Đúng quy trình, đủ tiêu chuẩn - vì sao bổ nhiệm... vẫn sai? - Bài 2: Nhận diện cán bộ đủ tiêu chuẩn nhưng thiếu phẩm chất

Thứ sáu, 18/07/2025 - 05:44

Đó là những người có hồ sơ “đẹp”, bằng cấp “đủ”, nhưng lại thiếu cả năng lực thực chất lẫn phẩm chất đạo đức. Bằng tài “đánh bóng” bản thân, nắm bắt tâm lý tổ chức, lợi dụng kẽ hở để có thể “lách mình” qua các quy trình được xem là rất chặt chẽ, leo lên những vị trí quan trọng.

Khi tiêu chuẩn trở thành chiếc mặt nạ

Công tác cán bộ vốn là vấn đề then chốt của sự nghiệp cách mạng, là nơi thể hiện rõ hình ảnh, uy tín của Đảng trong mắt nhân dân. Những quy trình, quy định của Đảng đặt ra không ngoài mục tiêu phát hiện, lựa chọn đúng người “vừa hồng, vừa chuyên” để gánh vác trọng trách. Tuy nhiên, thực tế không ít trường hợp cán bộ từng được xem là “triển vọng”, “sáng giá” lại bị phát hiện sai phạm sau khi đã được đề bạt. Điều đó đặt ra câu hỏi nhức nhối: Phải chăng các quy trình tuyển chọn cán bộ chỉ còn mang tính hình thức?

Ở không ít nơi, thay vì phấn đấu rèn luyện bằng năng lực thực sự, một số cá nhân chọn cách “tô vẽ” hồ sơ, tranh thủ quan hệ, tạo dựng hình ảnh, hợp thức hóa tiêu chuẩn để “vượt ải”. Họ giỏi nịnh cấp trên, tránh va chạm, khéo lấy lòng, luôn xuất hiện với dáng vẻ giản dị, gần dân, chăm lo cơ sở... để gây thiện cảm với cấp dưới. Nhưng đằng sau lớp vỏ mẫu mực là một động cơ hoàn toàn khác: Chức tước, quyền lực, lợi ích. “Tiêu chuẩn”, lẽ ra là thước đo năng lực lại trở thành mặt nạ để che giấu sự thiếu hụt về tư tưởng, lý tưởng và đạo đức của không ít người. Và khi những người như vậy nắm quyền, công vụ dễ bị biến thành công cụ, cả bộ máy có thể bị thao túng vì một cá nhân.

Đúng quy trình, đủ tiêu chuẩn - vì sao bổ nhiệm... vẫn sai? - Bài 2: Nhận diện cán bộ đủ tiêu chuẩn nhưng thiếu phẩm chất
Ảnh minh họa. Nguồn: vov.vn 

Một câu hỏi cần được làm rõ: Vì sao những người thiếu phẩm chất vẫn lọt qua được cả tập thể cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo đơn vị và cả hệ thống quy trình nhân sự vốn được xem là rất chặt chẽ?

Trên thực tế, theo cơ chế hiện hành, quyền quyết định nhân sự thuộc về tập thể cấp ủy, nhưng vai trò người đứng đầu, đặc biệt là bí thư cấp ủy mang tính định hướng rất lớn. Có ý kiến cho rằng, người đứng đầu có thể chi phối tới 95% công tác cán bộ, vì 3 lý do: Được quyền đề xuất, được phép vận động và có thể quyết định thời điểm đưa ra nhân sự. Do đó, với ứng viên đã được người đứng đầu “chọn mặt”, các thành viên khác trong tập thể thường là “ủng hộ”. Khi quyền lực không đi cùng trách nhiệm thì sự đồng thuận bề ngoài đôi khi lại là biểu hiện của sự buông lỏng kiểm soát.

Không thể “đo” đạo đức bằng hồ sơ

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “đạo đức là gốc của người cách mạng”. Người nhấn mạnh: Không có đạo đức, dù tài giỏi mấy cũng không thể lãnh đạo được nhân dân. Tư tưởng đó càng có giá trị khi bộ máy hành chính đang được tinh gọn và bài toán nhân sự trở thành phép thử năng lực lãnh đạo, khả năng nhìn người của tổ chức đảng.

Một quyết định nhân sự sai có thể làm chệch hướng cả chiến lược, thậm chí kéo lùi chủ trương cải cách. Nếu lựa chọn cán bộ chỉ dựa trên hồ sơ, bằng cấp, thành tích “đóng gói”, thì dễ bị đánh lừa bởi vỏ ngoài. Ngược lại, nếu nhìn được vào hành vi, bản lĩnh, đạo đức và lý tưởng thông qua thực tiễn, sự dấn thân, tín nhiệm từ nhân dân và tập thể, thì mới có thể nhận diện được đúng người.

Tại buổi làm việc với Ban Tổ chức Trung ương ngày 27-5-2025, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định: “Nhân sự lãnh đạo các cấp trong giai đoạn mới phải hội tụ đủ đức, đủ tài, đủ tâm, đủ tầm, đủ sức, đủ nhiệt huyết cách mạng”. Để thực hiện tốt chỉ đạo này của Tổng Bí thư, không chỉ cần riêng quyết tâm chính trị, công tác cán bộ đòi hỏi một hệ thống đánh giá khách quan, toàn diện, liên tục; có khả năng nhận diện sớm dấu hiệu suy thoái và ngăn ngừa rủi ro.

Quá trình bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ cần lắng nghe nhiều chiều, từ cấp dưới, đồng nghiệp, người dân nơi cán bộ sinh sống; từ các tổ chức chính trị-xã hội và cả dư luận xã hội, đặc biệt là dư luận nhân dân. Bởi trong xã hội không ai tinh tường hơn nhân dân. Về đạo đức, không thể chỉ dựa vào báo cáo nhận xét mà phải kiểm chứng qua hành vi cụ thể, có giám sát của tổ chức và xã hội. Những điều nói trên không tìm được trong hồ sơ, mà phải tìm từ thực tế.

Đủ tiêu chuẩn là điều kiện cần, đủ phẩm chất mới là điều kiện đủ

Thời gian qua, Đảng, Nhà nước ta đã kỷ luật, truy tố không ít cán bộ, xử lý nhiều vụ án lớn. Nhưng nếu không bịt được lỗ hổng ngay từ khâu lựa chọn, sai phạm sẽ tiếp tục tái diễn ở những người khác, hình thức khác, địa phương khác. Vì vậy, chọn đúng cán bộ không chỉ là yêu cầu chuyên môn, đó là nhiệm vụ chính trị đặc biệt quan trọng, là cách Đảng ta giữ gìn uy tín, củng cố niềm tin của nhân dân.

Người dân có thể tha thứ cho cán bộ chưa giỏi, nhưng sẽ không tha thứ cho cán bộ giả dối, tha hóa, suy thoái. Đủ tiêu chuẩn chỉ là điều kiện cần. Còn đủ phẩm chất, đặc biệt là đạo đức và lý tưởng mới là điều kiện đủ. Cán bộ không chỉ cần giỏi mà còn phải biết giữ mình, thực sự là người “cần, kiệm, liêm, chính”, biết tự trọng, biết xấu hổ khi được khen mà không xứng, biết rời ghế khi không còn xứng đáng. Chỉ khi tiêu chuẩn và phẩm chất song hành, đội ngũ cán bộ mới thật sự là “gốc rễ” vững chắc của Đảng và chế độ.

