Cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy không phải để đấu đá, thanh trừng!

 

Tháng Một 25, 2025

Huyền Như

Trong hai tháng vừa qua, cuộc cách mạng tinh gọn tổ chức bộ máy tiếp tục tạo “ sức nóng” mạnh mẽ, lan tỏa sâu rộng trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương và toàn xã hội. Thế nhưng, các lực lượng chống phá Việt Nam lại công kích, xuyên tạc rằng, Đảng tiến hành cuộc cách mạng này là nhằm “ đấu đá nội bộ”, là “ thanh trừng lẫn nhau”…Vậy thực hư của chuyện này như thế nào?

Trước hết, chúng ta thấy những sự kiện lớn của đất nước rất được đông đảo nhân dân quan tâm, nhất là vào dịp các hội nghị Trung ương họp hoặc các kỳ họp của Quốc hội để bàn và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Trong hai tháng vừa qua có những thông điệp của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, nhất là các ý kiến chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm được cán bộ, nhân dân cả nước dành sự quan tâm sâu sắc, vì liên quan đến vận mệnh của dân tộc, đến sự phát triển của đất nước và liên quan đến cuộc sống của chính mỗi người dân. Ví dụ, Tổng Bí thư Tô Lâm đã xác định “ Thời điểm Đại hội XIV của Đảng là bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc phát triển giàu đẹp và thịnh vượng”. Như vậy, kỷ nguyên mới này tiếp bước hai kỷ nguyên trước là: Kỷ nguyên giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước ( 1930 – 1975) và Kỷ nguyên đổi mới của đất nước ( 1986 – 2026)

Như vậy, để chuẩn bị cho việc bước vào kỷ nguyên mới thì Đảng xác định việc đầu tiên phải làm là tiến hành cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy của cả hệ thống chính trị từ Trung ương xuống địa phương. Từ những thông điệp của Lãnh đạo Đảng, Nhà nước trong thời gian gần đây, có thể nhận thấy những vấn đề cốt lõi, cấp bách cần thực hiện quyết liệt để sớm đạt được các mục tiêu phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng, đứng vào các quốc gia phát triển có thu nhập cao vào năm 2045. Chúng ta xác định mục tiêu đó trên bối cảnh các năm qua Việt Nam đạt mức tăng trưởng khá cao, ngay cả trong thòi điểm tăng trưởng trên thế giới có mức chậm lại do ảnh hưởng của đại dịch covid-19. Năm 2025, Việt Nam năm 2024 tăng trưởng cao nhất trong khu vực đạt 7,09% và Ban Chấp hành Trung ương Đảng hôm nay bế mạc thông qua Nghị quyết tăng trưởng năm 2025 tăng trưởng đạt trên 8% để làm nền tảng phấn đấu đạt hai con số những năm tới.

Có thể nói, hơn hai tháng qua với phương châm “ nói đi đôi với làm” và nỗ lực một cách hiệu quả, việc tiến hành sắp xếp tinh gọn bộ máy đã bước đầu đạt mục tiêu đề ra. Các cơ quan Trung ương Đảng, các bộ, ngành nhà nước đã gương mẫu đi tiên phong và các tỉnh, thành đã hưởng ứng dã tiến hành đồng bộ. Thường trực Ban Chỉ đạo tổng kết Nghị quyết số 18 đã báo cáo Bộ Chính trị và Bộ Chính trị đã trình Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII họp trong hai ngày 23 và 24 tháng 1 năm 2025. Phát biểu bế mạc Hội nghị, Tổng Bí thư Tô Lâm đã biểu dương các cấp, các ngành nhưng cũng nói rõ kết quả tinh gọn tổ chức bộ máy mới chỉ là bước đầu, mà còn phải tiếp tục tiến hành để đạt kết quả cao hơn nữa. Điều đó cũng phù hợp với phát biểu một cách hình ảnh của Tổng Bí thư là: “ Phải nhẹ mới bay cao được”!

Qua đó, chúng ta thấy các luận điệu xuyên tạc cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy của Đảng và Nhà nước ta là “ Đấu đá nội bộ”, là “ thanh trừng lẫn nhau”…chỉ là những thủ đoạn nói xấu, nhằm chia rẽ nội bộ, gây mất đoàn kết giữa Đảng với nhân dân mà bấy nay họ vẫn ráo riết tiến hành. Song, chúng ta tin tưởng rằng với truyền thống 95 năm lãnh đạo của Đảng, bằng đường lối đúng đắn, sáng tạo nhất định Đảng sẽ lãnh đạo đất nước bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của dân tộc phát triển giàu mạnh, văn minh và thịnh vượng thành công!

“Giá” và tự do Internet ở Việt Nam

 

Tháng Một 26, 2025

Minh Anh

Việt Nam đã phát triển một cách khá toàn diện với những thành tích về Internet rất ấn tượng. Tuy nhiên, vẫn có cá nhân, tổ chức thiếu thiện chí từ bên ngoài, những đối tượng phản động, cơ hội chính trị đưa ra những đánh giá phiến diện, bóp méo thành tựu của Việt Nam trong bảo đảm quyền con người, quyền tự do ngôn luận và xếp Việt Nam nằm trong danh sách các quốc gia không có tự do Internet. Điều này là bôi nhọ hình ảnh, uy tín đất nước, bởi Việt Nam là một trong những nước đi đầu ở khu vực và thế giới về kết nối và phát triển Internet.

Truy cập Internet đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu trên toàn cầu. Mạng Internet đã được phủ sóng hầu khắp mọi nơi trên thế giới, thậm chí cả trên vũ trụ. Tuy nhiên, mức giá cước của dịch vụ Internet hiện rất khác nhau tại các quốc gia, khiến nhiều người ở nhiều nơi vẫn chưa có cơ hội tiếp cận và sử dụng mạng Internet vì chi phí quá đắt đỏ.

Theo báo cáo nghiên cứu của Visual Capitalist – Tổ chức quốc tế chuyên cung cấp các nội dung trực quan dựa trên dữ liệu – có trụ sở tại thành phố Vancouver, Canada thì Ấn Độ và Israel có giá rẻ nhất ở mức 0,09 USD và 0,02 USD (tương đương khoảng dưới 2.000 VNĐ) cho một GB dữ liệu di động. Ở chiều hướng ngược lại, các quốc gia châu Phi với cơ sở hạ tầng viễn thông còn hạn chế, thiếu tính cạnh tranh giữa các nhà cung cấp dịch vụ và mức thu nhập bình quân thấp cũng khiến giá cước Internet tại châu Phi cao nhất thế giới. Người dùng tại Malawi sẽ phải tốn trung bình 27.41 USD (tương đương 688.000 VNĐ) để sử dụng một GB dữ liệu mạng di động, cao nhất thế giới. Ở Mỹ – Quốc gia phát triển hàng đầu thế giới có giá cước là 6.0 USD (khoảng 144 VNĐ) cho mỗi GB dữ liệu di động. Đáng chú ý, Việt Nam xếp thứ 9 trong nhóm quốc gia về giá cước Internet rẻ nhất. Trung bình người dùng tại Việt Nam chỉ phải chi ra 0,28 USD (tương đương 6.700 VNĐ) cho một GB dữ liệu di động. Wifi miễn phí có ở khắp mọi nơi trên đất nước Việt Nam.

