Bình luận của báo Trung Quốc 'gây phức tạp tình hình'


Bộ Ngoại giao Việt Nam hôm nay tuyên bố xã luận của Thời báo Hoàn cầu Trung Quốc đã đưa thông tin sai sự thực, thiếu thiện chí và gây thêm phức tạp cho tình hình Biển Đông.
Trong những ngày qua, sau việc các tàu của Trung Quốc cắt, phá cáp của tàu thăm dò Việt Nam trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, tờ Thời báo Hoàn cầu (Global Times) đã đăng một số ý kiến hoặc xã luận về tình hình Biển Đông, trong đó đổ lỗi cho Việt Nam và thậm chí đề cập khả năng sử dụng sức mạnh trên Biển Đông. Thời báo Hoàn cầu là bản tiếng Anh thuộc Nhân dân Nhật báo.
Nhận xét về điều này, người phát ngôn ngoại giao Việt Nam Nguyễn Phương Nga nói: "Các hoạt động vi phạm chủ quyền của Việt Nam mà tàu của Trung Quốc tiến hành đã gây bức xúc trong lòng người dân Việt Nam. Một số báo của Trung Quốc, trong đó có Thời báo Hoàn cầu đã đưa các bình luận thiếu thiện chí, không có lợi cho mối quan hệ Việt - Trung và khiến tình hình thêm phức tạp".
Bà Nga cũng nói thêm rằng có những thông tin mà báo nói trên đưa là sai sự thật, gây tổn thương cho tình cảm của người dân hai nước.
"Thời báo Hoàn cầu chỉ là tiếng nói của một nhóm người nhất định, không đại diện cho nhân dân Trung Quốc", bà Nga nhận định và nói thêm rằng những người dân yêu chuộng hòa bình "sẽ không thể chia sẻ và đồng tình với những thông tin không đúng sự thật và thiếu thiện chí" mà báo nói trên đã đưa ra.
Đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam tái khẳng định Việt Nam chủ trương giải quyết mọi vấn đề, kể cả vấn để tranh chấp trên Biển Đông, bằng cách đối thoại hòa bình.
Căng thẳng trên Biển Đông gia tăng trong thời gian gần đây, sau khi các tàu của Trung Quốc liên tiếp có hành động quấy phá hoạt động bình thường của các tàu Việt Nam đang hoạt động trên vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Philippines cũng tố cáo tàu Trung Quốc có những hoạt động vi phạm vùng nước mà Manila tuyên bố chủ quyền.
Tại Hội nghị của các bên ký công ước về luật biển của LHQ mới đây, nhiều nước trong ASEAN đã công bố ý kiến kêu gọi các bên giải quyết tranh chấp thông qua các biện pháp hòa bình.
Thanh Mai

Báo Trung Quốc xuyên tạc sự thật và hăm dọa Việt Nam


Tờ Thời báo Hoàn cầu của Trung Quốc đăng xã luận mang tiêu đề 'Cứng rắn với Trung Quốc không mang lại lợi ích gì cho Việt Nam', chứa đầy những lời lẽ xuyên tạc sự thật và hăm dọa. Bài báo đó được đăng sau khi tàu Trung Quốc vô cớ xông vào cắt, phá cáp của tàu thăm dò Việt Nam.
Trước những tuyên bố ngang ngược của báo chí Trung Quốc thời gian gần đây, hôm qua Đại Đoàn Kết - tờ báo của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - đăng bài xã luận với tiêu đề "Xuyên tạc sự thật và hăm dọa dân tộc Việt Nam".
Nội dung bài xã luận như sau:
Năm nay vừa tròn 20 năm hai nước Việt Nam và Trung Quốc chính thức bình thường hóa quan hệ với nhau sau những năm tháng sóng gió. Một trong những nguyên tắc cơ bản hai bên đã thỏa thuận là "khép lại quá khứ, hướng tới tương lai”, xây dựng mối quan hệ "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”, trở thành "láng giềng tốt, anh em tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt”. Hơn thế nữa, gần đây hai nước còn thỏa thuận xây dựng mối quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện. Đó là những tài sản quý giá, phải mất bao nhiêu công sức mới tạo dựng được và phía Việt Nam hết sức trân trọng giữ gìn.
Tiếc rằng, một số sách báo và báo mạng ở Trung Quốc không biết vì lẽ gì không ngớt đưa ra những bài không thiện chí, xuyên tạc về Việt Nam và mối quan hệ Trung-Việt. Tình hình này càng rộ lên sau hai sự việc liên tiếp trong chỉ có hai tuần lễ là vụ tầu hải giám của Trung Quốc vô cớ xông vào cắt phá cáp thăm dò địa chấn của tàu Bình Minh 02 và dưới sự yểm trợ của tàu ngư chính, tàu cá Trung Quốc phá hoại tuyến cáp của tàu Viking II đang hoạt động khảo sát trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam.
Trong số những tờ báo ấy, Thời báo Hoàn cầu của Trung Quốc "lớn tiếng” nhất. Ngày 11/6 vừa qua, Thời báo này đã phát đi một bài xã luận đầy lời lẽ xuyên tạc thực chất của vụ việc và xuyên tạc phản ứng chính đáng của Việt Nam dưới đầu đề "Cứng rắn với Trung Quốc không thể mang lại lợi ích gì cho Việt Nam”.
Để dư luận ở Việt Nam và Trung Quốc cũng như ở khu vực và trên thế giới - đang rất lo ngại về những hành vi của Trung Quốc trên Biển Đông - hiểu đúng sự việc, cần nói lại đôi điều.

Bài xã luận nói Việt Nam "đe dọa”, "dọa dẫm” Trung Quốc thì thật nực cười vì đâu phải tàu Việt Nam lao vào tàu Trung Quốc mà là ngược lại. Hành vi của tàu Trung Quốc không chỉ là "đe dọa” hay "dọa dẫm” mà là hành vi khiêu khích, gây hấn như luật pháp và thông lệ quốc tế đã định nghĩa rõ.
Đó là chưa kể hàng loạt bài trên báo in và báo mạng ở Trung Quốc đã dồn dập tung ra những lời lẽ hằn học, ngỗ ngược, xúc phạm sâu sắc lòng tự trọng của nhân dân Việt Nam và chắc là cũng rất xa lạ với người dân Trung Quốc. Những lời lẽ như vậy thật không phù hợp chút nào với cách hành xử giữa các nước văn minh chứ chưa nói đến hai nước XHCN với nhau.
Bài xã luận của Thời báo Hoàn Cầu ngày 11/6 đầy rẫy những lời hăm dọa như: phía Việt Nam "dường như hoàn toàn không đếm xỉa đến những phản ứng mà Trung Quốc có thể đưa ra”, "nếu dùng biện pháp chiến tranh để giải quyết tranh chấp lãnh thổ, Việt Nam sẽ đều thất bại...” (nhân đây, xin nhắc lại những sự kiện năm 1974 quân đội Trung Quốc tiến đánh Hoàng Sa, năm 1979 tiến hành chiến tranh biên giới, năm 1988 tiến đánh một số đảo ở Trường Sa để thấy rõ ai là người chẳng những hay đe dọa mà còn dùng biện pháp chiến tranh trong quan hệ Trung-Việt).
Nhân dân Việt Nam đã phải bỏ ra hàng mấy chục năm đấu tranh chống ngoại xâm, nay thiết tha mong có hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, lẽ nào lại muốn gây hấn với bất kỳ ai, nếu độc lập không bị đe dọa, chủ quyền không bị chà đạp.
Chính hành vi ngỗ ngược của tàu hải giám Trung Quốc và những bài đại loại như xã luận ngày 11/6 của Thời báo Hoàn cầu đã làm cho những cảm giác của người dân Việt Nam đối với Trung Quốc (không phải với nhân dân Trung Quốc nói chung) bị xói mòn, chứ không phải là "người dân Trung Quốc khi nhìn thấy các kiểu thể hiện của Việt Nam thông qua tin tức báo chí thì những cảm giác tốt đẹp của họ về Việt Nam tích lũy trong những năm qua gần như đã tiêu tan hết” như Thời báo Hoàn cầu viết.
Một mệnh đề được tác giả bài xã luận nhấn mạnh đi nhấn mạnh lại là mối quan hệ giữa "nước lớn” và "nước nhỏ”. Trên thực tế, quả thật cũng có nước lớn và nước nhỏ. Song trong quan hệ quốc tế thì mọi quốc gia đều bình đẳng – một điều chính Trung Quốc cũng hay rao giảng. Hành vi ứng xử của phía Trung Quốc trong những ngày qua rõ ràng không phản ánh, hay nói đúng hơn là đi ngược lại chủ trương "tôn tiểu” mà bài báo nói tới; hơn thế nữa còn lộ rõ thái độ lấn lướt theo kiểu nước lớn – một điều đang gây lo ngại trong dư luận khu vực và quốc tế, làm ảnh hưởng xấu tới hình ảnh một nước Trung Hoa "trỗi dậy hòa bình”.
Bài xã luận còn suy luận rằng, sự phản ứng chính đáng của phía Việt Nam dường như do áp lực nội bộ, cổ vũ tinh thần trong nước, tăng cường sự chú ý của cộng đồng quốc tế..., phản ứng chủ nghĩa dân tộc, gây nên sự đối lập giữa nhân dân hai nước... Gốc gác của vấn đề chính là nằm ở sức ép của phía Trung Quốc thông qua hành vi ngang ngược, chà đạp luật pháp và thông lệ quốc tế của tàu thuyền Trung Quốc trên Biển Đông. Bất kỳ một người Việt Nam nào cũng đều bất bình; bất luận người nào có lương tri trên thế giới cũng đều lo ngại.
Trong quan hệ giữa các quốc gia thời hiện đại không thể hành xử theo kiểu cứ lấn lướt rồi buộc đối phương câm lặng theo kiểu "trùm chăn mà đánh” được!
Thử hỏi, tác giả bài xã luận của Thời báo Hoàn cầu sẽ hành xử ra sao nếu tàu nước ngoài xông vào cắt cáp của tàu địa chấn Trung Quốc đang hoạt động bình thường trong vùng đặc quyền kinh tế thực sự của Trung Quốc đúng theo luật pháp quốc tế (chứ không phải cái đường 9 đoạn tự dựng lên ở cách xa bờ biển Trung Quốc hàng ngàn dặm)?
Trung Quốc đã từng bị nước ngoài xâm lấn, người dân Trung Quốc đã từng bị hạ nhục. Vì vậy, chắc rằng họ có thể hiểu nỗi bất bình của người dân Việt Nam.
Bài xã luận đánh giá rằng, "Hà Nội đang có bước thụt lùi trước những kinh nghiệm thành công về giải quyết vấn đề trên bộ và phân định Vịnh Bắc Bộ, đang đưa hai nước quay lại con đường đọ sức giữa cứng rắn và cứng rắn”. Có lẽ chẳng cần tốn lời bác bỏ luận điệu nực cười như vậy. Cho nên, chỉ cần thay chữ "Hà Nội” bằng chữ "Bắc Kinh” là đủ!
Thật đáng tiếc, trong hai chục năm qua đã phải bỏ ra biết bao công sức mới khép lại được quá khứ bất hạnh, tạo dựng được mối quan hệ hợp tác mới, thế mà hành vi quá khích của tàu Trung Quốc đã đẩy quan hệ hai nước giật lùi! Tác giả bài xã luận của Thời báo Hoàn cầu đã kết thúc bài báo bằng câu: mời các ngươi hãy xem lại lịch sử đi. Đúng vậy! Hãy xem lại lịch sử mấy ngàn năm sống bên cạnh nhau để ứng xử sao cho phải đạo là hai nước láng giềng hữu hảo!
Ứng xử sao cho đúng là hai nước láng giềng hữu nghị, đó là mong mỏi chân thành của mỗi người dân Việt Nam. Và chắc rằng đó cũng là ý nguyện của người dân Trung Quốc và khu vực cũng như cộng đồng quốc tế.
Hoàng Trường

Cần phản ứng mạnh hơn nữa với hành vi của Trung Quốc


(Dân trí) - Thiếu tướng Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện chiến lược - Bộ Công an nhấn mạnh, những sự việc vừa qua cho thấy Trung Quốc đã đi ngược lại những gì đã cam kết và ta cần phải phản ứng mạnh hơn để bạn bè quốc tế thấy sự nghiêm trọng của vấn đề.

