Lại giở trò lố “Giải thưởng nhân quyền Martin Ennals”

Thứ Hai, 23/10/2023, 08:17

Giải thưởng nhân quyền hiểu theo nghĩa gốc vốn thiêng liêng, vì mục đích cao cả nhưng các cá nhân, tổ chức thù địch với Việt Nam lại mượn danh giải thưởng này để trao cho những “nhà dân chủ giả hiệu”, làm vỏ bọc ngụy trang, tạo động lực để các đối tượng gia tăng hoạt động chống phá, gây rối an ninh.

Nguồn gốc và bản chất của “Giải thưởng nhân quyền Martin Ennals”

Năm 1993, 10 tổ chức tự nhận là hoạt động vì nhân quyền trên thế giới đã đứng ra thành lập cái gọi là “Giải thưởng nhân quyền Martin Ennals” để trao cho người được họ cho rằng “đã thể hiện thành tích xuất sắc trong việc chống lại các hành vi vi phạm nhân quyền bằng những biện pháp can đảm, cần được bảo vệ”. Từ đó đến nay, giải thưởng này liên tục được trao cho những đối tượng mà  họ coi là “nhà hoạt động nhân quyền”, được tán tụng ví như “giải Nobel về nhân quyền”!

Tuy nhiên, thực tế cho thấy “Giải thưởng nhân quyền Martin Ennals” ra đời không phục vụ ý nghĩa trong sáng như mục đích họ rêu rao là “những người dũng cảm đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền, vì sự tiến bộ của nhân loại”. Nếu để tâm theo dõi các hoạt động của họ thời gian qua, chúng ta sẽ thấy trong suốt quá trình hoạt động, “Giải thưởng nhân quyền Martin Ennals” không đúng nghĩa là một giải thưởng bởi phần lớn giải được trao cho những người có hoạt động chống lại lợi ích quốc gia, dân tộc ở đất nước mà họ đã sinh ra và lớn lên… Đa phần những người được tổ chức nhân quyền Martin Ennals trao giải khi đang phải chấp hành hình phạt tù hoặc đã mãn hạn tù vì phạm tội lợi dụng tự do, dân chủ, nhân quyền, xâm phạm an ninh quốc gia, bị chính quyền và nhân dân nước sở tại đấu tranh, yêu cầu xử lý.

Bản chất của tổ chức nhân quyền Martin Ennals không giống như cái “bánh vẽ ngọt ngào” mà thoạt đầu nghe có vẻ rất tốt đẹp, rất cần thiết để xây dựng một thế giới mà ở đó quyền con người làm trung tâm. Cho nên, về góc độ nào đó, chúng ta hiểu rằng, tổ chức nhân quyền Martin Ennals được tạo ra và hoạt động không đúng theo tôn chỉ, mục đích cao đẹp như họ rêu rao mà chủ yếu núp bóng nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của một số quốc gia. Đối với Việt Nam, thông qua hình thức trao giải cho các đối tượng trên, tổ chức nhân quyền Martin Ennals hướng tới mục tiêu là đưa Việt Nam vào thế vi phạm dân chủ, nhân quyền, từ đó soạn thảo các bản phúc trình, lập hồ sơ “những nạn nhân bị đàn áp bởi tình trạng vi phạm nhân quyền ở Việt Nam”, vận động tổ chức các diễn đàn, tạo cơ hội cho số chống đối cực đoan trong và ngoài nước lên tiếng tố cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền, tự do tôn giáo trên diễn đàn quốc tế. Họ cũng không quên kêu gọi sự can thiệp của cộng đồng quốc tế vào tình hình nội bộ Việt Nam.

Theo dõi danh sách những người được trao “Giải thưởng nhân quyền Martin Ennals” từ năm 1994 đến năm 2022 cho thấy rõ sự bất công bằng trong cách điều hành của ban tổ chức khi đa số những người được trao giải đều đến từ các quốc gia vốn đã nằm trong “tầm ngắm” với quan điểm mà tổ chức này cho là thù địch vì đã lựa chọn con đường phát triển không theo ý muốn của một số thế lực quốc tế, đặc biệt họ hướng trọng tâm vào các nước thuộc khối XHCN, trong đó có Việt Nam. Chính vì thế, gần như tuyệt nhiên không thấy người ở các quốc gia vẫn thường xuyên có những hành động xâm phạm quyền con người, phân biệt chủng tộc một cách đáng lo ngại như Mỹ và một số nước phương Tây được nhận giải.

Phải chăng lâu nay các tổ chức HRW, AI, FIDH, FLD, HURIDOCS… đang cố tình tảng lờ, tránh đưa những sự việc đình đám về vi phạm dân chủ, nhân quyền tại các quốc gia trên. Trong khi mạng xã hội và các kênh truyền thông quốc tế đồng loạt đưa tin những hành vi, vụ việc vi phạm nhân quyền của nhiều quốc gia phương Tây nhưng những vấn đề đó đều bị họ phớt lờ đi. Điều đó cho thấy sự mất công bằng hay nói cách khác là trò hề của tổ chức nhân quyền Martin Ennals hay những tổ chức với danh xưng tương tự vẫn thực hiện lâu nay với các quốc gia mà họ cho rằng “đối nghịch”!

Để dẫn tới sự bất công bằng đó, một phần là do giám khảo “Giải thưởng nhân quyền Martin Ennals” gồm thành viên là các tổ chức lập giải thưởng nên chỉ lựa chọn người phù hợp ở các quốc gia theo mục đích của họ. Mặt khác, cơ sở để đánh giá, lựa chọn người trao giải dù được quảng bá bao gồm các tổ chức đang hoạt động ở mọi nơi trên thế giới nhưng điểm danh lại chỉ thấy chủ yếu tập hợp tình hình ở châu Phi, châu Á và nhất là các nước thuộc khối XHCN. Do đó, rõ ràng “Giải thưởng nhân quyền Martin Ennals” là công cụ quyền lực kép để các thế lực quốc tế sử dụng nhằm áp đặt những lệnh trừng phạt hoặc tạo cớ để can thiệp một cách thô bạo vào công việc nội bộ của các quốc gia mà họ xếp vào danh sách “thù địch” hoặc “thiếu thiện cảm”.

Lại giở trò lố “Giải thưởng nhân quyền Martin Ennals” -0

Giải thưởng nhân quyền Martin Ennals lột tả mối quan hệ cộng sinh

Theo dõi hoạt động của tổ chức nhân quyền Martin Ennals, có thế thấy rõ mục đích thâm hiểm của những người sáng lập ra giải thưởng này. Nó không hoàn toàn theo nghĩa tốt đẹp như đã nêu trên mà chính là nhằm tạo động lực về vật chất, chống lưng về tinh thần để hà hơi, tiếp sức, kích động số đối tượng chống đối ở trong và ngoài nước gia tăng các hoạt động chống phá Việt Nam.

Mặt khác, họ còn thông qua hình thức trao “giải thưởng nhân quyền” vừa nhằm khuếch trương thanh thế, tạo chỗ dựa cho các đối tượng chống đối trong nước và cũng là thủ đoạn để họ hợp thức hóa việc hỗ trợ về vật chất qua các phần thưởng có giá trị lớn. Cho nên “giải thưởng nhân quyền” chẳng khác nào là “mồi nhử” của các tổ chức đội lốt nhân quyền sử dụng để câu móc, lôi kéo và tạo dựng thêm những phần tử chống đối chính trị, những nhân vật có tư tưởng bất mãn, hám tiền bạc, sẵn sàng nhận lệnh và tiến hành các hoạt động chống phá ngay trong nước ta. Điều này càng minh chứng rõ ràng cho vấn đề mang tính quy luật, đó là các tổ chức ở bên ngoài dù có tiềm lực kinh tế mạnh nhưng không thể trực tiếp tiến hành chống phá Việt Nam mà phải thông qua số “chân rết” ở trong nước và ngược lại, các đối tượng chống đối ở nội địa cũng luôn trông ngóng các nguồn tài trợ từ bên ngoài để được chống lưng về vật chất lẫn tinh thần nhằm duy trì hoạt động.

Do vậy, “Giải thưởng nhân quyền Martin Ennals” được xem là động lực để các đối tượng chống đối tích cực chống phá. Đồng thời, thông qua giải thưởng này, các đối tượng có cơ hội đánh bóng tên tuổi bằng việc khoe khoang thành tích về số lần, số năm phải chấp hành hình phạt tù, hình phạt bổ sung của pháp luật hành chính, hình sự, qua đó tạo tiếng vang nhằm thu hút sự chú ý của các tổ chức thù địch, thiếu thiện chí với Việt Nam.

Thực tế thời gian qua cho thấy, ở Việt Nam đã xuất hiện không ít hội nhóm phản động, chống đối trong và ngoài nước đã được lập ra như “Hội anh em dân chủ”, “Hội bầu bí tương thân”, “Hội phụ nữ nhân quyền”, “Hội nhà báo độc lập”... với vỏ bọc đòi đấu tranh cho dân chủ, nhân quyền nhưng thực chất là nhằm tập hợp số chống đối chính trị, bất mãn để thực hiện các hành động chống phá Đảng, Nhà nước. Và muốn tồn tại, muốn có kinh phí tự nuôi sống bản thân, triển khai các hoạt động chống phá, các tổ chức này phải sống “dựa hơi” vào nhiều thế lực khác.

