lên một quốc gia khác và buộc các quốc gia khác phải tuân theo.

Trở lại với âm mưu, luận điệu vu cáo rằng Việt Nam có các hoạt động đàn áp tôn giáo, một lần nữa cần nhìn vào thực tế để thấy mặt thật của vấn đề. Chẳng hạn, lâu nay tại Việt Nam đã xuất hiện không ít hoạt động tôn giáo trái pháp luật của một số tổ chức Tin lành nước ngoài chưa được cấp phép, điển hình là các tổ chức tà giáo mang danh nghĩa Tin lành truyền vào Việt Nam như Hội thánh của Đức Chúa Trời mẹ, Tân Thiên Địa... Hoạt động của đa phần các tổ chức này đều trái với văn hóa truyền thống Việt Nam, nhuốm màu mê tín dị đoan, hoạt động lén lút, có dấu hiệu trục lợi và nhìn chung là vi phạm pháp luật, bị dư luận lên án. Tuy nhiên, đối với các hoạt động tôn giáo vi phạm pháp luật của các tổ chức tà giáo như vậy, lực lượng chức năng Việt Nam chủ yếu nhắc nhở, chấn chỉnh và xử lý dựa trên quy định pháp luật.

Như vậy, một lần nữa chúng ta khẳng định chắc chắn rằng, ở Việt Nam hoàn toàn không có cái gọi là đàn áp tôn giáo. Những luận điệu xuyên tạc, vu cáo chỉ là chiêu trò mà các thế lực thù địch lợi dụng, sử dụng để nhằm phục vụ âm mưu chống phá Đảng và Nhà nước Việt Nam.

Điều đáng mừng là trong bối cảnh Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh hội nhập quốc tế, chúng ta đã có thêm nhiều kênh quan trọng để đưa ra tiếng nói và khẳng định thực tế tình hình tự do tôn giáo ở đất nước mình. Thông qua các cơ chế và diễn đàn song phương, đa phương, khu vực và quốc tế, đặc biệt là Liên hợp quốc, có một sự thật rõ ràng đang được thừa nhận, đó là Việt Nam đang tích cực cùng các quốc gia khác trên thế giới đấu tranh bảo vệ, phát huy các nguyên tắc, nội dung tiến bộ về tự do tôn giáo, và vẫn sẽ kiên trì bảo vệ lẽ phải trong lĩnh vực này.

VŨ HÙNG

Bài 3: Đất quốc phòng không phục vụ mục đích kinh tế đơn thuần (Tiếp theo và hết)

 25/11/2020 05:00

Quốc hội khóa XIV đã thông qua Nghị quyết về thí điểm một số chính sách để tháo gỡ vướng mắc, tồn đọng trong quản lý, sử dụng đất quốc phòng, an ninh kết hợp với hoạt động lao động sản xuất, xây dựng kinh tế với tỷ lệ tán thành rất cao.

 
Ngay sau đó, một số đối tượng bình luận rằng, Quốc hội thông qua nghị quyết này là không đúng với chủ trương của Đảng và giúp quân đội “giữ đất”, vì lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm (!). Từ chủ trương nhất quán của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tới chức năng của Quân đội ta và yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình hiện nay đều cho thấy, ý kiến trên là hoàn toàn sai trái.

Chủ trương, chính sách về kết hợp quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng

“Ngụ binh ư nông” là chính sách đưa quân sĩ vào tham gia lao động sản xuất nông nghiệp đã được nhiều triều đại phong kiến nước ta áp dụng và đã cho thấy tính hiệu quả trong công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Tiếp nối truyền thống quý báu ấy, Quân đội nhân dân Việt Nam từ khi ra đời đã được giao 3 chức năng, trong đó có chức năng "đội quân sản xuất", tham gia xây dựng kinh tế kết hợp với quốc phòng. Đây luôn là chủ trương nhất quán, xuyên suốt của Đảng, Nhà nước ta.

Ngày 9-2-2007, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X ra Nghị quyết số 10-NQ/TW, trong đó có nêu: “Chuyển các doanh nghiệp chuyên làm kinh tế đơn thuần thuộc các cơ quan đảng, lực lượng vũ trang, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội cho cơ quan nhà nước quản lý, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp”. Như vậy là theo nghị quyết nói trên, chỉ “chuyển các doanh nghiệp chuyên làm kinh tế đơn thuần...”, nhưng các đối tượng chống phá cố tình xuyên tạc để xã hội hiểu sai rằng quân đội sẽ không tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế nữa.

Sau đó chỉ hơn 9 tháng, Bộ Chính trị ban hành Quy định số 105-QĐ/TW ngày 20-11-2007 “Về tổ chức đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam” đã nêu rõ một trong những chức năng của Quân ủy Trung ương là “Lãnh đạo quân đội lao động, sản xuất, làm kinh tế theo đúng chức năng, nhiệm vụ, đúng đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đạt năng suất, chất lượng cao”. Văn bản này cũng nêu rõ: “Đảng ủy đơn vị sản xuất quốc phòng và làm kinh tế có nhiệm vụ: Lãnh đạo đơn vị thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ; quán triệt và thực hiện quan điểm kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh, quốc phòng, an ninh với kinh tế, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quân sự, quốc phòng trong mọi tình huống theo đúng đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của quân đội; sản xuất, kinh doanh phát triển, đạt hiệu quả kinh tế-xã hội cao; góp phần cùng các doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế quốc dân”; “Cấp ủy đảng trong các doanh nghiệp của quân đội liên doanh với nước ngoài có nhiệm vụ lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh đúng pháp luật, chính sách của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, bảo đảm lợi ích hợp pháp của các bên trong doanh nghiệp, bảo vệ quyền lợi, nhân phẩm người lao động”.

Bài 3: Đất quốc phòng không phục vụ mục đích kinh tế đơn thuần (Tiếp theo và hết)
Cán bộ Đoàn KT-QP 356 động viên gia đình có người thiệt mạng ở bản Lùng Than, xã Mù San, huyện Phong Thổ (Lai Châu). Ảnh: Qdnd.vn

Tại Quy định số 59-QĐ/TW của Bộ Chính trị ngày 22-12-2016 quy định về tổ chức Đảng trong Quân đội nhân dân Việt Nam cũng quy định rõ: Quân ủy Trung ương có nhiệm vụ "Lãnh đạo quân đội lao động sản xuất, làm kinh tế đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao đúng đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước". Văn bản cũng quy định: "Đảng ủy đơn vị sản xuất quốc phòng và làm kinh tế có nhiệm vụ: Lãnh đạo đơn vị thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ; quán triệt và thực hiện quan điểm kết hợp kinh tế-xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh với kinh tế-xã hội tạo thế quân sự, quốc phòng trong khu vực phòng thủ ở địa phương, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng trong mọi tình huống; sản xuất, kinh doanh phát triển, đạt hiệu quả kinh tế-xã hội cao theo đúng đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, quy định của quân đội; góp phần cùng các doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân".

Như vậy, Đảng ta luôn coi trọng chức năng "đội quân sản xuất" của quân đội và luôn nhất quán chủ trương quân đội tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp quốc phòng. Trong rất nhiều văn kiện của Đảng, đặc biệt là trong các văn kiện đại hội toàn quốc của Đảng, vấn đề kết hợp hiệu quả giữa phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng-an ninh; xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của các khu kinh tế-quốc phòng; phát triển công nghiệp quốc phòng... thường xuyên được nhắc đến cả trong phần đánh giá kết quả đạt được và trong phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ. 

Điều 68 Hiến pháp cũng quy định rõ: “Nhà nước phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân, giáo dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân; xây dựng công nghiệp quốc phòng, an ninh; bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang nhân dân, kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, kinh tế với quốc phòng, an ninh...”. Thể chế hóa quan điểm của Đảng, cụ thể hóa Hiến pháp, nhiều văn bản pháp luật đã có những quy định về xây dựng nền công nghiệp quốc phòng; kết hợp quốc phòng với kinh tế, kinh tế với quốc phòng.

Quân đội tham gia sản xuất, xây dựng kinh tế là phù hợp với thực tiễn nước ta

Thực tiễn cho thấy, trong suốt 76 năm qua, Quân đội ta luôn thực hiện tốt cả 3 chức năng "đội quân chiến đấu", "đội quân công tác" và "đội quân sản xuất", được Đảng, Nhà nước và nhân dân đánh giá cao.

Trước hết, tất cả các đơn vị quân đội đều thực hiện tăng gia sản xuất. Ngay cả những nơi đóng quân trong điều kiện rất khắc nghiệt như ở các đảo xa, bộ đội vẫn trồng rau xanh, chăn nuôi gia súc, gia cầm và hải sản để cải thiện bữa ăn. Nhờ hoạt động tăng gia sản xuất, chất lượng bữa ăn của bộ đội được cải thiện rõ rệt, góp phần nâng cao thể lực và hiệu quả huấn luyện, học tập của cán bộ, chiến sĩ.