Trao đổi với phóng viên Dân trí, Thiếu tướng Lê Văn Cương nói:
Ngày 26/5, tàu Bình Minh 02 bị tàu hải giám Trung Quốc cắt cáp rồi tới ngày 9/6, tàu Viking II tiếp tục bị tàu đánh cá có 2 tàu ngư chính yểm trợ cắt cáp. Toàn bộ những việc này Trung Quốc đã có tính toán và hành động của họ xuất phát từ hệ thống, mục đích rõ ràng chứ không phải vấn đề một tàu ngư chính hay hải giám. Chính vì vậy, nhiều người lo ngại, sự việc sẽ không chỉ dừng ở đó, Trung Quốc sẽ còn tiếp tục các hoạt động gây hấn. 
Nhìn lại các vụ việc vừa qua, có thể thấy rõ ràng, các lực lượng của Trung Quốc đã cắt phá cáp thăm dò dầu khí của tàu Việt Nam ngay trên vùng đặc quyền kinh tế, vị trí nằm sâu trong vùng biển Việt Nam, một vụ cách mũi Đại Lãnh (Phú Yên) chỉ 120 hải lý, một vụ cách Vũng Tàu chỉ 160 hải lý. 
2 vụ việc liên tiếp thế hiện tính chất rất nghiêm trọng của vấn đề. Trung Quốc đã hết sức ngang nhiên xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam ngay trong vùng thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của chúng ta. Các sự việc nằm trong mưu đồ được hoạch định rất bài bản, chứ không phải những sự kiện đơn lẻ. 
Những hành động của Trung Quốc là đi ngược lại những gì họ đã cam kết với tư cách là ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, với tư cách là 1 nước ký kết Công ước quốc tế về Luật biển, với tư cách 1 bên ký tuyên bố về cách ứng xử trên biển Đông với các nước ASEAN năm 2002 tại Campuchia. Trung Quốc đã nói một đằng làm một nẻo.
Sự việc ngày 26/5 diễn ra ngay trước Hội nghị Shang-ri La là có ý của họ. Việc này là phép thử với Việt Nam và cả thế giới. Các nước trong ASEN cũng như các đối tác chiến lược có lợi ích rõ rệt từ khu vực biển Đông đều chưa lên tiếng mạnh mẽ. Cũng phải nói thêm, trước đó, Trung Quốc đã rất “quái” khi gửi thông điệp tới các nước lớn rằng, “cứ yên tâm, tôi vẫn đảm bảo giao thương hàng hải”. 
Trở lại vụ việc, ngay trên vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Trung Quốc dùng tàu hải giám, ngư chính là những lực lượng thuộc cơ quan quản lý nhà nước, dù có sử dụng vũ khí cũng là hình thức dân sự, để khiêu khích ta. Trung Quốc có một lực lượng khổng lồ với những tàu hải giám trên 5.000 tấn, tàu ngư chính cũng 7.000 tấn… Hệ thống cơ quan dân sự tương ứng Việt Nam khó có thể so sánh. 
Nếu Trung Quốc tiếp tục “dấn” tới, chúng ta mà sơ hở, “nóng đầu” lên đưa tàu hải quân ra là… mắc mưu họ. Họ sẽ nói với cả thế giới, với 1,3 tỷ dân Trung Quốc bằng hình ảnh đầy đủ là tất cả tàu Trung Quốc đều tàu dân thường, với nhiệm vụ cảnh giới, bảo vệ bờ biển thì Việt Nam lại đưa tàu hải quân ra.
Nhìn lại cách xử lý sau 2 sự kiện vừa qua, rõ ràng chúng ta cần phải tiếp tục phản ứng và phản ứng mạnh hơn nữa. Phát ngôn của người đại diện Bộ Ngoại giao là đúng đắn và cần thiết, nhưng như vậy vẫn là chưa đủ. Cần phải làm thế nào để có thể thông báo cho tất cả người Việt Nam trong và ngoài nước biết, thông báo với bạn bè quốc tế sự việc nghiêm trọng đúng với thực tế, hoàn toàn không phải là kích động chủ nghĩa dân tộc. Tuyên bố công khai với thế giới cũng là để hơn 1,3 tỷ người Trung Quốc thấy được bản chất vấn đề.
Thêm nữa, chúng ta nên dùng cơ chế đa phương cũng như mọi cách có thể làm được. Có thể cân nhắc đưa vụ việc lên Liên hợp quốc. Biết rằng Liên hợp quốc không thể họp ngay về việc của ta được nhưng vẫn rất cần đưa ra rồi sau đó tiếp tục trao đổi song phương và đa phương.
Theo quy luật trong quan hệ Trung - Việt khi ta lùi thì Trung Quốc tiến, khi ta có quan điểm vững vàng, họ sẽ không làm gì được.

"Theo quy định của Công ước luật Biển của LHQ năm 1982, mỗi quốc gia ven biển đều được xác định một vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý. Vị trí lô 148 trong sự kiện ngày 26/5, cũng như lô 136.03 trong sự kiện ngày 9/6 đều nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, chỉ cách đường cơ sở của ta khoảng 130 hải lý trong khi vị trí đó cách đường cơ sở của Trung Quốc tới hơn 500 hải lý. Hơn nữa, các khu vực này, quốc tế đã thừa nhận Việt Nam có quyền chủ quyền và quyền tài phán, với tất cả các nguồn tài nguyên sinh vật và phi sinh vật đều thuộc quyền của Việt Nam.", Ông Cương nói.
Cấn Cường - Phương Thảo (ghi)

Cơ sở pháp lý khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam


Cách đây hơn 3 thế kỷ, ông cha ta đã xác lập và thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa, những việc đó được ghi trong cả sách của ta, của quốc tế và ngay cả của Trung Quốc.
Ông cha chúng ta cũng đã biết cắm mốc, đo đạc, vẽ bản đồ và hàng năm cử người ra để kiểm tra và thu hồi sản vật trên vùng đất mà nước mình quản lý. 
Nước Việt Nam thân yêu của chúng ta có bờ biển dài 3.260km. Biển có vùng nội thủy, lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa với diện tích khoảng trên 1 triệu km2, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ gần và xa bờ. 
Biển Việt Nam có vị trí chiến lược quan trọng, nối liền Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương, giao lưu quốc tế rất thuận lợi, lại có nhiều tài nguyên quý hiếm. 

Bản đồ đường qua xứ Quảng Nam đời Lê, theo Thiên Nam lộ đồ vẽ lại năm 1741(bản sao chép của Dumoutier, có chữ quốc ngữ). Bãi cát vàng trên bản đồ tức là Hoàng Sa. 

Quần đảo Hoàng Sa nằm ở vĩ độ 15o45' đến 17o15' Bắc, kinh độ 111o đến 113o Đông, cách đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi khoảng 120 hải lý; là một quần đảo đá san hô, cồn, bãi cát gồm hơn 30 hòn đảo, nằm trên vùng biển rộng từ Tây sang Đông khoảng 100 hải lý, từ Bắc xuống Nam khoảng 85 hải lý, diện tích chừng 15.000km2. 
Quần đảo Trường Sa nằm ở vĩ độ 6o50' đến 12o vĩ Bắc, kinh độ 111o3' đến 117o2' Đông, gồm trên 100 đảo đá, cồn san hô, bãi cạn, bãi ngầm nằm rải rác trên vùng biển rộng từ Tây sang Đông khoảng 350 hải lý, từ Bắc xuống Nam 360 hải lý, có diện tích khoảng 180.000km2, diện tích phần nổi thường xuyên khoảng 10km2, cách tỉnh Khánh Hoà 248 hải lý.

Những chứng cứ lịch sử pháp lý xác định chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa

Văn bản lịch sử của Việt Nam 
- Thời Lê Thánh Tông (1460-1497), trong “Toàn tập Thiên Nam tứ chi lộ đồ thư” ta đã vẽ bản đồ Hoàng Sa và Trường Sa, lúc đó ta gọi là “bãi cát vàng” và “Vạn lý Trường Sa”. (Nguyên bản này hiện đang lưu giữ tại Tokyo Nhật Bản). 
- Thế kỷ thứ XVIII, trong “Đại Nam nhất thống toàn đồ” đã ghi rõ Hoàng Sa và Vạn lý Trường Sa là một trong những đảo của Việt Nam. 


Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được thể hiện trong Đại Nam nhất thống toàn đồ năm 1838.

- Lê Quý Đôn (1726-1786) trong cuốn “Phủ biên tạp lục”, ông đã tả kỹ về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. 
- Phan Huy Chú (1782-1840) trong sách “Lịch triều hiến dương loại chí” và “Hoàng Việt địa dư chí”, ông còn mô tả việc quản lý Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. 
Ngoài ra còn có thể kể tên 5 cuốn sách của Việt Nam từng đề cập đến hai quần đảo này. 
- Thời thuộc Pháp: Từ ngày 6/6/1884, sau khi triều Nguyễn ký với Pháp Hiệp ước Giáp Thân, công nhận sự thống trị của thực dân Pháp đối với Việt Nam. Từ đó, Pháp thực hiện chủ quyền với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. 
- Năm 1887, Pháp và triều đình Mãn Thanh ký công ước hoạch định biên giới trên bộ và trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Ngày 15/6/1938, toàn quyền Đông Dương I.Brévie ký Nghị định số 156-SC, quyết định tổ chức hành chính, quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên. Ngày 21/12/1933, Thống đốc Krautheimer ký Nghị định số 4702-CP, sáp nhập quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa. 
Ngày 14/10/1950, Chính phủ Pháp chính thức bàn giao hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho chính quyền của Bảo Đại quản lý. Hôm đó, Tướng Phan Văn Giáo lúc đó là Thủ hiến Trung Phần đã đích thân đến đảo Hoàng Sa để chủ tọa buổi lễ.  
Tháng 9/1951, tại Hội nghị San Franxitco, ông Trần Văn Hữu - Thủ tướng Chính phủ của Bảo Đại, trưởng phái đoàn của Việt Nam đã tuyên bố chủ quyền của Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, sau khi Nhật đã trả lại tất cả lãnh thổ họ đã chiếm cứ trong chiến tranh thế giới thứ hai, 51 quốc gia tham dự, không hề có ý kiến phản đối. 
Tài liệu nước ngoài 
Một tài liệu giữ ở kho lưu trữ của Pháp đề ngày 10/4/1768 mang tên là “Note sur l'Asedemandés pas M. de la bonde à M. d' Etaing” cho biết là hồi đó hải quân Việt Nam đã tuần tiễu đều đặn giữa bờ biển Việt Nam và quần đảo Hoàng Sa. Đô đốc d'Estaing đã tả hệ thống phòng thủ của Việt Nam có nhiều đại bác, phần lớn là mang huy hiệu của Bồ Đào Nha, có ghi năm 1661, và những khẩu nhỏ hơn mang hiệu xứ Campuchia và dấu khắc tên “Anh Quốc Ấn Độ công ty” (Brifish company of India). Những khẩu pháo nhỏ này đã được thu lượm ở Hoàng Sa. 
Ngoài ra còn có các tác giả Le Poivre (1740), J Chaigneau (1816-1819), Taberd (1833), Gutzlagip (1840)… cũng từng khẳng định Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. 
Ngay cả các tác giả người Trung Quốc trước đây cũng từng viết sách nói rằng Hoàng Sa và Trường Sa là của Việt Nam. Nhà sư Thích Đại Sán trong cuốn Hải ngoại ký sự viết năm 1696 đã xác nhận các chúa Nguyễn hàng năm cho thuyền khai thác các sản vật từ các tàu bị đắm ở vùng Vạn lý Trường Sa (tức Hoàng Sa của Việt Nam). Tập tài liệu của Trung Quốc “Ngã quốc Nam Hải chư đảo sử liệu hội biên” do Hàn Chấn Hoa chủ biên, trang 115 thiên thứ nhất, cũng ghi chép dấu vết trên đảo Vinh Hưng (Phú Lâm) ở Hoàng Sa có miếu gọi là Hoàng Sa tự. (Hoàng Sa tự được vua Minh Mạng triều Nguyễn cho xây dựng). 
Trong cuốn Hoàng Thanh nhất thống dư địa toàn đồ, bản đồ Trung Quốc đời Thanh, xuất bản năm 1894 ghi chú rõ: “Điểm cực Nam lãnh thổ Trung Quốc là Nhai Châu, Quảng Đông, độ Bắc cực 18o13”. Còn quyển Quảng Đông dư địa toàn đồ, bản đồ tỉnh Quảng Đông, xuất bản năm 1897 cũng ghi: “Điểm cực Nam tỉnh này là mỏm núi bên ngoài cảng Du Lâm 18o09'10"”. Trong Đại Thanh đế quốc, bản đồ toàn Trung Quốc trong tập bản đồ mang tên “Đại Thanh đế quốc toàn đồ”, xuất bản năm 1905, tái bản lần thứ tư năm 1910, cũng chỉ rõ phần cực Nam lãnh thổ Trung Quốc là đảo Hải Nam. Những bản đồ trên đây đều khẳng định cho đến thế kỷ XX, lãnh thổ Trung Quốc không bao giờ gồm hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Việc thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa

Để quản lý về hành chính, ngày 29/2 năm Bảo Đại thứ 12 (30/3/1938), nhà vua đã ra Chỉ dụ số 10, sáp nhập Hoàng Sa, Trường Sa vào tỉnh Thừa Thiên. 
Sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954, Hoàng Sa và Trường Sa thuộc quyền quản lý của chính quyền Sài Gòn. Ngày 22/10/1956, họ đã ra Sắc lệnh số 143/NV quy định quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Ngày 3/7/1961, Ngô Đình Diệm - Tổng thống Việt Nam Cộng hoà ký quyết định quần đảo Hoàng Sa thuộc Thừa Thiên - Huế, nay thuộc tỉnh Quảng Nam và gọi là xã Định Hải thuộc quận Hoà Vang. Ngày 6/9/1973, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Sài Gòn ký Nghị định số 420/BNV-HCDB-26 sáp nhập Trường Sa vào xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy. 