Một lần nữa chúng ta khẳng định rằng, các tổ chức đứng ra trao cái gọi là “Giải thưởng nhân quyền Martin Ennals” chưa bao giờ có thiện chí với Việt Nam. Thông qua giải thưởng, các tổ chức này vừa “lên dây cót” tinh thần, vừa giúp đỡ về vật chất cho các đối tượng chống phá trong nước tích cực hoạt động. Theo đó, “Giải thưởng nhân quyền Martin Ennals” đã bị đánh lận về mục đích, thực hiện không đúng theo tên gọi và chỉ là bình phông cho các tổ chức này thực hiện mưu đồ chống phá. Trong thời gian tới, để tiếp tục dung dưỡng cho các phần tử chống phá Việt Nam, “Giải thưởng nhân quyền Martin Ennals” vẫn tiếp tục sẽ là chủ đề thu hút được sự quan tâm, chú ý.

Mặc dù mưu đồ của các thế lực thù địch, phản động là hết sức nguy hiểm, gây những hiểu nhầm trong dư luận nhưng trò lố đó không thể phủ nhận được những tiến bộ về nhân quyền của Việt Nam, nhất là trong thời kỳ đổi mới. Với việc Việt Nam trúng cử vào Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025 tiếp tục khẳng định mạnh mẽ và chứng minh hùng hồn, sống động những thành tựu to lớn của Việt Nam trên mọi lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực bảo vệ và bảo đảm quyền con người. Đồng thời, những thành tựu ấy càng làm cho những luận điệu, chiêu trò “trao giải nhân quyền” trở nên lố lăng, kệch cỡm.

Phạm Duy

Tỉnh táo với luận điệu “thúc đẩy tự do học thuật” nhằm phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng

Thứ hai, 23/10/2023 - 05:21

Đổi mới giáo dục theo hướng phát triển toàn diện con người Việt Nam, phát huy tối đa tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân, làm nền tảng cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đất nước phồn vinh và hạnh phúc là tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong thời kỳ mới của Đảng ta. Tuy nhiên, những năm gần đây, lợi dụng việc đổi mới trong giáo dục của ta, các thế lực thù địch, phản động tung ra luận điệu “thúc đẩy tự do học thuật” nhằm tách giáo dục ra khỏi chính trị, phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng.

Cảnh giác trước luận điệu “tự do học thuật” phi giai cấp

Theo nhiều học giả phương Tây, “tự do học thuật” được hiểu là “tự do của một người trong việc giảng dạy và nghiên cứu nhằm tìm kiếm sự thật không giới hạn mà không gặp phải nỗi sợ hãi về hình phạt hay mất việc vì đã xâm phạm một quan điểm chính thống về chính trị, tôn giáo hay xã hội”; hay “Tự do học thuật là sự tự do của người dạy và người học trong việc dạy, học, tìm hiểu kiến thức và nghiên cứu mà không có sự can thiệp hay giới hạn vô lý của pháp luật, nội quy hay áp lực công cộng”.

Những quan điểm đó đang được các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị chống phá cách mạng Việt Nam cổ xúy, tung hô. Cùng với đó, họ tổ chức “hội thảo khoa học” bàn về vấn đề này và kêu gọi học sinh, sinh viên Việt Nam đấu tranh cho cái gọi là “đòi quyền tự do học thuật”.

Theo những quan điểm trên thì giáo dục phải đứng ngoài chính trị, nhà nước và giai cấp cầm quyền không được quy định về nội dung giáo dục hay truyền bá, lồng ghép tư tưởng chính trị của mình vào việc đào tạo ra những thế hệ chủ nhân tương lai để bảo vệ quyền và lợi ích của chính giai cấp họ.

Tuy nhiên, quan điểm “tự do học thuật” theo ý nghĩa trên chưa bao giờ tồn tại trong xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp. Kể từ khi chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất ra đời, giai cấp chủ nô đã xem giáo dục là công cụ để thực hiện mục đích chính trị và bảo vệ nền chính trị, họ đã lợi dụng những tôn giáo có tầm ảnh hưởng lớn để thâu tóm quyền lực, lợi dụng kinh thánh, giáo lý của các tôn giáo này để mị dân, ru ngủ, thủ tiêu tinh thần, ý chí phản kháng của quần chúng nhân dân nhằm bảo vệ quyền lợi cho giai cấp mình.

Tỉnh táo với luận điệu “thúc đẩy tự do học thuật” nhằm phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng
Ảnh minh họa: TTXVN 

 

Sang thời kỳ phong kiến, tầng lớp vua quan, quý tộc, địa chủ đã tìm mọi cách để nhồi nhét vào đầu óc của quần chúng nhân dân tư tưởng “trung quân” (trung với vua); trong dạy học và giáo dục thì coi trọng truyền bá cho người học những tư tưởng xem vua là thiên tử, “lệnh vua là mệnh trời”, “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung”.

Trong thời kỳ tư bản chủ nghĩa, sau khi lợi dụng được quần chúng nhân dân lật đổ chế độ phong kiến, giai cấp tư sản lại một lần nữa ra sức lợi dụng kinh thánh, giáo lý của những tôn giáo lớn hoặc thông qua nền giáo dục tư bản chủ nghĩa để truyền bá những tư tưởng tư sản. Bên cạnh đó, họ còn tung ra những chiêu bài với cái gọi là “tự do”, “dân chủ” theo kiểu hỗn độn trong một khuôn khổ nhất định, khuyến khích lối sống không quan tâm đến xã hội để dễ quản lý và bóc lột.

Nhận thức đúng quan điểm mác-xít về vai trò to lớn của giáo dục

Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, quán triệt quan điểm của C.Mác: “Lý luận cũng có thể trở thành lực lượng vật chất một khi nó thâm nhập vào quần chúng”, những người cộng sản đã làm cho Chủ nghĩa Mác-Lênin trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong phong trào công nhân thế giới, tạo nên một sức mạnh góp phần lật đổ ách thống trị của phong kiến, đế quốc, thực dân. Thực tiễn đã chứng minh rằng, nếu muốn cầm quyền, đảng chính trị (chính đảng) nhất thiết phải có một nền tảng tư tưởng riêng, không được tách rời và cần phải ra sức truyền bá nền tảng tư tưởng đó vào lực lượng quần chúng của mình, trừ khi muốn biến nó thành một đảng hay một tổ chức khác. V.I.Lênin đã khẳng định: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”, “Chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong”.

Vận dụng trung thành và sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định vị trí, vai trò vô cùng to lớn của giáo dục. Người chỉ rõ nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục vì con người, có vai trò huấn luyện, bồi dưỡng, phát triển toàn diện con người Việt Nam mới xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ của nền giáo dục là “phải phục tùng đường lối chính trị của Đảng và Chính phủ, gắn liền với sản xuất và đời sống của nhân dân. Học phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tế”.

Chống việc lợi dụng “tự do học thuật” với dụng ý chính trị xấu

Ở Việt Nam, những năm gần đây, nhất là khi Luật Giáo dục đại học năm 2012 được ban hành (sửa đổi, bổ sung năm 2018), nhiều ý kiến trong và ngoài nước cho rằng cần “thúc đẩy tự do học thuật” để đưa nền giáo dục Việt Nam bắt kịp thế giới. Một số ý kiến còn đưa ra những dẫn chứng về cơ sở pháp lý cho rằng tự do học thuật được quy định trong Hiến pháp và pháp luật của Việt Nam. Họ đã trích Điều 25 Hiến pháp năm 2013 của nước ta: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình” và luận giải rằng, quyền tự do học thuật hàm chứa trong quyền tự do ngôn luận đã được hiến định từ lâu. Họ còn trích khoản 3, Điều 32 Luật Giáo dục đại học năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2018) quy định: “Cơ sở giáo dục đại học có quyền tự chủ trong học thuật, trong hoạt động chuyên môn”; khoản 7, Điều 55 của Luật này quy định giảng viên có quyền “độc lập về quan điểm chuyên môn trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học” và cho rằng cách diễn đạt này thể hiện tinh thần của quyền tự do học thuật.

Trên thực tế, Hiến pháp và pháp luật của Việt Nam chưa có một văn bản nào quy định về tự do học thuật theo kiểu “tự do của một người trong việc giảng dạy và nghiên cứu nhằm tìm kiếm sự thật không giới hạn mà không gặp phải nỗi sợ hãi về hình phạt hay mất việc vì đã xâm phạm một quan điểm chính thống về chính trị, tôn giáo hay xã hội”, mà chỉ quy định về việc tự do ngôn luận, tự chủ về việc giáo dục, đào tạo theo luật định. Khoản 11, Điều 1 Luật Giáo dục đại học năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2018) quy định: “Quyền tự chủ là quyền của cơ sở giáo dục đại học được tự xác định mục tiêu và lựa chọn cách thức thực hiện mục tiêu; tự quyết định và có trách nhiệm giải trình về hoạt động chuyên môn, học thuật, tổ chức, nhân sự, tài chính, tài sản và hoạt động khác trên cơ sở quy định của pháp luật và năng lực của cơ sở giáo dục đại học”. Khoản 7, Điều 55 của Luật này cũng quy định: Giảng viên có quyền “độc lập về quan điểm chuyên môn trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học trên nguyên tắc phù hợp với lợi ích của Nhà nước và xã hội”.

Như vậy, những quy định của Luật Giáo dục đại học hiện hành quy định rõ các cơ sở giáo dục đại học có quyền tự chủ trong việc ban hành, tổ chức thực hiện tiêu chuẩn, chính sách chất lượng, mở ngành, tuyển sinh, đào tạo, hoạt động khoa học-công nghệ, hợp tác trong nước và quốc tế nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật và những chuẩn mực đạo đức, thuần phong mỹ tục của xã hội Việt Nam, phù hợp với lợi ích của Nhà nước và xã hội Việt Nam, hoàn toàn không quy định về việc người dạy và người học có thể tự do bày tỏ quan điểm, nghiên cứu những vấn đề không chịu sự ràng buộc của quan điểm chính trị hay tôn giáo.