Thực tế cho thấy, toàn bộ cơ sở hạ tầng viễn thông, Internet ở Việt Nam đều do Nhà nước, trực tiếp là các doanh nghiệp nhà nước đầu tư xây dựng để phục vụ quốc kế dân sinh, phát triển kinh tế – xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Bên cạnh đó, mọi người dân Việt Nam đều có thể tự do chia sẻ, bày tỏ thông tin, quan điểm cá nhân thông qua Internet, nhất là qua các nền tảng mạng xã hội. Người dùng Việt Nam dành trung bình tới gần 7 giờ mỗi ngày để tham gia các hoạt động liên quan tới Internet và tỉ lệ người dùng Internet ở Việt Nam sử dụng Internet hàng ngày lên tới 94%. Từ con số 0 trong những năm đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, Việt Nam đã trở thành một trong những nước triển khai mạng 2G từ rất sớm và tiếp tục phát triển lên 3G và 4G với hạ tầng viễn thông, Internet hiện đại phủ rộng khắp lãnh thổ từ thành thị đến nông thôn, miền núi, hải đảo. Internet được ứng dụng vào mọi lĩnh vực của đời sống, từ giáo dục, y tế, giao thông… tới cả xây dựng chính phủ điện tử, chính phủ số và phát triển kinh tế số ở Việt Nam. Không dừng lại ở đó, ngày 15/10/2024, tại Hà Nội, Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông Quân đội (Viettel) tuyên bố chính thức khai trương mạng 5G cùng với hơn 6.500 trạm BTS, phủ sóng 100% “thủ phủ” của 63/63 tỉnh, thành phố, các khu công nghiệp, khu du lịch, cảng biển, sân bay, bệnh viện, trường đại học. Với việc hoàn thành nghiên cứu, thử nghiệm và đưa vào phủ sóng diện rộng hệ sinh thái sản phẩm 5G cả phần cứng và phần mềm đã đưa Việt Nam song hành với thế giới trong ứng dụng công nghệ mới nhất của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, nằm trong top 5 nước có thể sản xuất thiết bị 5G.

Việc chính quyền các cấp có biện pháp kiểm soát môi trường trực tuyến, xử lý thông tin giả, xấu độc nhằm tuyên truyền xuyên tạc, kích động, làm nhiễu loạn thông tin, gây hoang mang trong dư luận, tạo sự bất ổn về an ninh trật tự để chống phá đất nước, gây tổn hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc là hoàn toàn chính đáng và cần thiết. Điều đó phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là một thành viên. Không chỉ ở Việt Nam mà ở nhiều quốc gia, việc thực hiện quyền tự do Internet luôn được đặt trong khung khổ pháp luật. Ví dụ như Nghị viện châu Âu và các quốc gia thành viên EU đã ban hành Đạo luật Dịch vụ Kỹ thuật số (DSA) về bảo vệ sự riêng tư toàn cầu nhằm hạn chế hoạt động của Internet, mạng xã hội vi phạm quyền riêng tư của công dân của các nước thành viên. Theo đó, các dịch vụ truyền thông xã hội và công cụ tìm kiếm lớn như Meta, X, Instagram, TikTok, Google… phải gỡ bỏ nội dung vi phạm quy định của Đạo luật hoặc bị chính phủ các quốc gia châu Âu coi là bất hợp pháp. Hay ở Mỹ, Quốc hội đã ban hành nhiều văn bản luật nhằm xử lý, ngăn chặn việc lợi dụng Internet, mạng xã hội để khủng bố, kích động bạo lực, đăng tải tin giả. Hay như gần đây, Tổng thống Mỹ ra quyết định cấm nền tảng mạng xã hội TikTok.

Sự phát triển của Internet ở Việt Nam là không thể phủ nhận. Việt Nam đã trở thành một nước mạnh về viễn thông – Internet với công nghệ hiện đại, mức phổ cập Internet rất cao. Những luận điệu cho rằng Việt Nam “không có Internet”, “không có tự do Internet” là phủ nhận thực tế, mang tính áp đặt chủ quan, nhằm chống đối Nhà nước, đi ngược lại lợi ích của Nhân dân Việt Nam.

Cần thống nhất nhận thức về kỷ nguyên mới, phản bác các quan điểm sai lệch

Thứ Năm, 23/01/2025, 11:38

Vừa qua, trong nhiều bài phát biểu, bài viết quan trọng, đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ rõ việc xác lập tư duy, lý luận mới về kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Lợi dụng vấn đề này, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị lập tức tung ra các quan điểm sai trái, xuyên tạc chống phá.

Do đó, cần nhận diện, đấu tranh phản bác những luận điệu sai trái, thù địch nhằm nâng cao nhận thức, củng cố niềm tin, góp phần hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

kn.jpg -0
Hội nghị Trung ương 10, khóa XIII khẳng định, với tiềm lực đạt được, đất nước ta đã hội tụ đủ những điều kiện cần thiết để bước vào kỷ nguyên mới.

Nhận thức rõ nội hàm về kỷ nguyên mới

Phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 10, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: “Với thế và lực đã tích luỹ được sau 40 năm đổi mới, với sự đồng lòng, chung sức của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, với những thời cơ, thuận lợi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, chúng ta đã hội tụ đủ những điều kiện cần thiết và văn kiện Đại hội XIV phải đề ra được định hướng chiến lược, nhiệm vụ, giải pháp quan trọng để giải phóng toàn bộ sức sản xuất, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, lấy nguồn lực nội sinh, nguồn lực con người là nền tảng, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo là đột phá để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam”. Cùng với đó, trong nhiều bài viết, bài phát biểu quan trọng, đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định sự thống nhất của Trung ương khi đánh giá về thế và lực của đất nước sau 40 năm đổi mới; xác lập tư duy, lý luận mới về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

Thời gian qua, nhân cơ hội này, các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị lập tức tung ra các quan điểm sai trái, thù địch nhằm bôi nhọ, xuyên tạc các khái niệm, nội hàm cũng như mục đích, ý nghĩa vấn đề trên. Tinh vi hơn, dưới chiêu bài “hội luận”, đóng góp ý kiến, chúng tung ra quan điểm khác biệt, trái chiều, giả danh “dân chủ”, “khoa học” để gây nhiễu… Từ đó, các thế lực xấu nhằm hướng lái, tạo ra nhận thức sai trái, lệch lạc về kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam cũng như xuyên tạc, đả phá những định hướng chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương và của đồng chí Tổng Bí thư.