(còn nữa)

 NHÓM PHÓNG VIÊN 

Đúng quy trình, đủ tiêu chuẩn - vì sao bổ nhiệm... vẫn sai? - Bài 1: Cán bộ vừa “cất cánh” đã... “rơi”

Thứ năm, 17/07/2025 - 08:28

Dư luận xã hội đặc biệt ủng hộ chủ trương xử lý những cán bộ vi phạm theo tinh thần “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”. Tuy nhiên, không ít người băn khoăn khi thời gian gần đây, một số cán bộ vừa được bổ nhiệm, điều động, giao trọng trách đã nhanh chóng... bị kỷ luật. Tại sao quy trình bổ nhiệm chặt chẽ, cán bộ được đánh giá đủ tiêu chuẩn, được bầu với số phiếu tín nhiệm rất cao, mà vẫn chọn chưa đúng người?

Theo quy định hiện hành, trước khi được bổ nhiệm, cán bộ phải đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn về phẩm chất, năng lực và uy tín, đồng thời trải qua quy trình 5 bước được đánh giá là “rất chặt chẽ”. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, quy trình chặt và tiêu chuẩn rõ vẫn không đủ để bảo đảm “chọn đúng người”. Có những cán bộ bị xử lý kỷ luật chỉ sau 3 tháng được bổ nhiệm do những sai phạm từ khi còn ở chức vụ công tác trước đây.

Bị kỷ luật chỉ sau vài tháng nhậm chức

Ngày 17-1-2025, Bộ Chính trị điều động, bổ nhiệm đồng chí Nguyễn Văn Hiếu, Bí thư Thành ủy Cần Thơ giữ chức Phó trưởng ban Tuyên giáo Trung ương. Khi ấy, không ít người kỳ vọng vào một cán bộ trẻ có nhiều dấu ấn ở địa phương. Tuy nhiên, chỉ đến đầu tháng 4-2025, Bộ Chính trị đã quyết định kỷ luật cảnh cáo đối với đồng chí Nguyễn Văn Hiếu và cho thôi giữ tất cả chức vụ. Tiếp đó, ngày 10-4, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII cho đồng chí Nguyễn Văn Hiếu thôi đảm nhiệm chức vụ Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng.

Cũng trong tháng 1-2025, đồng chí Trần Việt Trường, Phó bí thư Thành ủy, Chủ tịch UBND TP Cần Thơ được điều động tham gia Đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, được hiệp thương giữ chức Phó chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khóa X. Nhưng chỉ đến ngày 4-4-2025, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã công bố quyết định cảnh cáo về Đảng đối với đồng chí Trần Việt Trường.

Đúng quy trình, đủ tiêu chuẩn - vì sao bổ nhiệm... vẫn sai? - Bài 1: Cán bộ vừa “cất cánh” đã... “rơi”
Ảnh minh họa: suckhoedoisong.vn 

Không riêng hai trường hợp trên. Tháng 1 và tháng 5-2025, các đồng chí Dương Văn An (Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc), Nguyễn Thị Kim Chi (Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) cũng lần lượt bị kỷ luật cảnh cáo vì sai phạm từ thời kỳ công tác trước đó, khi còn giữ các chức vụ tại tỉnh Bình Thuận và thị xã Cửa Lò (Nghệ An). Điều đáng nói, cả hai đều nhận nhiệm vụ mới chưa đến một năm.

Tại hội nghị sơ kết công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng được tổ chức ngày 24-6-2025, đồng chí Trần Cẩm Tú, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư nhấn mạnh yêu cầu phải “thẩm định chặt chẽ công tác nhân sự, bảo đảm không để lọt vào cấp ủy cán bộ vi phạm phẩm chất đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và “khắc phục triệt để tình trạng cán bộ vừa bổ nhiệm, bầu cử thì đã bị xử lý kỷ luật”.

Nhìn lại những trường hợp cán bộ nêu trên, điểm chung dễ nhận thấy ở họ là đều có “lý lịch đẹp”, bằng cấp cao, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong hệ thống chính trị. Đồng chí Dương Văn An có học vị Tiến sĩ Kinh tế học, từng là cán bộ đoàn, rồi dần trưởng thành qua nhiều cương vị lãnh đạo. Trong giai đoạn làm Phó bí thư Tỉnh ủy Bình Thuận, đồng chí được đánh giá là người “thẳng thắn đấu tranh”, từng có ý kiến khác với tập thể khi phát hiện sai phạm. Có lẽ chính vì thế, đồng chí được tin tưởng giao nhiệm vụ Bí thư Tỉnh ủy Bình Thuận, rồi Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc-một địa phương cũng “nóng” về công tác cán bộ khi người tiền nhiệm bị bắt vì tham nhũng. Nhưng rồi chính những sai phạm xảy ra tại Bình Thuận khiến đồng chí bị kỷ luật.

Đồng chí Nguyễn Thị Kim Chi cũng từng được nhìn nhận là cán bộ có năng lực, bản lĩnh, trưởng thành từ cơ sở, xuất thân từ ngành giáo dục, từng là giáo viên giỏi tại một ngôi trường nổi tiếng của tỉnh Nghệ An, từng giữ chức Bí thư Thị ủy Cửa Lò. Các đồng chí Nguyễn Văn Hiếu, Trần Việt Trường cũng đều là những cán bộ được đánh giá tốt trước khi bị kỷ luật.

Vậy vấn đề nằm ở đâu? Phải chăng do quy trình còn thiếu sót? Hay do việc thực hiện quy trình còn hình thức, nặng về thủ tục mà thiếu sự kiểm chứng thực chất?

Quy trình đúng, nhưng chọn người... vẫn sai?

Thực tế, quy trình bổ nhiệm cán bộ hiện nay được thực hiện với 5 bước chặt chẽ, từ rà soát, giới thiệu, thẩm định đến lấy ý kiến và quyết định. Nhưng như nhận định của đồng chí Lê Như Tiến, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội: “Quy trình chỉ là quy trình, vấn đề là lựa chọn đầu vào để đưa vào quy trình ấy như thế nào”. Đồng chí ví von: “Muốn làm cây giò ngon phải qua nhiều bước: Giã, gói, luộc. Tuy nhiên, nếu thịt từ đầu đã ôi thì quy trình đến mấy cũng chỉ cho ra giò thiu”. Nghĩa là, không thể kỳ vọng đầu ra tốt nếu đầu vào là những cán bộ chưa thực sự trong sạch, chưa đánh giá đúng bản chất.

Ở đây, “quy trình đúng” nhưng cán bộ vẫn “sai” chính là lời cảnh báo đối với công tác cán bộ, nhất là trong đánh giá, xem xét cán bộ. Theo đó, vấn đề nằm ở chỗ một số tổ chức đảng đánh giá cán bộ nặng về cảm tính, theo hồ sơ “đẹp”, bỏ qua yếu tố thực chất; thậm chí có nơi lợi dụng quy trình để hợp thức hóa sự lựa chọn đã có sẵn, bất chấp cảnh báo từ dư luận.

Đừng để “lọt lưới” từ khâu đầu vào

Khi cán bộ vi phạm bị kỷ luật sau bổ nhiệm dù chỉ một vài trường hợp, không chỉ uy tín cá nhân bị tổn hại, mà tổ chức đảng cũng chịu ảnh hưởng lớn. 

Rõ ràng, muốn “chọn đúng người”, không thể chỉ dựa vào hồ sơ, thành tích hay sự tín nhiệm bề ngoài. Phải có cơ chế thẩm tra thực chất, kiểm chứng đạo đức, lối sống, quan hệ lợi ích, dấu hiệu suy thoái... một cách chủ động, khách quan, thường xuyên. Công tác cán bộ cần thoát khỏi quỹ đạo “cảm tính chính trị”, thay vào đó là “khoa học chính trị”. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: "Cán bộ là cái gốc của mọi công việc". Công tác cán bộ là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền nhà nước. Người cho rằng, trong việc tuyển chọn cán bộ thì không được thiên tư, thiên vị, mà phải lựa chọn những người thật sự có đức, có tài.