Bức tượng Vệ sĩ dân chài đảo Hoàng Sa đứng ở phía Tây Nam đảo Hoàng Sa, có thể xưa kia được đặt trong ngôi miếu cổ khi nhà Nguyễn dựng miếu năm 1835 đã thấy.

Sau khi thống nhất đất nước, ngày 9/2/1982, Hội đồng Bộ trưởng nước ta đã ra Nghị định tổ chức quần đảo Hoàng Sa thành huyện Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Nam, Đà Nẵng, và quần đảo Trường Sa thuộc tỉnh Đồng Nai. Ngày 28/12/1982, tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa VII đã ra Nghị quyết đưa huyện Trường Sa sáp nhập vào tỉnh Phú Khánh (nay là Khánh Hoà).

Từ khi chiếm lĩnh được hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, ông cha ta đã cho người ra cắm mốc chủ quyền. Khi chính quyền Pháp bảo hộ họ cũng đã cắm bia chủ quyền ghi: “Cộng hòa Pháp - Đế quốc An Nam quần đảo Hoàng Sa”.

Năm 1938, Phòng (Service) Khí tượng Đông Dương xây dựng một trạm khí tượng tại đảo Itu Aba hoạt động dưới quyền Pháp. Đây là trạm thời tiết rất quan trọng nên đã được mang ký hiệu quốc tế là 48919. Đến thời chính quyền Sài Gòn quản lý, trạm khí tượng này vẫn hoạt động. Hiện nay 4 người còn sống, đó là các cụ: Nguyễn Văn Như, Trần Huynh, Phạm Miễn, Võ Như Dân.

Những chứng tích lịch sử về việc thực thi chủ quyền ở quần đảo Hoàng Sa còn được lưu truyền trong dân gian khá sâu đậm.

Khi nhà vua cử các đội đi Hoàng Sa, đã biết rằng cuộc ra đi vô cùng khó khăn, nên đã cho mỗi người lính mang theo một đôi chiếu, 7 đòn tre, 7 sợi dây lạt và một tấm thẻ Bài có khắc tên họ, bản quán để phòng xa, nếu chẳng may hy sinh thì đồng đội sẽ bỏ xác vào chiếu thả trôi trên biển. Trước khi lên đường, thường là vào tháng Hai Âm lịch, thì làm lễ gọi là “Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa”. Đồng thời làm những “ngôi mộ gió”, nơi chôn những hình nhân tượng trưng cho những người lính hy sinh ở Hoàng Sa. Một trong những người lính đó là Anh hùng Phạm Hữu Nhật cách đây hơn 170 năm đã có bia mộ trên triền núi ở Lý Sơn “Phục vị vong Cao Bình Quận Phạm Hữu Nhật thần hồn chi linh vị. Sanh Giáp Tý (1804), Giáp Dần (1854) tôn diệt phong tự”.

Như vậy là cách đây hơn 3 thế kỷ, ông cha ta đã xác lập và thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa và Trường Sa, những việc đó được ghi trong cả sách của ta, của quốc tế và ngay cả của Trung Quốc. Ông cha chúng ta cũng đã biết cắm mốc, đo đạc, vẽ bản đồ xây miếu, đào giếng, trồng cây, xây trạm dự báo thời tiết, và hàng năm cử người ra để kiểm tra và thu hồi sản vật trên vùng đất mà nước mình quản lý.

Cho đến nay, hầu như cả thế giới đều biết rằng, vào năm 1956, khi người Pháp rút, bàn giao hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa, lợi dụng lúc đó, Trung Quốc đã đưa quân đánh chiếm đảo Phú Lâm phía Đông Hoàng Sa, quân đội Sài Gòn phải chạy về đóng tại phía Tây Hoàng Sa. Ngày 20/1/1974, lợi dụng quân đội Sài Gòn đang thua trận (do Mỹ đã rút khỏi Việt Nam), Trung Quốc đưa quân đánh chiếm nốt phía Tây để chiếm toàn bộ Hoàng Sa của Việt Nam. Trong trận chiến đó Trung Quốc bị cháy và hỏng 2 chiến hạm, 2 tàu chiến. Quân đội Sài Gòn bị cháy 2 tàu, hỏng 2 tàu, 18 người chết, 43 người bị thương, 175 người mất tích.

Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam hàng vài thế kỷ. Trung Quốc dùng bạo lực quân sự để đánh chiếm và xâm phạm.

Thế hệ trẻ hiện nay cần phải nắm chắc những cơ sở pháp lý, khẳng định chủ quyền của Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời tuyên truyền cho mọi tầng lớp nhân dân hiểu rõ, để củng cố quyết tâm cho các thế hệ người Việt Nam kiên quyết đấu tranh để bảo vệ Trường Sa và đòi lại chủ quyền của chúng ta ở Hoàng Sa.

Cũng cần làm cho nhân loại tiến bộ hiểu rõ sự thật, đưa vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam thành nội dung đấu tranh ở Liên hiệp quốc, trong dư luận bảo đảm sự công bằng của công pháp quốc tế.

Các sách và tài liệu tham khảo:

- Sự thật về quan hệ Việt Nam, Trung Quốc trong 30 năm qua; NXB Sự thật, 1979.

- Sự thật về những lần xuất quân của Trung Quốc và quan hệ Việt - Trung; NXB Đà Nẵng, 1996.

- Bạch thư về Hoàng Sa và Trường Sa của Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa, công bố ngày 14/2/1975.

- Những điều cần biết về Biển và Đảo Việt Nam; Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương.

- Bài nghiên cứu của các tác giả: Dương Trung Quốc, Lam Điền, Hãn Nguyên Nguyên Nhã, Hoàng Mai Anh, Đặng Trung Hội, Mai Hạnh, Nguyễn Nhã, Nguyễn Việt Hùng, Nguyễn Hồng Thao, Hoàng Trọng Lập, Đức Huy.

Đại tá Nguyễn Huy Toàn
(Nhà nghiên cứu tư tưởng văn hóa quân sự)
Theo Công An Nhân Dân

Yêu cầu Trung Quốc dừng ngay hành vi vi phạm chủ quyền Việt Nam


(Dân trí) - “Liên đoàn Luật sư Việt Nam yêu cầu phía Trung Quốc xuất phát từ tầm cao chiến lược và quan hệ lâu dài giữa hai nước, chấm dứt ngay và không tái diễn mọi hành động vi phạm trong vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở Biển Đông”.
Ngày 12/6, Liên Đoàn Luật sư Việt Nam đã ra tuyên bố phản đối Trung Quốc xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam.
Trong tuyên bố này, Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã điểm lại những vụ việc Trung Quốc gây ra gần đây như vụ việc tàu hải giám nước này cắt cáp tàu Bình Minh 02 ngày 26/5, vụ việc 3 tàu hải quân Trung Quốc nổ súng bắn xuống nước uy hiếp, đe doạ không cho ngư dân Việt Nam hành nghề tại khu vực thuộc thềm lục địa Việt Nam ngày 31/5 và mới đây nhất, ngày 9/6 tàu cá Trung Quốc có sự yểm trợ của 2 tàu ngư chính đã cố tình lao vào tuyến cáp khảo sát của tài Viking 2 do tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam thuê khảo sát địa chấn trên vùng biển thuộc thềm lục địa Việt Nam.
Theo đoàn Luật sư Việt Nam, căn cứ vào Hiến chương Liên hợp quốc, Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982, Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông giữa chính phủ các nước thành viên ASEAN và nước CHND Trung Hoa, các hành động nêu trên của Trung Quốc đã xâm phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán đối với thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam; làm cho tình hình của Biển Đông tiếp tục căng thẳng.
Liên đoàn Luật sư Việt Nam khẳng định, có đầy đủ cơ sở pháp lý để tuyên bố rằng, các hành động nói trên của phía Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế - đó là không được đe dọa sử dụng hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế nhằm chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào.
Hành động này cũng xâm phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam phù hợp với Điều 55, Điều 56, Điều 57, Điều 76, Điều 77, Điều 301 Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982; đi ngược lại điểm 1 và điểm 4 Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông giữa chính phủ các nước thành viên ASEAN và nước CHND Trung Hoa.
“Liên đoàn Luật sư Việt Nam cực lực phản đối hành vi của phía Trung Quốc xâm phạm thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và yêu cầu phía Trung Quốc không làm phức tạp thêm tình hình Biển Đông bằng các hành vi đe dọa sử dụng hoặc sử dụng vũ lực; xử sự phù hợp với vai trò là một thành viên của Liên hợp quốc, đặc biệt là thành viên Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và với tư cách là một quốc gia có vai trò quan trọng ở châu Á Thái Bình Dương và trên thế giới.”, Liên đoàn luật sư nhấn mạnh.
Liên đoàn Luật sư Việt Nam yêu cầu phía Trung Quốc xuất phát từ tầm cao chiến lược và quan hệ lâu dài giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc, chấm dứt ngay và không tái diễn mọi hành động vi phạm trong vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở Biển Đông; đồng thời chịu trách nhiệm bồi thường mọi thiệt hại đã gây ra cho Tập đoàn Dầu khí và ngư dân Việt Nam.

Liên đoàn Luật sư Việt Nam khẳng định, luôn trân trọng và mong muốn tình hữu nghị cũng như quan hệ hợp tác truyền thống giữa nhân dân và tổ chức luật sư của hai nước Việt Nam - Trung Quốc tiếp tục được củng cố trên tinh thần tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, cùng nhau giải quyết những bất đồng giữa hai nước bằng biện pháp hòa bình, ngăn ngừa và chống lại những hành động làm tổn hại tới quan hệ hòa bình, hữu nghị của hai nước. 
Liên đoàn Luật sư Việt Nam cũng đề nghị, các tổ chức luật sư quốc gia của nước thành viên ASEAN, Hiệp hội Luật Châu Á Thái Bình Dương (LAWASIA) Hiệp hội Luật sư Trung Quốc cùng nhau có trách nhiệm bảo vệ công lý, bảo vệ pháp luật quốc tế, tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia, giữ gìn hòa bình và an ninh thế giới, chung sức xây dựng một thế giới dân chủ công bằng và văn minh.
“Liên đoàn Luật sư Việt Nam sẽ làm hết sức mình để góp phần vào công cuộc đấu tranh pháp lý của Nhà nước và nhân dân Việt Nam nhằm bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ nói chung và biển đảo nói riêng tại mọi diễn đàn bằng các thiết chế luật pháp quốc tế.”, Liên đoàn luật sư kết lại. 
Kim Tân - TTXVN