Những quan điểm của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị luôn có tư tưởng chống phá, chúng đưa ra những quan điểm trái ngược, có tính ngụy biện nhằm tạo sự mơ hồ, dao động về lập trường tư tưởng, nhận thức của người dân về kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Đồng thời, chúng hướng lái, tác động hòng làm suy giảm niềm tin, ý chí của cán bộ, đảng viên và nhân dân về những định hướng chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, của người đứng đầu Đảng ta. Đây là âm mưu nguy hiểm trong bối cảnh đất nước ta bước sang năm 2025 - năm cuối cùng trong nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng, giai đoạn “tăng tốc về đích” cần tập trung mọi nguồn lực, phát huy mọi động lực để hoàn thành những mục tiêu đề ra. Những quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch nếu không được ngăn ngừa sẽ tác động đến nhận thức, tư tưởng, ý chí, niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân nên cần phải nhận diện và có những luận cứ đấu tranh xác đáng, thuyết phục.

Hội tụ đủ điều kiện để bước vào kỷ nguyên mới

Kỷ nguyên là một khái niệm mang tính phân kỳ lịch sử, dựa trên những sự kiện, dấu mốc có tính bước ngoặt. Đây là một thời kỳ phát triển mới, khác biệt về chất so với thời kỳ trước đó; tạo ra những thay đổi căn bản, toàn diện mọi mặt của đời sống xã hội. Kỷ nguyên mới của dân tộc là thời kỳ phát triển mới trong tiến trình lịch sử mà ở đó, những mục tiêu, nhiệm vụ đã được thực hiện, đã hoàn thành, tạo ra bước ngoặt cho tiến trình phát triển để dân tộc bước vào một thời kỳ phát triển mới. Nội hàm của “kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” mà Tổng Bí thư Tô Lâm và Đảng ta đã xác lập không phải là nhận định mang tính chủ quan, nóng vội mà dựa trên cơ sở nhận định, đánh giá những điều kiện, tiền đề khách quan, chủ quan, đảm bảo tính khoa học để định vị mục tiêu đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Về điều kiện khách quan, mặc dù thế giới vẫn xảy ra các cuộc xung đột, tranh chấp căng thẳng, kéo dài nhưng về cơ bản, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Các cường quốc tiếp tục đóng vai trò chính trong việc thiết lập các mối quan hệ quốc tế. Việt Nam có nhiều cơ hội hơn để tham gia vào các diễn đàn khu vực, quốc tế và tham gia vào giải quyết các vấn đề toàn cầu, là thời cơ để Việt Nam khẳng định và chứng tỏ tiềm lực, vị thế, uy tín của mình. Xu hướng liên kết quốc tế, nhất là liên kết về kinh tế tiếp tục được thúc đẩy, hình thành nên các chu trình sản xuất, cung ứng, mở ra cơ hội để Việt Nam tham gia vào các chuỗi sản xuất, chuỗi cung ứng toàn cầu. Việt Nam có  nhiều cơ hội mở rộng thị trường, gia tăng vốn đầu tư, đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ để phục vụ mục tiêu phát triển bền vững. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với tốc độ phát triển nhanh chóng dựa trên nền tảng của trí tuệ nhân tạo (AI), Internet vạn vật (IoT), cơ sở dữ liệu lớn (Big Data), điện toán đám mây (Cloud computing)… sẽ tạo động lực và sức bật cho nghiên cứu, ứng dụng công nghệ mới vào phát triển sản xuất cũng như hiện đại hóa xã hội…Những điều đó cho thấy, thế giới đang trong thời kỳ thay đổi có tính thời đại. Từ nay đến năm 2030 là giai đoạn quan trọng nhất để định hình trật tự thế giới mới. Đây là giai đoạn quan trọng nhất để Việt Nam xác lập vị thế của mình và hoàn thành mục tiêu chiến lược nhân 100 năm thành lập Đảng. Sự biến chuyển có tính thời đại này là cơ hội to lớn đối với Việt Nam.

Về điều kiện chủ quan, sau 40 năm tiến hành đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự đồng lòng, đồng thuận và nỗ lực của nhân dân, Việt Nam đã khai thác được tiềm năng, khơi thông được các nguồn lực, tích lũy được thế và lực cho sự phát triển bứt phá trong giai đoạn tiếp theo. Những thành tựu to lớn đó được thể hiện trên tất cả các phương diện: (1).Về kinh tế, sau 40 năm đổi mới, quy mô nền kinh tế năm 2023 tăng gấp 96 lần so với năm 1986. Việt Nam trong nhóm 40 nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới và 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài. (2) Về chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định được vai trò to lớn cũng như uy tín của mình trong việc lãnh đạo trực tiếp, toàn diện mọi mặt của đời sống xã hội. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị tiếp tục đã mang lại những kết quả to lớn, đặc biệt là công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí đã góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh.

(3) Về xã hội, cùng với việc đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, các lĩnh vực của đời sống xã hội tiếp tục được coi trọng, tạo điều kiện cho con người Việt Nam phát triển toàn diện, quyền con người ngày càng được đảm bảo. (4).Về an ninh, quốc phòng và đối ngoại, mặc dù cục diện thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, nhiều quốc gia vừa và nhỏ phải gia tăng sự phục thuộc vào các cường quốc trên thế giới nhưng Việt Nam vẫn kiên trì và giữ vững phương châm: Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên hàng đầu. Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 194 nước là thành viên Liên hợp quốc, đồng thời xây dựng các mối quan hệ đối tác, hợp tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện với tất cả các cường quốc trên thế giới và khu vực.

Với những thời cơ mà bối cảnh quốc tế, khu vực mang lại cùng những kết quả to lớn, có ý nghĩa lịch sử đã tích lũy được qua 40 đổi mới, hoàn toàn có cơ sở để khẳng định Việt Nam đã và đang hội tụ những điều kiện, tiền đề để chuẩn bị bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc - một kỷ nguyên phát triển bứt phá với những mục tiêu mới lớn hơn. Quan điểm về kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam không phải là nhận định mang tính chủ quan, ảo tưởng, thể hiện ý chí cá nhân của người đứng đầu Đảng ta mà nó là kết quả của quá trình tổng kết thực tiễn, phát triển tư duy, nhận thức lý luận. Đây cũng không phải là “thông điệp mang tính cá nhân” hay “ý chí cá nhân hóa” của người đứng đầu Đảng ta mà là sự hội tụ giữa ý Đảng và lòng dân, giữa mục tiêu, quyết tâm của toàn Đảng và ý nguyện, khát vọng của cả trăm triệu người dân Việt Nam bởi với những kết quả đã đạt được cùng những thời cơ mà cục diện thế giới, khu vực mang lại, đã đến lúc nhân dân Việt Nam hiện thực hóa khát vọng về một Việt Nam hùng cường, phồn thịnh.