Thời gian qua, thực hiện chủ trương của Đảng, các doanh nghiệp thương mại, dịch vụ hoạt động kinh tế đơn thuần đã được chuyển sang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp, thoái vốn, cổ phần hóa... Các doanh nghiệp còn lại do quân đội quản lý đều đang tham gia thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Tuy nhiên, trong điều kiện bình thường, sản xuất phục vụ nhiệm vụ quân sự, quốc phòng của các doanh nghiệp này chỉ đạt một phần công suất thiết kế của dây chuyền công nghệ và năng lực lao động, sản xuất của công nhân, thu nhập thấp rất khó giữ chân người lao động. Để tránh lãng phí nguồn lực, việc kết hợp nhiệm vụ xây dựng kinh tế để tạo thêm việc làm, thu nhập cho người lao động, tăng nguồn thu để đóng góp thêm vào ngân sách nhà nước, tạo nguồn lực đầu tư đổi mới dây chuyền công nghệ để quay lại phục vụ nhiệm vụ quân sự, quốc phòng tốt hơn là rất cần thiết. Thực tế, hầu hết các doanh nghiệp quân đội triển khai thực hiện nhiệm vụ theo hướng kết hợp, lưỡng dụng đều đã phát huy hiệu quả, thực sự “giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế quốc dân”, đóng góp rất lớn cho ngân sách nhà nước. Các doanh nghiệp quân đội đóng góp vào ngân sách nhà nước khoảng 41.000 tỷ đồng mỗi năm, tạo công ăn việc làm cho khoảng 145.000 lao động, trong đó có nhiều thương hiệu hàng đầu, đóng góp ngân sách hàng đầu và cũng đi đầu trong đổi mới công nghệ trong đội ngũ các doanh nghiệp Việt Nam. Điển hình như Tập đoàn Công nghiệp-Viễn thông Quân đội (Viettel), Tổng công ty Tân Cảng Sài Gòn, Tổng công ty Trực thăng Việt Nam... 

Mô hình đoàn kinh tế-quốc phòng được xây dựng từ năm 1999, đến nay đã có nhiều đoàn kinh tế-quốc phòng ở vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo. Các đoàn kinh tế-quốc phòng là lực lượng tại chỗ giúp dân xóa đói, giảm nghèo; tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng; giúp nhân dân tiêu thụ nông sản; tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; góp phần bảo vệ vững chắc biên cương của Tổ quốc... Các đoàn kinh tế-quốc phòng có vai trò quan trọng trong công cuộc gìn giữ an ninh trật tự, an toàn xã hội, phát triển kinh tế-xã hội ở những địa bàn đặc biệt khó khăn mà hầu như không có doanh nghiệp nào ngoài quân đội muốn đầu tư. Có thể nói, các đoàn kinh tế-quốc phòng, các doanh nghiệp quân đội ở địa bàn khó khăn, là điển hình trong thực hiện 3 chức năng của quân đội, vừa lao động sản xuất, vừa làm công tác vận động quần chúng và cũng là đội quân chiến đấu khi có tình huống.  

Quốc hội ban hành nghị quyết là đúng đắn, cần thiết

Như vậy, Quân đội ta tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế là cần thiết, đúng chủ trương của Đảng, phù hợp với thực tiễn, phù hợp yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đất đai giao cho quân đội quản lý, vừa phục vụ nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, vừa là tư liệu sản xuất thiết yếu, là cơ sở quan trọng để quân đội tham gia lao động sản xuất, xây dựng kinh tế kết hợp quốc phòng. Các đơn vị quân đội cần sử dụng đất để trồng trọt, chăn nuôi, tăng gia sản xuất. Các doanh nghiệp quân đội, các đoàn kinh tế-quốc phòng cần đất để đặt trụ sở hoạt động; xây dựng nhà máy, kho xưởng phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh; xây dựng nông, lâm, ngư trường... Do vậy, việc Quốc hội ban hành Nghị quyết về thí điểm một số chính sách để tháo gỡ vướng mắc, tồn đọng trong quản lý, sử dụng đất quốc phòng, an ninh kết hợp với hoạt động lao động sản xuất, xây dựng kinh tế là hoàn toàn phù hợp với chủ trương của Đảng, phù hợp với thực tiễn và cần thiết.

Trái với luận điệu xuyên tạc của những kẻ chống phá, rằng quân đội chỉ muốn “giữ đất”, không chịu giao đất phục vụ phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương, lãnh đạo Bộ Quốc phòng đã nhiều lần khẳng định: Bộ Quốc phòng sẵn sàng chuyển giao đất cho địa phương quản lý nếu vị trí đất đó không thực sự cần thiết cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Thực tế, quân đội đã bàn giao hàng chục nghìn héc-ta đất, trong đó có nhiều vị trí đất “vàng” cho địa phương quản lý, phục vụ phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương. Tuy nhiên, những diện tích đất có vị trí quan trọng phục vụ nhiệm vụ quân sự, quốc phòng thì không thể giao lại cho địa phương, vì khi phát sinh tình huống sẽ rất khó thu hồi kịp thời để thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Trong điều kiện bình thường, khi chưa phát sinh tình huống quân sự, quốc phòng, những diện tích đất ấy được dùng cho lao động sản xuất, xây dựng kinh tế, góp phần tăng tiềm lực quân sự, quốc phòng. Khi phát sinh tình huống, diện tích đó được sử dụng ngay cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng. Thực hiện như vậy cũng sẽ tránh diện tích đất quốc phòng bị lấn chiếm như thực tế đã xảy ra ở một số nơi, sau đó việc thu hồi đất bị lấn chiếm rất gian nan, phức tạp.

Việc sử dụng đất quốc phòng vào hoạt động kết hợp kinh tế với quốc phòng là đúng chủ trương của Đảng, có tính lịch sử, kế thừa, gắn liền với quá trình xây dựng, phát triển quân đội qua nhiều thời kỳ. Dù trong thời kỳ nào, Bộ Quốc phòng luôn quán triệt và yêu cầu khi sử dụng đất quốc phòng vào hoạt động lao động sản xuất, xây dựng kinh tế phải tuân thủ nguyên tắc kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng, phù hợp với quy hoạch, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của quân đội; bảo đảm nguyên tắc ưu tiên hàng đầu cho nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và dự trữ lâu dài nguồn đất đai phục vụ nhiệm vụ quốc phòng-an ninh, để kịp thời sử dụng khi có tình huống xảy ra. Do đó, luận điệu xuyên tạc rằng quân đội giữ đất là vì lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm là hoàn toàn sai trái, cần phải được nhận diện để phản bác. 

Có thể thấy, việc Luật Biên phòng Việt Nam; Nghị quyết về tham gia lực lượng Gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc; Nghị quyết về thí điểm một số chính sách để tháo gỡ vướng mắc, tồn đọng trong quản lý, sử dụng đất quốc phòng, an ninh kết hợp với hoạt động lao động sản xuất, xây dựng kinh tế, đều được Quốc hội thông qua với tỷ lệ tán thành rất cao, trong đó có nghị quyết đạt tỷ lệ tán thành 100% số đại biểu tham gia biểu quyết, chứng tỏ việc chuẩn bị các văn bản quy phạm pháp luật liên quan tới quốc phòng được chuẩn bị kỹ lưỡng, khoa học và toàn diện, hợp hiến, hợp lý và hợp lòng dân. Kết quả nói trên cũng cho thấy sự đồng tình, ủng hộ của đại biểu Quốc hội và nhân dân đối với các vấn đề quốc phòng. Đó là cơ sở quý báu để tiếp tục nâng cao sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân, vì mục tiêu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

ĐỖ PHÚ THỌ - HỒ QUANG PHƯƠNG - NGUYỄN CHIẾN THẮNG 

Bài 2: Việt Nam tham gia lực lượng "mũ nồi xanh" - hoàn thiện luật pháp cho một chủ trương đúng

24/11/2020 05:00

Có lẽ đã từ rất lâu mới có một nghị quyết của Quốc hội được thông qua với tỷ lệ tuyệt đối, 100% đại biểu có mặt tham gia biểu quyết (455/455 đại biểu). Đó chính là Nghị quyết về tham gia lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc (GGHB LHQ), được Quốc hội khóa XIV thông qua tại Kỳ họp thứ mười vừa qua.

Kết quả trên đã cho thấy đánh giá cao của đại biểu Quốc hội, cũng như dư luận xã hội đối với tính cần thiết và sự hiệu quả của việc cử các cá nhân, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam tham gia lực lượng GGHB LHQ. Việc nghị quyết được thông qua đã tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý, cơ chế, chế độ chính sách cho các đơn vị, quân nhân tham gia hoạt động này. Kết quả trên cũng đã xóa tan những nghi ngại, những xuyên tạc về việc Việt Nam tham gia vào lực lượng "mũ nồi xanh".

Hoạt động chính danh, chính nghĩa, thực hiện thận trọng

Có một số ý kiến thắc mắc: Tại sao Việt Nam lại tham gia lực lượng GGHB LHQ để gây tốn kém ngân sách, mệt nhọc, rủi ro cho lực lượng vũ trang ở nơi đất khách quê người, trong khi ngay trong nước, bên cạnh nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, bảo đảm quốc phòng, an ninh thì vẫn còn nhiều nhiệm vụ cần huy động LLVT nhân dân, ví dụ như bão lũ, thiên tai, dịch bệnh ngày càng khắc nghiệt, nhiều vùng tại nước ta vẫn còn bị ảnh hưởng nặng nề bởi di chứng chiến tranh như ô nhiễm bom mìn, chất độc dioxin... Cũng lại có ý kiến vu cáo rằng, việc Việt Nam đưa LLVT ra nước ngoài là tham gia liên minh quân sự, đi xâm lược nước khác. 