Thế giới nhận định về căng thẳng Biển Đông


Giới quan sát quốc tế ghi nhận rằng căng thẳng đang leo thang trên Biển Đông, lý giải nguyên nhân, và dự đoán tình hình sẽ còn nghiêm trọng. Họ cũng khuyến cáo các bên phải rất kiềm chế và đoàn kết để có được giải pháp hòa bình.
Dưới đây là trích đăng bài viết của một số hãng thông tấn, báo đáng chú ý trong hai ngày qua, sau vụ tàu Trung Quốc phá hoại cáp tàu khảo sát của Việt Nam.
Tờ New York Times, với tiêu đề "căng thẳng bùng lên" ở Biển Đông, cho rằng tình hình hiện nay chứng tỏ cơ chế Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông không có hiệu quả. Đây là nhận xét của Michael Vatikiotis, chuyên gia an ninh tại Trung tâm đối thoại nhân văn Singapore.
"Các nước láng giềng của Trung Quốc ngày càng bất bình với việc Quân đội Giải phóng nhân dân PLA thiết lập căn cứ tàu ngầm ở đảo Hải Nam, ngay rìa phía bắc của khu vực biển tranh chấp".
Báo này dẫn bình luận của chuyên gia an ninh biển Mark Valencia - một người giỏi có tiếng trong vấn đề tranh chấp ở Biển Đông, như sau: "Dường như các vụ va chạm giữa Trung Quốc và các bên tuyên bố chủ quyền khác đang ngày càng tăng.
"Tại sao lại là bây giờ?", chuyên gia đặt câu hỏi. Nhìn từ góc độ Trung Quốc, "có lẽ là do bây giờ họ đã có đủ lực lượng".
Đài tiếng nói Hoa Kỳ VOA dẫn thông tin từ văn bản do Giám đốc CIA Leon Panetta gửi Quốc hội Mỹ trong quá trình xem xét việc ông sẽ trở thành Bộ trưởng Quốc phòng. Trong văn bản này, Panetta nhận xét rằng, Trung Quốc dường như đang xây dựng lực lượng để "chiến đấu và chiến thắng trong những cuộc xung đột quyết liệt và chớp nhoáng" trên các đường biên giới nước này.
VOA tường thuật lại một số vụ đụng độ vừa qua trên biển giữa các tàu của Trung Quốc với tàu Việt Nam và Philippines, trong khi các quan chức Trung Quốc luôn khẳng định ủng hộ hòa bình và ổn định trên Biển Đông.
Giám đốc CIA lưu ý với Quốc hội Mỹ rằng, Trung Quốc có vẻ như đang xây dựng lực lượng chuẩn bị cho các xung đột tiềm tàng liên quan đến Đài Loan, kể cả khi có sự can thiệp của Mỹ. Ông chủ tương lai của Lầu Năm Góc đề nghị Mỹ theo dõi sát sự lớn mạnh của quân đội Trung Quốc trong lúc vẫn phải tìm cách duy trì hòa bình và ổn định, cũng như giảm nguy cơ xung đột trong khu vực này.
Bản tin của BBC hôm qua, sau khi điểm lại tình hình căng thẳng leo thang hiện nay trên Biển Đông, nhấn mạnh thực tế rằng, "Trung Quốc muốn giải quyết vấn đề tranh chấp với từng quốc gia riêng lẻ. Việt Nam, Indonesia và Philippines muốn xây dựng nỗ lực chung của cả khu vực nhằm tìm một giải pháp đa phương cho cuộc xung đột".
Bản tin của Inquirer, nhật báo hàng đầu của Philippines, dẫn tuyên bố mạnh mẽ của thượng nghị sĩ Francis Pangilinan kêu gọi chính phủ không quỳ gối trước sức ép của Trung Quốc.
"Chúng ta không để bị bắt nạt bởi cách cư xử phi ngoại giao này", tuyên bố của ông Pangilinan đưa ra sau khi đại sứ Trung Quốc tại Manila Lưu Kiến Siêu yêu cầu các nước khác không được khai thác tài nguyên ở Trường Sa.
"Chúng ta không bao giờ cho phép thế lực nào ép buộc chúng ta tuân lệnh", Pangilinan nói thêm.
Các nghị sĩ Philippines có những luồng ý kiến khác nhau: nếu giải quyết hòa bình tránh leo thang căng thẳng - bằng cách đưa vấn đề tranh chấp ra LHQ và ASEAN, chẳng hạn theo cơ chế ASEAN+1.
"Chúng ta nên theo cách này thay vì đồng tình với đề xuất củng cố quân đội Philippines, bởi điều đó sẽ chỉ kích động Trung Quốc có thêm các hành động thù địch trong khu vực mà thôi", nghị sĩ Rodolfo Biazon nói.
Nghị sĩ Ben Evardone thì cho rằng ASEAN và LHQ nên tham gia dập tắt tình trạng leo thang căng thẳng hiện nay giữa các bên tranh chấp. "Các bên nên tránh những cuộc khẩu chiến qua lại. Tôi nghĩ đã đến lúc cần có tuyên bố đình chiến truyền thông, nhằm ngăn chặn nguy cơ xảy ra xung đột lớn".
Đài RFA đăng bình luận của các nhà phân tích người Trung Quốc cho rằng tranh chấp chủ quyền lâu dài trên Biển Đông, gần Trường Sa, đang có dấu hiệu ngày càng nghiêm trọng.
Wu Fan, chủ bút tạp chí China Affair có trụ sở tại Mỹ, cho biết, Trung Quốc đã bắt đầu lục tìm lại các ghi chép lịch sử từ thời phong kiến tiền 1911 để tìm những cứ liệu biện minh cho tuyên bố chủ quyền trên quần đảo Trường Sa, nơi được cho là có nhiều tài nguyên.
"Việt Nam sẽ không xuống thang, và Trung Quốc cũng không xuống thang. Đặc biệt là không xuống thang trong vấn đề các quần đảo. Đôi bên sẽ ngày càng phân cực".
Giáo sư đại học Seton Hall Yang Liyu nói rằng hiện giờ cả hai bên rất khó mà hạ nhiệt.
"Chuyện này giống như châm lửa bằng xăng", Yang nói. "Tình hình rất có thể trở nên nghiêm trọng hơn, ảnh hưởng đến sự ổn định trong toàn khu vực" Biển Đông. "Sự tranh chấp và đụng độ chắc chắn sẽ ngày càng nghiêm trọng".
Tờ Daily Youmuri, Nhật Bản đăng bài xã luận với tiêu đề "Bắc Kinh cần kiềm chế trên biển", cho rằng Trung Quốc đã phá vỡ cam kết trong DOC 2002.
Báo này nhận xét rằng dù tại Đối thoại an ninh Shangri-La vừa qua, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt khẳng định Bắc Kinh ủng hộ hòa bình trên Biển Đông, và rằng khu vực này vẫn ổn định, nhưng hai người đồng nhiệm Việt Nan và Philippines ngay lập tức có những tuyên bố khác hẳn về tình hình.
"Trung Quốc sẽ không có được lòng tin của cộng đồng quốc tế nếu những điều họ nói không giống những gì họ làm", xã luận có đoạn.
Báo Nhật này cho rằng Trung Quốc đang ngày càng tỏ ra ngang nhiên trên biển bởi kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm của nước này đã đặt trọng tâm vào mở rộng các lợi ích trên biển.
Và vì thế "các thành viên ASEAN phải đoàn kết chặt chẽ" để bảo vệ vùng biển của họ, không để Trung Quốc biến nó thành "ao nhà".
Thanh Mai

Mỹ kêu gọi hoà bình cho Biển Đông


Washington hôm qua cho biết họ lo ngại vì những căng thẳng do bất đồng xung quanh biên giới trên Biển Đông và kêu gọi một giải pháp hoà bình cho cuộc khủng hoảng tại đây.
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ Mark Toner cho biết Mỹ "đang lo ngại vì các thông tin về tình hình" trên Biển Đông.
"Chúng tôi ủng hộ một tiến trình ngoại giao chung và kêu gọi tất cả các bên tuyên bố chủ quyền, cả trên đất liền và trên biển, phải tuân theo luật pháp quốc tế", Toner nói
Ông Toner còn nhấn mạnh rằng Mỹ và cộng đồng quốc tế nói chung chia sẻ lợi ích trong việc duy trì an ninh hàng hải trong khu vực Biển Đông, ủng hộ tự do đi lại, phát triển kinh tế và tuân thủ luật pháp quốc tế. "Chúng tôi không ủng hộ bất cứ điều gì làm gia tăng căng thẳng và chúng tôi không nghĩ điều đó là có ích", AFP dẫn lời phát ngôn viên Mỹ nói thêm.
Washington cũng nêu rõ những điều cần cho Biển Đông hiện nay là một tiến trình ngoại giao chung, một tiến trình hoà bình để giải quyết hàng loạt bất đồng về chủ quyền biển và hải đảo. Mỹ cũng cho rằng việc phô trương lực lượng hay những hành động tương tự sẽ chỉ làm tình hình căng thẳng tăng lên.
Trước đó tuần trước, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates cảnh báo xung đột có thể xảy ra tại Biển Đông nếu các nước cùng tuyên bố chủ quyền không lập ra được một cơ chế để dàn xếp bất đồng một cách hoà bình. Cảnh báo này được đưa ra trong bối cảnh Foreign Policy nhận định Washington đang chuyển trọng tâm chiến lược sang Đông Nam Á vì tầm quan trọng ngày càng lớn về quân sự, ngoại giao lẫn thương mại của khu vực này.
Đô đốc Robert Willard, tư lệnh Bộ chỉ huy Thái Bình Dương của Mỹ thì tuyên bố tại Malaysia hồi đầu tháng này: "Mỹ không đứng về bên nào trong một cuộc tranh chấp. Đây là một cam kết chắc chắn để cho thấy rằng các bên liên quan tới tranh chấp cần phải cùng nhau giải quyết vấn đề một cách hòa bình và thông qua đối thoại, chứ không phải bằng những va chạm trên biển hoặc trên không".
Nước đang giữ quyền chủ tịch ASEAN là Indonesia cũng kêu gọi các bên tại Biển Đông "hạ nhiệt", hành xử bình tĩnh và nhanh chóng đưa ra bộ quy tắc ứng xử có tình ràng buộc để làm cơ sở giải quyết các bất đồng. "Tình trạng gia tăng các sự cố trên ở Biển Đông cho thấy tầm quan trọng của việc Trung Quốc và ASEAN ngay lập tức đưa ra quy định về việc thực thi Tuyên bố của các bên về ứng xử trên Biển Đông (DOC)", phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Indonesia Michael Tene nói.
Bắc Kinh đang muốn dọn đường
Trong khi đó, một mặt Trung Quốc liên tục khẳng định họ cam kết duy trì hoà bình ở Biển Đông, nhưng mặt khác lại tìm mọi cách gây hấn với các nước láng giềng trong khu vực bằng những vụ xâm phạm chủ quyền và phá hoại. Trong nửa tháng qua, các tàu của Trung Quốc liên tiếp gây rối khắp vùng Biển Đông, làm gia tăng căng thẳng đột ngột với cả Việt Nam và Philippines.
Điển hình là hai vụ Trung Quốc cho tàu hải giám, ngư chính và dùng cả tàu đánh cá dân sự để thâm nhập sâu vào vùng chủ quyền biển 200 hải lý của Việt Nam để tấn công phá hoại hai tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam là Bình Minh 02 ngày 26/5 và Viking II ngày 9/6. Bắc Kinh cũng áp dụng chiêu phá rối tương tự đối với một nước ASEAN khác là Philippines, khiến nước này đưa vấn đề lên Liên Hợp Quốc.
Ngay sau mỗi vụ gây rối và phá hoại, Bắc Kinh lại lên tiếng tố ngược lại Việt Nam và Philippines đã hoạt động trong vùng biển chủ quyền của họ, nhằm đánh lừa dư luận bên ngoài hiểu nhầm về một khu vực không có tranh chấp thành khu vực có tranh chấp trên biển. Giới phân tích nhận định tất cả các hành động xâm phạm chủ quyền rõ ràng của phía Trung Quốc đã được tính toán kỹ lưỡng, nhằm dọn đường cho Bắc Kinh nhảy vào khai thác dầu khí tại Biển Đông.
Biển Đông là một khu vực rộng hơn 2 triệu km vuông, được cho là có trữ lượng tài nguyên dồi dào, trong đó dầu mỏ ước tính có đến 17,7 tỷ tấn, đứng thứ tư về trữ lượng trên thế giới. Trung Quốc luôn thể hiện rằng họ đồng ý khai thác dầu chung với các nước có tranh chấp, nhưng quan điểm này được giới quan sát bình luận là cách để Trung Quốc lợi dụng khai thác ở nơi thuộc chủ quyền của nước khác.
Đình Nguyễn

'Việt Nam cần tỉnh táo trước khiêu khích của Trung Quốc'