Gốc mà không vững, thì ngọn sớm muộn cũng nghiêng. Việc cán bộ vừa “cất cánh” đã “rơi” là biểu hiện của sự mất cân đối giữa hình thức và thực chất; giữa quy trình đúng và con người chưa đúng. Bài toán này không thể chỉ giải ở bước cuối, là khi đã phát hiện ra sai phạm của cán bộ nên buộc phải xử lý, mà phải từ khâu đầu tiên: Đánh giá đúng con người.

(còn nữa)

NHÓM PHÓNG VIÊN 

Nâng cao cảnh giác trước âm mưu của “chủ nghĩa đế quốc văn hóa” đối với cách mạng Việt Nam

Thứ hai, 14/07/2025 - 05:29

Nhận thấy khó có thể khuất phục niềm tin và ý chí của người dân Việt Nam trên mặt trận chính trị, kinh tế, quân sự, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch nham hiểm sử dụng mặt trận văn hóa, với các thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, luôn che đậy, thay đổi hình thức nhằm truyền bá văn hóa ngoại lai, âm thầm tác động, gây ảnh hưởng, thâm nhập nhằm từng bước thay đổi suy nghĩ, tình cảm, tư tưởng của một bộ phận người dân Việt Nam, nhất là giới trẻ. Đó là mưu đồ sâu xa của “chủ nghĩa đế quốc văn hóa” hiện nay.

Âm mưu thâm độc của “chủ nghĩa đế quốc văn hóa”

Trong sự biến đổi và phát triển ở cấp độ toàn cầu, chủ nghĩa tư bản đã sử dụng văn hóa như công cụ, phương tiện và vũ khí giúp quốc gia thống trị mở rộng quyền lực và ảnh hưởng đối với quốc gia “thuộc địa kiểu mới”. Văn hóa được xem là một trong 5 mặt trận then chốt (cùng với kinh tế, chính trị, quân sự và truyền thông) định hình bức tranh tổng thể của chủ nghĩa đế quốc toàn cầu. Trong bối cảnh hiện nay, chủ nghĩa đế quốc dai dẳng thực hiện âm mưu “xâm lăng văn hoá”, đồng hoá văn hóa bản địa, nhằm làm thất bại ý chí của quốc gia-dân tộc yếu thế, quốc gia-dân tộc không đi theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa.

Nâng cao cảnh giác trước âm mưu của “chủ nghĩa đế quốc văn hóa” đối với cách mạng Việt Nam
Minh họa: PHẠM HÀ 

"Chủ nghĩa đế quốc văn hóa" thường sử dụng sức mạnh của cải, quyền lực truyền thông và bạo lực để thực hiện bá quyền văn hóa, “xâm lăng văn hóa”, tạo điều kiện thuận lợi cho âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ các quốc gia khác, hướng tới “chiến thắng không có chiến tranh” và mưu đồ hoàn thành chiến lược “bá chủ toàn cầu” của chủ nghĩa tư bản.

Đặc trưng của "chủ nghĩa đế quốc văn hóa" là việc các nước đế quốc xuất khẩu văn hóa và các mô hình tư bản, bao gồm cả kinh tế, chính trị và giáo dục sang các nước đang phát triển, biến những nước này trở thành thị trường tiêu thụ sản phẩm văn hóa ngoại lai của tư bản. Các luồng văn hoá ngoại lai này không ngừng mở rộng, thâm nhập sâu vào đời sống xã hội, dần thay thế các giá trị và tư tưởng văn hóa bản địa, từ đó gây ảnh hưởng và định hình các giá trị, tư tưởng văn hóa tại các nước đang phát triển. Mục tiêu cuối cùng của "chủ nghĩa đế quốc văn hóa" là quyền thống trị tư tưởng và độc quyền văn hóa toàn cầu.

Mũi nhọn của “chủ nghĩa đế quốc văn hóa” đối với Việt Nam

Sau gần 40 năm đổi mới và hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập quốc tế và bối cảnh thời đại toàn cầu hóa, Việt Nam phải đối mặt với những nguy cơ, thách thức không nhỏ, nhất là chiến lược “diễn biến hòa bình” của các lực lượng thù địch, phản động không ngừng chống phá sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Nhận thấy khó có thể khuất phục niềm tin và ý chí của người dân Việt Nam trên mặt trận chính trị, kinh tế, quân sự, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch nham hiểm sử dụng mặt trận văn hóa, với các thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, luôn che đậy, thay đổi hình thức truyền bá văn hóa ngoại lai, âm thầm tác động, gây ảnh hưởng, thâm nhập và từng bước thay đổi suy nghĩ, tình cảm, tư tưởng của một bộ phận người dân Việt Nam, nhất là giới trẻ.

Đến nay, "chủ nghĩa đế quốc văn hóa" kết hợp chặt chẽ với "chủ nghĩa đế quốc truyền thông" từng bước tiếp cận, xâm nhập tinh vi vào xã hội Việt Nam, tạo ra sự ảnh hưởng rõ nét đối với văn hóa bản địa. Mặc dù, dân tộc Việt Nam có truyền thống văn hóa lâu đời, có sức đề kháng cao trước âm mưu “đồng hóa” văn hóa, nhân dân ta có tinh thần cảnh giác, tự vệ, tự cường, nhưng ở mức độ nhóm cộng đồng/nhóm xã hội, văn hóa ngoại lai của chủ nghĩa đế quốc đã tác động đáng kể vào đời sống xã hội, gây ra những thay đổi và hệ lụy không nhỏ đối với văn hóa truyền thống của người Việt.

Trong khi đó, nhiều phương tiện truyền thông đại chúng của phương Tây ra sức tuyên truyền, phóng đại về giá trị văn hóa phương Tây, thông qua những mỹ từ “tự do, dân chủ”, hay được đóng gói trong những miếng bánh “nhân quyền”, “tự do ngôn luận”, “tự do báo chí” mang tính áp đặt, thiên vị và không phù hợp với đặc điểm truyền thống, lịch sử, văn hóa và thể chế chính trị ở Việt Nam. Họ muốn biến Việt Nam thành thị trường tiêu thụ sản phẩm văn hóa, phổ biến rộng rãi hệ tư tưởng tư bản chủ nghĩa, tiêm nhiễm lối sống tiêu dùng, cá nhân, thực dụng; đồng thời gieo rắc văn hóa độc hại, làm cho văn hóa Việt Nam trở nên lai căng, mất bản sắc và dần trở thành “thuộc địa văn hóa”.

Tăng cường sức mạnh nội sinh để phòng, chống “xâm lăng văn hóa”

Tại Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Văn hóa là hồn cốt của dân tộc. Văn hóa còn thì dân tộc còn”. Bảo vệ giá trị văn hóa cũng là cách bảo vệ nền tảng tư tưởng, tinh thần cho xã hội, giúp giữ gìn chủ quyền lãnh thổ quốc gia trên mặt trận văn hóa.

Để đấu tranh phòng, chống “chủ nghĩa đế quốc văn hóa”, làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch, trước hết, chúng ta cần thấm nhuần chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về bảo vệ, xây dựng và phát triển văn hóa, trọng tâm là Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Chỉ thị số 34-CT/TW của Ban Bí thư ngày 17-4-2009 về tăng cường cuộc đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa; Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 27-7-2010 của Ban Bí thư về chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại gây hủy hoại đạo đức xã hội; Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9-6-2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021.

Trong xu thế hội nhập quốc tế, chúng ta cần đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam, biến sản phẩm văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc thành sản phẩm đặc sắc phục vụ du lịch, thương mại và dịch vụ, mang lại nguồn lực cho công cuộc phát triển đất nước, làm cho văn hóa thực sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước.