Đầu tiên, cần khẳng định rằng, tham gia lực lượng GGHB LHQ với quân phục có chiếc mũ nồi xanh-là tham gia vào nỗ lực toàn cầu, hoàn toàn chính danh, chính nghĩa trong việc bảo vệ hòa bình thế giới. Hoạt động GGHB LHQ ra đời từ năm 1948, là một cơ chế đặc biệt được LHQ giao cho Hội đồng Bảo an LHQ thành lập dưới hình thức các phái bộ nhằm giúp tạo điều kiện chấm dứt xung đột và GGHB, thông qua việc triển khai các lực lượng do các nước thành viên đóng góp đặt dưới sự chỉ huy của LHQ. Trong suốt 72 năm qua, lực lượng "mũ nồi xanh" đã giữ vai trò quan trọng trong việc giám sát các thỏa thuận hòa bình, góp phần ngăn chặn lửa chiến tranh ở nhiều điểm nóng trên thế giới. Đến nay, đã có 125 nước đóng góp quân cho lực lượng "mũ nồi xanh".

Khi tham gia lực lượng GGHB LHQ, Việt Nam vẫn luôn bảo đảm các nguyên tắc trong chiến lược quốc phòng là không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Vì vậy, ý kiến vu cáo rằng, Việt Nam tham gia lực lượng GGHB LHQ là tham gia liên minh quân sự để chiếm đóng nước khác là hoàn toàn sai về bản chất.

Bài 2: Việt Nam tham gia lực lượng "mũ nồi xanh" - hoàn thiện luật pháp cho một chủ trương đúng
Các bác sĩ quân y Việt Nam giương cao hai lá cờ của Liên hợp quốc và Việt Nam tại sân bay quốc tế Juba, bắt đầu thực hiện nhiệm vụ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại Nam Sudan. Ảnh: TTXVN.

Việt Nam tham gia lực lượng GGHB LHQ theo từng giai đoạn, từng bước thực hiện rất thận trọng, theo khả năng đáp ứng về lực lượng, để hạn chế rủi ro, tiết kiệm tối đa kinh phí bảo đảm. Ngay từ năm 1993, Việt Nam đã lập tổ nghiên cứu các hoạt động GGHB của LHQ và cũng đã có những đóng góp về tài chính cho hoạt động này của LHQ. Hiến pháp năm 2013 đã quy định rằng Hội đồng Quốc phòng và An ninh quyết định việc LLVT nhân dân tham gia hoạt động góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới. Như vậy, Nghị quyết về tham gia lực lượng GGHB LHQ có căn cứ từ Hiến pháp. Ngày 23-11-2012, Bộ Chính trị đã thông qua Đề án tổng thể về việc Việt Nam tham gia hoạt động GGHB LHQ (gọi tắt là Đề án tổng thể). Ngày 5-12-2013, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án QĐND Việt Nam tham gia hoạt động GGHB LHQ giai đoạn 2014-2020 và những năm tiếp theo. Ngày 30-10-2013, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án Công an nhân dân Việt Nam tham gia hoạt động GGHB LHQ giai đoạn 2014-2020 và những năm tiếp theo. Đây là những chủ trương quan trọng để Bộ Quốc phòng và Bộ Công an chuẩn bị nguồn lực, đặc biệt là nhân sự để tham gia theo lộ trình đã được nêu trong Đề án tổng thể. Đến ngày 27-5-2014, Trung tâm GGHB Việt Nam chính thức được thành lập (năm 2018 trở thành Cục GGHB Việt Nam) trực thuộc Bộ Quốc phòng, đồng thời cử hai sĩ quan đầu tiên của QĐND Việt Nam tham gia lực lượng GGHB của LHQ tại Nam Sudan, trên cương vị là quan sát viên quân sự của LHQ.

Từ năm 2014 đến nay, Việt Nam đã tham gia lực lượng GGHB LHQ theo hình thức từ cá nhân đến đơn vị. Đối với hình thức cá nhân, Việt Nam đã cử 50 lượt sĩ quan tham gia tại hai phái bộ là Cộng hòa Trung Phi, Nam Sudan và trụ sở LHQ. Đối với hình thức đơn vị, Việt Nam đã cử hai lượt bệnh viện dã chiến cấp 2, với 126 sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp tham gia. Các lĩnh vực mà Việt Nam đã và đang tham gia trong lực lượng GGHB LHQ là: Tham mưu, hậu cần, quân y, quan sát viên quân sự. Hiện nay, LHQ đang tiếp tục đề nghị Việt Nam cử thêm lực lượng và mở rộng sang các lĩnh vực khác như: Công binh, cảnh sát, quan sát viên và giám sát bầu cử. Nghị quyết về việc tham gia lực lượng GGHB LHQ đã được Quốc hội thông qua quy định các lĩnh vực mà Việt Nam tham gia bao gồm: Tham mưu; hậu cần; kỹ thuật; thông tin, liên lạc; công binh; quân y; cảnh sát; kiểm soát quân sự; quan sát viên quân sự; quan sát viên và giám sát bầu cử; các lĩnh vực khác do Hội đồng Quốc phòng và An ninh quyết định. Đây là những lĩnh vực mà chúng ta hoàn toàn có đủ điều kiện, khả năng và nguồn lực để bảo đảm. Nghị quyết nêu rõ, về xây dựng lực lượng, Bộ Quốc phòng chủ trì, phối hợp với Bộ Công an và các bộ, ngành liên quan lập kế hoạch trung hạn và dài hạn về xây dựng lực lượng Việt Nam tham gia hoạt động GGHB LHQ trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Chính phủ trình Hội đồng Quốc phòng và An ninh quyết định việc cử, điều chỉnh, rút lực lượng Việt Nam tham gia hoạt động GGHB LHQ.

Hiện nay, Chính phủ đang chỉ đạo Bộ Quốc phòng chuẩn bị triển khai lực lượng công binh thuộc QĐND Việt Nam tham gia hoạt động GGHB LHQ (quân số khoảng 320 người). Bộ Công an cũng sẽ cử lực lượng tham gia hoạt động này trong thời gian tới.

Về tài chính, việc tham gia lực lượng GGHB LHQ không hề tạo ra gánh nặng đối với ngân sách nhà nước. Với nguồn tiền bồi hoàn của LHQ (hơn 4,8 triệu USD) và sự hỗ trợ của quốc tế (hơn 20 triệu USD) đã góp phần giảm đáng kể ngân sách nhà nước đầu tư cho việc tham gia hoạt động GGHB LHQ của Việt Nam. Có thể nói, đầu tư của Việt Nam cho hoạt động này không lớn, nhưng hiệu quả lại rất cao.

Nâng cao vai trò, vị thế, hình ảnh Việt Nam 

Có thể thấy rõ rằng, việc Việt Nam tham gia lực lượng GGHB của LHQ là một hoạt động đối ngoại quan trọng, thực hiện sứ mệnh quốc tế cao cả, thể hiện vai trò, trách nhiệm của Việt Nam đối với một lĩnh vực trọng yếu của cộng đồng quốc tế. Hoạt động này đã góp phần tăng thiện cảm của quốc tế đối với đất nước, con người Việt Nam.

Cùng với việc thực hiện tốt các hoạt động chuyên môn theo nhiệm vụ được giao, các sĩ quan "mũ nồi xanh" Việt Nam còn tích cực làm công tác dân vận như tham gia dạy học, hướng dẫn người dân bản xứ trồng rau xanh, hướng dẫn các bà mẹ chăm sóc trẻ nhỏ đúng cách, may khẩu trang phòng, chống dịch Covid-19 tặng đồng đội và người dân địa phương... đã tạo ấn tượng đẹp về Bộ đội Cụ Hồ, về đất nước và con người Việt Nam.

Các bệnh viện dã chiến của LHQ bình quân mỗi năm chỉ thu dung khoảng 200 bệnh nhân, thì hai bệnh viện dã chiến của Việt Nam mỗi năm đã thu dung gấp hơn 10 lần, với hơn 2.000 bệnh nhân/bệnh viện. Chính vì hiệu quả công việc và thiện cảm tạo ra mà tỷ lệ các sĩ quan "mũ nồi xanh" của Việt Nam được LHQ đánh giá xuất sắc lên tới 33,3% (10/30 đồng chí được đánh giá), gấp nhiều lần so với mức trung bình khoảng 1-2% sĩ quan "mũ nồi xanh" được LHQ đánh giá là xuất sắc hằng năm theo thông lệ. Hai bệnh viện dã chiến cấp 2 của Việt Nam là những đơn vị có tỷ lệ nữ cao hơn tỷ lệ khuyến khích 15% do LHQ đưa ra, được LHQ biểu dương. Chính từ những kết quả trên mà LHQ đã gửi lời cảm ơn, ca ngợi lực lượng GGHB LHQ của Việt Nam.

Bảo vệ Tổ quốc từ xa, từ sớm

Với khía cạnh quốc phòng-an ninh, việc tham gia lực lượng GGHB LHQ chính là trực tiếp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc từ xa, từ sớm. Hoạt động này giúp chúng ta tham gia trực tiếp cùng các lực lượng quân sự của nhiều nước khác, từ đó thông hiểu sâu sắc hơn về tư duy, quy trình chuẩn để xử lý các vấn đề tác chiến trong chiến tranh hiện đại. Điều này sẽ đóng góp tích cực trong quá trình hiện đại hóa và nâng cao năng lực tác chiến của Quân đội ta. Việc mở rộng giao lưu quốc tế cũng tạo ra nguồn kiến thức, kinh nghiệm phong phú bổ sung cho công tác hoạch định chính sách quốc phòng, công tác huấn luyện, đào tạo, giảng dạy trong nhà trường quân đội.

