Thông tin từ Đài châu Á tự do (RFA) cho rằng, đây là “một công trình nghiên cứu của ông John Coughlan” (nhân viên, đặc trách nghiên cứu về Việt Nam) được thực hiện bằng "phỏng vấn qua điện thoại, email". Trong báo cáo này ông John Coughlan viết: Các “tù nhân lương tâm” tại Việt Nam luôn “bị tra tấn và ngược đãi” với những chứng cứ như: “Bị cách ly” khi giam giữ hoặc bị “cưỡng bức mất tích”. “Quyền về sức khỏe” của họ luôn bị  “từ chối”, một số trường hợp các “tù nhân lương tâm chỉ nhận được thuốc kém phẩm chất”...
Phần cuối bản báo cáo, ông John Coughlan (được AXQT đồng ý) “kiến nghị”: “Chấm dứt việc bắt bớ và lập tức trả tự do cho các tù nhân lương tâm”; “Chấm dứt việc tra tấn và đối xử tàn bạo tại các đồn công an, trại giam”; “Sửa đổi các bộ luật hình sự, luật tố tụng hình sự và luật về thi hành tạm giữ và tạm giam”...
Trước hết, như mọi người đều biết, quyền tự quyết của các dân tộc đã được ghi trong Hiến chương Liên hợp quốc, 1945 và Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, 1948. Quyền này bao gồm quyền lựa chọn chế độ chính trị, thiết lập thể chế quốc gia, trong đó bao hàm pháp luật nhằm bảo vệ quyền công dân, quyền con người. Đây là quyền của mọi quốc gia, dân tộc mà không có ai có quyền can thiệp, kể cả Liên hợp quốc. Hiến pháp và pháp luật Việt Nam do nhân dân Việt Nam quyết định. Hơn nữa các quy định trong Hiến pháp và pháp luật của Việt Nam cho đến nay đã tương thích với luật pháp quốc tế, trong đó có quyền con người. Thế nhưng, dưới danh nghĩa “bảo vệ nhân quyền”, AXQT đưa ra báo cáo với những nội dung sai trái và “kiến nghị” không thể chấp nhận được. Có thể nói, những chứng cứ và “kiến nghị” của AXQT thực chất là can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Chẳng hạn AXQT bao che, bảo vệ cho các hành vi vi phạm “Tội xâm phạm an ninh quốc gia” (như “Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” (Điều 79-Bộ luật Hình sự, 1999; “Tội tuyên truyền chống Nhà nước CHXHCN Việt Nam” hoặc vi phạm “Tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính” (chẳng hạn như “Tội lợi dụng các quyền tự do, dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” (Điều 258-Bộ luật Hình sự 1999).
Những cáo buộc trong báo cáo của AXQT nêu trên, chẳng những sai sự thật, mà còn thể hiện những quan điểm chính trị, nhân quyền trái với các nguyên tắc của luật pháp quốc tế. Đó là chưa nói đến báo cáo của AXQT được soạn thảo một cách phiến diện, cẩu thả, vô căn cứ. Chẳng hạn báo cáo chỉ “bảo vệ” quyền cho các “tù nhân lương tâm” (đây là khái niệm mơ hồ, không có trong ngôn ngữ pháp luật Việt Nam cũng như ngôn ngữ pháp luật của các quốc gia khác). Tư liệu của báo cáo dựa trên các cuộc “phỏng vấn qua điện thoại, email”. Trong khi báo cáo lại đưa ra những chứng cứ như: Tù nhân “Bị tra tấn đánh đập dã man”, “bị cách ly” hoặc bị “cưỡng bức mất tích”… Tại sao AXQT không nghĩ rằng, những kẻ kỳ thị, chống phá chế độ xã hội Việt Nam có thể cung cấp cho ông John Coughlan những thông tin giả tạo? Tại sao ông John Coughlan và AXQT không lấy thông tin từ những chính sách, pháp luật hiện hành của Việt Nam, qua những cán bộ công chức của nhà nước, là những người có trách nhiệm pháp lý đối với việc thực hiện pháp luật quốc gia? Điều này chỉ có thể giải thích, vì AXQT là một tổ chức có cùng quan điểm với những kẻ kỳ thị, chống phá chế độ xã hội Việt Nam!