Chuẩn bị bước vào kỷ nguyên mới với niềm tin và khát vọng, quết tâm lớn lao nhưng đồng chí Tổng Bí thư cũng luôn nhắc nhở, bên cạnh thời cơ, thuận lợi cũng có nhiều khó khăn, thách thức đan xen. Một trong những khó khăn, thách thức phải kể đến là các nguồn lực trong và ngoài nước không được khơi thông và phát huy một cách tối đa. Sự mơ hồ về nhận thức, không vững vàng về lập trường tư tưởng, dao động về niềm tin và ý chí của một bộ phận cán bộ, đảng viên cũng là một lực cản lớn để Việt Nam tiến vào kỷ nguyên vươn mình dân tộc; sự chống phá ngày càng tinh vi, quyết liệt của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị trong và ngoài nước. Do đó, một mặt cần phải đẩy mạnh tuyên truyền, lan tỏa cho cán bộ, đảng viên, nhân dân về nội hàm cũng như mục tiêu, nhiệm vụ của kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; song mặt khác cũng cần kiên trì, kiên quyết đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch. Điều này góp phần tạo ra sự thống nhất về nhận thức, đồng thuận về tư tưởng, tập trung về hành động để phát huy tối đa sức mạnh vật chất, tinh thần của cả dân tộc; đưa đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên vươn mình.

Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam chính là góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, tạo ra sự thống nhất về nhận thức, đồng thuận, đồng sức, đồng lòng vượt qua những khó khăn, thách thức, đưa đất nước vững bước tiến vào một giai đoạn phát triển mới, bứt phá của dân tộc Việt Nam.

TS Lê Thế Cương

Giữ trọn niềm tin của nhân dân vào Đảng Cộng sản Việt Nam

Thứ năm, 23/01/2025 - 05:47

Nhìn lại chặng đường lịch sử vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam trong 95 năm qua, Đảng ta luôn được nhân dân tin yêu, đùm bọc, giúp đỡ, thừa nhận là Đảng của chính mình, trìu mến gọi bằng hai chữ thân thương “Đảng ta”. Với vị trí, vai trò to lớn của Đảng và những thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo, không một thế lực thù địch nào có thể xuyên tạc, phủ nhận được niềm tin vững chắc của nhân dân với Đảng trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta.

1. Niềm tin chính trị của nhân dân là sự tin tưởng, kỳ vọng vào đảng phái chính trị nhất định, cụ thể là vào chủ trương, đường lối của đảng chính trị, truyền thống và những giá trị của đảng chính trị cũng như uy tín lãnh tụ của đảng. Niềm tin đó từ phía quần chúng nhân dân được hình thành qua đời sống chính trị của đất nước, qua hoạt động thực tiễn của chính đảng trong nỗ lực để bảo đảm rằng niềm tin đó sẽ được đền đáp.

Niềm tin chính trị của nhân dân gồm những yếu tố cơ bản sau đây.

Trước hết, đó là sự hiểu biết về chính trị của quần chúng nhân dân ngày càng tăng lên. Đây là điều kiện cần. Điều này chính là sự giải thích cho quyết định của quần chúng nhân dân rằng, nên đi theo đảng chính trị nào và chủ trương, đường lối của đảng đó có lợi hay không có lợi cho mình.

Thứ hai, những kinh nghiệm chính trị của nhân dân trong thực tiễn cách mạng ngày càng trở nên phong phú. Đây là điều kiện đủ. Khi sự hiểu biết về chính trị của quần chúng nhân dân là điều kiện cần của niềm tin chính trị, thì kinh nghiệm chính trị của họ chính là điều kiện đủ, quyết định họ sẽ kiên định đi theo sự lãnh đạo của đảng; đồng thời thể hiện đảng đã thành công trong việc cuốn hút họ theo đường lối của mình. Những trải nghiệm chính trị, những bài học kinh nghiệm xương máu được quần chúng nhân dân đúc rút từ thực tiễn cách mạng dưới sự lãnh đạo của đảng khiến cho nhận thức chính trị của họ càng thêm sâu sắc, từ đó niềm tin chính trị vào đảng càng thêm sâu nặng.

Giữ trọn niềm tin của nhân dân vào Đảng Cộng sản Việt Nam

Tuổi trẻ hôm nay vững tin theo ngọn cờ của Đảng.  

Thứ ba, thực tiễn lãnh đạo chính trị thuyết phục của đảng cộng sản. Đây là điều kiện quyết định, thể hiện năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng, thông qua tính đúng đắn của các chủ trương, đường lối lãnh đạo cách mạng của đảng đem lại những thành công nhất định trên các lĩnh vực, qua đó thu hút càng nhiều quần chúng nhân dân đi theo đảng. Bên cạnh đó, những hy sinh, phấn đấu vì độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân của đội ngũ đảng viên và lãnh tụ của đảng; sự hòa quyện bởi nhân cách cá nhân người đảng viên với uy tín chính trị của đảng đã thực sự thuyết phục và củng cố niềm tin chính trị của nhân dân với đảng. Điều này rất quan trọng từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, thể hiện qua sự đúc kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong câu nói: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Chính những hy sinh, phấn đấu của đội ngũ đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam đã góp phần quan trọng nâng cao uy tín chính trị của Đảng ta trong nhân dân.

Thứ tư, sự tham gia tích cực của các tầng lớp nhân dân vào sự nghiệp cách mạng. Đây là điều kiện bảo đảm cho tính bền vững của niềm tin chính trị của nhân dân. Niềm tin chính trị của nhân dân được hình thành bởi quá trình hoạt động có chủ đích của Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là vì hạnh phúc của nhân dân; đồng thời, nhân dân cũng tích cực tham gia vào quá trình đó để theo đuổi lý tưởng của mình, hiện thực hóa lý tưởng đó, nên chính nhân dân đã góp phần xây dựng niềm tin chính trị của mình.

2. Thực tiễn cho thấy, niềm tin của nhân dân với Đảng được hình thành, củng cố ngày càng vững chắc hơn gắn liền với quá trình xây dựng và phát triển của Đảng suốt chặng đường 95 năm qua. Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam giành được nhiều thắng lợi to lớn. Ngay sau khi ra đời ngày 3-2-1930, Đảng đã lãnh đạo phong trào cách mạng Xô viết Nghệ Tĩnh; tiến hành cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, lập nên nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á; lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, mà đỉnh cao là Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, tạo điều kiện cơ bản để hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân; lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước Việt Nam. Cùng với những thành tựu của sự nghiệp gần 40 năm đổi mới mà toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đạt được là hết sức to lớn, có ý nghĩa lịch sử, để đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.

Với vai trò to lớn của mình, Đảng ta đã tạo được niềm tin yêu sâu sắc trong lòng nhân dân. Tin tưởng vào đường lối lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã một lòng đi theo Đảng; biến những nhận thức, niềm tin thành hành động cách mạng, thành ý chí quyết tâm; phát huy cao độ tinh thần và lực lượng, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do đó, để đáp ứng yêu cầu từ thực tiễn hiện nay đòi hỏi Đảng phải không ngừng tự đổi mới, tự chỉnh đốn để thật sự xứng đáng với niềm tin của nhân dân và dân tộc.