Hiện nay, lực lượng "mũ nồi xanh" của Việt Nam đã tiếp cận được các chương trình huấn luyện của LHQ. Năm 2018, LHQ đã công nhận Cục GGHB Việt Nam là một trong 4 trung tâm huấn luyện quốc tế ở khu vực để triển khai huấn luyện theo chương trình đối tác 3 bên (Việt Nam, LHQ và một nước đối tác). Trong các năm 2018-2020, Việt Nam đồng chủ trì với LHQ và Nhật Bản tổ chức 3 khóa huấn luyện vận hành trang bị công binh hạng nặng cho các lực lượng của Việt Nam và các nước trong khu vực. Đồng thời, LHQ đã chọn Việt Nam là địa điểm đăng cai tổ chức nhiều khóa tập huấn. Tháng 4-2019, Việt Nam đã nhận bàn giao cương vị Chủ tịch Hiệp hội các Trung tâm GGHB khu vực châu Á-Thái Bình Dương (AAPTC) năm 2020, trở thành thành viên chính thức của AAPTC. Điều này một lần nữa khẳng định LHQ đánh giá cao Việt Nam thực hiện tốt những cam kết và đạt kết quả cao khi tham gia nhiệm vụ GGHB LHQ.

Cùng với đó, đã có hai sĩ quan của Việt Nam trúng tuyển vào cơ quan tham mưu, hoạch định chính sách ở Tổng hành dinh của LHQ tại New York (Hoa Kỳ), đó là Trung tá Lương Trường Vinh và mới nhất là Thiếu tá Trần Đức Hưởng. Điều này giúp Việt Nam chủ động, tích cực hơn trong việc tham gia vào công tác hoạch định chính sách của LHQ.    

Việc tham gia lực lượng GGHB của LHQ đã và đang thúc đẩy, tăng cường mối quan hệ hợp tác quốc phòng giữa Việt Nam với các nước. Việt Nam đã ký 9 bản ghi nhớ (MOU) về hợp tác GGHB LHQ với các nước đối tác gồm: Australia, Trung Quốc, Hoa Kỳ, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Pháp, New Zealand, Nga. Sự thành công của Việt Nam trong việc ứng cử vào vị trí Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ nhiệm kỳ 2020-2021 có phần đóng góp không nhỏ từ những hoạt động hiệu quả, để lại ấn tượng đẹp của lực lượng “mũ nồi xanh” Việt Nam.

Như thế, có thể khẳng định, việc tham gia lực lượng GGHB LHQ là một chủ trương đúng đắn của Đảng, Nhà nước, thực hiện hội nhập quốc tế sâu rộng, nhất là về quốc phòng, mở ra kênh hợp tác với các đối tác. Những kết quả tốt đẹp của hoạt động này trong thời gian qua đã tiếp tục xây dựng hình ảnh về một Việt Nam là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, từ đó góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Những kết quả hết sức rõ ràng đó đã bác bỏ những quan điểm sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch về vấn đề này.

(còn nữa)

ĐỖ PHÚ THỌ - HỒ QUANG PHƯƠNG - NGUYỄN CHIẾN THẮNG

Pháp luật về quốc phòng - hợp hiến, hợp lý và hợp lòng dân

23/11/2020 05:00

Tại Kỳ họp thứ mười, Quốc hội khóa XIV, Quốc hội đã xem xét thông qua 7 luật, 13 nghị quyết, trong đó có 1 luật và 2 nghị quyết liên quan đến quốc phòng là Luật Biên phòng Việt Nam; Nghị quyết về tham gia lực lượng Gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc; Nghị quyết thí điểm một số chính sách để tháo gỡ vướng mắc, tồn đọng trong quản lý, sử dụng đất quốc phòng, an ninh kết hợp với hoạt động lao động sản xuất, xây dựng kinh tế.

Cả 3 văn bản quy phạm pháp luật này đều được chuẩn bị khoa học, công phu, tiếp thu tối đa ý kiến của các chuyên gia và người dân, được tuyệt đại đa số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành. Kết quả này đã khẳng định tính đúng đắn, hợp hiến, hợp lý và hợp lòng dân, đồng thời phản bác đanh thép trước các ý kiến sai trái, xuyên tạc về 3 văn bản quy phạm pháp luật nêu trên.  

Bài 1: Không có sự chồng chéo, “lợi ích nhóm” trong Luật Biên phòng Việt Nam

Với tỷ lệ 94,61% đại biểu tán thành, chiều 11-11, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật Biên phòng Việt Nam (BPVN). Trong lúc nhân dân ta, nhất là đồng bào ở vùng biên giới, hải đảo phấn khởi bởi Luật BPVN sẽ tạo cơ sở pháp lý vững chắc nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, toàn dân, toàn quân vào sự nghiệp xây dựng, quản lý và bảo vệ biên giới quốc gia (BGQG) thì vẫn có người “chọc gậy bánh xe”, quy chụp rằng có “lợi ích nhóm” khi xây dựng luật, rằng Luật BPVN sẽ tạo ra sự mâu thuẫn, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ giữa các lực lượng...

Sự cần thiết phải ban hành Luật Biên phòng Việt Nam

Việt Nam có đường biên giới đất liền dài hơn 4.500km và bờ biển dài hơn 3.200km với 44 tỉnh, thành phố có BGQG. BGQG là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Xây dựng, quản lý, bảo vệ BGQG là trách nhiệm của các cấp, các ngành và của cả hệ thống chính trị. Để bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, an ninh BGQG thì cần thiết phải có hệ thống văn bản pháp lý đồng bộ, thống nhất.

Pháp luật về quốc phòng - hợp hiến, hợp lý và hợp lòng dân
Cán bộ, chiến sĩ Biên phòng tuần tra bảo vệ biên giới. Ảnh minh họa: Báo Biên Phòng 

Cách đây hơn 20 năm, Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng (BĐBP) đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) ban hành. Pháp lệnh này chỉ điều chỉnh các vấn đề liên quan đến BĐBP, chưa đề cập đến các chủ thể khác trong xây dựng, quản lý, bảo vệ BGQG, khu vực biên giới (KVBG). Một số quy định liên quan đến hạn chế quyền con người, quyền công dân chưa phù hợp với Hiến pháp năm 2013; nhiều nhiệm vụ, quyền hạn của BĐBP không được quy định trong pháp lệnh mà quy định tại các luật khác và văn bản dưới luật dẫn đến tình trạng khó theo dõi, thiếu thống nhất, gây khó khăn cho quá trình thực thi nhiệm vụ biên phòng của BĐBP. Tổng kết 20 năm thi hành Pháp lệnh BĐBP, các ban, bộ, ngành, UBND các tỉnh, thành phố có biên giới đều thống nhất kiến nghị, báo cáo Quốc hội xây dựng Luật BPVN. 

Ngày 28-9-2018, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW về “Chiến lược bảo vệ BGQG”, trong đó nêu rõ “sớm ban hành Luật BPVN”.

Trên cơ sở kết quả tổng kết 20 năm thi hành Pháp lệnh BĐBP và yêu cầu của thực tiễn, Bộ Quốc phòng đã báo cáo Chính phủ, UBTVQH cho phép xây dựng dự án Luật BPVN. Quá trình thực hiện, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Quốc phòng chủ trì, phối hợp với các cơ quan, tổ chức thực hiện đầy đủ trình tự, thủ tục soạn thảo theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Đã tổ chức lấy ý kiến 19 bộ, ngành, UBND 44 tỉnh, thành phố biên giới đối với hồ sơ dự thảo luật; khảo sát, tọa đàm, hội thảo nhiều lần. Dự án Luật BPVN cũng đã được Bộ Tư pháp thẩm định, được các thành viên Chính phủ thảo luận, được Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội thẩm tra; UBTVQH xem xét, kết luận đủ điều kiện trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ chín và thông qua tại Kỳ họp thứ mười, Quốc hội khóa XIV.

Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta khi xây dựng Luật BPVN là luật phải thể chế đầy đủ quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về xây dựng, quản lý, bảo vệ BGQG; xây dựng lực lượng BĐBP bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, thống nhất, đồng bộ với hệ thống pháp luật và các điều ước quốc tế về BGQG mà Việt Nam là thành viên. Kế thừa những quy định của Pháp lệnh BĐBP còn giá trị, khắc phục những vướng mắc, bất cập; rà soát, đối chiếu với các quy định pháp luật hiện hành để tránh mâu thuẫn, chồng chéo; đồng thời phát triển, bổ sung các quy định mới nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng, quản lý, bảo vệ BGQG. Bám sát các chính sách đã được đánh giá tác động của dự án luật. Nghiên cứu, tiếp thu các quy định pháp luật về công tác biên phòng, tổ chức lực lượng bảo vệ biên giới của một số nước láng giềng, khu vực để vận dụng phù hợp với điều kiện của nước ta.

Trước khi thông qua toàn bộ Luật BPVN, Quốc hội biểu quyết thông qua hai điều, gồm: Điều 10: Phối hợp thực thi nhiệm vụ biên phòng, có 91,08% tổng số đại biểu tán thành; Điều 5: Nhiệm vụ biên phòng, có 92,74% tổng số đại biểu tán thành. Luật BPVN có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2022.