Tự do học thuật ở Việt Nam cần được hiểu là việc người dạy và người học có quyền lựa chọn những vấn đề nghiên cứu, phương pháp giảng dạy và học tập phù hợp với thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam, phù hợp với chuẩn mực đạo đức của con người mới xã hội chủ nghĩa và quy định của pháp luật Việt Nam vì mục tiêu phát triển toàn diện con người Việt Nam; phát huy tối đa tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Tỉnh táo để đi đúng hướng

Thực chất việc “thúc đẩy tự do học thuật” mà các thế lực thù địch rêu rao là đặt giáo dục ra ngoài chính trị, nhưng đây chính là một thủ đoạn nhằm phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, phá hoại văn hóa và truyền thống của dân tộc ta, làm cho giáo dục không thể thực hiện được chức năng giáo dục nhân cách, chức năng định hướng tư tưởng, xây dựng niềm tin cho người học. Chính vì vậy, mọi cán bộ, đảng viên, nhân dân, nhất là những người làm công tác giáo dục cần phải hết sức tỉnh táo để công cuộc đổi mới nền giáo dục Việt Nam đi đúng hướng.

Giáo dục là công cụ sắc bén nhất để bảo vệ chính trị, là vấn đề cốt lõi, quyết định đến sự tồn tại, phát triển của một quốc gia, dân tộc; chính giáo dục cùng với hệ thống pháp luật làm cho hệ tư tưởng của giai cấp thống trị trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong xã hội. Vì vậy, các cấp ủy đảng, chính quyền, cơ quan, đoàn thể, nhà trường cần làm tốt công tác tuyên truyền, làm cho mọi cán bộ, đảng viên, nhân dân, nhất là đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục và học sinh, sinh viên hiểu đúng vai trò của giáo dục đối với sự tồn vong của chế độ, với sự tồn tại, phát triển của quốc gia, dân tộc, hiểu đúng ý nghĩa của thuật ngữ “tự do học thuật” và việc thực hiện quyền tự chủ trong học thuật của các cơ sở giáo dục.

Trong đổi mới giáo dục và thực hiện quyền tự chủ về học thuật, các cơ sở giáo dục-đào tạo cần tuân thủ nghiêm túc những quy định của Hiến pháp và pháp luật; việc đổi mới và thực hiện quyền tự chủ về học thuật phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức, văn hóa, truyền thống của dân tộc, vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Chủ nghĩa Mác-Lênin được cấu thành bởi 3 bộ phận là triết học Mác-Lênin, kinh tế chính trị Mác-Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học. Trước đây, 3 bộ phận này được tổ chức giảng dạy bài bản, chuyên sâu trong chương trình đào tạo đại học. Tuy nhiên những năm gần đây, do giảm thời lượng lý thuyết, tăng thời lượng thực hành, một số cơ sở giáo dục đã và đang có biểu hiện xem nhẹ việc giảng dạy 3 môn học quan trọng này. Mặt khác, việc lựa chọn các môn lý luận tự chọn của sinh viên hiện nay chủ yếu dựa vào cảm tính và tự tìm hiểu qua các lớp học trước nên động cơ, thái độ học tập của các em có thời điểm chưa đúng đắn, chưa tích cực.

Chính vì vậy, các cơ sở giáo dục cần cân nhắc kỹ lưỡng việc quy định tên của môn học, việc cắt giảm thời lượng lý thuyết, nhất là thời lượng dạy học 3 môn cấu thành nên Chủ nghĩa Mác-Lênin, đồng thời làm tốt công tác quy định, định hướng cho việc lựa chọn các môn học tự chọn, các nội dung nghiên cứu của người học. Trong tình hình hiện nay, thực hiện nghiêm túc, hiệu quả việc giảng dạy, giáo dục lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin trong các cơ sở giáo dục đại học cũng là một giải pháp hữu hiệu để góp phần phòng ngừa việc lợi dụng “tự do học thuật” nhằm phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng.

Đại tá, Thạc sĩ TRƯƠNG THANH QUẢNG (Hệ Chiến dịch-Chiến lược, Học viện Quốc phòng)

Trị bệnh “ngáo chữ” trong hội thảo

Thứ năm, 19/10/2023 - 05:43

Hội thảo là một dịp quan trọng để các đại biểu phát huy trí tuệ, tâm huyết, luận bàn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực tiễn. Thế nhưng đáng buồn thay, không ít đại biểu lại xem hội thảo như sân khấu để phô trương, chứng tỏ bản thân với những mỹ từ sáo rỗng. Hành vi ấy là biểu hiện của căn bệnh “ngáo chữ”, khiến không ít hội thảo trở nên thiếu dân chủ, thiếu khoa học, gây lãng phí, nguy cơ dẫn tới nhiều mối nguy, hệ lụy.

Mối nguy từ bệnh “ngáo chữ”

Tại một cuộc hội thảo của ngành, chủ đề được xác định khá thiết thực, có ý nghĩa cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Một nữ đại biểu trước hội thảo báo với ban tổ chức: “Bài tham luận của tôi dài 3 trang đã được in trong kỷ yếu nên tôi xin phép không đọc lại để khỏi làm mất thời giờ”. Một vị chủ tọa liền nói: “Không, cô cứ đọc bài tham luận của mình để bảo đảm đúng thời gian”. Những tưởng đã xong, nữ đại biểu nọ sau khi đọc xong tham luận của mình, liền xin phép chia sẻ một số “điều tâm huyết bấy lâu”. Chẳng quan tâm phía dưới nghĩ gì, nữ đại biểu cứ phát biểu tràng giang đại hải, khoe mẽ, tung hô, kể lể quá trình mình làm việc khó khăn thế nào, thành tích ra sao, rồi lên án, phê phán cá nhân này, tổ chức khác, khiến nhiều người nghe tỏ vẻ bức bối, khó chịu; ban tổ chức phải nhiều lần ngắt lời mới dừng được nữ đại biểu. Một số người chứng kiến tỏ ra ái ngại: Hội thảo chứ có phải buổi liveshow cá nhân đâu mà “ngáo chữ” đến vậy?

Thực tế, tại nhiều hội thảo hiện nay, bên cạnh những ý kiến tâm huyết, đi sâu vào vấn đề trọng tâm, cống hiến nhiều luận cứ khoa học, có tính lý luận và thực tiễn thì chúng ta vẫn gặp khá nhiều trường hợp bị “ngáo chữ” như vậy. Biểu hiện thường thấy của căn bệnh này là người phát biểu thao thao bất tuyệt, kiểu “nói như rồng leo”, không bám sát nội dung đề dẫn hội thảo, các vấn đề cốt lõi, những khó khăn, hạn chế, đề xuất giải pháp mà lại lạc đề, sa vào kể lể, tung hô thành tích bằng những mỹ từ sáo rỗng, sáo ngữ, lập ngôn, vừa máy móc, vừa thiếu khoa học, thiếu dân chủ. Thậm chí có đại biểu bước lên diễn đàn thì quên mất mình là ai, bỗng hóa thành “anh hùng”, có quyền phê phán, lời lẽ cay độc với người này, người nọ, tự huyễn hoặc bản thân... Lại có đại biểu “ngáo chữ”, không biết mình đang nói cái gì, nói đến đâu. Ngôn ngữ thì “đao to búa lớn”, sặc mùi sính ngoại, câu nào cũng phải thêm vào vài từ tiếng Anh như: “4.0”; thời đại “@”, “business”... mà quên mất rằng ngồi phía dưới toàn là các bậc tiền bối khoa học nước nhà.

Trị bệnh “ngáo chữ” trong hội thảo
 Ảnh minh họa. Ảnh: tuoitre.vn

Xét về mặt ngữ nghĩa, “ngáo chữ” và “sáo ngữ” hay “ngộ chữ” đều có nét tương đồng với nhau, ấy là hành vi đều dùng lời nói theo dạng rập khuôn máy móc, không truyền tải thông tin cần thiết, thiếu lý luận, thiếu thực tiễn. Nếu như “sáo ngữ” là hành vi người nói có dụng ý dùng lời lẽ mỹ miều, bùi tai, thuận chiều để “che lấp” những vấn đề không muốn nói, thì “ngáo chữ” là hành vi người nói không kiềm chế được lời nói của mình, ảo tưởng về bản thân, thậm chí là hành động phụ họa không bình thường trên hội thảo. Hành vi này vừa gây mất thời gian hội thảo, vừa vô bổ, lạc lõng, phiến diện. Người nghe vì thế cảm thấy mình như là “nạn nhân”, bị tra tấn tinh thần. Thậm chí, có chuyên gia còn đem so sánh hành vi “ngáo đá” và “ngáo chữ” trong các hội thảo trá hình xuất hiện lâu nay; tuy khác nhau về hành vi nhưng đều có điểm chung đó là nói về những đối tượng không còn ý thức được hành vi của mình, thường có hành động gây nguy hiểm cho bản thân, gia đình và cộng đồng.

Bệnh “ngáo chữ” có nhiều nguyên nhân, song cơ bản bắt nguồn sâu xa từ thói phô trương, ưa hình thức, sính dùng từ ngữ to tát, mỹ miều để chứng tỏ bản thân là người học cao, hiểu rộng, am tường thời cuộc, trí tuệ hơn người... Hành vi này thật sự nguy hiểm khi nó lan truyền từ người này sang người khác, bởi hiệu ứng “con gà tức nhau tiếng gáy”. Những người “ngáo chữ” chẳng những gây bực tức cho người nghe mà còn làm ảnh hưởng đến nội dung chương trình, kịch bản, chất lượng của cuộc hội thảo. Các vấn đề mang tính khoa học, lý luận và thực tiễn không được tập trung bàn luận, tháo gỡ, thậm chí đi lệch hướng, không bảo đảm tính khoa học, thiếu dân chủ, thiếu khách quan.

Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII của Đảng chỉ rõ những biểu hiện: “Nói không đi đôi với làm; hứa nhiều làm ít; nói một đằng, làm một nẻo; nói trong hội nghị khác, nói ngoài hội nghị khác; nói và làm không nhất quán giữa khi đương chức với lúc về nghỉ hưu...”, được xác định là một trong số những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Bệnh “ngáo chữ” trong hội thảo, sáo rỗng, phát biểu xa rời thực tiễn chính là nguyên nhân làm mất niềm tin của nhân dân, cấp dưới, về lâu dài là mối nguy xói mòn niềm tin trong Đảng, kìm hãm sự phát triển của xã hội.

Mạnh mẽ thay đổi tư duy, thực hành nói đi đôi với làm

Hội thảo là cuộc gặp gỡ của những đại biểu có cùng mối quan tâm về một vấn đề khoa học hoặc thực tiễn cấp thiết. Cái đích cao nhất của hội thảo là đi đến tận cùng các vấn đề tri thức khoa học, tìm ra giải pháp để giải quyết vấn đề mà thực tiễn đang cần, lòng dân đang mong. Sẽ rất đáng quý nếu các đại biểu mang đến hội thảo những ý kiến hay, phát kiến mới, đóng góp cho nội dung trọng tâm hội thảo, giải quyết những khâu khó, việc yếu, cấp thiết.

Để hội thảo đạt hiệu quả thực chất, việc trước hết và quan trọng hàng đầu hiện nay là đòi hỏi những người đứng đầu, những người làm công tác tổ chức cần thay đổi tư duy, đặt ra yêu cầu cao trong công tác chuẩn bị và vận hành hội thảo. Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6-2021, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã chỉ đạo cần tiếp tục đổi mới cách thức tổ chức các phiên họp, từ khâu tổ chức, báo cáo tới khâu thảo luận, phát biểu. Trong đó, việc xây dựng các báo cáo phải theo hướng ngắn gọn, súc tích, dễ nghe, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm, dễ kiểm tra, dễ đánh giá, tập trung vào những công việc trọng tâm...

Với tinh thần ấy, đã đến lúc cần kiên quyết nói không với bệnh “ngáo chữ” trong hội thảo. Cần phải xem đây là hành vi lệch chuẩn và vi phạm kịch bản, quy định của hội thảo để kịp thời xử lý. Theo đó, trước mỗi cuộc hội thảo, ban tổ chức cần phải xem xét, xây dựng kỹ lưỡng kịch bản, các đại biểu tham luận; trong đó làm rõ yêu cầu về thời gian, chủ đề, ý kiến phản biện... Việc mời các đại biểu tham luận, đóng góp ý kiến phải được xem xét phù hợp; đó phải là những người có học vấn, am hiểu, chuyên sâu về lĩnh vực hội thảo; có lý lịch khoa học tốt. Tránh việc mời đại biểu tham luận như một dịp để tri ân và giải quyết những mối quan hệ trong công tác. Quá trình điều hành hội thảo, người chủ trì cần linh hoạt, có phương pháp xử lý kịp thời, dứt khoát với các đại biểu mắc bệnh “ngáo chữ”.

Bản thân các đại biểu tham luận tại hội thảo cần phải xem đây là cơ hội quan trọng để đóng góp tâm huyết, trí tuệ, sáng kiến cho hội thảo. Từng người cần tích cực, chủ động nghiên cứu kỹ lưỡng chủ đề hội thảo và chắt lọc, cân nhắc kỹ lưỡng vấn đề mà mình được tham luận, bảo đảm tính lý luận, thực tiễn, thiết thực. Tránh trường hợp nói trong hội thảo khác, ra ngoài hội thảo nói khác, hay nói trong kỷ yếu khác nhưng tham luận trực tiếp lại khác. Hội thảo là cuộc hội ngộ của các chuyên gia, nhà khoa học, các đại biểu, thành công của cuộc hội thảo đó là công sức, trí tuệ, tâm huyết của tập thể được kết tinh, đúc rút, cung cấp nhiều luận cứ về mặt lý luận và thực tiễn, góp phần giải quyết thấu đáo vấn đề mà quần chúng nhân dân mong chờ. Bởi vậy, đứng trước hội thảo, mỗi đại biểu cần phải khiêm tốn, đúng mực, tránh hành vi lộng ngôn, cao ngạo, tự cho mình cái quyền được phê phán người này, người nọ. Muốn vậy, mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng trau dồi kỹ năng, chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức khoa học cả về lý luận và thực tiễn.

Một tham luận hay trong hội thảo cũng không phải là đọc nguyên văn như một bản báo cáo thành tích đã soạn sẵn, mà cần phải có những yếu tố phản biện, tranh luận, đóng góp, phát kiến. Bởi vậy cần phân biệt rõ việc phản biện và bệnh “ngáo chữ” trong hội thảo. Phản biện được hội thảo ghi nhận, đánh giá cao nếu đại biểu tham luận nêu lên được cái mới, tính đột phá, sáng tạo, thể hiện tinh thần dám nghĩ, dám nói, dám đột phá sáng tạo. Còn “ngáo chữ” lại là hành vi đáng phê bình bởi lối hoang tưởng, ảo tưởng sức mạnh cá nhân, khoe mẽ, sáo rỗng.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm nhắc nhở, giáo dục cán bộ, đảng viên phải nói những điều thiết thực, dễ hiểu, dễ thực hiện, tránh lời nói đao to búa lớn, sáo rỗng, nói không đi đôi với làm. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” được Người viết năm 1947 với bút danh X.Y.Z, Bác chỉ rõ “ba chứng bệnh phải tẩy sạch” đó là bệnh chủ quan, bệnh hẹp hòi và bệnh ba hoa. Người yêu cầu: Phải tự phê bình và phê bình nghiêm khắc khi mắc vào những bệnh rất có hại ấy và phải quyết tâm sửa chữa trong tư tưởng và trong hành động, trong các mối quan hệ.

Trong bối cảnh toàn Đảng đang tích cực đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới phong cách lãnh đạo, phương pháp công tác, lề lối làm việc trong các cơ quan của Đảng từ Trung ương tới cơ sở, bảo đảm tính khoa học, dân chủ, sâu sát, cụ thể, thì việc nói không với bệnh “ngáo chữ” trong hội thảo như nêu ở trên cần được nhận diện và sớm khắc phục. Muốn làm được điều này cần sự thay đổi trong tư duy của cả hệ thống chính trị, nhất là những người đứng đầu. Song hành với đó, mỗi cán bộ, đảng viên cần không ngừng tu dưỡng, rèn luyện, thực hành nói đi đôi với làm, gắn lý luận với thực tiễn, có như vậy mới tạo động lực cho sự phát triển nói chung.

TS PHẠM THỊ TRẦM

Người Mông ơn Đảng ấm no bản làng (bài cuối)

Thứ Năm, 19/10/2023, 08:55

Giá đắt cũng đã phải trả, ảo vọng về cái gọi là “Nhà nước Mông” cũng đã bị dập tắt. Bản làng người Mông trên mảnh đất Sơn La hôm nay, tất cả những ngôi nhà khang trang, những cung đường chạy tận tới nội bản, màu xanh ngát của cây ăn trái bên những cánh rừng pơ mu hùng vĩ,… có được kết quả đó là nhờ vào sự quan tâm đầu tư, hỗ trợ của Đảng, Nhà nước, chính quyền các cấp, và đặc biệt là mồ hôi, nước mắt và sự cần mẫn lao động của đồng bào Mông.

Trở lại xã vùng cao Suối Tọ, huyện Phù Yên sau những ngày chìm trong “màn sương mờ”, đến nay luồng sinh khí mới đã trở lại những bản làng người Mông. Được sự quan tâm, đầu tư của Đảng, Nhà nước cùng chính những nỗ lực của nhân dân, cuộc sống của đồng bào các dân tộc nói chung, dân tộc Mông tại Suối Tọ nói riêng ngày một cải thiện. Nhiều chương trình mục tiêu của Chính phủ như 134, 135, 167… đã được triển khai nhằm giúp đồng bào các dân tộc xóa đói, giảm nghèo. Tỷ lệ hộ đói nghèo mỗi năm đều giảm.

Anh_5-1697680602817.JPG
Người Mông trên khắp bản làng Sơn La ngày nay đã yên tâm chăm lo đời sống gia đình, tích cực trồng trọt nâng cao đời sống kinh tế.

Đường giao thông đã được thông suốt từ tỉnh đến huyện, từ huyện đến các xã. Nhiều chủ trương được thực hiện có hiệu quả tại vùng cao như: Chính sách hỗ trợ người nghèo trong vùng đồng bào DTTS theo tinh thần Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19/6/2020 của Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030, Nghị định số 28/2022/NĐ-CP ngày 26/4/2022 của Chính phủ về chính sách tín dụng ưu đãi thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030... Nhưng Suối Tọ cũng là địa phương bị tác động bởi luận điệu tuyên truyền lập “Nhà nước Mông”...

Là một người sống ở bản Trò, xã Suối Tọ, anh Mùa A Say cũng đã nghe lời dụ dỗ của kẻ xấu đi sang Lào tham gia hoạt động lập “Nhà nước Mông”. Đến nay, sau khi mãn hạn tù, trở về địa phương, anh đã nhận ra việc làm của mình là sai trái, vi phạm pháp luật của nhà nước Việt Nam; chỉ vì nghe theo kẻ xấu, anh đã trở thành một người con phản bội lại nơi chôn nhau cắt rốn của mình, phản bội lại tổ tiên, đất nước.