Thực tiễn 95 năm qua của cách mạng Việt Nam cho thấy, Đảng ta luôn quán triệt sâu sắc Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đó là nhiệm vụ then chốt, thường xuyên, liên tục, xuyên suốt các thời kỳ cách mạng, quyết định đến sức mạnh, uy tín của Đảng. Từ khi bước vào công cuộc đổi mới, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, như: Hội nghị Trung ương 3 khóa VII năm 1992, về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng; Hội nghị Trung ương 6 lần 2 khóa VIII năm 1999, về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay. Đại hội XII của Đảng (năm 2016) nhấn mạnh: “Tập trung thực hiện mục tiêu xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức”. Xây dựng Đảng về đạo đức luôn gắn liền và nằm trong xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, nhưng nay được định danh, được đặt ngang hàng với các mặt công tác xây dựng Đảng khác, đã thể hiện ý chí của Đảng là đề cao, coi trọng yếu tố đạo đức trong xây dựng Đảng. Đây là một trong những điểm mới, rất căn bản và trọng yếu trong việc mở rộng nội dung xây dựng Đảng.

3. Chúng ta thừa nhận thực tế về hiện tượng một bộ phận cán bộ, đảng viên sa sút phẩm chất, thoái hóa, chưa được ngăn chặn triệt để. Một số cán bộ lãnh đạo chẳng những không gương mẫu mà còn nêu gương xấu trước quần chúng. Một số người vô tổ chức, vô kỷ luật, kéo bè kéo cánh, nịnh bợ cấp trên, chèn ép quần chúng và cấp dưới, cơ hội, thực dụng, gây mất đoàn kết nội bộ. Một số cán bộ đã lợi dụng chức quyền để tham ô, trục lợi, ăn cắp của công, ăn hối lộ, thông đồng với kẻ xấu để làm giàu bất chính. Điều nghiêm trọng là có không ít cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ cao cấp, bị những ham muốn vật chất cám dỗ cũng chạy theo tiền tài, địa vị, sống ích kỷ, buông thả, tự do chủ nghĩa, không còn tư cách đảng viên.

Nhìn thẳng vào sự thật đó, Đảng ta đã tiến hành nhiều cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, khắc phục những hiện tượng hư hỏng trong bộ máy nhà nước, đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Đảng yêu cầu phải làm tốt việc giáo dục, nâng cao phẩm chất cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, coi đây là một nội dung trọng yếu của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Việc xử lý cán bộ sai phạm đang diễn ra quyết liệt và có sức lan tỏa vô cùng mạnh mẽ, được đông đảo quần chúng nhân dân đồng tình ủng hộ, đánh giá cao. Những nỗ lực của Đảng, Nhà nước trong xử lý cán bộ sai phạm do tham nhũng, tiêu cực được thể hiện rõ cả trong quan điểm chỉ đạo và thực tiễn triển khai.

Về quan điểm chỉ đạo, có thể thấy rõ từ khi đổi mới đến nay, nhiệm kỳ nào Trung ương Đảng cũng có những nghị quyết chuyên đề liên quan đến công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Về thực tiễn triển khai, việc xử lý cán bộ sai phạm ở nước ta hiện được thực hiện theo đúng phương châm “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”. Bằng chứng là, thời gian qua, nhiều vụ án nghiêm trọng đã được đưa ra xét xử kịp thời, đúng người, đúng tội. Điều đó cho thấy rõ quyết tâm rất lớn cũng như năng lực, bản lĩnh của Đảng, Nhà nước ta trong việc phát hiện, xử lý những sai phạm của cán bộ, đảng viên, kể cả những người đã và đang giữ chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị.

Theo báo cáo của cơ quan chức năng, chỉ tính năm 2024, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 709 tổ chức đảng và 24.097 đảng viên vi phạm; Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật 68 cán bộ diện Trung ương quản lý; trong đó, lần đầu tiên Bộ Chính trị đã thi hành kỷ luật 2 nguyên lãnh đạo chủ chốt.

Có thể khẳng định rằng, việc xử lý quyết liệt các vụ án tham nhũng không chỉ ngăn chặn tình trạng thất thoát nguồn tài sản lớn của Nhà nước mà quan trọng hơn cả là góp phần củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thêm xung lực mới để cổ vũ, động viên, khích lệ nhân dân tiếp tục đóng góp cho sự phát triển đất nước. Đây chính là thực tiễn lãnh đạo chính trị thuyết phục của Đảng Cộng sản Việt Nam, thể hiện năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, khẳng định tính đúng đắn của các chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng, qua đó làm nhân dân thêm tin tưởng, đi theo Đảng.

Nhìn lại chặng đường lịch sử vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam trong 95 năm qua, Đảng ta luôn được nhân dân tin yêu, đùm bọc, giúp đỡ, thừa nhận là Đảng của chính mình, trìu mến gọi bằng hai chữ thân thương “Đảng ta”. Đây là niềm vinh dự, tự hào lớn của Đảng mà không phải đảng chính trị nào trên thế giới cũng có được. Cũng chính điều đó đã tạo nên sức mạnh để Đảng ta không ngừng lớn mạnh, trưởng thành và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc giành những thắng lợi to lớn. Với vị trí, vai trò to lớn của Đảng và những thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo, không một thế lực thù địch nào có thể xuyên tạc, phủ nhận được niềm tin vững chắc của nhân dân với Đảng trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta.

Đại tá, PGS, TS LÊ QUỐC DŨNG, Chủ nhiệm khoa Quân chủng, Học viện Quốc phòng 

Khẳng định giá trị pháp lý và hiệu quả của Nghị định số 168/2024/NĐ-CP

Thứ hai, 20/01/2025 - 05:51

Ngày 1-1-2025, Nghị định số 168/2024/NĐ-CP (Nghị định 168) chính thức có hiệu lực, thay thế Nghị định số 100/2019/NĐ-CP, với nhiều điểm mới đáng chú ý trong xử phạt vi phạm giao thông đường bộ. Đây là bước triển khai thực hiện Luật Trật tự, an toàn giao thông (TTATGT) đường bộ. Tuy nhiên, những ngày qua, trên một số trang mạng xã hội đăng tải nhiều bài viết có nội dung xuyên tạc Nghị định 168...

“Đánh lận con đen” - thuộc tính bản chất của kẻ chống phá

Nghị định 168 đi vào cuộc sống mới chỉ thời gian ngắn, nhưng đã cho thấy tính hiệu quả trong quản lý giao thông, đánh dấu bước tiến lớn về ý thức chấp hành Luật TTATGT đường bộ của người dân. Dư luận trong nước, các chuyên gia và nhân dân cả nước đã thể hiện sự ủng hộ, đồng tình cao với những kết quả bước đầu đạt được khi chỉ sau gần 3 tuần thực hiện, các hành vi vi phạm Luật TTATGT đường bộ vốn khá phổ biến, như vi phạm nồng độ cồn, đi trên vỉa hè, vượt đèn đỏ, hay không đội mũ bảo hiểm giảm rõ rệt. 