Không chồng chéo, mâu thuẫn với các luật khác

Theo TS Bùi Thanh Tùng, Phó trưởng đoàn chuyên trách Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng, Luật BPVN chỉ quy định các nhiệm vụ chung cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thực thi nhiệm vụ biên phòng mà không quy định cụ thể cho từng lực lượng. Quy định như vậy phù hợp và bảo đảm không mâu thuẫn, chồng chéo với các luật khác liên quan. Nhiệm vụ cụ thể của từng lực lượng, cũng như vai trò chủ trì trong từng nhiệm vụ sẽ căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan theo quy định của pháp luật; với các nguyên tắc và nội dung phối hợp áp dụng chung cho các lực lượng thực thi nhiệm vụ biên phòng, đảm bảo để từng chủ thể chủ động, linh hoạt trong việc phối hợp thực thi nhiệm vụ biên phòng. Luật BPVN quy định, ngoài các cơ quan, tổ chức, đơn vị LLVT đứng chân, hoạt động ở KVBG, cửa khẩu còn có “các cơ quan chỉ huy, chỉ đạo trực tiếp của cơ quan, tổ chức, đơn vị LLVT nhân dân ở KVBG, cửa khẩu”. Đây là cơ sở để quy định một số chế độ, chính sách cho từng lực lượng.

Thảo luận tại Quốc hội, nhiều đại biểu đã khẳng định không có sự chồng chéo về quyền hạn của lực lượng BĐBP với lực lượng hải quan và lực lượng công an. Hiện nay, lực lượng BĐBP đang trực tiếp thực hiện hiệu quả nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát xuất nhập cảnh đối với người, phương tiện tại các cửa khẩu, cảng biển do Bộ Quốc phòng quản lý (117 cửa khẩu biên giới đất liền, 37 cửa khẩu cảng biển). Vì vậy, quy định tại khoản 3, Điều 14 trong Luật BPVN là không mới, mà đã được cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật hiện hành như: Luật Công an nhân dân; Luật Quốc phòng; Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam... Việc luật hóa thẩm quyền kiểm tra, kiểm soát, xử lý phương tiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật ở KVBG, cửa khẩu của lực lượng BĐBP hoàn toàn có căn cứ, dựa trên quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước và vì lợi ích quốc gia, dân tộc, không chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ với lực lượng khác.

Từ thực tiễn ở địa phương, đại biểu Nguyễn Văn Sơn (đoàn Hà Tĩnh) cho biết: Lực lượng BĐBP tại Cửa khẩu quốc tế Cầu Treo đã phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng với lực lượng hải quan phát hiện, bắt giữ nhiều đối tượng vi phạm pháp luật, đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm ở KVBG, cửa khẩu, bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh BGQG.

Trước thông tin cho rằng có sự chồng chéo, “lợi ích nhóm” trong quy định vai trò, nhiệm vụ của BĐBP trong Luật BPVN, nhiều chuyên gia trong lĩnh vực pháp luật đã khẳng định: Việc quy định lực lượng chuyên trách làm nòng cốt trong quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh BGQG là thống nhất với các nghị quyết của Bộ Chính trị, phù hợp với Luật BGQG năm 2003, Luật An ninh quốc gia năm 2004, Luật Công an nhân dân năm 2018, Luật Quốc phòng năm 2018... Sự phù hợp đó không có điều gì phải bàn cãi, vì nhiệm vụ "gác cửa" BGQG được Nhà nước giao cho BĐBP, cho nên, BĐBP phải là lực lượng nòng cốt trong việc bảo vệ BGQG. 

Trung tướng Đỗ Danh Vượng, Chính ủy BĐBP cho biết, ngay từ những ngày đầu thành lập lực lượng, Nghị quyết số 58-NQ/TW ngày 19-11-1958 của Bộ Chính trị về xây dựng lực lượng Cảnh vệ nội địa và biên cương đã khẳng định: “Lực lượng cảnh vệ này có nhiệm vụ trấn áp mọi hành động phá hoại của bọn phản cách mạng trong nước và bọn phản cách mạng nước ngoài xâm nhập phá hoại nước ta, luôn sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ an ninh biên giới, bờ bể, giới tuyến và nội địa, bảo vệ an toàn cho các cơ sở kinh tế, văn hóa quan trọng”.    

Không chỉ các đại biểu Quốc hội, cán bộ BĐBP mà rất nhiều cán bộ, chiến sĩ, đồng bào ở biên giới rất phấn khởi khi được tin Quốc hội đã thông qua Luật BPVN. Đồng chí Đoàn Quốc Chính, Bí thư Huyện ủy Hạ Lang (Cao Bằng) nói: “Luật BPVN sẽ là cơ sở pháp lý để lực lượng BĐBP tiếp tục phát huy những kết quả đạt được, thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ tham gia xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên biên giới; tham mưu cho chính quyền địa phương trong sắp xếp ổn định dân cư, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng, phát triển kinh tế-xã hội ở KVBG gắn với củng cố quốc phòng-an ninh. Từ đó, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, toàn dân, toàn quân, xây dựng nền biên phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng KVBG phát triển, bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh BGQG, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở KVBG”.

Kiên quyết đấu tranh với các thông tin sai lệch, xuyên tạc 

Cuối tuần qua, Thiếu tướng Lê Đức Thái, Tư lệnh BĐBP đã chủ trì hội nghị triển khai các nhiệm vụ cụ thể trong BĐBP để sớm đưa Luật BPVN đi vào cuộc sống khi có hiệu lực thi hành.

Phát biểu tại hội nghị, Thiếu tướng Bùi Đức Hạnh, nguyên Phó tư lệnh BĐBP, đại biểu Quốc hội khóa XIV tỉnh Thừa Thiên Huế cho biết, việc thông qua Luật BPVN với số phiếu tán thành cao thể hiện uy tín của lực lượng BĐBP và sự ghi nhận của nhân dân và đại biểu Quốc hội về công lao to lớn của BĐBP trong quá trình hơn 61 năm xây dựng và phát triển, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc chủ quyền an ninh BGQG, giúp đồng bào các dân tộc ở KVBG phát triển. Để sớm đưa Luật BPVN đi vào cuộc sống, Thiếu tướng Bùi Đức Hạnh đề nghị các cơ quan chức năng cần chủ động triển khai xây dựng đề cương các thông tư, nghị định hướng dẫn một số điều của Luật BPVN; tổ chức tập huấn, tuyên truyền để đưa Luật BPVN đến với người dân cả nước.

Kết luận hội nghị, Thiếu tướng Lê Đức Thái yêu cầu các cơ quan chức năng của BĐBP phải khẩn trương triển khai các nội dung phục vụ công tác tổng kết xây dựng Luật BPVN và bắt tay ngay vào xây dựng đề cương các văn bản để trình Chủ tịch nước ký công bố Luật BPVN; các văn bản hướng dẫn thi hành, sớm đưa Luật BPVN đi vào cuộc sống, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh BGQG; bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở KVBG và xây dựng KVBG vững mạnh toàn diện.

Song song với việc xây dựng, ban hành các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật BPVN, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền để cử tri và nhân dân hiểu đúng các quy định trong Luật BPVN, kiên quyết đấu tranh với các thông tin sai lệch, xuyên tạc về đạo luật này. Cần vạch rõ bản chất thâm độc của các đối tượng phản động cố tình đưa thông tin sai lệch, xuyên tạc, bóp méo, vu khống việc xây dựng các đạo luật như là cuộc “tranh giành quyền lực”, “tranh giành lợi ích”, gây hoang mang dư luận xã hội, ảnh hưởng đến mối quan hệ đoàn kết giữa 3 lực lượng quân đội, hải quan và công an. Đặc biệt là âm mưu gây chia rẽ của các đối tượng phản động với thủ đoạn tập trung công kích công tác phối hợp giữa Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và lực lượng hải quan; bịa đặt rằng việc quân đội tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm là không đúng chức năng, nhiệm vụ của quân đội, là vi phạm Hiến pháp. Các đối tượng còn trắng trợn bịa đặt, xuyên tạc quân đội tham gia phá các vụ án tiêu cực, tham nhũng là “lấn sân”, qua đó, hạ thấp uy tín, vai trò lực lượng công an nhân dân(!)...

Thực tế đã khẳng định, mối quan hệ mật thiết, keo sơn, tình cảm tốt đẹp giữa quân đội, công an, hải quan trong bao năm qua được bắt nguồn từ chính bản chất, chức năng, nhiệm vụ của 3 lực lượng này, được Đảng, Bác Hồ và nhân dân sáng lập, rèn luyện, xây dựng và trưởng thành đến ngày nay. Đặc tính đoàn kết giữa 3 lực lượng vừa phản ánh nhu cầu khách quan của lịch sử cách mạng nước ta, đồng thời cũng phản ánh nguồn gốc, bản chất, nguyên tắc của các LLVT nhân dân Việt Nam “trung với Đảng, hiếu với dân”, luôn kiên định, vững vàng, tuyệt đối tin tưởng sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước.

(còn nữa)

ĐỖ PHÚ THỌ - HỒ QUANG PHƯƠNG - NGUYỄN CHIẾN THẮNG

Lật tẩy những chiêu trò chống phá Đảng của các thế lực thù địch

20/11/2020 05:00

Chống phá độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam là mục tiêu xuyên suốt của các thế lực thù địch, trong đó chúng tập trung cao nhất vào chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam với những âm mưu, thủ đoạn rất tinh vi, xảo quyệt và vô cùng nguy hiểm.