Anh Say tâm sự, vì gia đình đông con, có lúc cuộc sống hết sức khó khăn, kẻ xấu lại lôi kéo anh đưa gia đình trốn đi nước ngoài với hứa hẹn sẽ có cuộc sống giàu sang, không làm cũng có ăn. Giờ đây, anh đã nhận ra rằng, mình là người Mông của Việt Nam, tổ tiên, cha ông là người Việt Nam thì mình chỉ ở Việt Nam, sống, lao động cùng với gia đình, vợ con. Anh sẽ luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước. Với anh, dù là người Mông, người Mường, người Kinh, người Thái… hay bất cứ dân tộc nào đều có ước muốn một gia đình hạnh phúc, no đủ, con cái được học hành.

Cũng như Mùa A Say, anh Hờ Nệnh Tùng – bản Co Dâu, xã Nậm Ty, huyện Sông Mã cũng nghe theo luận điệu tuyên truyền của kẻ xấu đã rủ người thân đi may cờ, may quần áo để chuẩn bị cho việc lập “Nhà nước Mông”, sau khi được tuyên truyền, vận động, thuyết phục anh đã nhận ra mình bị lừa phỉnh, anh rất hối hận, giờ đây đã chuyên tâm vào lao động, sản xuất để xây dựng cuộc sống mới. Từ xa xưa người Mông đã có câu hát “Con chim có tổ - Người Mông có quê…”, câu hát ấy không chỉ là sự nhắc nhở mà còn hàm chứa một niềm tự hào dân tộc và một tình yêu đất nước thiêng liêng. Mấy chục năm nay, Đảng và Chính phủ cũng luôn mong muốn bà con chấm dứt du canh, du cư, muốn bà con ổn định cuộc sống, đẩy mạnh cày cấy, phát triển chăn nuôi, mở mang ngành nghề. 

Là người dân tộc Mông, nhiều năm nay làm lãnh đạo, hơn ai hết ông Thào A Sử, Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy Sông Mã, ông Chá A Của - Phó Chủ tịch HĐND tỉnh Sơn La hiểu rõ nhất về đồng bào người Mông nơi đây; thời gian gần đây, một số đồng bào dân tộc Mông đã bị kẻ xấu lợi dụng, xúi giục làm những điều trái với luân thường đạo lý, trái với tập quán của người Mông bản địa, bỏ bàn thờ, tổ tiên để đi theo tà đạo Bà Cô Dợ…. rồi may quần áo, cờ, mũ để đi theo cái gọi là thành lập “Nhà nước Mông”.

Theo Đại tá Vì Quyền Chứ, Phó Giám đốc Công an tỉnh Sơn La, thời gian qua, lực lượng Công an đã thường xuyên củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng của các mô hình, tổ An ninh nhân dân (ANND), phát động sâu rộng phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ, huy động sức mạnh cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng Công an làm nòng cốt. Gắn phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ với các phong trào khác như “Xóa đói giảm nghèo”; Cuộc vận động “Toàn dân xây dựng nông thôn mới”; “5 có 5 không”… Nâng cao hoạt động của các mô hình đảm bảo ANTT như: Tổ ANND, tổ hòa giải, tổ PCCC và các nhóm liên gia tự quản theo Chỉ thị số 01/CT-TTg, ngày 9/1/2015 của Thủ tướng Chính phủ về “Tổ chức phong trào toàn dân bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia trong tình hình mới” và Đề án 05 của Bộ Công an về “Công tác Công an phòng ngừa, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái thù địch trong tình hình mới”. Góp phần đảm bảo ANTT trong vùng đồng bào dân tộc Mông trên địa bàn toàn tỉnh Sơn La. Trở lại các bản làng người Mông hôm nay, những nương, những đồi thuốc phiện ngày xưa, nay đã được trồng thành rừng cây nông nghiệp, cây công nghiệp cho hiệu quả kinh tế cao; cuộc sống của bà con nay đã được ấm no, trẻ em được đi học.

Ngày 07/5/1956, nhân kỷ niệm một năm ngày thành lập khu tự trị Thái – Mèo, 2 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, Bác Hồ đã gửi thư cho toàn thể CBCS và nhân dân Tây Bắc, trong thư có đoạn viết: “Phải đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc các tầng lớp nhân dân, yêu thương nhau, giúp đỡ nhau, dìu dắt nhau cùng tiến bộ… Phải luôn tỉnh táo, sẵn sàng giúp đỡ Bộ đội và Công an chống lại âm mưu của địch, chia rẽ dân tộc và phá hoại đời sống của bản mường”.

Khắc ghi lời dạy của Người, những năm qua, mặc dù còn có những khó khăn trong cuộc sống thường nhật, song nhìn chung, đồng bào các dân tộc Sơn La đã nêu cao truyền thống tốt đẹp, anh dũng chiến đấu, cần cù sáng trong lao động, từng bước chiến thắng lạc hậu, đói nghèo. Nhiều vùng đồng bào dân tộc như ở vùng cao, biên giới Mộc Châu, Vân Hồ, Sông Mã, Sốp Cộp… là những điển hình xuất sắc trong phong trào phát triển sản xuất, ổn định chính trị xã hội, giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc. Phát huy những thành tích đã đạt được, bà con đang thi đua áp dụng những thành tựu khoa học – kỹ thuật vào đồng ruộng, phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, phát triển các loại cây ăn quả trên vùng đất dốc…. Thực tế đó đã chứng minh rằng chỉ có một lòng một dạ theo Đảng, theo Chính phủ, theo Bác Hồ thì làng bản mới được bình yên, gia đình mới được hạnh phúc, cuộc sống mới được ấm no. Câu nói ấy chứa đựng trong đó cả một phương châm cuộc sống, một chân lý cách mạng, đúc kết từ chính những người Mông…

Kết quả đấu tranh với các đối tượng đi theo cái gọi là “Nhà nước Mông” trên địa bàn tỉnh Sơn La đã góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, vạch trần bản chất của các đối tượng lừa phỉnh, bịp bợm, gieo rắc thứ viển vông, huyễn hoặc này cho đồng bào Mông.

Đất không phụ công người, nhìn những bản làng đổi mới với các con đường rải nhựa thênh thang, lưới điện quốc gia được thắp sáng, niềm vui qua ánh mắt các em thơ trong lớp học… màu xanh của cây rừng, của những triền đồi bạt ngàn cây ăn trái là thành quả của sự nỗ lực từng ngày, từng giờ của đồng bào Mông nơi đây với khát vọng đổi thay có một cuộc sống ấm no hơn thuở trước.

Hồng Anh – Cao Thiên

Giá đắt cho việc lầm đường lạc lối (Bài 2)

Thứ Tư, 18/10/2023, 08:38

Với những lời lẽ mĩ miều, như mật ngọt bên tai, lợi dụng sự hiểu biết còn nhiều hạn chế và sự nhẹ dạ, cả tin của một bộ phận đồng bào Mông, các đối tượng đã vẽ ra một “bức tranh tiên cảnh” về một cuộc sống “không làm cũng có ăn”, “bông lúa to như đuôi trâu”… và rất nhiều thứ viển vông khác. Từ là những người dân thật thà chất phác, do bị dụ dỗ, lôi kéo rồi kết quả phải trả giá đắt cho hành động của mình.

Sơn La có diện tích hơn 14.000km2, cùng 274km đường biên giáp nước CHDCND Lào, đồng bào Mông sinh sống rải rác ở khắp các bản làng vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới ở Sơn La. Các đối tượng đã lợi dụng địa hình rộng và địa bàn cư trú phức tạp, tiến hành truyền đạo trái pháp luật, tuyên truyền thành lập các tổ chức phản động. Đặc biệt các đối tượng này còn lợi dụng đời sống của đồng bào dân tộc Mông ở nhiều địa bàn còn khó khăn, tuyên truyền, xuyên tạc các đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Tất cả những hoạt động dưới cái gọi là “Nhà nước Mông” đều có bàn tay đạo diễn từ các thế lực thù địch ở nước ngoài.

anh 1.jpg -0
Một số đối tượng trong Chuyên án P915 trước vành móng ngựa.

Qua công tác nắm tình hình, Công an tỉnh Sơn La phát hiện một số người dân tộc Mông ở xã Suối Tọ, huyện Phù Yên và xã Háng Đồng, huyện Bắc Yên, tỉnh Sơn La gửi cho nhau xem qua điện thoại một số video clip có hình ảnh kèm tiếng động, ngôn ngữ Mông về cái gọi là “Nhà nước Mông”. Một số đối tượng ở các huyện Sông Mã, Sốp Cộp còn tuyên truyền người dân cắm lá xanh, dựng bàn thờ mới không giống bàn thờ truyền thống của người Mông, may cờ, trang phục tuyên truyền lôi kéo người dân vượt biên giới sang Lào để tham gia quân đội Mông với mưu đồ thành lập “Nhà nước Mông”.

Ngoài ra, các đối tượng xấu còn lợi dụng vào đặc điểm đồng bào Mông luôn đề cao tính thân tộc, dòng họ, gắn kết cộng đồng. Bản chất của đồng bào là tốt bụng, chất phác, thật thà, suy nghĩ đơn giản, dễ tin... Với đồng bào, việc mang cùng họ nghĩa là anh em và họ sẵn sàng tin và giúp người cùng họ, cùng dân tộc ngay cả khi mới gặp lần đầu. Vì thế, các đối tượng luôn tận dụng triệt để điều này để xuyên tạc, kích động, lôi kéo đồng bào cho những âm mưu, ý đồ chống phá.

Để thực hiện triệt để luận điệu này, các đối tượng tung ra những thông tin mang tính chất hoang đường, lợi dụng việc mê tín dị đoan của một số người như “sắp có họa lớn”, “sắp đến ngày tận thế”... để lừa phỉnh, lôi kéo, làm cho đồng bào vừa hoang mang, lo sợ, vừa hy vọng vào sự xuất hiện của một vị cứu tinh nào đó để giúp đồng bào Mông trên khắp các bản làng thoát kiếp nghèo khó, nhưng không cần phải làm lụng vất vả.