Ấy thế nhưng, như một “thuộc tính bản chất”, với chiêu trò “đánh lận con đen”, bằng những mánh khóe gian giảo, xảo quyệt, những kẻ chống phá Đảng, Nhà nước ra sức xuyên tạc, phủ nhận Nghị định 168. Những ngày qua, trên một số trang mạng xã hội đã đăng tải nhiều bài viết có nội dung xuyên tạc, cho rằng Nghị định 168 sẽ "không mang lại hiệu quả", thậm chí gây thêm bất ổn trong lĩnh vực giao thông; việc tăng cường xử phạt theo Nghị định 168 sẽ “làm trầm trọng thêm” tình trạng ùn tắc, đặc biệt tại các đô thị lớn; quy định trừ điểm giấy phép lái xe là “không cần thiết và gây khó khăn” cho người tham gia giao thông. 

Khẳng định giá trị pháp lý và hiệu quả của Nghị định số 168/2024/NĐ-CP

Nghị định số 168 bước đầu cho thấy hiệu quả, nâng cao ý thức người dân khi tham gia giao thông. 

Chiêu trò “lập lờ đánh lận con đen” còn thể hiện ở chỗ, họ bóp méo và cắt xén thông tin, đặc biệt là những quy định pháp luật, khiến người dân hiểu sai vấn đề; như xuyên tạc về việc xử phạt các hành vi sang đường không đúng quy định; phương tiện vượt đèn đỏ để nhường đường cho xe ưu tiên... chúng quy kết, cho rằng mức xử phạt quá nặng khiến người dân sợ hãi, dẫn đến tình trạng ùn tắc giao thông, gây khó khăn cho người lao động và thiệt hại cho nền kinh tế. Đáng chú ý, các tổ chức phản động ở nước ngoài, một số hãng truyền thông thiếu thiện chí và các phần tử cơ hội đóng vai “chuyên gia” còn lu loa rằng, Nghị định 168 được ban hành “thiếu cơ sở pháp lý”! 

Thực chất, đây là những quan điểm sai trái, thù địch của các thế lực chống phá, hòng bóp méo, xuyên tạc tính hợp hiến, hợp pháp và thống nhất cũng như mục đích, ý nghĩa và giá trị của Nghị định 168 trong quản lý TTATGT; gây nhiễu loạn thông tin tiến tới kích động, lôi kéo người dân thực hiện cái gọi là “bất tuân dân sự”. Đây là thủ đoạn vô cùng nguy hiểm, cần được nhận diện, vạch trần và đấu tranh loại bỏ.

Không thể phủ nhận giá trị pháp lý và hiệu quả của nghị định

Một là, Nghị định 168 được ban hành đúng trình tự, thủ tục, quy định của pháp luật. 

Theo Bộ Tư pháp, Nghị định 168 được ban hành theo đúng quy trình, thủ tục, quy định của pháp luật. Điều 151 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản được ban hành theo trình tự rút gọn có thể có hiệu lực ngay từ ngày thông qua hoặc ký ban hành. Nghị định 168 cũng được xây dựng và ban hành theo quy trình này, đáp ứng yêu cầu cấp thiết về TTATGT. Đại diện Cục Cảnh sát giao thông (Bộ Công an) cho biết, quá trình soạn thảo Nghị định 168 đã được cơ quan chức năng phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan. Dự thảo nghị định được thảo luận kỹ lưỡng, đăng tải công khai, lấy ý kiến đóng góp rộng rãi của các tổ chức, cá nhân trên Cổng thông tin điện tử Bộ Công an, Cổng thông tin điện tử Chính phủ, bảo đảm tính minh bạch và đồng thuận xã hội.

Hơn nữa, việc áp dụng cơ chế xử phạt nghiêm khắc và trừ điểm giấy phép lái xe đã được nghiên cứu và tham khảo từ các quốc gia có hệ thống giao thông tiên tiến, bảo đảm tính khả thi và hiệu quả. Cơ chế này không chỉ giúp nâng cao ý thức chấp hành luật giao thông mà còn giảm áp lực lên hệ thống xử phạt hiện hành, tạo sự răn đe cần thiết đối với các hành vi vi phạm.

Hai là, Nghị định 168 ra đời là đòi hỏi bức thiết của thực tiễn quản lý TTATGT ở Việt Nam hiện nay 

Cách đây tròn 5 năm, khi Chính phủ ban hành Nghị định số 100/2019/NĐ-CP thay thế Nghị định số 46/2016/NĐ-CP với nhiều điểm nổi bật trong xử lý vi phạm, nhất là vi phạm nồng độ cồn với mức xử phạt rất nghiêm khắc, đã cho thấy hiệu quả tích cực. Trong 8 tháng năm 2020 cả nước ghi nhận 9.170 vụ tai nạn giao thông, khiến 4.342 người tử vong và 6.727 người bị thương. So với cùng kỳ năm 2019, số vụ tai nạn giảm 2.161 vụ (19,1%), số người chết giảm 754 người (14,8%) và số người bị thương giảm 1.860 người (21,7%). Đây được xem là tín hiệu tích cực, phản ánh hiệu quả các giải pháp tăng cường ATGT, cùng với ý thức chấp hành luật giao thông của người dân được cải thiện.

Tại Phiên họp thứ 42 (tháng 2-2020) của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đánh giá hiệu quả của Nghị định 100: Mặc dù mức xử phạt rất nặng đối với các hành vi vi phạm quy định giao thông, nhất là vi phạm nồng độ cồn, song người dân rất ủng hộ. Khi ấy, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân cho rằng: Tâm lý người dân sẽ không muốn ảnh hưởng đến thu nhập và việc tốt nhất là không vi phạm. Việc quy định như vậy là phù hợp, đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, nhằm răn đe, ngăn chặn những hành vi vi phạm hành chính. 

Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện Nghị định 100 cho thấy, mức phạt đã đủ sức răn đe nhưng vẫn có hàng nghìn trường hợp vi phạm, đó là vấn đề về ý thức. Nhiều người tham gia giao thông vẫn chưa ý thức được nguy cơ mất an toàn giao thông đối với bản thân, cộng đồng và những hệ lụy cho chính gia đình họ. Thực tế này đòi hỏi phải có quy định pháp luật phù hợp hơn, nhằm bảo đảm TTATGT. 

Ba là, những kết quả bước đầu đạt được là minh chứng thuyết phục tính đúng đắn, kịp thời của Nghị định 168.

Một trong những mục tiêu cơ bản trong bảo đảm TTATGT mà Đại hội XIII của Đảng đề ra là “phấn đấu giảm tai nạn giao thông trên cả 3 tiêu chí”(1) (số vụ vi phạm; số người chết và số người bị thương). Nghị định 168 là bước tiến quan trọng trong việc nỗ lực cải thiện ATGT tại Việt Nam, hiện thực hóa mục tiêu Đại hội XIII của Đảng. Với các biện pháp xử phạt mạnh mẽ, cơ chế trừ điểm và phục hồi điểm giấy phép lái xe, nghị định đã minh chứng tính hiệu quả trong việc giảm thiểu tai nạn, nâng cao ý thức chấp hành luật giao thông và cải thiện tình hình giao thông nói chung. 