Bởi vậy, lật tẩy những chiêu trò chống phá Đảng của các thế lực thù địch hiện nay là việc cấp thiết nhằm nâng cao cảnh giác, chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn  của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng và tổ chức của Đảng, nhất là trước thềm Đại hội XIII.

Hiện nay, các thế lực phản động, thù địch chống phá Đảng ngày càng có hệ thống, tổ chức chặt chẽ, thủ đoạn rất tinh vi, chống phá toàn diện trên nhiều phạm vi, lĩnh vực, không chỉ đơn thuần là vấn đề lý luận mà còn bao hàm cả các vấn đề thực tiễn mới nảy sinh. Điều này thể hiện trên những vấn đề cơ bản sau:

Thứ nhất, chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng. Các thế lực thù địch hiểu rất rõ vai trò của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng ta khẳng định: “Đảng lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Bởi vậy, để chống phá Đảng thì vấn đề quan trọng hàng đầu mà chúng tập trung là phá vỡ nền tảng tư tưởng của Đảng. Theo đó, chúng ra sức xuyên tạc, phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với các luận điệu cho rằng: “Sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu là minh chứng cho Chủ nghĩa Mác-Lênin hiện đã lỗi thời, không còn phù hợp”; việc “Đảng Cộng sản Việt Nam kiên định Chủ nghĩa Mác-Lênin là sai lầm”... Không những thế, chúng còn tuyệt đối hóa và chia tách, đối lập giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với Chủ nghĩa Mác-Lênin và xuyên tạc, bôi nhọ thân thế, sự nghiệp Hồ Chí Minh nhằm hạ bệ uy tín và phủ nhận tư tưởng của Người. Đặc biệt, trước thềm Đại hội XIII của Đảng, chúng rêu rao rằng: “Chủ nghĩa tư bản là đỉnh cao của sự phát triển của xã hội loài người không có gì có thể thay thế, chủ nghĩa tư bản đang tự điều chỉnh và hoàn thiện”, “nếu Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục kiên định với Mác thì đừng trông chờ gì vào đường lối Đại hội XIII”(!)...

Lật tẩy những chiêu trò chống phá Đảng của các thế lực thù địch
Ảnh minh họa / tuyengiao.vn

Thứ hai, chúng xuyên tạc, phủ nhận cương lĩnh, đường lối và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là thủ đoạn cũ rích, nhưng chúng luôn coi là một trọng điểm chống phá với những chiêu trò hết sức tinh vi, thâm độc. Chúng xuyên tạc, phủ nhận đường lối chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của Đảng. Chúng cố tình lờ đi vấn đề mang tính khách quan trong quy luật phát triển xã hội là giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người chỉ thực sự triệt để khi có sự kết hợp chặt chẽ với nhau, điều này đồng nghĩa với mục tiêu độc lập dân tộc phải gắn liền với CNXH. Đặc biệt, sau sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu, chúng “lý sự” rằng: “Mọi câu hỏi của xã hội đều được tìm thấy ở chủ nghĩa tư bản”(!); Đảng Cộng sản Việt Nam “bảo thủ” với con đường đi lên CNXH là trái quy luật, hoặc “đã phát triển kinh tế thị trường thì đâu còn là CNXH”(!); Việt Nam hiện nay là “đỏ vỏ, xanh lòng”(!)... 

Đối với quân đội, chúng cho rằng “quân đội chỉ trung thành và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân”, “quân đội trung lập, đứng ngoài chính trị”(!)... Bên cạnh đó, chúng còn ra sức tuyên truyền cho luận điệu “có nhiều đảng cạnh tranh mới là dân chủ”, logic của chúng là phải xóa bỏ sự “độc tài, toàn trị” của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp năm 2013 của nước ta. Thực chất là, đòi Đảng Cộng sản Việt Nam từ bỏ vai trò lãnh đạo và cầm quyền, thực hiện đa nguyên chính trị và chế độ đa đảng đối lập; phủ nhận con đường xã hội chủ nghĩa (XHCN), hướng lái Việt Nam theo con đường tư bản chủ nghĩa. Đó là hai vấn đề căn cốt để chúng tiến tới xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam.

Thứ ba, chống phá công tác cán bộ của Đảng. Với mưu đồ gây chia rẽ nội bộ, làm cho Đảng ta “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong, chúng ra sức tuyên truyền, bịa đặt về các phe phái trong Đảng, nhất là lợi dụng việc đấu tranh chống tham nhũng để xuyên tạc là “thanh trừng nội bộ”, là “chuẩn bị ghế nhân sự” cho đại hội Đảng... Không những thế, chúng còn thường xuyên dựng chuyện, thổi phồng những sai lầm, thiếu sót của một số cán bộ, đảng viên, qua đó gây hoang mang, tạo bức xúc trong dư luận xã hội, kích động người dân gây mất an ninh, trật tự... hòng hạ bệ uy tín của cán bộ, phá vỡ khối đoàn kết trong Đảng, sự đồng thuận của xã hội, chia rẽ Đảng với nhân dân, nhất là trước thềm Đại hội XIII của Đảng.

Thứ tư, chúng phủ nhận thành tựu phát triển đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Các thế lực thù địch trắng trợn phủ nhận sạch trơn những thành tựu to lớn mà Đảng và quân, dân ta đã đạt được trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là thành tựu qua gần 35 năm đổi mới trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội (dù thực tế những thành tựu của nước ta đã được nhân dân trong nước và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao)... Mục đích của chúng là hòng tạo nên bức tranh bi quan về tình hình Việt Nam, gây mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ XHCN.

Những hoạt động chống phá trên đều nhằm tác động vào nhận thức, tư tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, nhất là với những người thiếu bản lĩnh, nhận thức mơ hồ và những kẻ bất mãn vì cho rằng mình không được trọng dụng, đãi ngộ... từ đó gây hoài nghi, suy giảm niềm tin vào Đảng, chế độ XHCN, rơi vào “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Trên thực tế, rất khó để tách bạch giữa âm mưu, thủ đoạn, phương thức chống phá của các thế lực thù địch. Bởi chiêu trò của chúng là kết hợp giữa công khai với ngấm ngầm chống phá, thông qua các phương tiện cả truyền thống và hiện đại, đan xen các cách thức, biện pháp với nhiều màu sắc, quy mô, cấp độ, lẫn lộn trắng-đen, thật-giả... rất khó phân biệt, nhận diện. Tuy nhiên, có thể khái quát một số đặc điểm chính trong chiêu trò chống phá của các thế lực thù địch như sau:

Thứ nhất, các hoạt động chống phá luôn được các thế lực thù địch chủ động tiến hành trên mọi lĩnh vực, mọi cấp độ, dưới nhiều hình thức. Triệt để lợi dụng các phương tiện thông tin đại chúng, mạng xã hội, các thế lực thù địch lập ra các hội nhóm online, tổ chức livestream, hội thảo trực tuyến, đăng tải các bài viết... với nội dung xoay quanh chủ trương, chính sách mới của Đảng, Nhà nước và cố tình vẽ ra các bất cập nảy sinh. Thời điểm tiến hành của chúng luôn gắn với các sự kiện, ngày lễ, các thời điểm chuẩn bị và tổ chức tiến hành đại hội đảng, bầu cử, ban hành luật, nghị định... Cách làm phổ biến của chúng là: Khi các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước (cả với chủ trương ở cấp cơ sở) mới chỉ ở dạng dự thảo thì chúng đưa ra các “kiến nghị” nhằm hướng lái dư luận theo ý đồ của chúng; sau khi ban hành thì chúng kích động biểu tình, phản đối; khi các phần tử vi phạm bị bắt và xử lý theo pháp luật, chúng ra sức tuyên truyền, xuyên tạc và thông qua một số tổ chức, cá nhân để đòi trả tự do cho cái gọi là “tù nhân lương tâm”, đồng thời vu khống Việt Nam đàn áp dân chủ, vi phạm nhân quyền.

Thứ hai, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch diễn ra thường xuyên, liên tục, không ngại bịa đặt, dựng chuyện. Thực hiện phương châm “nói nhiều sẽ tin”, các trang mạng, blog cá nhân, các kênh YouTube... liên tục tiến hành các hoạt động chống phá bằng các bài viết, video clip tuyên truyền xuyên tạc với tần suất và cường độ ngày càng lớn, gần như liên tục, bất kể ngày, đêm. Triệt để lợi dụng tâm lý hiếu kỳ của một số người dân, chúng thường xuyên tung ra những thông tin lập lờ giữa đúng và sai, dựng lên những sự kiện không có thật, thậm chí bịa đặt trắng trợn, để gây hoài nghi trong nhân dân. Khi các thông tin chống phá của chúng bị vạch mặt, bóc trần sự thật, chúng lập tức vu cáo ta “độc đoán”, đàn áp tự do báo chí, che giấu thông tin, hoặc tiếp tục bẻ lái, kích động dư luận chống đối, đi ngược lại quan điểm, chính sách, quy định của Đảng, Nhà nước và các cơ quan chức năng. Hiện nay, nổi lên là việc một số hội nhóm, tổ chức được sự hỗ trợ của các thế lực, tổ chức phản động nước ngoài, tiến hành các hoạt động xuất bản ấn phẩm báo chí, tài liệu, băng hình đòi xét lại các vấn đề lịch sử, một mặt nhằm “rửa tội” cho bè lũ tay sai, bán nước, một mặt thì dọn đường dư luận để tiếp tục đưa ra luận điệu phủ nhận vai trò to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong chiến tranh giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và phát triển đất nước hiện nay.