Hiện nay, công nghiệp văn hóa được xem là lĩnh vực công nghiệp đặc trưng của thế kỷ 21, là lĩnh vực kinh tế mũi nhọn tại nhiều quốc gia trên thế giới. Phát triển công nghiệp văn hóa đã trở thành xu thế quan trọng trong chính sách văn hóa của nhiều quốc gia, nhằm bảo vệ các giá trị văn hóa trong nước, chống lại sự “xâm lăng văn hóa” ngoại lai, đồng thời là vũ khí gia tăng “sức mạnh mềm” của quốc gia. Phát triển công nghiệp văn hóa và phát huy, lan tỏa hệ giá trị văn hóa Việt Nam là yêu cầu cấp thiết hiện nay, là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị, là trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền, cơ quan chức năng, đặc biệt là ngành văn hóa.

Cùng với đó, chúng ta cần chủ động, tích cực nhận diện, đấu tranh chống lại âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch trên mặt trận tư tưởng, văn hóa. Một mặt, cần sử dụng báo chí cách mạng là lực lượng tiên phong, mũi nhọn trong phản bác, đấu tranh phòng, chống “xâm lăng văn hóa”; chủ động tiến công vào các luồng thông tin xấu độc đối với văn hoá truyền thống và văn hóa cách mạng Việt Nam; mặt khác, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, tăng cường giám sát, phản biện xã hội, tranh thủ sự đồng tình của dư luận nhằm phê phán thói sùng ngoại, lai căng, dị hợm của một bộ phận người dân, nhất là giới trẻ.

Giải pháp căn cơ là thường xuyên giáo dục, bồi đắp, khơi dậy tinh thần yêu nước, đoàn kết cộng đồng, ý chí tự cường, tự hào dân tộc cho mỗi người dân và cộng đồng các dân tộc Việt Nam; tăng cường thực hiện hiệu quả nhiệm vụ gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể, các di tích lịch sử văn hóa; bảo tồn, phát huy và lan toả các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc ra thế giới; tích cực bồi dưỡng, giáo dục về niềm tin, niềm tự hào, tự tôn về bản sắc văn hóa dân tộc, chăm lo xây dựng môi trường văn hóa, nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho người dân và thế hệ trẻ.

Tiến sĩ NGUYỄN MINH TUẤN (Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội) 

Nhận diện các chiến dịch tuyên truyền chống phá trước Đại hội XIV của Đảng

Thứ Hai, 14/07/2025, 07:36

Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XIV của Đảng là sự kiện chính trị có ý nghĩa trọng đại của đất nước. Trước Đại hội XIV của Đảng, việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức, bộ máy trong hệ thống chính trị được triển khai đồng bộ, khẩn trương nhằm tạo động lực để đất nước bước vào kỷ nguyên mới.

Thế nhưng, các thế lực thù địch, các tổ chức phản động lưu vong, số đối tượng chống đối coi đây là “thời điểm vàng” để đẩy mạnh thực hiện các chiến dịch tuyên truyền với những thủ đoạn nguy hiểm trên các phương tiện thông tin, nhất là không gian mạng.

Gia tăng các chiến dịch tuyên truyền chống phá trên không gian mạng

Các đối tượng bôi nhọ, xuyên tạc việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy; nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng; công tác nhân sự trước Đại hội XIV… Hoạt động của các thế lực thù địch không còn đơn lẻ mà được tiến hành ồ ạt theo kiểu chiến dịch, phủ sóng trên các trang web, nền tảng mạng xã hội ở nước ngoài.

Để gia tăng hiệu quả, quy mô, mức độ tác động của “chiến dịch tuyên truyền” trên không gian mạng, các thế lực thù địch cùng lúc triển khai nhiều lực lượng, phương tiện, tuyên truyền trên các nền tảng Tik Tok, Facebook, Youtobe…, đồng loạt đưa một chủ đề trong một khoảng thời gian nhất định.

Điển hình như chiến dịch tuyên truyền đòi xóa bỏ Điều 4, Hiến pháp 2013 khi Đảng, Nhà nước ta tiến hành lấy ý kiến nhân dân về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp; chiến dịch kêu gọi tẩy chay Đại hội XIV Đảng Cộng sản Việt Nam; chiến dịch bàn luận nhân sự Đại hội XIV…

Điều dễ nhận thấy là những tổ chức, cá nhân kêu gọi “chiến dịch tuyên truyền” trên đều đến từ các tổ chức phản động lưu vong như tổ chức Việt Tân, “Đảng Dân chủ nhân dân”, “Đảng Vì dân”, “Tập hợp dân chủ đa nguyên”, “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời”…

Hỗ trợ chiến dịch của các tổ chức này là những mạng truyền thông nước ngoài thiếu thiện chí với Việt Nam như RFI tiếng Việt, RFA tiếng Việt; các tổ chức quốc tế, NGO nước ngoài thường xuyên có những hoạt động xuyên tạc, vu cáo Việt Nam về nhân quyền như tổ chức Theo dõi nhân quyền - HRW, Ân xá quốc tế - AI, Phóng viên không biên giới - RSF….

Bên cạnh đó, các “chiến dịch tuyên truyền” chống phá Đại hội XIV của Đảng còn được tiến hành mạnh mẽ, quyết liệt với sự phối kết hợp của lực lượng chống đối cả trong và ngoài nước, nhất là số dân biểu cực hữu trong chính giới một số nước phương Tây cùng số đối tượng chống đối, bất mãn trong nước.

Đầu tiên, có thể nhận thấy hoạt động chống phá thông qua các “chiến dịch tuyên truyền” trên không gian mạng được hướng đến công tác nhân sự và thông tin liên quan đến lãnh đạo Đảng, Nhà nước trước thềm Đại hội XIV.

Lợi dụng tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống tham nhũng, tiêu cực của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là những vụ việc liên quan cán bộ cấp cao ở Trung ương và địa phương, chúng lấy đó là một cái cớ quan trọng để thổi phồng, quy chụp tham nhũng, tiêu cực là tình trạng “phổ biến”, là “bản chất” của Đảng.

Vì thế, chúng mỉa mai rằng, ai là nhân sự đại hội, ai vào tứ trụ, ai vào Trung ương thì “cũng như nhau mà thôi”. Cùng với đó, chúng còn tìm mọi cách đơm đặt, chế tạo các video clip bằng cách ghép hình ảnh, âm thanh làm nhiễu loạn, lẫn lộn thật - giả; tán phát đơn thư nặc danh hòng công kích, bôi nhọ danh dự, uy tín của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, những cán bộ, đảng viên trong diện quy hoạch nhân sự cho đại hội...

Nội dung của các “chiến dịch tuyên truyền” thường hướng theo một chủ đề thống nhất như: Tuyên truyền chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng; tuyên truyền chống phá vai trò lãnh đạo của Đảng, đòi xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp 2013; xuyên tạc cương lĩnh, dự thảo các văn kiện Đại hội; bôi nhọ nguyên tắc tổ chức, vấn đề nhân sự Đại hội XIV… Chẳng hạn, trong quá trình chuẩn bị cho Đại hội XIV của Đảng, việc Trung ương Đảng công bố dự thảo văn kiện để lấy ý kiến từ cơ sở là một bước quan trọng, thể hiện tính dân chủ, cầu thị.