Xin được bình luận thêm về việc biên tập báo cáo rằng, AXQT đã thông qua báo cáo này một cách cẩu thả. Chẳng hạn, trong văn bản nói trên họ còn nói đến hành vi phạm tội của chính những “tù nhân lương tâm”. Báo cáo có đoạn viết: “Tù nhân lương tâm còn bị đánh đập bởi các tù nhân khác dưới sự xúi giục hoặc với sự đồng thuận của quản giáo nhà tù”...(!) Thiết nghĩ nếu là một tổ chức nhân quyền thật sự, có trách nhiệm với mình và với các đối tác, thì AXQT không thể lấy báo cáo “điều tra”của cá nhân ông John Coughlan phỏng vấn “qua điện thoại, email” làm chứng cứ cho báo cáo chính thức của AXQT.
Như mọi người đã biết, tổ chức AXQT, cũng như tổ chức theo dõi nhân quyền-Human Right Watch (HRW) là những tổ chức sân sau cho các “Báo cáo tình hình nhân quyền” và “Báo cáo về tình hình tôn giáo thế giới” hằng năm của Bộ Ngoại giao Mỹ. Những tổ chức này là công cụ của lực lượng cực hữu Hoa Kỳ trong việc khuyến khích các hoạt động chống phá chế độ, chống phá Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Cái gọi là báo cáo thường niên của họ đã bị các quốc gia trên thế giới bác bỏ.
Vậy chính sách, pháp luật và thực tế việc bảo đảm nhân quyền ở Việt Nam như thế nào? Quy định pháp luật của Việt Nam về trại giam và đối với những người đang chấp hành hình phạt tù như thế nào?
Cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước ta luôn lấy dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh là phương hướng, mục tiêu phấn đấu. Cương lĩnh (năm 2011) của Đảng Cộng sản Việt Nam ghi: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”. Thực hiện các cương lĩnh, văn kiện của Đảng, cho đến nay Nhà nước Việt Nam đã gia nhập, ký kết hầu hết các công ước quốc tế cơ bản về quyền con người.
Ngay trong thời kỳ đất nước ta còn bị chia cắt, năm 1957 Việt Nam đã gia nhập 4 công ước (Geneve) về Luật Nhân đạo “bảo hộ nạn nhân chiến tranh, đối xử nhân đạo với tù nhân chiến tranh”. Trước khi trở thành thành viên của Liên hợp quốc, trong thế bị bao vây, cấm vận của Mỹ, Việt Nam đã gia nhập “Công ước quốc tế về xóa bỏ các hình thức phân biệt chủng tộc” (năm 1981); ký kết “Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ” và gia nhập hai công ước quốc tế cơ bản về quyền con người: “Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội” và “Công ước quốc tế về các quyền dân sự chính trị” (năm 1982). Năm 1990, Việt Nam ký Công ước về quyền trẻ em.
Thực hiện Chương II, Hiến pháp 2013 về “quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân”, đồng thời nội luật hóa các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã phê chuẩn, năm 2014 Việt Nam đã phê chuẩn hai công ước nhân quyền nhạy cảm, đòi hỏi Nhà nước phải đầu tư nguồn lực lớn (như để cải tạo các trại giam, nâng cao tiêu chuẩn ăn ở cho các phạm nhân, mở lớp đào tạo cho người khuyết tật…) đó là “Công ước chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người” (gọi tắt là Công ước chống tra tấn) và “Công ước về quyền của người khuyết tật”.
Đối với việc bảo đảm quyền con người của các phạm nhân, Chính phủ Việt Nam đã ra Nghị định số 60-CP (16-9-1993) “Ban hành quy chế trại giam” và Nghị định số 98/2002/NĐ-CP ngày 27 -11-2002 về “Sửa đổi, bổ sung một số điều của quy chế về tạm giam, tạm giữ năm 1988 của Chính phủ”. Nghị định trên đã bảo đảm các nguyên tắc pháp quyền đối với người đang chấp hành hình phạt giam giữ. Chẳng hạn về chế độ quản lý phạm nhân, Nghị định quy định: “Trại giam phải tổ chức giam phạm nhân theo từng loại riêng... Phạm nhân là nữ hoặc là người chưa thành niên phải được giam ở khu vực riêng trong từng trại (Điều 7), “Trừ những phạm nhân bị phạt giam ở buồng kỷ luật, còn các phạm nhân khác được ở theo buồng tập thể” (Điều 15); “Trại giam phải được bảo vệ nghiêm ngặt… có đủ ánh sáng, bảo đảm vệ sinh, môi trường” (Điều 10); “Phạm nhân được hoạt động thể dục thể thao, văn hóa, văn nghệ”…; “được đọc sách, nghe Đài Tiếng nói Việt Nam, xem truyền hình” (Điều 18); “Trong thời gian ở trại, phạm nhân được khám sức khỏe định kỳ ít nhất một năm một lần” (Điều 19).