Để tập trung đấu tranh, giải quyết ổn định tình hình ANCT trên địa bàn tỉnh, Ban thường vụ Đảng ủy, Ban giám đốc Công an tỉnh Sơn La đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo lực lượng Công an toàn tỉnh triển khai, thực hiện đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ nắm, phân tích, đánh giá, dự báo sát tình hình về âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động của các thế lực thù địch và phản động tác động vào địa bàn; chủ động xây dựng, triển khai các phương án, kế hoạch nghiệp vụ, xác lập chuyên án nhằm tập trung đấu tranh, bóc gỡ, vô hiệu hóa hoạt động tuyên truyền lập “Nhà nước Mông” trên địa bàn tỉnh Sơn La.

Tăng cường công tác chuyển hóa địa bàn, củng cố hệ thống chính trị ở cơ sở tại các địa bàn trọng điểm phức tạp bị tác động, ảnh hưởng của luận điệu tuyên truyền lập “Nhà nước Mông”, trong đó quan tâm tập trung giải quyết khó khăn, vướng mắc, nhất là những vấn đề bức xúc nổi lên trong nhân dân; tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục, pháp luật, vận động nhân dân ổn định cuộc sống, không tin, không nghe theo các luận điệu tuyên truyền của kẻ xấu.

Sau một thời gian dài, nhờ tập trung chỉ đạo đấu tranh quyết liệt, công tác đấu tranh với hoạt động lập “Nhà nước Mông” trên địa bàn tỉnh Sơn La đã đạt được kết quả tích cực; đến nay tình hình hoạt động lập “Nhà nước Mông” trên địa bàn tỉnh cơ bản đã được kiểm soát, ổn định; hệ thống chính trị ở cơ sở đã được củng cố, kiện toàn; các địa bàn bị tác động, ảnh hưởng hoạt động lập “Nhà nước Mông” đã được chuyển hóa, thu hẹp và dần ổn định; một số đối tượng liên quan được phát hiện kịp thời, đấu tranh, bóc gỡ, vô hiệu hóa đưa vào diện quản lý, giáo dục, giúp đỡ làm chuyển biến về tư tưởng, cam kết từ bỏ hoạt động, không tái phạm.

Kết quả đấu tranh Chuyên án P915, Công an tỉnh Sơn La đã khởi tố một vụ án hình sự, khởi tố bị can (19 bị can) về tội “Trốn đi nước ngoài nhằm chống chính quyền nhân dân”; truy tố, xử lý trước pháp luật 13 bị can (11 bị can ở tỉnh Sơn La; 2 bị can ở tỉnh Lai Châu) với các mức án từ 4 - 9 năm tù giam; truy nã 6 đối tượng. Đấu tranh Chuyên án M519, Công an tỉnh Sơn La đã phát hiện, khai thác, bóc gỡ 11/11 đối tượng, thu nhiều vật dụng liên quan hoạt động tuyên truyền lập “Nhà nước Mông” tại địa bàn huyện Sông Mã, Sốp Cộp, tỉnh Sơn La. Qua đấu tranh đã cơ bản làm rõ về âm mưu, ý đồ hoạt động, cơ cấu tổ chức, vị trí, vai trò của từng đối tượng, nhóm đối tượng trên địa bàn, kịp thời ngăn chặn, phá rã âm mưu, ý đồ hoạt động lập “Nhà nước Mông” hình thành tổ chức, hội, nhóm hoạt động chống đối phức tạp của đối tượng, nhóm đối tượng trên địa bàn tỉnh Sơn La. 

Tại cơ quan Công an, đối tượng Mùa A Kỷ khai, sau khi đi theo tiếng gọi của cái gọi là “Nhà nước Mông” mới vỡ lẽ giấc mộng đổi đời. Kỷ cho biết: “Vì tôi ở vùng sâu, vùng xa nên chưa hiểu biết pháp luật, đi theo các đối tượng bảo là có một “Nhà nước Mông” không làm cũng có ăn, tôi theo chúng sang tận bên Lào mới vỡ lẽ ra là không có “Nhà nước Mông” nào cả…”. Cũng như Mùa A Kỷ, Vàng A Gâu cũng do thiếu hiểu biết nên đã bị các đối tượng xấu dụ dỗ, lôi kéo, đến khi bị cơ quan chức năng bắt giữ mới vỡ lẽ “Tôi đã nhận ra cái sai của mình, tôi sẽ cố gắng cải tạo tốt, để mong ngày trở về địa phương và tuyên truyền cho bà con nhân dân rằng không có cái gọi là “Nhà nước Mông nào cả” – Gâu nói.

Hồng Anh – Cao Thiên

Ảo ảnh mang tên “Nhà nước Mông” (bài 1)

Thứ Ba, 17/10/2023, 06:43

Tại một số tỉnh phía Bắc, trong đó có tỉnh miền núi biên giới Sơn La, hoạt động lập cái gọi là “Nhà nước Mông” đã diễn ra ở một số địa bàn vùng cao, biên giới dưới sự “hà hơi, tiếp sức” của các đối tượng nước ngoài.

LTS: Các tổ chức người Mông lưu vong với sự hỗ trợ đắc lực của nước ngoài vẫn đang tăng cường việc tập hợp lực lượng, liên kết chặt chẽ với một số tổ chức phản động lưu vong móc nối chỉ đạo thực hiện âm mưu chống phá nước ta. Tại một số tỉnh phía Bắc, trong đó có tỉnh miền núi biên giới Sơn La, hoạt động lập cái gọi là “Nhà nước Mông” cũng đã diễn ra ở một số địa bàn vùng cao, biên giới dưới sự “hà hơi, tiếp sức” của các đối tượng nước ngoài. Sau nhiều năm kiên trì điều tra, xác minh và quyết liệt đấu tranh, Công an tỉnh Sơn La từng bước bóc gỡ hoạt động, vô hiệu hóa hoạt động của các đối tượng này, bắt giữ và đưa ra bản án thích đáng với nhiều đối tượng lầm đường lạc lối. Đồng thời tăng cường công tác vận động tuyên truyền bà con nhân dân ở các bản vùng cao không nghe, không tin lời của đối tượng xấu trước âm mưu lập “Nhà nước Mông” ly khai, tự trị.

Ảo ảnh mang tên “Nhà nước Mông” (bài 1)  -0
Một số cờ, biểu tượng “Nhà nước - Vương quốc Mông” của các đối tượng phản động. Ảnh: Lê Xuân Trình

Nằm trong một quốc gia đa dân tộc, đồng bào dân tộc Mông là một bộ phận quan trọng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Đồng bào Mông cư trú ở hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc và di cư vào một số tỉnh Tây Nguyên nhưng tập trung chủ yếu ở các tỉnh thuộc Đông và Tây Bắc Việt Nam như: Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La và Điện Biên… Trong lịch sử oai hùng chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam có một phần đóng góp to lớn của đồng bào Mông ở vùng Tây Bắc nói chung và ở tỉnh Sơn La nói riêng.

Mỗi giai đoạn cách mạng đều có sự chung sức, đồng lòng và tinh thần đoàn kết của toàn dân tộc, trong đó không thể không kể đến sự đóng góp của đồng bào Mông, từ thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ cứu nước cho đến thời kỳ đổi mới. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, đã có hàng trăm chương trình, dự án, kế hoạch… về các lĩnh vực của đời sống dân sinh, đầu tư cho vùng đồng bào các dân tộc thiểu số nói chung và đồng bào Mông tỉnh Sơn La nói riêng, bộ mặt nông thôn vùng sâu, vùng xa, vùng cao tại Sơn La đã căn bản thay đổi cả về lượng và chất. Điện, đường, trường, trạm được đầu tư xây dựng… Đó là những bằng chứng đầy thuyết phục, thể hiện tính ưu việt của chế độ XHCN.

Tuy nhiên, giữa lúc cuộc sống bà con các dân tộc đang yên ấm trong những nỗ lực tột bậc, những cố gắng không biết mệt mỏi của Đảng và Nhà nước, trong sự tự vận động vươn lên khẳng định mình của lớp lớp bà con người Mông thì luận điệu tuyên truyền, thành lập cái gọi là “Nhà nước Mông” của các thế lực thù địch, phần tử xấu tiếp tục xuất hiện ở một số xã, bản vùng sâu, vùng cao, biên giới của một số huyện trên địa bàn tỉnh Sơn La.

Ảo ảnh mang tên “Nhà nước Mông” (bài 1) -0
Đối tượng Mùa A Kỷ (tức Kỷ hói) là đối tượng cầm đầu số đối tượng trốn sang Lào với âm mưu thành lập “Nhà nước Mông”

Hoạt động lập “Nhà nước Mông” thực chất là hoạt động của số đối tượng phản động trong người Mông thuộc các tổ chức “Nhà nước Mông” ở nước ngoài (Mỹ, Thái Lan...) dưới sự hậu thuẫn của các thế lực thù địch câu kết, móc nối, chỉ đạo số đối tượng trong nước lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, đặc điểm tâm lý, phong tục, tập quán của người Mông để tuyên truyền, kích động, tư tưởng dân tộc hẹp hòi, ly khai, tự trị để dụ dỗ, lôi kéo người Mông trên thế giới, trong đó có người Mông Việt Nam tham gia nhằm tập hợp lực lượng thành lập “Nhà nước Mông”. Đây chính là một phần trong âm mưu chiến lược “Diễn biến Hòa Bình” của các thế lực thù địch.