Tuy nhiên, lợi dụng thời điểm này, các thế lực thù địch đã tăng cường phát tán những luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật bằng việc tung ra nhiều luận điệu sai lệch như “văn kiện chỉ ca ngợi thành tích, không nhìn nhận hạn chế”; “các mục tiêu phát triển không thực tế, viển vông, thiếu cơ sở khoa học”; “Đảng không minh bạch trong công khai nội dung văn kiện”; “chính sách chỉ phục vụ lợi ích nhóm, không đại diện ý chí nhân dân”; “dự thảo các văn kiện của Đại hội XIV chỉ mang tính hình thức, thiếu tính thực tiễn, không phản ánh đúng nguyện vọng của người dân”… Từ đó, chúng kêu gọi người dân tẩy chay văn kiện, đòi “sửa từ gốc” như thay đổi thể chế, từ bỏ con đường đi lên CNXH của đất nước…

Đối với công tác nhân sự của Đại hội, các trang mạng của tổ chức phản động lưu vong, đài báo nước ngoài đã đồng loạt tán phát hàng chục bài viết có nội dung xuyên tạc về công tác nhân sự Đại hội XIV, bịa đặt “nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đang hình thành phe cánh để tranh giành, đấu đá quyền lực; vu cáo “lợi ích nhóm”, “thanh trừng phe phái” trong công tác nhân sự; cho rằng vấn đề nhân sự Đại hội Đảng bị một số thế lực bên ngoài can thiệp, từ đó rêu rao “không thể khách quan”, “không công bằng”, “chỉ để nhằm hợp thức hóa việc sắp xếp ghế, đấu đá, tranh giành quyền lực”, “chỉ là màn kịch đấu đá trong nội bộ các tổ chức đảng, tạo phe cánh, tạo thế lực”…

Các thế lực thù địch, tổ chức phản động lưu vong cũng thông qua các “chiến dịch tuyên truyền” để dựng lên những “ngọn cờ” dưới vỏ bọc những người có “tâm huyết” với vận mệnh của đất nước, mượn danh “tiếng nói”, “nguyện vọng” của đa số dân chúng để “góp ý”, “kiến nghị” với Đảng, Nhà nước. Đây là một trong những âm mưu xảo trá, làm cho môi trường thông tin xã hội nhiễu loạn, khiến người dân không phân biệt được đúng - sai, trắng - đen, thực - ảo, thật - giả lẫn lộn; gây tâm lý hoang mang, hoài nghi, mất tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước trước thềm Đại hội XIV.

Như vậy, luận điệu chống phá thông qua các “chiến dịch tuyên truyền” trước thềm Đại hội Đảng XIV như trên dù không có gì mới nhưng lại được các thế lực thù địch, phản động khéo léo ngụy tạo với nhiều thủ đoạn nham hiểm, vừa trực diện trắng trợn, vừa che giấu úp mở, gieo sự nghi hoặc với người đọc, người nghe, người xem. Càng đến gần đại hội Đảng, sự chống phá của chúng càng dồn dập hơn, liều lượng tăng cao.

Tăng cường thông tin chính thống, hạn chế khoảng trống thông tin

Hơn 95 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã vượt qua biết bao khó khăn, gian khổ, hy sinh, mất mát để giành những thắng lợi vẻ vang, vĩ đại. Đặc biệt, sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, trở thành quốc gia đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội khu vực Đông Nam Á và thế giới.

Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá, bị bao vây, cô lập, đến nay Đảng ta đã có quan hệ với trên 150 đảng ở 115 quốc gia trên thế giới. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia trên thế giới. Tính đến ngày 16/5/2025, Việt Nam có quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện với 13 quốc gia là Trung Quốc, Liên bang Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Australia, Pháp, Malaysia, New Zealand, Indonesia, Singapore và Thái Lan.

Ngoài ra, Việt Nam đã đăng cai tổ chức nhiều sự kiện có tầm vóc lớn, được thế giới quan tâm như Hội nghị cấp cao APEC 2006, 2017 (trong tương lai là 2027) hay Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều 2019. Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, quốc phòng, an ninh vững chắc, hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại; đảm nhiệm trọng trách, phát huy tích cực vai trò tại nhiều tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng.

Lịch sử là một dòng chảy liên tục. Ngày nay, khi cách mạng chuyển sang một giai đoạn mới, sứ mệnh của Đảng cũng rất nặng nề, đòi hỏi Đảng không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực cầm quyền.

Thế giới đang trong giai đoạn thay đổi có tính thời đại, định hình trật tự, cục diện mới. Xu thế hợp tác, phát triển là chủ đạo trong quan hệ quốc tế song cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, các trung tâm quyền lực tiếp tục diễn biến phức tạp, ngày càng gay gắt hơn trên các không gian truyền thống và phi truyền thống. Xung đột, chiến tranh diễn ra ở nhiều khu vực, không loại trừ nguy cơ lan rộng. Sự phát triển, chạy đua, cạnh tranh về khoa học kỹ thuật và công nghệ gây ra những biến đổi sâu sắc, đã và đang làm thay đổi phương thức hoạt động, tổ chức, cách thức tiến hành chiến tranh, can dự, can thiệp của các nước.

Xu hướng vận động của tình hình thế giới tạo ra cơ hội để Việt Nam đạt mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo tiền đề vững chắc đạt mục tiêu 100 năm thành lập nước nhưng cũng phải đối mặt với những thách thức trong giữ vững độc lập, tự chủ, từ đó tác động trực tiếp, thách thức đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

Với ý nghĩa đó, Đại hội Đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025-2030 tiến tới đại hội toàn quốc lần thứ XIV của Đảng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Để chuẩn bị cho sự kiện quan trọng này, Tổng Bí thư Tô Lâm đã có bài viết với tiêu đề “Tổ chức tốt Đại hội Đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025-2030”.

Tổng Bí thư nhấn mạnh “Đây không chỉ là đợt sinh hoạt chính trị to lớn, sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân mà còn là tiền đề để tổ chức thành công Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Cao hơn, chuỗi sự kiện này là một trong những yếu tố then chốt tạo nền tảng chính trị vững chắc đưa đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển, giàu mạnh, phồn vinh, thịnh vượng, sánh vai với các cường quốc năm châu như tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn vàn kính yêu và ước vọng của toàn dân tộc”.

Các “chiến dịch tuyên truyền” chống phá Đại hội Đảng XIV của các thế lực thù địch, các tổ chức phản động lưu vong thời gian qua không chỉ tạo ra sự nhiễu loạn thông tin, gây ra những hoài nghi, hoang mang, mất niềm tin trong một bộ phận quần chúng, cán bộ, đảng viên mà còn tác động, ảnh hưởng xấu tới tình hình an ninh, trật tự.

Từ nay đến khi diễn ra Đại hội XIV của Đảng, các thế lực thù địch, đối tượng phản động, cơ hội chính trị, bất mãn sẽ càng đẩy mạnh thực hiện các “chiến dịch tuyên truyền” trên không gian mạng. Tình hình đó đòi hỏi chúng ta cần phải nâng cao tinh thần cảnh giác, gia tăng sức “đề kháng” và khả năng “miễn dịch” cho các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.

Các cơ quan chức năng cần chủ động cung cấp thông tin kịp thời, chính xác, khách quan, đúng định hướng để phòng, chống thông tin xấu, độc trên internet, mạng xã hội. Cơ quan chức năng cần chủ động cung cấp thông tin liên quan đại hội, nhất là công tác nhân sự bởi thông tin càng cởi mở thì sự lan toả càng mạnh mẽ, kết nối thông suốt, càng có điều kiện để phòng, chống tin giả, tin xấu độc, ngăn ngừa khoảng trống thông tin.

Cùng với đó là việc xử lý hành vi lợi dụng “dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do ngôn luận” để phát tán tài liệu vu cáo, bôi nhọ cán bộ, đảng viên, xuyên tạc, chống phá đại hội đảng các cấp và Đại hội XIV của Đảng.