Khác với quan điểm của một số quốc gia, Việt Nam cho rằng, phạm nhân phải lao động. Đây vừa là nghĩa vụ, vừa là một hình thức cơ bản, quan trọng để phạm nhân cải tạo trở thành công dân tốt. Điều 21 quy định: “Phạm nhân lao động ngày 8 giờ”, “Nữ phạm nhân có thai được nghỉ trước và sau khi đẻ theo quy định chung của Nhà nước”. Điều 23, quy định: “Kết quả lao động do phạm nhân dùng để đầu tư trở lại mở rộng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất của trại, thưởng cho cán bộ, chiến sĩ của trại có thành tích trong việc tổ chức và quản lý sản xuất; thưởng cho phạm nhân vượt chỉ tiêu”, nếu không đủ, “Nhà nước sẽ cấp bổ sung số kinh phí còn thiếu”.
Về việc bảo đảm sức khỏe và nhân phẩm của phạm nhân, Bộ luật Hình sự năm 1999 đã quy định: “Người nào trong khi thi hành công vụ mà làm chết người do dùng vũ lực…” thì bị phạt tù “từ 2 năm đến 7 năm” (Điều 97); “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” có hình phạt lên đến 7 năm tù (Điều 104)… Bởi vậy những điều mà AXQT nêu ra trong “Báo cáo” nói trên là không có cơ sở pháp lý. Nếu có chỉ là những trường hợp cá biệt nào đó của quản giáo chưa được phát hiện và xử lý mà thôi. Nói cách khác, Báo cáo của AXQT là sai trái, xuyên tạc đường lối, chính sách, pháp luật Việt Nam.
Nhân đây cũng cần nói đến chính sách nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, được thể hiện trong chính sách và Luật Đặc xá. Chính sách đặc xá hằng năm của xã hội ta tuân thủ nguyên tắc bảo đảm công khai, minh bạch, dân chủ trong việc lựa chọn người được đặc xá. Trước mỗi đợt đặc xá phạm nhân được bình bầu dân chủ, chọn ra những người cải tạo tốt, chấp hành nội quy trại giam tốt sẽ được đặc xá trước. Nếu như các “tù nhân lương tâm” (theo cách gọi của AXQT) cải tạo tốt, chắc chắn họ sẽ được trả tự do sớm như những phạm nhân khác. Trong trường hợp họ “dũng cảm, kiên cường” bảo vệ quan điểm của mình, đối đầu với chế độ, với Nhà nước Việt Nam, không thừa nhận những sai phạm của mình thì họ phải chờ đến hết thời hạn trong tù theo quyết định của bản án đã tuyên.
Theo báo cáo của Chính phủ, từ năm 2009 đến 2015, triển khai Luật Đặc xá, Chủ tịch nước đã quyết định thực hiện 5 đợt đặc xá tha tù trước thời hạn cho 63.499 phạm nhân và 678 người. Trong những năm gần đây cùng với việc thi hành Luật Đặc xá, Nhà nước ta đã thực hiện nhiều chính sách cho người đang thi hành án, trong đó có chính sách dạy nghề. Phần lớn những người được đặc xá năm 2015 đã có trong tay những nghề đơn giản để hội nhập cộng đồng.
Thiết nghĩ AXQT có thể hiểu rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam không có lợi ích gì khi đưa những người “bất đồng chính kiến”, những “tù nhân lương tâm” vào tù vì điều này không chỉ tổn hại về tiền bạc, công sức mà còn mang tiếng không tốt đối với cộng đồng quốc tế.
Như vậy có thể nói, xét về chính trị, pháp lý cũng như thực tế, Báo cáo của AXQT là hoàn toàn sai trái, là can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Cho dù AXQT có vu cáo, xuyên tạc tình hình chính trị, xã hội Việt Nam nói chung, tình trạng nhà tù Việt Nam nói riêng đến đâu cũng không thể phủ nhận được chính sách, pháp luật và thành quả của Nhà nước Việt Nam trên lĩnh vực quyền con người. 
BẮC HÀ