"Trung Quốc đang thử thách, khiêu khích và chờ đợi sự mất bình tĩnh của chúng ta. Thời gian tới Trung Quốc không dừng lại mà sẽ còn tiếp tục có những hoạt động mạnh", nguyên trưởng ban biên giới Chính phủ đánh giá.
Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ trao đổi vớiVnExpress sau sự kiện Trung Quốc tiếp tục phá cáp trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
- Tại Đối thoại an ninh khu vực Shangri La vừa qua, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc liên tục nhắc đến "hòa bình". Vậy tại sao, vừa trở về, họ đã tiếp tục có hành động phá hoại tàu thăm dò Viking 2 của Việt Nam?
- Dư luận trong nước và quốc tế vừa qua đã có tiếng nói khá mạnh mẽ. Riêng tiếng nói chính thức Việt Nam rất cương quyết. Các nước Philippines, Malaysia cũng thế. Về mặt nguyên tắc, Mỹ vẫn thể hiện thái độ của mình, không từ bỏ lợi ích của mình ở Biển Đông. Nhưng về mức độ, so với tuyên bố năm ngoái của Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton, tuyên bố của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gate không mạnh mẽ bằng.
Trong khi đó, trước khi xảy ra vụ cắt cáp của tàu Bình Minh 2 cũng như trước hội nghị Shangri La, các quan chức cấp cao Trung Quốc đã có hàng loạt chuyến công du lobby ngoại giao để tạo thuận lợi cho những hành động trên thực địa. Và với tuyên bố không đủ mạnh của các bên dẫn đến việc Trung Quốc mạnh dạn phớt lờ dư luận.
- Với việc liên tiếp uy hiếp các tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam, Trung Quốc đang muốn gì, thưa ông?
- Sự kiện tàu Trung Quốc phá cáp của Viking II ngày 9/6 là một bước trong loạt hành động của Trung Quốc trong việc tìm cách cản phá việc thăm dò, khai thác dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam. Điều này tôi có thể hình dung và phán đoán khi xâu chuỗi các hành động đối với các nước trong khu vực. Chỉ trong vòng nửa tháng, các tàu Trung Quốc từ hải giám, ngư chính đến tàu cá đã hai lần ngang ngược xâm phạm vùng biển chủ quyền của Việt Nam để tấn công, phá hoại cáp thăm dò trên các tàu thuộc Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam. Bên cạnh đó, tàu Trung Quốc còn dùng súng uy hiếp ngư dân Việt Nam và nhiều lần xâm phạm chủ quyền của Philippines.
Mục đích của họ không thay đổi về chiến lược đó là là hành động để hiện thực hóa tham vọng đường lưỡi bò. Tuy nhiên, với hành động cụ thể lần này, Trung Quốc tiếp tục thử thách phản ứng của Việt Nam, thử thách các nước trong khu vực và cộng đồng quốc tế.
Với các hành động cụ thể vừa rồi với Bình Minh 02 và Viking II, ý đồ trước mắt của họ là đánh vào kinh tế, quan hệ kinh tế và sự hợp tác làm ăn giữa các công ty Việt Nam và các công ty nước ngoài, phát lời cảnh báo với các đối tác đang, hoặc có ý định làm ăn với Việt Nam. Họ đánh vào quan hệ kinh tế của Việt Nam với các nước. Đây là hành động tính toán cực kỳ kỹ lưỡng.
Trong thời gian tới Trung Quốc không dừng lại mà sẽ còn tiếp tục có những hoạt động mạnh hơn như tiến tới khoan thăm dò sau khi đã phân lô trên Biển Đông, đặt giàn khoan trên biển. Tất cả là nhằm hợp thức hóa yêu sách về chủ quyền trên biển.
- Trung Quốc biết rõ tàu thăm dò Viking 2 của Việt Nam có tàu bảo vệ, vì sao họ vẫn phá rối?
- Có nhiều lý do, nhưng dưới góc độ thực tế họ tính toán tới lực lượng sức mạnh tại chỗ trong thời điểm đó. Khi hành động, đối đầu trực diện thì họ tính tới sự bảo vệ của mình với tàu thăm dò. Nếu sự bảo vệ không đủ, họ sẽ mạnh dạn quấy phá. Thứ hai là thời điểm tiến hành, họ tính toán lúc thuận lợi nhất để cho tàu cá chạy vào khu vực ta đang thăm dò.
Việc dẫn theo 2 tàu kiểm ngư, trong đó có tàu 311 có trọng tải tới hơn 4.000 tấn chứng tỏ không hề ngẫu nhiên. Họ tính rất kỹ, nấp dưới danh nghĩa dân sự nhưng tôi cho rằng đó là lực lượng quân sự nấp dưới vỏ bọc dân sự, hành chính. Trung Quốc có sức mạnh, nhưng về lý, về lẽ phải họ không có.
- Theo ông, Việt Nam cần có hành động và thái độ như thế nào sau tàu Viking 2 và tàu Bình Minh liên tiếp bị uy hiếp?
- Trung Quốc đang quấy phá, tạo ra sự tranh chấp, dựng lên tranh chấp để cố chứng tỏ với thế giới rằng họ có lợi ích ở đây và cần đàm phán với họ. Đấy là điểm cốt yếu chí tử của họ khi áp đặt ý chí chủ quan nhưng không có cơ sở gì về đường lưỡi bò.
Trước những hành động cụ thể như trong vụ tàu Viking II thì chúng ta nên biến tuyên bố về nguyên tắc - những gì mình nói với thế giới - thành những việc làm cụ thể. Ví dụ như yêu cầu Trung Quốc bồi thường; lập thủ tục hồ sơ để đưa ra cơ quan tài phán quốc tế và có tiếng nói chính thức lên Liên Hợp quốc.
Chúng ta cũng cần nói rõ với các nước trong khu vực, nói với các nước lớn có lợi ích trên Biển Đông. Tức là mình phải tiến thêm một bước cụ thể hơn nữa chứ không chỉ có tuyên bố về nguyên tắc.
- Có ý kiến cho rằng, các nước ASEAN đang tự làm suy yếu mình vì không đưa ra tuyên bố chung trước những hành động gây hấn của Trung Quốc. Ông nghĩ sao?
- Từ trước tới nay Trung Quốc vẫn dùng chiêu bài "song phương" đối với các nước ASEAN để đánh lẻ, bẻ từng chiếc đũa. Họ nhằm vào từng nước để lôi kéo hoặc phá rối mối liên kết nội khối. Rõ ràng, họ vẫn tiếp tục, không muốn đàm phán đa phương, quốc tế hóa. Nếu các quốc gia ASEAN sơ hở, Trung Quốc sẽ lợi dụng.
Tôi cho rằng, sau hành động lần này của Trung Quốc, với tư cách là một bên ký tuyên bố DOC, khối ASEAN cần có chung tiếng nói đủ rắn mà không phải chờ tới cuộc họp thường kỳ nào. Một tuyên bố chung là rất có ý nghĩa vào lúc này để nói lên ý chí, sự thống nhất của khối. Chỉ với sự thống nhất, các nước lớn có mối quan tâm về an ninh khu vực như Mỹ, Nga, Ấn Độ... mới có cách tiếp cận chính thức với những bất ổn trên biển Đông.
- Nhiều ý kiến cho rằng, Việt Nam cần có hành động cứng rắn hơn nữa trước sự xâm phạm chủ quyền của phía Trung Quốc. Quan điểm của ông thế nào?
- Hành động của Trung Quốc là sự thử thách, khiêu khích. Họ chờ đợi sự mất bình tĩnh của chúng ta. Thậm chí, có thể họ đã tính đến việc mình không kiềm chế được và nổ súng trước vào các lực lượng mang vỏ bọc dân sự của họ.
Trong lịch sử đấu tranh bảo vệ đất nước chúng ta đã có những thời điểm tương tự như hiện nay. Trung Quốc đang thử thách lòng kiên nhẫn, sự chịu đựng từ phía các lực lượng của Việt Nam. Chỉ cần mình mất tỉnh táo, bình tĩnh, sử dụng vũ lực thì họ sẽ lấy cái cớ đó để tiến hành các hoạt động ở mức độ quân sự.
Cái quan trọng nhất là chúng ta phải bình tĩnh, kiềm chế, tiếp tục hành xử theo đúng quy định, thủ tục pháp lý. Nếu mình làm đúng như vậy thì lẽ phải thuộc về mình, không có gì phải sợ.
- Nếu các lực lượng mang vỏ bọc dân sự của họ tiếp tục phá hoại, chúng ta cần chuẩn bị cho tình huống tiếp theo như thế nào?
- Điều cần khẳng định đầu tiên là chúng ta nhất định không được vì sự quấy phá, xâm phạm của Trung Quốc mà ngừng các hoạt động bình thường trong vùng biển chủ quyền của mình. Nếu dừng lại, chúng ta sẽ rơi vào thế yếu, tạo cớ cho Trung Quốc rêu rao trên các diễn đàn thế giới cũng như với dư luận Trung Quốc về thứ chủ quyền mà họ vẽ ra.
Còn nếu họ tiếp tục phá, ta phải có cách ngăn cản theo đúng thủ tục pháp lý. Ví dụ trong trường hợp Viking II thì các lực lượng của Việt Nam hoàn toàn có quyền bắt giữ tàu cá, dẫn độ vào bờ, làm đúng thủ tục và đưa ra xét xử tại tòa án. Công ước Luật biển 1982 đã nói rõ điều đó, có điều phải tuyệt đối không dùng vũ lực. Tránh rơi vào cạm bẫy khiêu khích của họ.
Nguyễn Hưng thực hiện

Kẻ núp bóng nhà giáo để chống phá Nhà nước


(ĐSCT) Là một công dân được học tập, lớn lên dưới mái trường XHCN, từng tham gia quân đội rồi chuyển sang giảng dạy ở một trường THPT có uy tín, nhưng Đinh Đăng Định (SN 1963, trú tại thị trấn Kiến Đức, huyện Đăk R’lấp, Đắk Nông) không những không làm tròn trách nhiệm của một thầy giáo mà còn cố ý tham gia các hoạt động tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước…
Nhiều lần bị kỷ luật
Đinh Đăng Định sinh ra và lớn lên ở tỉnh Hải Dương. Từng là sĩ quan quân đội với cấp bậc trung úy, Định đã tham gia giảng dạy tại một trường sĩ quan. Trong thời gian công tác tại đây, Định đã bộc lộ những tư tưởng, quan điểm sai trái và bị các giáo viên trong trường kiên quyết tẩy chay, phản đối.
Tháng 3-1988, Định xuất ngũ, xin làm việc tại một số đơn vị khác nhau. Do ở đơn vị nào Định cũng gây rối, làm mất đoàn kết nội bộ cơ quan, vô ý thức kỷ luật nên nhiều lần bị điều chuyển công tác hoặc tự ý nghỉ việc. Trong vòng chưa đến 10 năm, Định đã tám lần bị kỷ luật từ khiển trách cho đến buộc thôi việc.
Tháng 9-2007, Định xin vào giảng dạy tại Trường THPT Lê Quý Đôn (địa chỉ tại thị trấn Tuy Đức, huyện Tuy Đức, Đắk Nông). Tại đây, Định lại tiếp tục gây mất đoàn kết nội bộ trong đội ngũ giáo viên, chống đối các chủ trương của Nhà nước; không chịu soạn giáo án khi lên lớp, không chấp hành công tác kiểm tra chuyên môn của Sở Giáo dục - Đào tạo...
Ngày 13-8-2010, tại cuộc họp triển khai nội dung Thông tư 30 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Định đã có những phát biểu bày tỏ quan điểm, tư tưởng rất sai trái. Định còn dùng hộp thư điện tử của cá nhân mình để phát tán, trao đổi những tài liệu có nội dung bôi nhọ lãnh đạo đến nhiều hộp thư của các giáo viên gây mất đoàn kết nội bộ trong nhà trường...
Trong học kỳ II năm học 2010 - 2011, Định đã tự ý tổ chức cho học sinh thi học kỳ trước thời hạn mà không xin ý kiến của Ban giám hiệu nhà trường... Trước những vi phạm nghiêm trọng trên, ngày 10-5-2011 Ban giám hiệu nhà trường đã họp và đưa ra hình thức kỷ luật hạ một bậc lương và điều chuyển công tác sang bộ phận khác nhưng Định chống đối, bất hợp tác đến cùng...
Lật tẩy hành vi phạm pháp
Trước những hành vi nghiêm trọng trên của Định, Công an tỉnh Đắk Nông đã điều tra và xác định: trong thời gian giảng dạy tại Trường THPT Lê Quý Đôn, Định đã nhiều lần câu kết, móc nối với các phần tử, tổ chức phản động trong và ngoài nước để hoạt động chống phá, bôi nhọ chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước.
Để che giấu thân phận cũng như thực hiện âm mưu phản động của mình, Định đã lấy bí danh “Văn Nguyễn” rồi thông qua các hộp thư điện tử của cá nhân để soạn thảo, phát tán một số tài liệu có nội dung phản động rồi phát tán lên các trang web phản động.
Kiểm tra hành chính nơi ở của Định, cơ quan chức năng phát hiện trong máy tính cá nhân của Định chứa 19 bộ tài liệu dày 195 trang mang nhiều nội dung xuyên tạc thân thế, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Số tài liệu này được Định cấu kết với các phần tử phản động ngoài nước tung lên mạng. Cơ quan điều tra còn phát hiện trong một thời gian dài Định liên lạc, câu kết với đối tượng tên Nguyễn Trung Lĩnh (trú tại Hà Nội) để thành lập “Đảng tự do dân chủ tại Việt Nam”; cùng tham gia các diễn đàn, trả lời phỏng vấn các cơ quan báo chí phản động ở nước ngoài với nội dung chống đối Đảng, chính quyền nhân dân.
Trước những hành vi sai phạm nghiêm trọng nói trên, các cơ quan đoàn thể ở địa phương đã nhiều lần đề nghị cơ quan chức năng tỉnh Đắk Nông phải có biện pháp xử lý Đinh Đăng Định theo quy định của pháp luật. Nhưng đến nay, Định vẫn ngang nhiên thách thức, không thừa nhận những hành vi, việc làm sai trái của mình, có thái độ bất hợp tác với cơ quan chức năng khiến dư luận hết sức bất bình. Thiết nghĩ cơ quan an ninh cần có biện pháp xử lý nghiêm Đinh Đăng Định, không để cho anh ta tiếp tục có hành vi chống phá Đảng, Nhà nước.
LÊ UYÊN

Trung Quốc nói gì trong vụ phá cáp tàu Việt Nam?