Theo số liệu từ Cục Cảnh sát giao thông, sau 15 ngày thực hiện Nghị định 168, số vụ tai nạn giao thông (TNGT) giảm cả về 3 tiêu chí so với cùng kỳ và thời gian liền kề trước đó. Cụ thể, toàn quốc đã xảy ra 681 vụ TNGT, làm 365 người chết, 453 người bị thương, so với cùng kỳ, giảm 355 vụ (34,3%), giảm 47 người chết (11,4%), giảm 426 người bị thương (34,2%). Còn so với thời gian trước liền kề (nửa cuối tháng 12-2024), giảm 347 vụ (34,5%), giảm 94 người chết (20,5%), giảm 301 người bị thương (39,9%). Những kết quả bước đầu là minh chứng rõ ràng cho tính đúng đắn và cần thiết của nghị định, khẳng định cam kết của Chính phủ trong việc xây dựng một môi trường giao thông an toàn, văn minh và bền vững.

Bốn là, việc chấp hành nghiêm quy định pháp luật về giao thông nói chung, Nghị định 168 nói riêng là nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người dân, là dấu hiệu phản ánh sự văn minh trong xã hội thượng tôn pháp luật.

Thực tế quá trình phát triển, bất kỳ quốc gia văn minh nào muốn đạt được sự phát triển bền vững đều phải dựa trên nền tảng của một xã hội có kỷ cương. Một xã hội không thể chấp nhận sự hỗn loạn nơi "mạnh ai nấy đi, mạnh ai nấy chen" chỉ vì lợi ích cá nhân, tạo nên một hình ảnh giao thông xấu xí. Đây không chỉ là vấn đề hành vi mà còn ảnh hưởng đến diện mạo văn hóa quốc gia trong mắt bạn bè quốc tế.

Phải thừa nhận rằng, thời gian gần đây, tình trạng ùn tắc giao thông xảy ra thường xuyên hơn do cơ sở hạ tầng giao thông tại các đô thị lớn vẫn còn nhiều hạn chế, từ hệ thống biển báo, đèn tín hiệu đến lỗi kỹ thuật cục bộ. Tuy nhiên, điều này không thể trở thành lý do để biện minh cho việc vi phạm pháp luật giao thông. Thực tế, đây là diễn biến quen thuộc vào cuối năm khi nhu cầu đi lại, mua sắm tăng cao. Nhìn lại giai đoạn giáp Tết năm trước, khi Nghị định 168 chưa được áp dụng, vấn đề cũng tương tự. 

Sự thay đổi trong ý thức chấp hành luật giao thông sau khi Nghị định 168 có hiệu lực cho thấy, khi luật pháp nghiêm minh và thực thi đồng bộ có thể cải thiện rõ rệt hành vi của người dân. Mức độ răn đe đủ lớn giúp mỗi cá nhân nhận thức rõ việc tuân thủ pháp luật không chỉ bảo vệ chính mình mà còn góp phần xây dựng xã hội an toàn, văn minh; góp phần xây dựng văn hóa giao thông, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững của đất nước.

 


(1) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, tập 1, NXB Chính trị quốc gia-Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.281

TS LƯƠNG THANH DUY - ThS ĐOÀN QUANG VINH

Trò lố xuyên tạc phiên tòa xét xử bị cáo Lưu Bình Nhưỡng và Lê Thanh Vân

Thứ Hai, 20/01/2025, 07:33

 Ngay sau khi TAND tỉnh Thái Bình mở phiên tòa sơ thẩm xét xử bị cáo Lưu Bình Nhưỡng - cựu đại biểu Quốc hội, cựu Phó trưởng Ban Dân nguyện thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội; bị cáo Lê Thanh Vân - cựu đại biểu Quốc hội, cựu Ủy viên thường trực Ủy ban Ngân sách Quốc hội cùng 3 bị cáo, các thế lực thù địch, phản động đã lợi dụng vụ án trên để tung ra những luận điệu sai trái, xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước, chỉ trích cơ quan tiến hành tố tụng.

Tái diễn trò lố

Căn cứ hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa, căn cứ tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và các quy định của pháp luật, HĐXX tuyên phạt bị cáo Lưu Bình Nhuỡng 3 năm tù về tội "Cưỡng đoạt tài sản", 10 năm tù về tội "Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi", tổng hợp hình phạt 13 năm tù giam; tuyên phạt bị cáo Lê Thanh Vân 7 năm tù về tội "Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi".

image001.jpg -0
Các bị cáo tại phiên toà xét xử sơ thẩm.

Theo đánh giá của HĐXX, trong quá trình xét xử, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, thể hiện sự ăn năn, hối lỗi; đồng thời mong được hưởng sự khoan hồng của pháp luật. Tại phiên tòa, các cơ quan báo chí trong nước cũng đã đưa tin kịp thời, khách quan. Thế nhưng các thế lực thù địch, số đối tượng phản động ở hải ngoại lại ra sức lu loa, kêu thuê, khóc mướn, tìm cách “tung hoả mù” nhằm chính trị hóa bản án hình sự.

Chúng cố tình đánh tráo khái niệm, đánh tráo bản chất vụ án, chèo lái dư luận theo hướng tiêu cực. Các thế lực xấu đưa ra những bài viết tôn vinh ông Lưu Bình Nhưỡng, Lê Thanh Vân là “những đại biểu cuối cùng vì dân”, cổ xuý ông Nhưỡng, ông Vân là những “vị anh hùng”, “người đấu tranh cho công lý”, “những nhà bất đồng chính kiến tiêu biểu”…

Các đối tượng trích lại những phát biểu, ý kiến của các bị cáo khi đang làm đại biểu Quốc hội với lời lẽ ca ngợi, tôn sùng, cho rằng vì trách nhiệm trước dân, phát biểu thẳng thắn, đụng chạm nên nay phải vào tù! Có đối tượng khóc mướn rằng, sau khi hai ông này bị bắt, “giờ đây Việt Nam không còn đại biểu của nhân dân đấu tranh cho lẽ phải”. Từ đó vu cáo rằng việc phạt tù đối với các bị cáo “là việc làm sai trái xảy ra trong môi trường tư pháp không độc lập”!

Trước đó, vào thời điểm CQĐT khởi tố ông Lưu Bình Nhưỡng, ông Lê Thanh Vân, các đối tượng thù địch, phản động còn cố tình vẽ ra đủ thứ lý do để nguỵ biện việc ông Nhưỡng, ông Vân bị bắt, kiểu như“có ân oán với lực lượng thực thi pháp luật”, “dám phát biểu vượt qua lằn ranh đỏ”... Có đối tượng đưa ra thuyết âm mưu rằng “phải là một mưu đồ chính trị đằng sau vụ án”, cố tình bẻ lái dư luận theo hướng mị dân “các ông bị bắt đồng nghĩa với việc người dân yếu thế mất đi một chỗ dựa, mất đi một nơi gửi đơn kêu oan”…

Các thế lực thù địch, phản động suy diễn, biến một vụ án hình sự thành vụ “tấn công người bảo vệ công lý”; vu khống “Việt Nam lợi dụng pháp luật để áp tội tùy tiện, trù dập những đại biểu của dân”; rằng “xứ cộng sản không cho phép phản biện, tất cả những người phản biện đều bị xem là phản động”; “sống dưới chế độ độc tài thì người dân bị tước quyền tự do ngôn luận, không được hưởng dân chủ, nhân quyền”. Một số bài viết bẻ lái, áp đặt cho đó là “vi phạm nhân quyền”, “vi phạm dân chủ”, xuyên tạc “tranh giành quyền lực”, “thanh trừng phe nhóm”, “mâu thuẫn lợi ích”… Thậm chí, chúng giả vẻ lo lắng cho tương lai của đất nước, đưa ra những dấu hỏi “không biết Việt Nam rồi sẽ đi về đâu”!