Thứ ba, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch diễn ra tinh vi, đa dạng, nhiều chiều. Hiện nay, với sự phát triển mạnh của các mạng xã hội, việc bày tỏ chính kiến với các vấn đề xã hội của nhân dân càng trở nên dễ dàng. Lợi dụng điều đó, để đánh lừa được quần chúng nhân dân, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh hoạt động chống phá toàn diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội với các phương thức, chiêu trò, thủ đoạn ngày càng tinh vi. Chúng ra sức cổ xúy cho cái gọi là “nhận thức đa chiều” hay “nhìn nhận đa chiều” để bới móc, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, cả trong lịch sử và hiện tại. Chúng tận dụng tối đa các phương tiện truyền thông xã hội, các loại hình văn hóa, nghệ thuật, các hoạt động nghiên cứu khoa học, giáo dục, đào tạo, các diễn đàn, nhất là triệt để lợi dụng một số văn nghệ sĩ, trí thức bất mãn, có quan điểm chính trị lệch lạc để ngấm ngầm cài cắm, tán phát những quan điểm sai trái, phản động; lợi dụng các hoạt động nhân đạo, từ thiện, tổ chức truyền đạo, lập đạo trái phép để tuyên truyền, lôi kéo những người thiếu hiểu biết, nhẹ dạ cả tin, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Bằng mồi nhử kinh tế, thông qua tổ chức các hoạt động “du lịch”, “thăm thân”, “hội nghị đầu tư”, “dự án”... chúng “khéo léo” mua chuộc, lôi kéo đội ngũ cán bộ, hoặc dùng các thủ đoạn ghi âm, ghi hình... để vừa vu khống, nói xấu chế độ, vừa ép buộc cán bộ của ta, từng bước làm họ sa ngã, rơi vào lối sống thực dụng, hưởng thụ, từ đó có lời nói, hành vi đối lập với quan điểm của Đảng.

Để góp phần đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, cùng với việc chủ động tăng cường thông tin tích cực, đi đôi với ngăn chặn có hiệu quả các thông tin xấu độc thì điểm mấu chốt vẫn là phải đẩy mạnh việc siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và bộ máy công quyền, làm cơ sở tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chủ trương phát triển kinh tế, xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh... mà Đảng ta đã xác định. Bên cạnh đó, cần tiếp tục làm tốt công tác thông tin, giáo dục, tuyên truyền, nâng cao cảnh giác và nhận thức cho mọi cán bộ, đảng viên cùng các tầng lớp nhân dân về âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch và tính chất nguy hại của nó. Đặc biệt là phải nâng cao chất lượng việc học tập và nghiên cứu lý luận, không chỉ làm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân thấu suốt, đồng thuận cao với mọi quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước mà còn làm cơ sở tiền đề để các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ngày càng đi vào thực tiễn một cách mạnh mẽ, hiệu quả.

Chúng ta cũng cần chú ý phân biệt rõ giữa “quan điểm khác” với “quan điểm thù địch”. Nếu “quan điểm khác”, tức là không giống quan điểm của Đảng (do Đảng chưa tính tới, chưa kịp thời cập nhật...) mà không trái với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, có lợi cho đất nước và nhân dân, thì cần nghiên cứu tiếp thu. Còn nếu “quan điểm khác” nhưng ngược với mục tiêu, lý tưởng, trái với chủ trương, đường lối của Đảng, đi ngược lại lợi ích của quốc gia, dân tộc thì cần phải kiên quyết lên án và đấu tranh bác bỏ.

Đại tá, PGS, TS PHẠM VĂN SƠN và Trung tá, ThS HOÀNG ANH TUẤN

Đảng luôn lắng nghe dân để có “văn bia muôn đời sau”

16/11/2020 05:00

Việc lấy ý kiến góp ý của nhân dân vào các dự thảo văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng được tiến hành thời gian qua là nhằm tập hợp, phát huy trí tuệ, quyền làm chủ của người dân trong tham gia hoạch định đường lối, chủ trương lãnh đạo, quyết sách quan trọng của Đảng đối với đất nước và sự nghiệp cách mạng; góp phần nâng cao chất lượng dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng.

Thế nhưng, với tâm địa xấu xa, các thế lực thù địch đã trắng trợn xuyên tạc, bóp méo vai trò, ý nghĩa của phần việc này; đồng thời tung ra nhiều chiêu trò, đặt điều hoài nghi rằng: Liệu người dân Việt Nam có dám nói thẳng, nói thật góp ý với Đảng? Và rằng liệu Đảng có trân quý, thực tâm lắng nghe dân?

1. Trên trang của RFA vừa đăng một bài với tiêu đề: “Liệu dân có “dám” đóng góp ý kiến với Đảng?”. Bài viết này cho rằng, việc Đảng Cộng sản Việt Nam khai trương trang web kêu gọi nhân dân tham gia góp ý vào dự thảo văn kiện đại hội (VKĐH); các cơ quan báo chí chính thống đồng loạt mở chuyên mục góp ý vào dự thảo VKĐH XIII của Đảng, thực chất chỉ là một hình thức mị dân, bởi chắc chắn người dân Việt Nam sẽ không dám ý kiến, không có điều kiện nói thẳng, nói thật với Đảng; thậm chí sẽ “cố tình im lặng” để bảo đảm an toàn tính mạng và lợi ích chính trị... Hoặc nếu có thì đó cũng chỉ là những màn kịch đã được dựng sẵn theo chủ ý của giới lãnh đạo Việt Nam.

Thực chất, đây là những chiêu trò hòng bôi nhọ bản chất và truyền thống trọng dân, lắng nghe dân của Đảng ta. Đây cũng là cách thức mà lực lượng chống phá cố tình gây nhiễu loạn thông tin về hoạt động lấy ý kiến nhân dân vào dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng. Nguy hiểm hơn, những thủ đoạn này ít nhiều sẽ gây hoang mang dư luận, giảm bầu nhiệt huyết và tinh thần trách nhiệm của một bộ phận quần chúng; lôi kéo những người thiếu bản lĩnh, nhẹ dạ, cả tin hùa theo ý đồ chính trị đen tối, chống phá Đại hội XIII của Đảng; sâu xa hơn là phủ nhận, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với toàn xã hội.

Đảng luôn lắng nghe dân để có “văn bia muôn đời sau”
Ảnh minh họa: TTXVN.

Chúng ta biết rằng, suốt chiều dài lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam, trải qua các kỳ đại hội, Đảng ta luôn cầu thị, lắng nghe góp ý của quần chúng nhân dân. Trong hoạt động lãnh đạo phong phú, sôi động và hào hùng kể từ khi ra đời đến nay, Đảng luôn thấm nhuần bài học sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Toàn bộ hoạt động của Đảng đều xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân!

Bởi thế, việc Trung ương tổ chức lấy ý kiến góp ý rộng rãi của quần chúng nhân dân vào dự thảo các VKĐH Đảng lần thứ XIII là thể hiện sự tiếp nối bản chất, truyền thống cách mạng tốt đẹp của Đảng; cũng đồng thời cho thấy sự cầu thị, nghiêm túc lắng nghe dân của Đảng cầm quyền chân chính; khẳng định vị trí, ý nghĩa của một phần việc quan trọng đã thành nền nếp qua các kỳ đại hội của Đảng. Hoạt động này càng cho thấy sự quan trọng đặc biệt và yêu cầu rất cao về chất lượng VKĐH XIII của Đảng, đúng như khẳng định của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng, rằng: VKĐH là một văn kiện rất quan trọng, vừa mang tính lý luận cao, tính thực tiễn sâu sắc và tính chính trị chỉ đạo lâu dài, là một văn kiện tồn tại mãi mãi trong lịch sử của Đảng, của đất nước. Do đó phải chuẩn bị thật công phu, khoa học, phát huy hết trí tuệ, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân.

2. Thực chất, việc lấy ý kiến rộng rãi của các tầng lớp nhân dân vào dự thảo VKĐH XIII của Đảng là tập hợp và phát huy trí tuệ, tâm huyết, quyền làm chủ của nhân dân, tham gia đóng góp với Đảng trong quá trình hoạch định đường lối, chủ trương, quyết sách quan trọng, phát triển đất nước đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030 và 2045. Điều này thể hiện bản chất ưu việt của chế độ, phát huy tinh thần dân chủ, tạo sự thống nhất về nhận thức, hành động; giúp tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, bồi đắp niềm tin của nhân dân đối với Đảng; làm sâu sắc hơn nữa mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân.

Để phát huy cao nhất trí tuệ, trách nhiệm của nhân dân, Ban Tuyên giáo Trung ương đã sớm ban hành nhiều văn bản hướng dẫn, yêu cầu việc đóng góp vào dự thảo VKĐH XIII phải được tiến hành khoa học, thiết thực, đúng tiến độ, chất lượng, hiệu quả, tránh hình thức, lãng phí; bảo đảm khơi dậy và phát huy tinh thần trách nhiệm, tình cảm và tâm huyết của nhân dân đối với Đảng và đất nước. Hướng dẫn số 151-HD/BTGTW của Ban Tuyên giáo Trung ương chỉ rõ hình thức góp ý của nhân dân được tiến hành trực tiếp tại hội nghị lấy ý kiến nhân dân, sinh hoạt thường kỳ của các tổ chức chính trị-xã hội (CTXH), các hội thảo, tọa đàm khoa học; gửi thư góp ý kiến đến cấp ủy đảng các cấp và tới các cơ quan báo chí của Trung ương, của đảng bộ các địa phương, các ban, bộ, ngành, tổ chức CTXH.