Hôm qua Bắc Kinh nói không có việc tàu nước này quấy rối tàu khảo sát của Việt Nam, sau khi Hà Nội phản đối tàu Trung Quốc cố tình cắt cáp và vi phạm chủ quyền của Việt Nam.
Phát ngôn viên ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi nói rằng tàu cá của Trung Quốc đang hoạt động ở khu vực gần Trường Sa thì "bị tàu của Việt Nam đuổi theo. Trong quá trình đuổi đó tàu của Trung Quốc vướng vào cáp của tàu khảo sát dầu khí của Việt Nam".
Hãng thông tấn Xinhua dẫn lời Hồng Lỗi nói vì bị vướng, nên tàu cá Trung Quốc phải cắt lưới.
Hồng Lỗi cũng nhắc lại quan điểm của Trung Quốc - quan điểm bị các nước láng giềng phản đối vì vô căn cứ - rằng nước này có chủ quyền với quần đảo Trường Sa. Ông Hồng còn yêu cầu Việt Nam "ngừng các hành động vi phạm chủ quyền của Trung Quốc".
Điều này hoàn toàn trái ngược với tuyên bố của Việt Nam về việc Việt Nam có đầy đủ cơ sở pháp lý và bằng chứng lịch sử chứng minh chủ quyền Trường Sa.
Đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết vào lúc 6h sáng qua một tàu cá của Trung Quốc, được sự yểm trợ của hai tàu ngư chính, đã chạy ngang qua mũi tàu khảo sát Viking II mà PetroVietnam thuê, sau đó đổi hướng và gia tăng tốc độ. Mặc dù tàu Việt Nam đã phát pháo hiệu cảnh cáo nhưng tàu cá Trung Quốc vẫn lao vào cắt cáp thăm dò của tàu Viking II, làm cho tàu thăm dò này không thể hoạt động bình thường.
Tiếp đó hai tàu ngư chính và các tàu khác của Trung Quốc vào giải cứu cho tàu cá. Ngư chính là một trong 5 lực lượng hành pháp phi quân sự liên quan đến bờ biển của Trung Quốc. Ngư chính có nhiệm vụ quản lý và hỗ trợ các hoạt động nghề cá của người Trung Quốc.
Bộ Ngoại giao Việt Nam khẳng định khu vực mà tàu Viking II đang hoạt động khi sự việc xảy ra lúc sáng qua nằm trong phạm vi 200 hải lý trên thềm lục địa Việt Nam, hoàn toàn thuộc quyền chủ quyền của Việt Nam.
Hành động của Trung Quốc là vi phạm quyền chủ quyền của Việt Nam. Việt Nam mạnh mẽ phản đối hành động của tàu Trung Quốc, yêu cầu chấm dứt ngay không để tái diễn các hành động tương tự và đòi phía Trung Quốc bồi thường thiệt hại gây ra.
Vụ việc hôm qua nằm trong một chuỗi các hành động vi phạm chủ quyền của Trung Quốc với Việt Nam. Sau sự việc ngày 26/5, khi tàu Trung Quốc cắt cáp khảo sát của tàu Bình Minh 02 của PetroVietnam, Bắc Kinh cũng có tuyên bố tương tự, chối bỏ hành động vi phạm chủ quyền của tàu hải giám của họ.
Thanh Mai

Tàu Trung Quốc lại cắt cáp tàu thăm dò dầu khí Việt Nam


(Dân trí) - 6h sáng 9/6, tàu Viking 2 của Việt Nam đang khảo sát, thăm dò trên vùng thềm lục địa biển Đông lại bị tàu đánh cá có sự hỗ trợ của tàu ngư chính Trung Quốc áp sát, cắt cáp.
Ngày 09/6/2011, tại cuộc họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao, Người Phát ngôn Bộ Ngoại giao Nguyễn Phương Nga đã  trả lời câu hỏi của phóng viên về việc ngày 09/6/2011 tại khu vực lô dầu khí 136/03, tàu khảo sát địa chấn Viking II do Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam thuê khi đang khảo sát địa chấn đã bị một số tàu cá của Trung Quốc, dưới sự yểm trợ của tàu ngư chính Trung Quốc, cản trở hoạt động. 
Bà Nga cho biết, vào lúc 6 giờ ngày 9/6/2011, trong khi tàu Viking II do Tập đoàn dầu khí Việt Nam thuê đang tiến hành thu nổ địa chấn 3D lô 136/03 (tọa độ 6 độ 47,5’ Bắc và 109 độ 17,5’ Đông) tại khu vực thềm lục địa của Việt Nam, thì tàu cá Trung Quốc mang số hiệu 62226 được sự yểm trợ của hai tàu ngư chính Trung Quốc số hiệu 311 và 303 đã chạy ngang qua mũi tàu Viking II sau đó đổi hướng và gia tăng tốc độ.
Mặc dù phía Việt Nam đã phát pháo hiệu cảnh báo nhưng tàu 62226 vẫn cố tình lao vào tuyến cáp khảo sát của tàu Viking II và bộ phận cắt cáp chuyên dụng của tàu 62226 đã mắc vào tuyến cáp của tàu Viking II, làm cho tàu Viking II không thể hoạt động bình thường. Tiếp đó, hai tàu ngư chính 311 và 303 cùng với nhiều tàu cá khác của Trung Quốc đã vào giải cứu cho tàu 62226.  
Khu vực hoạt động thu nổ địa chấn nói trên của tàu Viking II nằm trong thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam, hoàn toàn thuộc quyền chủ quyền của Việt Nam theo Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển 1982. Hành động nói trên của các tàu cá và tàu ngư chính Trung Quốc là hoàn toàn có chủ ý, được tính toán và chuẩn bị kỹ lưỡng, đã vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam, vi phạm Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển 1982 và Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), đi ngược lại nhận thức chung giữa Lãnh đạo cấp cao hai nước về việc duy trì hòa bình, ổn định tại Biển Đông, gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế đối với Tập đoàn dầu khí Việt Nam.
"Đáng chú ý là vụ việc nói trên xảy ra ngay sau vụ tàu Hải giám Trung Quốc cắt cáp tàu Bình Minh 02 tại lô 148 thuộc thềm lục địa của Việt Nam ngày 26/5 vừa qua, làm cho tình hình Biển Đông tiếp tục căng thẳng. Các hành động có tính hệ thống này của phía Trung Quốc là nhằm biến khu vực không có tranh chấp thành khu vực có tranh chấp, thực hiện mục tiêu biến yêu sách “đường chín đoạn” của Trung Quốc thành hiện thực. Đây là điều phía Việt Nam không thể chấp nhận.  
Phía Việt Nam phản đối mạnh mẽ việc làm nói trên của phía Trung Quốc; yêu cầu phía Trung Quốc xuất phát từ tầm cao chiến lược của quan hệ Việt – Trung, chấm dứt ngay và không để tái diễn mọi hành động vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, bồi thường thiệt hại đã gây ra cho Tập đoàn Dầu khí Việt Nam.", bà Nga nhấn mạnh.  
Chiều ngày 09/6/2011, Đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam đã gặp đại diện Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội để phản đối hành động này của phía Trung Quốc và nêu rõ lập trường của Việt Nam. 

Trao đổi với Phóng viên báo Năng lượng Mới, ông Nguyễn Hùng Dũng, Tổng Giám đốc Tổng Công ty CP Dịch vụ kỹ thuật Dầu khí (PTSC) cho biết: “ Ngay từ khi vụ tàu Bình Minh 02 bị tàu Hải giám Trung Quốc cắt cáp, lãnh đạo Tập đoàn và lãnh đạo Tổng công ty đã chỉ đạo cho cán bộ, công nhân viên đang làm công tác thăm dò, khảo sát trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam phải hết sức bình tĩnh, không được manh động. Việc tàu đánh cá Trung Quốc xâm phạm vào sâu trong lãnh hải của Việt Nam và xông thẳng vào vị trí tàu Viking II đang hoạt động mặc dù tàu bảo vệ và tàu Viking II đã có cảnh báo bằng pháo hiệu, gọi loa, kéo còi báo động nhưng họ vẫn bất chấp, điều đó cho thấy rằng đây không phải là tàu đánh cá bình thường mà họ hoạt động phá hoại theo những âm mưu, bài bản đã được tính toán.
Cán bộ và công nhân viên trên các tàu của PTSC vẫn quyết tâm bám biển, sẵn sàng đối phó với những âm mưu phá hoại của Trung Quốc.”
Theo Như Phong