Liêm Chính - Bình Nguyên

    Ngày: Tháng Bảy 10, 2025 

    Chính quyền địa phương 2 cấp và sự nỗ lực đồng bộ của cả hệ thống chính trị là không thể phủ nhận

    Hoàng Anh Quân

    Bộ máy chính quyền địa phương 2 cấp trên cả nước đi vào hoạt động (từ ngày 1/7/2025 đến nay vừa tròn 10 ngày), với những kết quả khả quan được ghi nhận (đảm bảo sự thuận lợi, hanh thông, nhanh gọn, sự vận hành thông suốt của các cơ quan chức năng, thể hiện rõ sự gần dân, sát dân, phục vụ người dân được tốt hơn…) đã chứng minh rằng: Việc tổ chức, vận hành chính quyền địa phương hai cấp (tỉnh và xã ) thay cho 3 cấp đã kéo dài bao năm nay (tỉnh, huyện và xã) ở Việt Nam là kết quả của một chủ trương đúng, hợp lòng Dân, đảm bảo tính khoa học, chặt chẽ, đáp ứng yêu cầu của đất nước trong kỷ nguyên vươn mình, chứ đó không phải là “việc làm” chủ quan, nôn nóng, vội vàng, chụp giật, không theo quy định, nhiều rủi ro, rối loạn, cải cách nửa vời, gây hoang mang trong xã hội, vì lợi ích cá nhân, do nhóm lợi ích thao túng… để tạo dấu ấn cá nhân, để cá nhân hoá quyền lực như các phần tử bất mãn, cơ hội, phản động, thù địch xuyên tạc. Thực tế cho thấy là:

    1. Tổ chức và vận hành bộ máy chính quyền địa phương 2 cấp là hợp hiến, hợp pháp, hợp ý Đảng, hợp lòng Dân.

    Chủ trương này được triển khai thực hiện theo đúng tinh thần Kết luận số 126-KL/TW về “Một số nội dung, nhiệm vụ tiếp tục sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị năm 2025”, Kết luận 127-KL/TW về “Triển khai nghiên cứu, đề xuất tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị“,  Nghị quyết số 60-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII “5. Cơ bản thống nhất với các nội dung đề xuất của Bộ Chính trị và Đề án về phương án sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh, không tổ chức cấp huyện, sáp nhập cấp xã và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp…” và theo Điều 110 của Hiến pháp (sửa đổi): “Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức thành hai cấp, gồm tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do luật định. Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập” cũng như Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi) được Quốc hội thông qua ngày 16/6/2025; đồng thời được cả hệ thống chính trị và nhân dân tin tưởng, ủng hộ.

    Việc tổ chức và vận hành bộ máy chính quyền địa phương 2 cấp trên thực tế không chỉ bảo đảm sự phân định rõ, không trùng lắp, chồng chéo về nhiệm vụ, thẩm quyền của từng cấp chính quyền, mà còn phù hợp với mô hình quản trị địa phương hiện đại (tinh,  gọn, hiệu lực, hiệu quả, gần dân, sát dân, phục vụ nhân dân tốt hơn), góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu năng hoạt động của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Vì thế, vận hành bộ máy chính quyền địa phương 2 cấp ở Việt Nam không chỉ có ý nghĩa như một bước ngoặt trọng đại, mang tính lịch sử, mà còn khẳng định thông điệp về chủ trương quyết liệt, không chùn bước – quyết tâm triển khai nhanh, gọn – biện pháp cải cách mạnh mẽ, thực chất của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng đầu là Tổng Bí thư Tô Lâm.

    2. Tổ chức, vận hành bộ máy chính quyền địa phương 2 cấp là quyết định cải cách nhanh, gọn, dứt khoát và sự nỗ lực đồng bộ của cả hệ thống chính trị.

    Sự tổ chức, vận hành của mô hình chính quyền địa phương 2 cấp phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước, của thời đại cho thấy ý Đảng đã hợp lòng Dân khi đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được xây dựng và thực hiện trên tinh thần nhất quán: Lấy dân làm gốc, dân là chủ, dân làm chủ, người dân là trung tâm của công cuộc đổi mới. Đó cũng chính là đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, trước hết, vì nhân dân phục vụ, lấy sự hài lòng của người dân làm thước đo cho việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và tư duy quản trị quốc gia hiện đại để không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.

    Thực tế, mọi cải cách chính trị, hành chính mà Đảng, Nhà nước Việt Nam đã và đang quyết tâm thực hiện là để đưa đất nước phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng trong kỷ nguyên mới; là để mỗi cơ quan công quyền đều tinh, gọn, gần dân, sát dân, phục vụ nhân dân kịp thời, chất lượng và hiệu quả hơn. Cho nên, việc tổ chức và vận hành bộ máy chính quyền địa phương 2 cấp không đơn giản chỉ là sự sắp xếp tinh gọn tổ chức, về con người, mà còn là thực hiện chủ trương phân cấp, phân quyền giữa Trung ương và địa phương, để địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm trên tinh thần nâng cao năng lực quản lý của chính quyền địa phương, giúp giảm biên chế, giảm chi tiêu, tiết kiệm ngân sách để dành cho những nhiệm vụ quan trọng khác khi đất nước vươn mình.

    Sự phân cấp, phân quyền này vừa tạo ra một hệ thống hành chính thống nhất, đồng bộ, thông suốt, hiệu quả hơn, vừa tạo cơ hội – điều kiện để mỗi cán bộ, công chức nỗ lực tự trau dồi chuyên môn, kỹ năng, nghiệp vụ, rèn luyện đạo đức công vụ, nâng cao năng lực, chất lượng thực thi công vụ. Từ sự thật đó, có thể khẳng định việc đổi mới mạnh mẽ, quyết liệt, nhanh, gọn để sắp xếp tổ chức bộ máy, nguồn nhân lực của hệ thống chính trị; để vận hành chính quyền địa phương 2 cấp đảm bảo tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả là đúng đắn, là sự nỗ lực đồng bộ của cả hệ thống chính trị, vì “chậm trễ là có lỗi với nhân dân”, là “cản trở sự phát triển của đất nước” như Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh.

    Một đất nước đang chuyển mình, một mô hình chính quyền địa phương mới được tổ chức và hoạt động theo hướng tinh, gọn có nhiều ưu điểm, song cũng có không ít những thách thức, những ý kiến lo ngại (tâm lý e dè cái mới; tình trạng quá tải cho cán bộ cấp cơ sở khi một người phụ trách nhiều lĩnh vực; sự thay đổi về địa lý khi phải di chuyển một quãng đường xa hơn…) chắc chắn sẽ đơm hoa, kết trái khi có sự đồng tâm, nhất trí, đoàn kết “muôn người như một” của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.

    Vì thế, có thể thấy là, trong khi các thế lực thù địch, các phần tử bất mãn, cơ hội, phản động xuyên tạc, bôi đen sự thật, bóp méo bản chất việc tổ chức, vận hành mô hình chính quyền địa phương 2 cấp nhằm gây hoang mang, hoài nghi trong nhân dân và kích động gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thì dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị, sự ủng hộ hết lòng của các tầng lớp nhân dân, mô hình này đã được hiện thực hóa từ ngày 1/7/2025. Việc tinh giản, sắp xếp hợp lý bộ máy ở Trung ương và địa phương này không chỉ góp phần xây dựng nền hành chính hiện đại, minh bạch, hiệu quả để tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn mới, mà còn là bước đi cần thiết, tạo cơ chế giám sát minh bạch để công cuộc phòng, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực đạt hiệu quả cao hơn. Và cũng vì thế, chắc chắn việc thực hiện, vận hành bộ máy chính quyền địa phương 2 cấp sẽ thành công, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý hiệu lực của Nhà nước trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước!

    Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ trên không gian mạng trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay

    Thứ năm, 10/07/2025 - 06:00

    Bảo vệ chính trị nội bộ trên không gian mạng là trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân, trong đó có Quân đội và mọi quân nhân. Trong bối cảnh không gian mạng trở thành môi trường tương tác không thể thiếu của xã hội, các thế lực thù địch, phản động và các phần tử bất mãn tăng cường hoạt động chống phá bằng nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, khó nhận biết. Do đó, tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ trên không gian mạng là đòi hỏi tất yếu đối với các cơ quan, ban, ngành trong hệ thống chính trị, trong đó có Quân đội.

    Bảo vệ chính trị nội bộ là bảo vệ sự trong sạch, vững mạnh của Đảng, Nhà nước, chế độ, bảo vệ sinh mệnh chính trị, danh dự, uy tín của cán bộ, đảng viên, nhất là lãnh đạo Đảng, Nhà nước và cán bộ chủ chốt các cấp; phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh, làm thất bại các âm mưu, phương thức, thủ đoạn trong hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị, chống đối, góp phần xây dựng các cấp ủy, tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ.  

    Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ trên không gian mạng trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
     Ảnh minh họa: qdnd.vn

    Việt Nam là quốc gia có tốc độ phát triển nhanh về internet và số lượng người dùng mạng xã hội. Theo thống kê của cơ quan chức năng, tính đến tháng 5-2025, Việt Nam có 79,8 triệu người dùng internet, tương đương hơn 78% dân số. Việt Nam cũng là “nước đứng thứ 6 trên toàn thế giới về số lượng người dùng di động đang bị mã độc tấn công; 70% người dùng máy tính dễ bị mã độc tấn công, thông qua các phần mềm, USB hay thẻ nhớ”, là quốc gia đứng hàng đầu thế giới về nguy cơ bị nhiễm mã độc, phần mềm độc hại (qua kết nối internet, sử dụng điện thoại di động thông minh, tham gia các trang mạng xã hội, sử dụng USB, thẻ nhớ...). Đặc biệt, không gian mạng là môi trường lý tưởng để các thế lực thù địch, phản động: (1) Tán phát mã độc, phần mềm gián điệp trên internet, các ứng dụng mạng xã hội để thu thập, đánh cắp dữ liệu, thông tin bí mật của tổ chức và bí mật đời tư của cá nhân nhằm mục đích chiếm quyền kiểm soát và điều khiển hệ thống thông tin, khống chế, đòi hỏi đáp ứng yêu sách về đường lối, vật chất và tinh thần; (2) thực hiện các hoạt động xâm nhập, tuyển lựa gián điệp, tập hợp lực lượng, huấn luyện, điều khiển, dẫn dắt, chỉ đạo các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ và lực lượng vũ trang nhằm tạo bất ổn về chính trị; (3) thực hiện các phương thức, thủ đoạn cụ thể hóa chiến lược “diễn biến hòa bình”, âm mưu “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, hướng nước ta phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa; (4) thực hiện các hoạt động giả danh, mạo danh của tổ chức và cá nhân để hướng lái nhận thức của nhân dân, lừa đảo, chiếm đoạt tài sản; (5) thực hiện các hoạt động câu dẫn, thúc đẩy công dân tham gia các hoạt động trái pháp luật, phát triển tệ nạn xã hội, từng bước thay đổi và phá hoại lối sống tốt đẹp, truyền thống của con người Việt Nam.

    Do đó, đòi hỏi công tác bảo vệ chính trị nội bộ phải mở rộng trên không gian mạng, nhất là trong bối cảnh không gian mạng luôn tồn tại các mặt trái, có tác động tiêu cực đến mọi quốc gia-dân tộc nói chung, đời sống chính trị-xã hội, nhất là tư tưởng của con người nói riêng. Nhận thức sâu sắc vấn đề này, những năm qua, Đảng, Nhà nước, các tổ chức cơ sở đảng nói chung, các ban, bộ, ngành Trung ương, các cơ quan, đơn vị ở địa phương nói riêng đã có nhiều chủ trương, giải pháp khắc phục các nguy cơ từ không gian mạng, giữ vững và khẳng định được vai trò của công tác bảo vệ chính trị nội bộ, thực sự góp phần quan trọng bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng, đường lối, chủ trương của Đảng, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Tuy nhiên, không gian mạng thực sự là môi trường khó kiểm soát toàn diện; hệ thống pháp luật hiện hành của Việt Nam còn lỗ hổng trong xử lý thông tin xuyên quốc gia, đặc biệt từ các nền tảng chưa đặt đại diện pháp lý tại Việt Nam; lực lượng chuyên trách còn thiếu và yếu, nhất là ở cấp cơ sở; thiếu công cụ kỹ thuật để phát hiện sớm, phản ứng nhanh với các luồng thông tin nguy hiểm. Không những vậy, nhận thức, ý thức của công dân Việt Nam về tính hai mặt của không gian mạng nói chung, mạng xã hội nói riêng còn nhiều hạn chế, chưa chủ động trong bảo mật thông tin, dữ liệu cá nhân, còn vô ý làm lộ bí mật nhà nước, thông tin nội bộ của tổ chức và thông tin bí mật đời tư trên không gian mạng; cá biệt, có cá nhân còn bị tác động bởi các thông tin không chính thống, thông tin xuyên tạc, kích động, chống phá trên không gian mạng của các thế lực thù địch, phản động, dẫn đến có các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, có những lời nói, việc làm gây phương hại đến lợi ích quốc gia-dân tộc, danh dự, uy tín của tổ chức và cá nhân.

    Trong Quân đội nhân dân Việt Nam, bảo vệ chính trị nội bộ là công tác đặc thù, giữ vị trí nền tảng trong hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị nói chung, là “xương sống” của công tác bảo vệ an ninh quốc gia trong Quân đội nói riêng, góp phần quan trọng trong việc xây dựng các tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, cơ quan, đơn vị các cấp vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”. Trước tình hình quân nhân tham gia tương tác trên môi trường không gian mạng là tất yếu, những năm qua, cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia trong Quân đội đã tham mưu, đề xuất Quân ủy Trung ương, thủ trưởng Bộ Quốc phòng, thủ trưởng Tổng cục Chính trị lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng công tác bảo vệ an ninh Quân đội nói chung, công tác bảo vệ chính trị nội bộ Quân đội nói riêng; cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị đã đặc biệt quan tâm, quán triệt và thực hiện tốt các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của trên về công tác bảo vệ chính trị nội bộ nói chung, bảo vệ chính trị nội bộ trên không gian mạng nói riêng, đạt được nhiều kết quả quan trọng.

    Tuy nhiên, công tác bảo vệ chính trị nội bộ trên không gian mạng ở một cơ quan, đơn vị trong từng thời điểm nhất định vẫn còn sơ hở, thiếu sót cần khắc phục; vẫn còn có quân nhân chấp hành không nghiêm các quy định khi truy cập internet, sử dụng mạng xã hội, vô ý làm lộ, mất bí mật nhà nước, thông tin nội bộ; có quân nhân có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham gia, theo dõi, tương tác các trang mạng có nội dung xấu độc, bị khống chế, đe dọa, mất tiền; cá biệt còn có quân nhân hùa theo, hậu thuẫn, cổ xúy hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, phần tử bất mãn và có quân nhân vi phạm pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội, đạo đức, văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, Quân đội trên không gian mạng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh dự, uy tín và hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ... Do đó, trong giai đoạn hiện nay, tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ trên không gian mạng là đòi hỏi tất yếu đối với Quân đội nhân dân Việt Nam. Để đạt kết quả tốt, có tính bền vững, cần thực hiện các giải pháp như sau:

    Một là, thường xuyên làm tốt công tác quán triệt, tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của quân nhân về vị trí, vai trò của công tác bảo vệ chính trị nội bộ Quân đội nói chung, bảo vệ chính trị nội bộ trên không gian mạng nói riêng.

    Cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị trong Quân đội, nhất là đơn vị cơ sở, đơn vị trọng yếu, cơ mật cần thường xuyên làm tốt công tác quán triệt, tuyên truyền, giáo dục, giúp cho mọi quân nhân nâng cao nhận thức về tính hai mặt của không gian mạng nói chung, mạng xã hội nói riêng, bồi dưỡng nhận thức chính trị, các kỹ năng, kỹ xảo cần thiết khi tương tác trên không gian mạng, biết chủ động phòng ngừa, tự bảo vệ, đủ sức đề kháng và khả năng miễn nhiễm trước các thông tin tiêu cực trên không gian mạng.

    Nội dung tuyên truyền phải toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm. Đặc biệt, cần trang bị tri thức về không gian mạng, các thành tố cấu thành không gian mạng, nhất là các tác động tiêu cực từ không gian mạng đối với công tác bảo vệ chính trị nội bộ Quân đội, để mọi quân nhân biết cách phòng ngừa. Hình thức quán triệt, tuyên truyền, giáo dục cần phong phú, đa dạng, linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với tình hình thực tiễn của mỗi cơ quan, đơn vị, bảo đảm tính tập trung và cá biệt, tính phổ biến và chuyên sâu, bảo đảm sát với đối tượng cụ thể, đạt được mục đích, yêu cầu; có thể kết hợp các hoạt động hội họp của đơn vị để tuyên truyền, thậm chí đưa nội dung tuyên truyền vào chương trình tập huấn, bồi dưỡng hằng năm.

    Hai là, thường xuyên, chủ động làm tốt công tác nắm tình hình, kịp thời phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn, làm thất bại các hoạt động lợi dụng không gian mạng để cài cắm, móc nối, phá hoại nội bộ, chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ và lực lượng vũ trang.

    Quán triệt, thực hiện phương châm “chủ động phòng ngừa, giữ vững bên trong là chính”, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần thường xuyên thực hiện tốt các quy định, nguyên tắc trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ trong chấp hành các quy định về bảo vệ bí mật nhà nước, phát ngôn, cung cấp thông tin cho báo chí, các quy định về quản lý, sử dụng internet, mạng xã hội; thường xuyên, định kỳ làm tốt công tác thẩm tra, xét duyệt tiêu chuẩn chính trị, công tác tuyển chọn, điều động, bố trí quân nhân công tác tại các vị trí trọng yếu, cơ mật; theo dõi, giám sát các quân nhân thường xuyên có hoạt động tương tác trên không gian mạng, quân nhân tiếp xúc, làm việc với người nước ngoài, quân nhân học tập, công tác tại nước ngoài...

    Chú trọng phát hiện các dấu hiệu bất minh, các dấu hiệu lộ bí mật nhà nước, lọt bí mật vào tay địch; dấu hiệu nghi vấn các cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài câu kết, móc nối, mua chuộc, lôi kéo, tác động phá hoại tư tưởng đối với cán bộ, chiến sĩ trong cơ quan, đơn vị; kịp thời phát hiện các biểu hiện tuyên truyền ngược, lan truyền trong nội bộ các luận điệu tuyên truyền phá hoại tư tưởng, các biểu hiện mất đoàn kết, chia rẽ, phân hóa trong nội bộ mang màu sắc chính trị; các biểu hiện tiêu cực khác, như tham nhũng, hối lộ, quan liêu, tuyển dụng, bố trí cán bộ không đúng nguyên tắc... Bên cạnh đó, cần nắm chắc tâm tư, nguyện vọng, diễn biến tư tưởng của quân nhân trong cơ quan, đơn vị về các vấn đề chính trị-xã hội và các vấn đề xoay quanh cuộc sống của quân nhân, như: Các tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, phân hóa giàu-nghèo, luân chuyển, bổ nhiệm, tinh gọn bộ máy hành chính và Quân đội... không để quân nhân có “diễn biến tư tưởng tiêu cực, tìm cách giải tỏa trên không gian mạng”, vô ý làm lộ, mất bí mật nhà nước, bí mật quân sự, vi phạm các quy định của Đảng, Nhà nước và Quân đội trong truy cập kết nối internet, sử dụng mạng xã hội...

    Ba là, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật; đầu tư xây dựng lực lượng an ninh mạng và kiểm tra an ninh, an toàn công nghệ thông tin trong Quân đội tiến thẳng lên hiện đại.

    Cơ quan chuyên trách về bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh mạng trong Quân đội cần thường xuyên làm tốt công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật để tạo hành lang pháp lý vững chắc, bảo đảm thế trận an ninh chủ động trong công tác bảo vệ an ninh chính trị nội bộ trên không gian mạng. Theo đó, hằng năm, cần tiến hành các hội nghị sơ kết, tổng kết công tác pháp chế, kịp thời phát hiện các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản quy phạm nội bộ không đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn, cần phải chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện. Trên cơ sở đó, kịp thời tham mưu, đề xuất Thường vụ Quân ủy Trung ương, thủ trưởng Bộ Quốc phòng, thủ trưởng Tổng cục Chính trị ban hành các chủ trương, quyết sách quan trọng, nâng cao chất lượng công tác bảo vệ an ninh Quân đội nói chung, công tác bảo vệ chính trị nội bộ Quân đội nói riêng. Chú trọng sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật quy định về các hành vi của quân nhân khi truy cập internet, tham gia mạng xã hội, tương tác trên không gian mạng, bảo đảm tính pháp quy, tính chính trị và phù hợp với bối cảnh mới.

    Những năm tới, cơ quan chức năng các cấp cần tham mưu, đề xuất Thường vụ Quân ủy Trung ương, thủ trưởng Bộ Quốc phòng, thủ trưởng Tổng cục Chính trị ban hành các chính sách trọng dụng nhân tài công nghệ thông tin cho Quân đội, ưu tiên trong công tác tuyển dụng, đào tạo cán bộ am hiểu công nghệ, truyền thông số, an ninh mạng và từng bước nâng cao cơ sở vật chất, nhất là các trang thiết bị công nghệ thông tin cho các cơ quan, đơn vị trong Quân đội,

    Bên cạnh đó, cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh trong Quân đội cần chủ động nắm tình hình, ngăn chặn, gỡ bỏ các thông tin tiêu cực, ảnh hưởng đến nội bộ Quân đội; thành lập các tổ công tác chuyên trách về bảo vệ chính trị nội bộ trên không gian mạng, kịp thời phát hiện các hoạt động chống phá Quân đội. Tăng cường thực hiện biện pháp pháp luật, xử lý nghiêm những tổ chức, cá nhân có hành vi vu khống, xuyên tạc, chống phá Quân đội, xúc phạm danh dự, hạ thấp uy tín lãnh đạo, chỉ huy các cơ quan, đơn vị Quân đội trên cả thực địa và không gian mạng. Đồng thời, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong Quân đội cần thường xuyên lãnh đạo thực hiện tốt công tác nắm bắt dư luận và định hướng quân nhân nhận thức đúng đắn về những vấn đề phức tạp, nhạy cảm được dư luận xã hội quan tâm, nhất là các vấn đề có liên quan đến lợi ích quốc gia-dân tộc, liên quan đến nội bộ Quân đội; đưa thông tin tích cực, thông tin chính thống giữ vai trò chủ đạo và chủ động phòng, chống “tuyên truyền ngược” trong phát ngôn của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ.

    Đại tá ĐỖ QUYẾT KHOA, Phó cục trưởng Cục Bảo vệ an ninh Quân đội