Thực chất, các luận điệu trên vốn dĩ không phải là chiêu trò mới mà được biến tấu, nhào nặn, diễn đi diễn lại nhiều lần. Từ trước đến nay, lợi dụng các đối tượng phạm tội bị bắt, phải chấp hành án hình sự mà những người này trước đó có ảnh hưởng nhất định tới cộng đồng xã hội thì các tổ chức, hội nhóm phản động tận dụng khai thác, thổi phồng tạo điểm nóng, bóp méo sự thật, đưa ra nhiều bài viết, video, hình ảnh xuyên tạc, cố tình công kích Đảng, Nhà nước, chế độ. Thậm chí các thế lực thù địch, phản động còn tổ chức hội luận, livestream để thu hút dư luận, phục vụ cho mưu đồ chống phá.

Một số vụ án đơn lẻ bị chúng thổi phồng, suy diễn, lái vụ việc sang hướng khác rồi quy kết thành những vấn đề chính trị của đất nước. Qua sự nhào nặn của các thế lực thù địch, những tồn tại, hạn chế trong đời sống xã hội luôn bị khuếch đại, thổi phồng, còn những ưu việt thì bị ngó lơ. Trong đó nhiều vụ án hình sự bị các thế lực thù địch “chính trị hóa”, triệt để lợi dụng để chống phá Đảng, Nhà nước.

Đối với các vụ án liên quan cán bộ trong bộ máy Đảng, Nhà nước thì chúng thường quy chụp, đồng nhất sai phạm của bị can, bị cáo thành bản chất của Đảng, biến sự suy thoái của cá nhân thành lỗi của cả hệ thống chính trị rồi cho rằng nước ta mất ổn định chính trị, bôi nhọ Việt Nam trên trường quốc tế, kêu gọi sự can thiệp bên ngoài vào công việc nội bộ. Mục đích của các thế lực thù địch là hạ bệ, bôi lem nền tư pháp, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, xóa bỏ chế độ XHCN ở Việt Nam.

Bản án khách quan, hợp lý

Dư luận trong nước không xa lạ đối với ông Lưu Bình Nhưỡng, ông Lê Thanh Vân bởi trước khi bị truy tố, xét xử, hai ông được biết đến là đại biểu Quốc hội có nhiều phát biểu tranh luận tại nghị trường liên quan đến các vấn đề “nóng” của xã hội. Tuy nhiên, các ông thường có những phát ngôn gây sự chú ý, quan tâm theo dõi của mọi người không chỉ ở nội dung chất vấn mà cả thái độ chất vấn, thậm chí có những phát ngôn mang tính chỉ trích thiếu căn cứ, làm dư luận hiểu sai lệch nội dung sự việc và những phát ngôn đó bị các thế lực thù địch, phần tử cơ hội lợi dụng bình luận xuyên tạc, tạo cớ để để chống phá Đảng, Nhà nước ta.

Về phiên toà xét xử đối với hai bị cáo Lưu Bình Nhưỡng, Lưu Thanh Vân, cáo trạng cho thấy, bị cáo Lưu Bình Nhưỡng đã 4 lần thực hiện hành vi phạm tội và nhiều lần nhận tiền, quà cảm ơn. Cụ thể, ông Nhưỡng đã nhận 210 triệu đồng và 300.000 USD, một lô đất ở huyện Đông Anh, Hà Nội; được hứa tặng một lô đất hơn 1.000m2 ở Quảng Ninh. Bị cáo Lê Thanh Vân đã 2 lần thực hiện hành vi phạm tội; nhận 60 triệu đồng, một lô đất ở huyện Đông Anh, Hà Nội và được hứa tặng một lô đất ở Quảng Ninh. Lấy danh nghĩa đại biểu Quốc hội, hai bị cáo đã nhiều lần gọi điện, tác động cơ quan chức năng theo hướng có lợi cho người quen, từ đó nhận nhiều vật chất bất hợp pháp, phục vụ cho lợi ích của bản thân.

Trong phần tự bào chữa tại tòa, bị cáo Lưu Bình Nhưỡng và Lê Thanh Vân bày tỏ sự ăn năn hối lỗi trước HĐXX về hành vi của mình. Bị cáo Lưu Bình Nhưỡng cho biết, trong hơn 1 năm bị tạm giam, ông đã nỗ lực cải tạo một cách quyết liệt để “gột rửa những việc mình đã phạm phải”. Ông Lưu Bình Nhưỡng cũng mong được “nhân dân cả nước lượng thứ” về những lỗi lầm của mình. Cả hai bị cáo đều mong nhận được sự khoan hồng của pháp luật.

Đại diện Viện Kiểm sát đánh giá, là đại biểu Quốc hội được cử tri bầu ra, đáng lẽ phải thượng tôn, gương mẫu trong chấp hành quy định pháp luật, có đạo đức liêm chính, lối sống lành mạnh song hai ông Nhưỡng, ông Vân đã không đại diện cho tiếng nói nhân dân một cách công tâm, khách quan, phản bội lại niềm tin mà nhân dân và cử tri cả nước gửi gắm. Xét thấy các bị cáo có trình độ học vấn, am hiểu pháp luật nhưng vì lợi ích vật chất đã thực hiện hành vi phạm tội để trục lợi, cần xử lý nghiêm. Song khi luận tội, đại diện Viện Kiểm sát cho hay đã xem xét các yếu tố giảm nhẹ, việc khắc phục hậu quả, những cống hiến, đóng góp của ông Nhưỡng, ông Vân trong các khóa làm đại biểu Quốc hội để đề nghị mức án phù hợp.

Như vậy, hành vi phạm tội của hai bị cáo đã được cáo trạng nêu rõ và thể hiện đầy đủ qua quá trình xét xử, không hề liên quan gì đến dân chủ, nhân quyền, không liên quan “phát ngôn nghị trường” như luận điệu của các thế lực xấu. Sự thật, mọi luận điệu cổ xúy, tán dương cho những người vi phạm pháp luật, phạm tội là những vở kịch gượng gạo, lố bịch. Do vậy, mọi người cần hết sức cẩn trọng với các thông tin sai lệch trên Internet, mạng xã hội, không để rơi vào cái bẫy do các thế lực giăng ra, không chia sẻ thông tin sai trái, độc hại.

Đại Thắng – Quốc Việt