Năng lượng Mới

TTXVN

Chiến lược 'đàm phán' và 'đe dọa vũ lực' của Trung Quốc


"Nếu các nước ASEAN không thống nhất quan điểm, Trung Quốc sẽ có nhiều lợi thế để thực hiện chiến lược của mình, phân hóa ASEAN, tiến tới giành quyền kiểm soát thật sự trên Biển Đông", Tiến sĩ Nguyễn Toàn Thắng phân tích.
Tiến sĩ Nguyễn Toàn Thắng, Khoa Pháp luật quốc tế - ĐH Luật Hà Nội, từng bảo vệ thành công luận án tiến sĩ về Luật Biển tại Bỉ. Tòa soạn trích đăng bài viết của ông gửi đến VnExpress nhân sự kiện tàu Bình Minh 02.
Đánh giá mục đích chiến lược của Trung Quốc
Về phương diện pháp lý quốc tế, Trung Quốc không thể biện minh cho hành vi vi phạm luật quốc tế của ba tàu hải giám Trung Quốc. Vậy mà Trung Quốc vẫn "ngang nhiên" cho rằng những tàu đó đang thực hiện "hoạt động chấp pháp bình thường" trên biển. Kết nối sự kiện tàu Bình Minh 02 với các hoạt động của Trung Quốc trên Biển Đông trong thời gian qua, có thể thấy rõ cách hành xử và ý định của Trung Quốc.
Thử thái độ Việt Nam và các nước ASEAN: Với hành động trực tiếp xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, Trung Quốc đã tiến thêm một bước mới trong "phép thử" Việt Nam và ASEAN để dần "hiện thực hóa" tham vọng tại Biển Đông, nhằm khẳng định cái mà Trung Quốc gọi là "chủ quyền" của họ. Mức độ phản ứng của Việt Nam và ASEAN trong trường hợp này sẽ là cơ sở để Trung Quốc xem xét các bước đi tiếp theo. Nếu Việt Nam phản ứng không dứt khoát, không kiên quyết bảo vệ quyền chủ quyền và quyền tài phán của mình; nếu ASEAN giữ quan điểm "không can thiệp" và nếu các quốc gia Đông Nam Á chỉ đứng ngoài "quan sát", Trung Quốc sẽ tiếp tục có những hành động tương tự trong thời gian tới. Với lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015, ASEAN cần chứng tỏ vai trò của một tổ chức quốc tế khu vực, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các quốc gia thành viên.
Mục tiêu hiện thực hóa "đường lưỡi bò", tiến tới bá chủ trên Biển Đông: Trong thời gian qua, Trung Quốc thường thực hiện các hành vi "gây hấn" tại những vùng biển tranh chấp. Đây là lần đầu tiên Trung Quốc công khai phá hoại, cản trở hoạt động thăm dò khai thác dầu khí bình thường của Việt Nam tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam, đồng thời "ngang nhiên" tuyên bố đó là "khu vực tranh chấp", "khu vực thuộc quyền quản lý" của Trung Quốc. Hành động trên cho thấy Trung Quốc đang cố tình đánh lạc hướng dư luận, khiến cộng đồng quốc tế hiểu lầm Việt Nam và tình hình trên Biển Đông. Đây là bước leo thang mới của Trung Quốc, thể hiện rõ tham vọng kiểm soát toàn bộ vùng biển này mà trước hết là mục tiêu của Trung Quốc trong việc: biến việc tàu hải giám Trung Quốc thực hiện hành vi vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam thành việc tàu thăm dò Việt Nam xâm phạm vùng biển của Trung Quốc; biến các vùng biển thuộc quyền chủ quyền của Việt Nam, thiết lập phù hợp với quy định của Công ước Luật biển năm 1982, thành "vùng biển thuộc quyền quản lý" của Trung Quốc – một khái niệm chưa từng tồn tại và không được ghi nhận trong Công ước Luật biển năm 1982; biến khu vực không có tranh chấp, hoàn toàn thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, thành khu vực tranh chấp. Trung Quốc đang cố gắng tạo ra tiền lệ về tranh chấp trên một khu vực vốn không hề có tranh chấp, tiến tới "tranh chấp hóa" toàn bộ Biển Đông. Đây là chiến lược củng cố và hiện thực hóa yêu sách "đường lưỡi bò" mà Trung Quốc đã chính thức tuyên bố năm 2009. Vì vậy, Việt Nam và các nước ASEAN cần có thái độ cương quyết trước "phép thử" của Trung Quốc.
Chiến lược "đàm phán" và "đe dọa sử dụng vũ lực" của Trung Quốc: Hành động của Trung Quốc trong vụ Bình Minh 02 là tương đối nhất quán với cách ứng xử của quốc gia này trong thời gian gần đây. Một mặt, Trung Quốc thể hiện ý định giải quyết thông qua đàm phán song phương, không muốn mở rộng vấn đề theo cách mà Trung Quốc gọi là "gây không khí căng thẳng", mặt khác Trung Quốc tiến hành các biện pháp "gây hấn" trên thực địa, ra dấu hiệu mạnh mẽ về quân sự để khẳng định vai trò của mình. Chiến lược này được Trung Quốc áp dụng không chỉ đối với Việt Nam mà đối với các quốc gia ASEAN khác. Vì vậy, nếu các nước ASEAN không thống nhất quan điểm, Trung Quốc sẽ có nhiều lợi thế để thực hiện mục tiêu của mình, phân hóa các nước ASEAN, tiến tới giành quyền kiểm soát thật sự trên Biển Đông.
Các giải pháp cho Việt Nam
Là thành viên của Hiến chương Liên hợp quốc, Công ước Luật biển năm 1982 cũng như Tuyên bố về ứng xử của các bên tại biển Đông (DOC), Việt Nam luôn tuân thủ các quy định của luật quốc tế, kiên trì con đường hòa bình, giải quyết các vấn đề phát sinh trên cơ sở bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau. Đối với các tranh chấp trong Biển Đông, Việt Nam luôn giải quyết bằng biện pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực và không có hành động làm phức tạp thêm tình hình.
Tuy nhiên, tại các vùng biển không phải là khu vực tranh chấp, hoàn toàn thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển, Việt Nam có quyền áp dụng các biện pháp cần thiết, phù hợp với quy định của Công ước Luật biển năm 1982 để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, buộc các chủ thể vi phạm phải tuân thủ và tôn trọng. Điều 73 của Công ước quy định "Trong việc thực hiện các quyền thuộc chủ quyền (…) của vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển có thể thi hành mọi biện pháp cần thiết, kể cả việc khám xét, kiểm tra, bắt giữ và khởi tố tư pháp để bảo đảm việc tôn trọng các luật và quy định mà mình đã ban hành theo đúng Công ước".
Trước tham vọng kiểm soát Biển Đông, hiện thực hóa "đường lưỡi bò" của Trung Quốc, Việt Nam cần có những biện pháp thích đáng ở các cấp độ khác nhau: song phương, khu vực và toàn cầu. Một măt, chúng ta kiên trì theo đuổi các biện pháp hòa bình, phù hợp với quy định của luật quốc tế, đặc biệt là Công ước Luật biển năm 1982, nhưng kiên quyết, không khoan nhượng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp đã được Công ước thừa nhận.
Mặt khác, Việt Nam cần sử dụng hiệu quả cơ chế khu vực, thông qua vai trò của ASEAN để giải quyết vấn đề Biển Đông. Với tư cách là tổ chức quốc tế khu vực Đông Nam Á, ASEAN cần có tiếng nói, thể hiện rõ quan điểm đối với hành vi vi phạm luật quốc tế của Trung Quốc, xâm phạm đến quyền chủ quyền và quyền tài phán của một quốc gia thành viên ASEAN – Việt Nam. Trên thực tế, Trung Quốc đã, đang và sẽ áp dụng chính sách vừa "xoa dịu", vừa "đe dọa" đối với từng quốc gia thành viên ASEAN để thực hiện tham vọng tại Biển Đông. Vì vậy, sự đồng thuận của 10 quốc gia ASEAN trong thời điểm này là hết sức cần thiết, và đó sẽ là một điểm tựa vững chắc để đối phó với chính sách ngày càng leo thang của Trung Quốc. Bên cạnh đó, Việt Nam cần tranh thủ sự ủng hộ của các nước tại các diễn đàn đa phương, đặc biệt là Liên hợp quốc để cộng đồng quốc tế hiểu đúng về tình hình Biển Đông, hiểu đúng chiến lược "tranh chấp hóa" Biển Đông của Trung Quốc, cũng như hành vi vi phạm của Trung Quốc tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam.
Dưới góc độ luật quốc tế, Việt Nam và Trung Quốc có thể thỏa thuận đưa vụ việc ra giải quyết tại cơ quan tài phán quốc tế. Trong trường hợp không có thỏa thuận của Trung Quốc, Việt Nam có quyền khởi kiện theo cơ chế của Công ước Luật biển năm 1982, buộc quốc gia này bồi thường thiệt hại cho phía Việt Nam.
Trong vụ Bình Minh 02, tàu hải giám Trung Quốc thực hiện hành vi cắt cáp, cản trở hoạt động thăm dò khai thác dầu khí của tàu Bình Minh 02 tại vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam. Đối với Việt Nam, hành động của Trung Quốc là vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam, phù hợp với quy định tại các điều 56, 58, 76 và 77 của Công ước Luật biển năm 1982. Trong khi đó, Trung Quốc cho rằng "việc phía Việt Nam tiến hành hoạt động thăm dò dầu khí tại vùng biển do Trung Quốc quản lý đã làm tổn hại lợi ích và quyền quản lý của Trung Quốc". Hành động của phía Trung Quốc là "hoạt động giám sát và chấp pháp trên biển" trong vùng biển thuộc quyền tài phán của Trung Quốc. Như vậy, tranh chấp phát sinh giữa Việt Nam và Trung Quốc liên quan đến việc giải thích và áp dụng các điều 56, 58, 76 và 77 của Công ước về việc thực hiện quyền chủ quyền của quốc gia ven biển đối với hoạt động thăm dò khai thác nguồn tài nguyên dầu khí ở đáy biển và lòng đất dưới đáy bên dưới vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Tranh chấp này không liên quan đến các tranh chấp được đề cập trong tuyên bố ngày 25/8/2006 của Trung Quốc, cụ thể (i) không liên quan đến vấn đề phân định biển; (ii) không liên quan đến hoạt động quân sự; (iii) không liên quan đến hoạt động nghiên cứu khoa học biển; (iv) không liên quan đến hoạt động đánh bắt hải sản và (v) không thuộc thẩm quyền của Hội đồng bảo an. Việt Nam và Trung Quốc đều không có tuyên bố lựa chọn các cơ quan tài phán nên sẽ được xác định là chấp nhận thẩm quyền của Tòa án trọng tài thành lập theo Phụ lục VII của Công ước. Vì vậy, Việt Nam có thể chuẩn bị hồ sơ, khởi kiện Trung Quốc theo thủ tục trọng tài nói trên.
Tóm lại, việc Trung Quốc cho tàu hải giám căt cáp thăm dò, cản trở hoạt động của tàu Bình Minh 02 khi tàu này đang hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam là hành vi vi phạm nghiêm trọng Công ước Luật biển năm 1982. Tuy nhiên, đây có thể chỉ là bước "khởi đầu" của chiến lược hiện thực hóa "đường lưỡi bò" của Trung Quốc. Trước nguy cơ này, Việt Nam cần thể hiện thái độ kiên quyết, giải quyết mọi xung đột, mâu thuẫn bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau và tuân thủ luật pháp quốc tế, nhưng đấu tranh không khoan nhượng, thực hiện mọi biện pháp cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích quốc gia, mà cụ thể đã được ghi nhận trong Công ước Luật biển năm 1982.
Tiến sĩ Nguyễn Toàn Thắng

Việt Nam đưa vụ tàu bị cắt cáp ra diễn đàn an ninh châu Á


Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh hôm qua nhắc đến việc tàu Bình Minh 02 khi đang thăm dò tại khu vực đặc quyền kinh tế của Việt Nam bị cắt cáp, trong bài phát biểu tại diễn đàn an ninh ở Singapore. 
Đại tướng Phùng Quang Thanh cho rằng vụ việc tàu thăm dò địa chấn của Việt Nam bị cắt cáp hôm 26/5 gây ra lo ngại về việc duy trì hòa bình và ổn định ở Biển Đông, trong khu vực cũng như toàn thế giới.
Phát biểu của tướng Phùng Quang Thanh được đưa ra trong phiên thảo luận toàn thể "Các nguy cơ mới về an ninh biển" tại Đối thoại Shangri-La.
"Như chúng ta thấy trên Biển Đông, các vụ va chạm đã xảy ra nhiều lần, khiến các quốc gia ven biển thêm lo ngại", bài phát biểu của tướng Thanh có đoạn.
"Vụ việc mới đây nhất diễn ra hôm 26/5, khi Bình Minh 02 - một tàu khảo sát của Việt Nam - đang tiến hành các hoạt động thăm dò dầu khí bình thường trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam thì bị cản trở bởi cáp của tàu bị cắt".
Tướng Thanh khẳng định, Việt Nam đã kiên nhẫn xử lý tình huống này bằng giải pháp hòa bình, theo đúng luật pháp quốc tế và nguyên tắc kiên quyết bảo vệ chủ quyền quốc gia trong khi vẫn giữ gìn hòa bình và ổn định ở Biển Đông cũng như duy trì quan hệ thân thiện với các nước láng giềng.
"Chúng tôi hy vọng sự việc tương tự như vậy không tái diễn", ông nói thêm.
Đại tướng Phùng Quang Thanh kêu gọi các bên củng cố cơ sở pháp lý cho các hoạt động trên biển. Ông cũng đề nghị các bên tuân thủ triệt để Công ước về luật biển 1982 của Liên Hợp Quốc.
Ông kêu gọi các bên liên quan trong các tranh chấp trên Biển Đông tuân thủ các cam kết đã đề ra, và sớm đưa ra bản quy tắc nhằm duy trì hòa bình và ổn định trên Biển Đông.
"Các bên cần thực thi nghiêm túc Tuyên bố về ứng xử giữa các bên ở Biển Đông (DOC) và nỗ lực hoàn thành một bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC) giữa ASEAN và Trung Quốc", ông nói.
Nói về phương thức giải quyết các tranh chấp, tướng Thanh nhấn mạnh sự cần thiết có các cơ chế linh hoạt: "Chúng ta cần đẩy mạnh hợp tác thông qua các kênh cả song phương và đa phương, nhằm đảm bảo sự tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau".
Trước đó, vào chiều qua, đại tướng Phùng Quang Thanh đã gặp gỡ với người đồng nhiệm Trung Quốc Lương Quang Liệt bên lề hội nghị Shangri-La. Tướng Thanh đã đề cập việc tàu Trung Quốc cắt cáp của tàu khảo sát Việt Nam trong phạm vi thềm lục địa Việt Nam. Tướng Thanh cho biết việc làm đó là vi phạm, gây bức xúc cho nhân dân và nhà nước Việt Nam; yêu cầu các bên kiềm chế không để tái diễn vi phạm.
Sáng 26/5, ba tàu hải giám của Trung Quốc bất ngờ xuất hiện và tấn công tàu thăm dò địa chấn Bình Minh 02 đang làm việc trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam. Các tàu hải giám Trung Quốc đã chạy thẳng vào khu vực khảo sát của tàu Bình Minh 02 mà không hề có cảnh báo và cắt cáp thăm dò của tàu Bình Minh 02.
Sự việc này cùng những lời phản đối của Philippines đối với Trung Quốc, do Manila cho rằng các tàu của Trung Quốc vi phạm vùng nước mà Manila tuyên bố chủ quyền trên biển Đông - khiến khu vực này trở thành tâm điểm chú ý ở Đông Nam Á và trên diễn đàn của hội nghị an ninh Shangri-La.
Xây dựng lòng tin
Trong khi đó, bài phát biểu của Bộ trưởng Quốc phòng Philippines Voltaire Gazmin nhắc tới những thách thức từ các quốc gia và thực thể phi quốc gia. Trong bối cảnh đó, quân đội cần phát triển tiềm lực để đối phó với những thách thức này.
"Các lực lượng vũ trang nên hợp tác với nhau để đối phó một cách hữu hiệu với các thách thức về an ninh trên biển. Mối quan hệ chặt chẽ giữa các lực lượng vũ trang sẽ đảm bảo môi trường biển ổn định và hòa bình của chúng ta không bị ảnh hưởng", ông Gazmin nói đồng thời nhấn mạnh hợp tác quốc tế là một phần không thể thiếu trong các nỗ lực của Philippines.
Cũng trong phiên thảo luận nói trên, Bộ trưởng Quốc phòng Malayssia Ahmad Zahid Hamidi đề cao tầm quan trọng của Biển Đông, xét về khai thác tài nguyên và hàng hải, và yêu cầu giải quyết một cách hòa bình các tranh chấp.
Bộ trưởng Ahmad bình luận rằng trong những năm qua, DOC đã đóng góp phần quan trọng trong việc giảm căng thẳng, giúp duy trì ổn định trên Biển Đông. Tuy nhiên, ông nói đó chỉ là một "công cụ mang tính tạm thời" trong khi các bên liên quan hướng tới việc đề ra một "giải pháp hòa bình và lâu dài" cho vấn đề tranh chấp.
Để giải quyết tranh chấp Biển Đông, Malaysia đề nghị các bên xác định rõ và thực hiện các biện pháp xây dựng lòng tin một cách thiết thực nhằm loại trừ căng thẳng và tránh chạy đua vũ trang trong khu vực.
"Xây dựng lòng tin là bước đi quan trọng đầu tiên trên con đường nghìn dặm nhằm bảo đảm an ninh biển cho khu vực này", Ahmad nói. "Phát triển kinh tế xã hội cần được chú trọng hơn là phát triển vũ trang, đặc biệt là trong một khu vực như của chúng ta".
Thanh Mai - Hải Ninh