Thời gian qua, tình hình hoạt động tuyên truyền lập “Nhà nước Mông” trên địa bàn tỉnh Sơn La tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp; các thế lực thù địch và bọn phản động trong người Mông ở bên ngoài tiếp tục triệt để lợi dụng vấn đề “dân tộc, tôn giáo”, trong dân tộc Mông, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, các đài phát thanh bằng tiếng dân tộc Mông ở Philippin, Thái Lan, Mỹ để tuyên truyền, kêu gọi người Mông trên địa bàn tỉnh tham gia lập “Nhà nước Mông” và thời gian gần đây, chúng thường xuyên sử dụng các trang mạng xã hội (Youtube, Facebook) đăng tải, phát tán các video, clip có nội dung tuyên truyền về hoạt động lập “Nhà nước Mông” để tuyên truyền, lôi kéo người Mông. Nội dung tuyên truyền: Người Mông phải có nhà nước riêng mới được sung sướng, mới có quyền lãnh đạo và bảo vệ chính người Mông; không phải lao động vất vả, ai gia nhập Nhà nước Mông sẽ có đất đai, sẽ được giữ chức vụ quan trọng… Tình hình trên đã tác động trực tiếp đến tư tưởng, tâm lý của một bộ phận đồng bào dân tộc Mông tỉnh Sơn La, đã có một bộ phận bị tác động, ảnh hưởng dẫn đến không yên tâm lao động, sản xuất, có tư tưởng ngóng chờ, ảo tưởng sẽ có “Vua Mông”, “Nhà nước Mông” như lời tuyên truyền của các đối tượng ở bên ngoài.

 Đại tá Vì Quyền Chứ, Phó Giám đốc Công an tỉnh, Thủ trưởng cơ quan ANĐT Công an tỉnh Sơn La cho biết, các đối tượng hiện nay lợi dụng vào sự thiếu hiểu biết của bà con đồng bào dân tộc Mông ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều hạn chế, tác động trực tiếp, cho bà con xem cả phim, video về các nước tiên tiến để kêu gọi, tác động lên vấn đề tôn giáo, dân tộc,… Các đối tượng còn viết các bài xuyên tạc bằng tiếng Mông Latin rồi móc nối, kêu gọi bà con đồng bào Mông ở vùng sâu, vùng xa đi theo cái gọi là “Nhà nước Mông”.

Ảo ảnh mang tên “Nhà nước Mông” (bài 1) -0
Số đối tượng cùng Mùa A Kỷ (Kỷ Hói) và Vàng A Lầu tham gia hoạt động thành lập “Nhà nước Mông” tại địa bàn tỉnh Sơn La (Ảnh: Công an tỉnh Sơn La).

Ngược dòng thời gian vào thời điểm năm 2003, do bị tác động, ảnh hưởng của luận điệu tuyên truyền của một số đối tượng phản động trong người Mông ở Lào do tên May Hờ cầm đầu, một số người dân tộc Mông, chủ yếu là thanh niên của huyện biên giới Sông Mã, Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, do nhẹ dạ, cả tin, ngộ nhận nghe theo kẻ xấu đã xuất cảnh trái phép sang Lào để xem “Vua Mông”, tham gia hoạt  động phỉ, lập “Nhà nước Mông”. Năm 2015, tại một số xã vùng cao thuộc huyện Bắc Yên, Phù Yên của tỉnh Sơn La xuất hiện các luận điệu tuyên truyền về “Nhà nước Mông” với các hình thức rỉ tai, truyền miệng; một số người dân tộc Mông trên địa bàn đã truyền tải cho nhau xem các đoạn video, clip có nội dung tuyên truyền như: “Vua Mông” sắp về Lào để thành lập “Nhà nước Mông”; sắp có chiến tranh xảy ra, đồng thời dụ dỗ, kích động người Mông đi sang Lào lập “Nhà nước Mông”.

Do bị tác động, ảnh hưởng nên đã có một số người dân tộc Mông ở địa bàn huyện Phù Yên, Bắc Yên xuất cảnh trái phép sang Lào tham gia hoạt động phỉ, thành lập “Nhà nước Mông”. Cho tới năm 2017, tại một số địa bàn trong tỉnh chủ yếu là địa bàn huyện biên giới Sông Mã và Sốp Cộp, xuất hiện một bộ phận người dân tộc Mông (chủ yếu là thanh niên) truy cập vào các trang mạng xã hội (Youtube, Facebook) để tìm hiểu về người Mông trên thế giới, trong đó có trang mạng tuyên truyền về “Nhà nước Mông” của các đối tượng ở Mỹ; do thường xuyên vào các trang mạng xã hội có nội dung tuyên truyền về “Nhà nước Mông” ở Mỹ nên một số đối tượng người dân tộc Mông đã bị tác động, ảnh hưởng và ảo tưởng về “Vua Mông”, “Nhà nước Mông” và có một số đối tượng trên địa bàn đã liên lạc trao đổi nhận sự chỉ đạo, hướng dẫn và có một số hoạt động như: may cờ, quần áo của “Nhà nước Mông”, cắm lá xanh, dựng bàn thờ... theo hướng dẫn của đối tượng bên ngoài.

Như vậy có thể nhận thấy hoạt động của các nhóm phản động âm mưu thành lập cái gọi là “Nhà nước Mông” đã gây bất ổn tình hình an ninh chính trị, trật tự ATXH với âm mưu thâm độc là phá vỡ khối đại đoàn kết các dân tộc. Từ những luận điệu sai trái, lừa bịp để kích động, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, những nỗ lực của cả hệ thống chính trị trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân các đối tượng đã vẽ ra những điều không có thật chèo lái dư luận hướng và đồng bào Mông từ đó đạt được mục đích phản động của chúng.

Hồng Anh – Cao Thiên

Không thể làm sai lệch bản chất “gỡ rối” và “kiến tạo”

Thứ hai, 16/10/2023 - 05:43

“Gỡ rối” và “kiến tạo” là nguyên tắc cơ bản trong triển khai thực hiện Nghị quyết số 98/2023/QH15 ngày 24-6-2023 của Quốc hội về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP Hồ Chí Minh (gọi tắt là Nghị quyết 98).

“Gỡ rối” và “kiến tạo” có mối quan hệ biện chứng, tạo nên tính thống nhất về nhận thức và hành động. Những thông tin xuyên tạc, cố tình làm sai lệch bản chất vấn đề do các đối tượng thù địch thực hiện, cần được nhận diện và kiên quyết đấu tranh, loại bỏ.

Những chuyển động tích cực trên thực tế

Nghị quyết 98 chính thức có hiệu lực từ ngày 1-8-2023. Sau hơn hai tháng triển khai thực hiện, thực tiễn hoạt động của bộ máy hành chính công đã ghi nhận những chuyển biến tích cực, khẳng định tính đúng đắn và hiệu quả của các cơ chế, chính sách đặc thù vượt trội.

Trong lúc hệ thống chính trị TP Hồ Chí Minh đang từng bước vận hành hiệu quả các cơ chế, chính sách đặc thù, thì trên không gian mạng thời gian qua lại xuất hiện nhiều thông tin xuyên tạc của các đối tượng xấu, gieo rắc tâm lý bi quan, hoài nghi, tiêu cực...

Tại cuộc gặp gỡ lãnh đạo các cơ quan thông tấn, báo chí Trung ương và TP Hồ Chí Minh, triển khai thực hiện Nghị quyết 98, đồng chí Phan Văn Mãi, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh nguyên tắc cốt lõi trong vận hành cơ chế, chính sách đặc thù của Nghị quyết 98 là “gỡ rối” và “kiến tạo”.

Nguyên tắc này cùng với hệ thống kế hoạch, chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết 98 được Thành ủy, HĐND, UBND TP Hồ Chí Minh quán triệt sâu sắc, trở thành phương châm hành động của cả hệ thống chính trị thành phố và cộng đồng doanh nghiệp.

Không thể làm sai lệch bản chất “gỡ rối” và “kiến tạo”

Nghị quyết 98 là sự cụ thể hóa về mặt luật pháp Nghị quyết số 31-NQ/TW ngày 30-12-2022 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển TP Hồ Chí Minh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Nghị quyết 98 là sự cụ thể hóa về mặt luật pháp Nghị quyết số 31-NQ/TW ngày 30-12-2022 của Bộ Chính trị về phương hướng, nhiệm vụ phát triển TP Hồ Chí Minh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Nghị quyết 98 là hệ thống những cơ chế, chính sách đặc thù, bảo đảm cho TP Hồ Chí Minh với vai trò là đô thị đầu tàu của cả nước, có hành lang pháp lý thông thoáng, có cơ chế, chính sách đặc thù vượt trội so với quy định pháp luật hiện hành nhằm tháo gỡ khó khăn, phát triển nhanh và bền vững. Các điều khoản quy định trong Nghị quyết 98 giúp TP Hồ Chí Minh “gỡ rối” những vướng mắc, bất cập về cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính, cơ chế vận hành của bộ máy hành chính công.

Thành phố được phân cấp, phân quyền mạnh, có quyền tự chủ, tự quyết đối với nhiều phân khúc, hạng mục, lĩnh vực kinh tế-xã hội, đặc biệt là trong quy hoạch, sử dụng nguồn nhân lực, phê duyệt các dự án đầu tư, triển khai các công trình trọng điểm, giải ngân vốn đầu tư công, xây dựng mô hình chính quyền đô thị, hoạt động của TP Thủ Đức-mô hình “Thành phố trong thành phố” đầu tiên của cả nước...

Như vậy, với Nghị quyết 98, Đảng, Nhà nước ta đã trang bị cho TP Hồ Chí Minh công cụ pháp lý vượt trội, đáp ứng yêu cầu đặt ra từ thực tiễn về cơ chế, chính sách để giải quyết những bất cập, vướng mắc nội tại. Trên cơ sở đó, thành phố phát huy nội lực, tận dụng mọi nguồn lực để “kiến tạo” chính sách mới, vừa phát triển kinh tế, vừa mở lối, tạo cơ sở để Đảng, Nhà nước bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện cơ chế, chính sách xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn mới.