Thực hiện chủ trương và các hướng dẫn của Trung ương, tuy thời gian lấy ý kiến các tầng lớp nhân dân chỉ diễn ra trong 20 ngày (từ ngày 20-10 đến hết ngày 10-11-2020), nhưng trong toàn xã hội đã diễn ra một đợt sinh hoạt chính trị rộng khắp; nhất là ở các ban, ngành, tổ chức CTXH, địa phương, cơ quan báo chí... Trên cơ sở định hướng và sự thật tâm cầu thị của Trung ương, quần chúng nhân dân trên mọi miền Tổ quốc đã chủ động nghiên cứu, tự giác nêu chính kiến, quan điểm, chia sẻ kinh nghiệm, đề xuất giải pháp, đóng góp cho Đảng thông qua các kênh tiếp nhận khác nhau. Người dân làm việc đó một cách tự giác, chứ không gò ép, hay bị bắt buộc. Đặc biệt, phần lớn quần chúng đều nhận thức rõ trách nhiệm công dân và gửi đi hy vọng, rằng ý kiến bản thân sẽ được Trung ương và các ban, ngành chức năng tiếp thu, bổ sung vào dự thảo VKĐH, góp phần hoạch định đường lối cách mạng, đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất nước trong thời gian tới.

Tính tích cực của quần chúng được thể hiện rất rõ ở việc quan tâm theo dõi, chủ động tìm hiểu, nghiên cứu các tài liệu về Đại hội XIII của Đảng. Theo đó, ngay sau khi Trung ương công bố các dự thảo văn kiện, nhiều cơ quan báo chí đã tiếp nhận và đăng tải được ngay các ý kiến góp ý của người dân vào các dự thảo VKĐH XIII (thông qua việc chủ động nghiên cứu các dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng được gửi đến các đảng bộ cơ sở (bản tóm tắt) và đảng bộ cấp huyện, tỉnh và tương đương (bản toàn văn) để đóng góp ý kiến trước đó...

Và như vậy, không hề như sự rêu rao của những đối tượng ác ý, chống phá cách mạng, rằng việc góp ý kiến vào dự thảo VKĐH XIII của Đảng sẽ có thể bị chính quyền “sờ gáy”, bị bỏ tù nếu dám nói thẳng, nói thật, hay phát biểu xúc phạm đến chính quyền và đội ngũ cán bộ. Trên thực tế, người dân đã thật tâm, thật lòng, không ngần ngại dốc bầu nhiệt huyết, góp ý thẳng thắn, nêu cao tính chiến đấu, mạnh mẽ phê bình và đề cao dân chủ trong quá trình đóng góp ý kiến. Có thể nói, chưa bao giờ cơ chế và điều kiện xã hội được khơi thông, khuyến khích, cổ vũ người dân góp ý cho Đảng một cách thuận lợi, rộng rãi như thời gian qua. Bởi thế, người dân mạnh dạn đề xuất nhiều vấn đề bức xúc, vướng mắc, kể cả những nội dung nhạy cảm, như: Hạn chế của công tác phòng, chống tham nhũng; yếu kém trong công tác cán bộ; trực tiếp phê bình tổ chức đảng, người đứng đầu ở các cấp... Có một nguyên tắc bất biến, được người dân tự giác thực hiện, đó là việc đóng góp ý kiến phải trên tinh thần xây dựng, không vượt quá giới hạn của dân chủ XHCN và phải được tiến hành bằng các phương pháp, hình thức chính thống.

Sự tích cực đóng góp vào dự thảo VKĐH XIII còn được thể hiện rất rõ từ tinh thần, trách nhiệm của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Dù làm ăn, sinh sống nơi xứ người, nhưng với tình yêu Tổ quốc, với trách nhiệm công dân, đông đảo người Việt Nam ở nhiều nước trên thế giới đã tích cực đóng góp trí tuệ, trách nhiệm, kinh nghiệm vào dự thảo VKĐH XIII của Đảng thông qua các hội nghị do đại sứ quán các nước tổ chức. Nhiều người dân, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu Việt Nam ở nước ngoài đã dành nhiều thời gian, công sức nghiên cứu dự thảo VKĐH XIII của Đảng, chủ động viết bài, góp ý cho Đảng thông qua hệ thống cơ quan báo chí Trung ương và cơ quan chức năng có thẩm quyền. Đây thật sự là một trong những kênh tri thức quý báu để Trung ương xem xét, tiếp thu, hoàn chỉnh các dự thảo VKĐH.

3. Cùng với việc rêu rao, cho rằng người dân Việt Nam sẽ không dám tham gia góp ý với Đảng, lực lượng thù địch còn cố tình đặt ra nghi vấn, rằng liệu Đảng Cộng sản Việt Nam có chân thành lắng nghe góp ý của nhân dân?

Thực chất, luận điệu này là hòng tạo ra sự hoài nghi trong dư luận và tâm lý cộng đồng khiến quần chúng giảm bớt tâm huyết, trách nhiệm trong quá trình tham gia nghiên cứu, đóng góp ý kiến với Đảng...

Xin thưa rằng, tâm huyết, trí tuệ của quần chúng nhân dân là tài sản vô cùng quý báu-nguồn sức mạnh tri thức dồi dào và “tươi màu thực tiễn” mà Đảng ta luôn trân quý, cầu thị lắng nghe, thực tâm đón nhận. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh sinh động cho điều đó và trong quá trình chuẩn bị Đại hội XIII của Đảng, thực tế đó một lần nữa được kiểm định, củng cố chắc chắn.

Như đã biết, ngay từ tháng 1-2020, Văn phòng Trung ương Đảng đã ban hành Hướng dẫn số 60-HD/VPTW, hướng dẫn tổng hợp ý kiến góp ý vào các dự thảo VKĐH đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Văn bản này chỉ rõ mục đích, yêu cầu, nội dung, phương pháp tổng hợp ý kiến đóng góp của các đối tượng vào dự thảo VKĐH XIII của Đảng. Điều đó cho thấy, Đảng ta nhận thức rất rõ vai trò, vị trí của công tác tổng hợp; cũng đồng thời minh chứng cho sự trọng thị, lắng nghe ý kiến quần chúng nhân dân của Trung ương.

Bám sát hướng dẫn đó, việc tiến hành công tác tổng hợp ý kiến đóng góp của nhân dân thời gian qua được thực hiện chặt chẽ, khoa học, nghiêm túc ở mọi cấp, mọi ngành. Trong đó, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể CTXH tổ chức lấy ý kiến theo hệ thống dọc và mỗi đoàn thể đều có trách nhiệm tổng hợp gửi về Ban Dân vận Trung ương. Trung ương cũng phân công rõ trách nhiệm của các ban đảng trong việc tham gia tổng hợp ý kiến góp ý của nhân dân. Trong đó, Ban Tuyên giáo Trung ương tổng hợp ý kiến góp ý của nhân dân qua báo chí, thư gửi trực tiếp về Trung ương. Đảng đoàn Quốc hội tổng hợp ý kiến thảo luận góp ý của các đại biểu Quốc hội, gửi Bộ Chính trị qua Văn phòng Trung ương Đảng...

Chính sự phân công bài bản cho các ban, ngành, tổ chức đảng; đặt ra yêu cầu chặt chẽ về chất lượng và tiến độ, càng cho thấy sự trân trọng, nghiêm túc lĩnh hội, đón nhận ý kiến góp ý của nhân dân vào VKĐH XIII của Đảng. Theo GS, TS Phùng Hữu Phú, Phó chủ tịch Thường trực Hội đồng Lý luận Trung ương, sau khi các đầu mối có trách nhiệm tổng hợp ý kiến góp ý của nhân dân theo phân công của Trung ương, những văn bản tổng hợp sẽ được chuyển về các tiểu ban và các tổ biên tập để nghiên cứu, tiếp thu đến mức cao nhất những nội dung hợp lý.

Đặc biệt, sau khi các tiểu ban tiếp thu, hoàn thiện, Bộ Chính trị sẽ trực tiếp lắng nghe tổng hợp ý kiến góp ý của nhân dân; tiếp đó, Trung ương một lần nữa lắng nghe ý kiến nhân dân để tiếp thu triệt để, rồi mới trình Đại hội XIII của Đảng. Quá trình Bộ Chính trị và Trung ương lắng nghe ý kiến góp ý của nhân dân sẽ yêu cầu các tiểu ban phải giải trình rõ các vấn đề, như: Ý nào tiếp thu và tiếp thu thế nào, thể hiện trong văn bản thế nào so với trước; chỗ nào tiếp thu, chỗ nào chưa tiếp thu, vì sao. Tức là phải giải trình rất cặn kẽ lý do tiếp thu và những chỗ chưa tiếp thu. Cách làm đó cho thấy, Đảng ta luôn cầu thị, tiếp thu cao nhất trách nhiệm, trí tuệ của nhân dân, quyết tâm xây dựng các văn kiện của Đảng trở thành "văn bia để lại muôn đời sau". Đây cũng chính là cơ sở vững chắc, căn cứ xác đáng giúp vạch trần những luận điệu xuyên tạc, cố tình quy chụp bản chất của một Đảng cầm quyền chân chính luôn trọng dân, lắng nghe dân!

NGUYỄN TẤN TUÂN