'Việt Nam sẽ làm tất cả để bảo vệ chủ quyền'


"Việt Nam yêu chuộng hòa bình, nhưng khi đứng trước nguy cơ mất chủ quyền thì nhân dân Việt Nam sẽ làm tất cả để bảo vệ nó", Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh trả lời VnExpress tối 5/6, ngay khi trở về từ Hội nghị An ninh châu Á.
- Trong phát biểu chính thức tại Hội nghị An ninh châu Á vừa qua, Bộ trưởng Phùng Quang Thanh đã đề cập đến vụ Bình Minh 02 như là một ví dụ cho thấy những phức tạp mới nảy sinh trên biển Đông. Ông có thể nói rõ hơn về điều này?
- Hội nghị An ninh Châu Á lần này có sự tham dự của một Tổng thống, 2 Thủ tướng, 28 Bộ trưởng Quốc phòng và gần 2.000 quan chức quốc phòng, học giả… Tại diễn đàn, Đại tướng Phùng Quang Thanh đã có bài phát biểu ở phiên thứ 5 về “Đối phó thách thức an ninh mới trên biển”. Dư luận đánh giá đây là bài phát biểu tốt, ở tầm cao chiến lược và đóng góp tích cực vào quá trình phát triển, ổn định của khu vực.
Vụ tàu Bình Minh 02 đã được đưa vào phát biểu chính thức tại Hội nghị. Bên cạnh đó, Bộ trưởng Phùng Quang Thanh cũng trả lời câu hỏi của nhiều đại biểu, khẳng định sự sai trái của Trung Quốc trong sự việc này. Việc tàu hải giám của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền vào sâu tới hơn 80 hải lý trong vùng đặc quyền kinh tế là điều không chấp nhận được trong bất cứ văn bản luật pháp nào. Đồng thời, Bộ trưởng Phùng Quang Thanh nhắc lại chủ trương Việt Nam trên biển Đông là kiên trì giải quyết bằng biện pháp hòa bình, dựa trên luật pháp quốc tế và công khai minh bạch để cộng đồng thế giới phân biệt đúng sai.
- Đáp lại phản ứng của người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, phía Trung Quốc cho rằng, đây là hoạt động chấp pháp bình thường và quân đội Trung Quốc không hề tham gia. Ông bình luận gì về phản ứng này?
- Tôi muốn khẳng định, vụ tàu hải giám Trung Quốc vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý, hoàn toàn thuộc chủ quyền của Việt Nam là hành động xâm phạm trắng trợn. Đó là vụ hành xử bằng bạo lực, hành động bạo lực khoác áo dân sự. Hành động này của phía Trung Quốc chứng tỏ một điều chính người gây hấn cũng không có cơ sở pháp lý để giải quyết mà phải sử dụng đến bạo lực để phá hoại một hoạt động lao động hoà bình trên vùng biển chủ quyền của Việt Nam.
Sự việc này lại diễn ra sau một loạt hoạt động ngoại giao quan trọng của Trung Quốc, ngay trước thềm Hội nghị An ninh châu Á. Vì thế, đây còn là sự thách thức dư luận quốc tế. Cộng đồng quốc tế phải có trách nhiệm bảo vệ chân lý, bảo vệ luật pháp quốc tế, không cho ai xé rào khỏi luật pháp.
- Thưa ông, những đối thoại và phát biểu chính thức tại Shangri La của các nước không thấy đề cập đến vụ việc tàu Bình Minh 02. Tại sao các nước ASEAN chưa nhìn nhận đây là vấn đề khu vực, chứ không chỉ là vấn đề Trung Quốc - Việt Nam?
- Đối với Việt Nam, hành động gây hấn vừa rồi của Trung Quốc là xâm phạm chủ quyền. Nhưng đối với quốc tế thì cần phải hiểu hành động này là phép thử để Trung Quốc biến cái gọi “đường 9 khúc” thành hiện thực. Và nếu các nước làm ngơ thì lợi ích của họ cũng sẽ bị xâm phạm. Nếu không làm cho phía Trung Quốc chấm dứt ý định đó, thì có thể những sự việc tương tự sẽ tiếp tục xảy ra. Vấn đề sẽ là sự việc xảy ra ở đâu, vào lúc nào, với ai, ở mức độ nào thôi.
Theo nhìn nhận của tôi, có lẽ đến thời điểm diễn ra Hội nghị, sự việc còn quá mới, các đại biểu chưa nắm đầy đủ thông tin, chưa hiểu rõ mức độ nghiêm trọng của vấn đề. Tôi tin rằng, sau những thông điệp của phía Việt Nam, các nước nhất là trong khối ASEAN sẽ nhìn nhận vấn đề này đúng bản chất hơn: Khả năng xuất hiện một nguy cơ Trung Quốc đang đặt ra khuôn phép mới, cách hành xử mới với các nước trong khu vực để hiện thực hoá cái gọi là “yêu sách về đường 9 khúc”. Hôm nay là Việt Nam thì ngày mai sẽ là nước khác. Tôi cho rằng, các nước trong khu vực phải xem xét lại đúng hay sai với tư cách là đối tượng trong tương lai.
- Trong bối cảnh các nước còn đang phân tán trong đánh giá, với tư cách là tướng quân đội, Việt Nam sẽ làm gì để sự việc Bình Minh 02 không tái diễn, thưa ông?
- Chúng ta sẽ áp dụng mọi biện pháp để duy trì sự ổn định và giữ chủ quyền, trong đó biện pháp nhất quán, cơ bản, lâu dài là giải quyết trong hoà bình. Chiến tranh là điều không ai muốn, tuy nhiên khi sự việc leo thang thì chúng ta cũng sẽ hành động chứ không thể ngồi im.
Hôm qua, tàu Bình Minh 02 tiếp tục ra khơi làm nhiệm vụ và việc chúng ta tăng cường đến 8 tàu bảo vệ cũng là một hành động cụ thể để ngăn chặn những hành vi xâm phạm khu đặc quyền kinh tế. Quân đội không trực tiếp tham gia. Tuy nhiên, quân đội sẽ theo dõi sát sao để tránh xảy ra xung đột. Nếu đến mức xảy ra xung đột vũ trang thì nhất quyết quân đội tham gia để bảo vệ chủ quyền đất nước.
Chúng ta không nói suông, không thụ động ngồi im, nhưng cũng không bảo vệ chủ quyền một cách thiếu khôn ngoan mà phải dựa vào sức mạnh thời đại, đó là niềm tin, sự ủng hộ vào chân lý và khát vọng hoà bình của tất cả các nước, tất cả các dân tộc trong thế giới ngày nay. Ngay cả nhân dân Trung Quốc cũng vậy, họ rất yêu chuộng hoà bình và cũng mong muốn một hình ảnh tốt đẹp cho đất nước mình. Chúng ta sẽ sử dụng đúng luật pháp quốc tế và bảo vệ bằng được chủ quyền lãnh thổ, tài sản quốc gia. Với những cố gắng của chúng ta trong tuyên truyền, đấu tranh ngoại giao, đối thoại với Trung Quốc và tăng sức mạnh bảo vệ thì tôi tin sẽ không tái diễn sự kiện 26/5 lần nữa.
- Theo báo chí Trung Quốc, Hà Nội tự tin hơn sau phát biểu của Ngoại trưởng Hillary Clinton năm ngoái là Mỹ có lợi ích lâu dài tại biển Đông. Phát biểu của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ tại hội nghị Shangri La cũng tiếp tục khẳng định Mỹ không buông biển Đông. Theo ông, trong bối cảnh này, Việt Nam có lợi ích gì trong chiến lược này của Mỹ?
- Tôi có thể tự tin nói rằng, Việt Nam đủ khả năng để bảo vệ chủ quyền mà không dựa vào sức mạnh của một bên thứ ba. Chủ quyền là thiêng liêng không được phép đánh đổi. Chúng ta không để các nước lớn thỏa hiệp trên lưng mình.
- Ở bên cạnh một nước "thường có khoảng cách giữa hành động với tuyên bố" như Trung Quốc, điều e ngại nhất của ông là gì?
- Tại Đối thoại Shangri La 10 vừa qua, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc Lương Quang Liệt đã có bài phát biểu rất hay, có tính xây dựng cao và được chuẩn bị kỹ lưỡng. Bộ trưởng Phùng Quang Thanh đã đánh giá cao về nội dung bài phát biểu này. Tuy nhiên ngay trong Hội nghị, một số đại biểu đã bày tỏ sự băn khoăn về khoảng cách giữa lời nói và việc làm trên thực tế của Trung Quốc, đặc biệt là đặt nó bên cạnh một số vụ việc vừa qua. Chúng ta hy vọng, chờ đợi và ủng hộ những hành động sắp tới đây của Trung Quốc sẽ phù hợp với những tuyên bố tốt đẹp của Bộ trưởng Lương Quang Liệt.
Còn về sức mạnh của Trung Quốc - rõ ràng họ là một nước lớn, vừa qua đã đạt được những bước phát triển to lớn, toàn diện, trong đó có lĩnh vực quân sự. Chúng ta tôn trọng và ủng hộ sự phát triển ấy nếu nó đem lại sự phát triển hoà bình ổn định trong khu vực, củng cố tình hữu nghị đoàn kết giữa các nước. Còn trong trường hợp một thế lực nào sử dụng sức mạnh vi phạm các quy định của luật pháp quốc tế, xâm phạm chủ quyền lãnh thổ thì chúng ta không thể khoanh tay, im lặng. Chúng ta kiên trì bằng biện pháp hòa bình, công khai minh bạch để dư luận nhân dân thế giới, trong đó có cả người dân Trung Quốc hiểu được Việt Nam là nước yêu chuộng hòa bình. Nhưng khi đứng trước nguy cơ mất chủ quyền thì nhân dân Việt Nam sẽ làm tất cả để bảo vệ nó. Đó là điều bất biến.
Năm 1945, khi các nước lớn ngồi phân chia lại thế giới sau Thế chiến thứ hai, hồi đó Mỹ cho rằng, đối thủ đáng gờm trong tương lai của Mỹ sẽ là Liên Xô và Trung Quốc. Nhưng có nhà tiên tri nào biết được rằng, hơn 30 năm sau, Mỹ đã thất bại trong cuộc chiến tranh với một nước nhỏ, lạc hậu và khi đó còn chưa có tên trên bản đồ thế giới? Việt Nam thắng Mỹ, một lý do vô cùng quan trọng là nhờ nhân dân Mỹ đã đứng lên phản đối cuộc chiến tranh xâm lược, phi nghĩa đó.
Sức mạnh của chúng ta là chính nghĩa, là tinh thần yêu chuộng hoà bình của nhân dân thế giới, và lòng yêu nước, quyết tâm bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta.
Phạm Hiếu - Nguyễn Hưng