Thực tế, sau hơn hai tháng có hiệu lực, Nghị quyết 98 đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, rõ nhất là sự đột phá ngay vào những “điểm nghẽn” đang tồn tại, gây cản trở, kìm hãm sự phát triển của thành phố. Kỳ họp lần thứ 11 của HĐND TP Hồ Chí Minh khóa X, cụ thể hóa Nghị quyết 98 vào từng nhiệm vụ, từng lĩnh vực, đã thông qua hơn 100 nghị quyết, tờ trình về cơ chế, chính sách, dự án...

Đồng chí Nguyễn Văn Nên, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy TP Hồ Chí Minh đánh giá, đây là kỳ họp HĐND “chưa từng có”. Các đại biểu đã thể hiện sự thống nhất cao, quyết tâm lớn, giải quyết một khối lượng công việc khổng lồ về cơ chế, chính sách, thủ tục hành chính. Đó chính là biểu hiện sinh động của “gỡ rối”. Có “gỡ rối” suôn sẻ thì mới tạo hành lang thông thoáng để “kiến tạo” phát triển. “Gỡ rối” để “kiến tạo”, “kiến tạo” cách “gỡ rối”, vừa “gỡ rối” vừa “kiến tạo”... đó là phương châm hành động để các cơ chế, chính sách đặc thù vượt trội của Nghị quyết 98 nhanh chóng có đáp số, có sản phẩm vật chất cân đo đong đếm được trên thực tế.

Hai lĩnh vực trọng tâm là tiến độ triển khai các dự án trọng điểm và kế hoạch giải ngân vốn đầu tư công thể hiện rõ nét nhất sự chuyển biến. Hàng loạt công trình giao thông, dự án cơ sở hạ tầng chậm tiến độ, đội vốn đầu tư hoặc rơi vào tình trạng “đắp chiếu” nhiều năm nay trên địa bàn thành phố đã được khởi công hoặc tái khởi động ngay sau khi Nghị quyết 98 có hiệu lực. Mũi nhọn đột phá vào các dự án, công trình trọng điểm đã góp phần “gỡ rối” cho giải ngân vốn đầu tư công.

Năm 2023, TP Hồ Chí Minh được giao kế hoạch đầu tư công với tổng số vốn 70.518 tỷ đồng. Đến hết quý II-2023, giải ngân vốn đầu tư công của thành phố chỉ đạt tỷ lệ 35%. Biểu đồ về tiến độ giải ngân vốn đầu tư công tăng mạnh từ cuối quý III-2023, khi Nghị quyết 98 có hiệu lực. Và với việc HĐND thành phố vừa thông qua hơn 100 tờ trình, nghị quyết về cơ chế, chính sách, dự án...

TP Hồ Chí Minh đặt mục tiêu trong 3 tháng cuối năm sẽ giải ngân 45.266 tỷ đồng vốn đầu tư công, hoàn thành 95% kế hoạch năm. Nguồn vốn đầu tư công này tập trung chủ yếu cho 38 dự án, công trình trọng điểm về giao thông, hạ tầng kinh tế đã và đang triển khai trên địa bàn thành phố.

Đó là những con số cụ thể, chứng minh những chuyển biến tích cực, hiệu quả bước đầu của các cơ chế, chính sách đặc thù vượt trội được Đảng, Nhà nước áp dụng cho thành phố đầu tàu.

Đằng sau những quan điểm sai trái

Tất cả chúng ta đều nhận thức rõ, không một cơ chế, chính sách nào, dù ưu việt đến đâu, có thể mang lại hiệu quả toàn diện tức thì trong thực tiễn. Đường lối, chính sách ra đời từ sự đòi hỏi của thực tiễn và thực tiễn đời sống kinh tế-xã hội sẽ là thước đo, căn cứ để đánh giá hiệu quả của mọi chủ trương, chính sách. Nghị quyết 98 với hệ thống những cơ chế, chính sách đặc thù vượt trội dành cho TP Hồ Chí Minh cũng vậy.

Để ban hành những điều khoản trong Nghị quyết 98, Quốc hội đã rà soát, đánh giá, tổng kết toàn diện thực tế sau hơn 5 năm thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP Hồ Chí Minh theo Nghị quyết 54 và hiện thực đời sống sau hơn 37 năm đổi mới.

Thế nên, đòi hỏi ngay lập tức Nghị quyết 98 phải đem lại sự thay đổi toàn diện, có hiệu quả vượt trội trong đời sống xã hội là chủ quan, duy ý chí. Nhấn mạnh vấn đề này là bởi, trên không gian mạng thời gian qua đã xuất hiện nhiều sản phẩm tuyên truyền có nội dung sai trái của một số phương tiện truyền thông phát tiếng Việt ở hải ngoại mang tư tưởng thù địch với Việt Nam và nhiều tài khoản cá nhân của những đối tượng bất mãn, thù địch.

Đặc biệt là sau khi HĐND TP Hồ Chí Minh tổ chức phiên họp “chưa từng có” nêu trên, những đối tượng có tư tưởng chống đối Đảng, Nhà nước, đối tượng thù địch người Việt ở hải ngoại đã lên tiếng bình luận bằng giọng điệu chế giễu, bỉ bai, công kích, xuyên tạc. Họ cho rằng chúng ta đang “vẽ rắn thêm chân”, “mị dân bằng cơ chế”, “càng gỡ càng rối”, “kiến tạo kiểu con kiến mà leo cành đa”... Họ bám vào những khó khăn của nền kinh tế, khoét sâu vào những hạn chế, bất cập trong bộ máy hành chính công để xuyên tạc, phủ nhận những nỗ lực nội tại của hệ thống chính trị TP Hồ Chí Minh và đất nước.

Từ kiểu bỉ bai, xuyên tạc cơ chế, chính sách đặc thù, bôi nhọ, hạ thấp uy tín lãnh đạo và hệ thống chính trị, họ lèo lái dư luận theo hướng tiêu cực, gieo rắc tâm lý hoài nghi, kích động cán bộ, công chức, viên chức trong hệ thống chính trị từ bỏ khu vực công đi làm thuê cho doanh nghiệp nước ngoài.

Họ lồng ghép, liên hệ với các hoạt động đối ngoại cấp cao của Đảng, Nhà nước và những vấn đề trọng đại được Trung ương Đảng bàn bạc tại Hội nghị Trung ương 8 (khóa XIII) để tuyên truyền kích động, chống phá chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Họ kêu gọi giới trí thức ủng hộ quan điểm thân phương Tây, dựa hẳn vào phương Tây để phát triển đất nước...

Với thái độ khách quan, tỉnh táo, chúng ta không khó để nhận ra mưu đồ của những quan điểm sai trái nêu trên. Xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, bôi xấu chế độ, bỉ bai cán bộ lãnh đạo cấp cao của Đảng... là những chiêu bài đã được các đối tượng cực đoan cấu kết với các thế lực thù địch thực hiện lâu nay.

Mỗi khi Đảng, Nhà nước ban hành các chủ trương, chính sách mới hoặc diễn ra những sự kiện chính trị quan trọng là lập tức các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện chiến dịch truyền thông xuyên tạc, chống phá. Họ thông qua những hoạt động này nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, gây mất lòng tin của nhân dân, gây rối ren, phân hóa nội bộ. Khi chúng ta đồng lòng “gỡ rối” thì họ tìm mọi cách để “gây rối”, làm rối ren, phức tạp tình hình, phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng.

Coi trọng “xây” và “chống” trong truyền thông chính sách

Trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, “xây” và “chống” là hai nhiệm vụ được kết hợp chặt chẽ, trong đó “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược lâu dài, “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách. “Gỡ rối” và “kiến tạo” chính là sự cụ thể hóa của “xây” và “chống” trong triển khai, vận hành các cơ chế, chính sách đặc thù vượt trội tại TP Hồ Chí Minh.

Chính vì vậy, để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 98, sớm có được những kết quả, mô hình điển hình trong thực tiễn, cùng với việc cụ thể hóa các cơ chế, chính sách thành chương trình, kế hoạch hành động ở từng ngành, từng khâu... chúng ta phải đặc biệt coi trọng vai trò của công tác truyền thông chính sách. Quán triệt phương châm “lấy xây để chống”, công tác truyền thông chính sách cần được thực hiện thường xuyên, liên tục, có trọng tâm, trọng điểm, tạo sự thống nhất cao về nhận thức và hành động trong cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp, người dân và đông đảo kiều bào yêu nước đang hướng các hoạt động đầu tư về quê hương.

Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thông tin xấu độc của các thế lực thù địch cũng chính là giải pháp quan trọng để “gỡ rối” và “kiến tạo” hiệu quả.

Nghị quyết 98 đã đi vào đời sống và bước đầu tạo sự chuyển biến tích cực sau hơn hai tháng có hiệu lực. Để hệ thống cơ chế, chính sách đặc thù vượt trội tạo động lực, sức mạnh nội sinh cho hệ thống chính trị của TP Hồ Chí Minh và cộng đồng doanh nghiệp, cần có thời gian để nâng cao tính khả thi và hiệu quả trên thực tế đời sống kinh tế-xã hội.

Trong quá trình đó, việc “gỡ rối” và “kiến tạo” phải được áp dụng, triển khai thông suốt từ lãnh đạo thành phố đến cơ sở, doanh nghiệp và người dân theo tinh thần “tiền hô hậu ủng”, “nhất hô bá ứng”, “trên dưới đồng lòng”, “dọc ngang thông suốt”. Không một thế lực nào, với bất cứ lý do gì có thể làm sai lệch bản chất “gỡ rối” và “kiến tạo”.

NGUYỄN PHAN