Xung quanh bài viết “Cuộc cách mạng tinh giản bộ máy của Tô Lâm sẽ thành công hay thất bại?”

Tháng Mười Hai 30, 2024

 

Xung quanh bài viết “Cuộc cách mạng tinh giản bộ máy của Tô Lâm sẽ thành công hay thất bại?”

Thanh Tâm

Tin tức về chủ trương sắp xếp, tinh gọn tổ chức, bộ máy hệ thống chính trị trên các phương tiện thông tin truyền thông, các trang mạng xã hội là thông tin chủ đạo, thu hút sự quan tâm đặc biệt của người dân trong nước, cũng như ngoài nước thời gian gần đây. Trên VOA, 29/12/2024, có bài “Cuộc cách mạng tinh giản bộ máy’ của Tô Lâm sẽ thành công hay thất bại?” của Trần Đông A đã tao sự chú ý của dư luận xã hội.

Đồng tình phần nào với mở đầu của bài viết, “Thành công hay thất bại của cuộc cách mạng này sẽ phụ thuộc vào sự cân bằng giữa quyết tâm chính trị, chiến lược thực hiện và khả năng xử lý rủi ro. Nếu đảm bảo minh bạch và có phương pháp chuẩn, cuộc tinh giản sẽ là dấu mốc quan trọng. Ngược lại, đây có thể trở thành bài học đau đớn cho cải cách”. Tuy nhiên, “Chưa bao giờ các chỉ dấu thiếu nhất quán lại xuất hiện công khai vào thời điểm cuối năm…”!? Tác giả lý giải “Theo phương án sáp nhập, dự kiến Chính phủ chỉ còn 13 bộ, 4 cơ quan ngang bộ, giảm 5 bộ và 3 cơ quan… Con số dôi dư đưa ra là sẽ giảm 35 – 40% đầu mối, các tổ chức còn lại giảm tối thiểu 15%. Tổng biên chế hiện nay vào khoảng trên 2 triệu người. Nếu giảm theo tỷ lệ trên thì con số 100.000 ông Phó Thủ tướng thường trực (PTTg) Nguyễn Hòa Bình đưa ra chả thấm tháp vào đâu. Phải chăng vì thế, phát biểu của PTTg bị kéo xuống?”!?

Theo tác giả “Truyền thông quốc tế cũng đã nhanh chóng vào cuộc và cũng để lộ ra những đánh giá trái chiều về “cuộc cách mạng” của ông Tô Lâm”. Ông Leif Schneider, Giám đốc công ty Luật quốc tế Luther, bình luận với Reuters rằng “Trong một thời gian, các nhà đầu tư có thể gặp phải sự chậm trễ hoặc bất ổn khi các cấu trúc mới được thiết lập và dư âm của việc sáp nhập các cơ quan quản lý thượng tầng này lắng xuống”. Và một nhà ngoại giao phương Tây, tại Hà Nội nhận xét, “Hãy chuẩn bị đón nhận tình trạng tê liệt như một điều bình thường trong một thời gian,” đồng thời bình luận “cuộc tinh gọn này cũng có thể là cách để TBT Tô Lâm củng cố quyền lực”!? Tuy nhiên, tác giả “lờ đi” dự báo quan trọng của chính ông Leif Schneider, đã chia sẻ với Reuters, rằng Nhưng triển vọng về dài hạn có thể tươi sáng hơn, Việt Nam có thể trở thành điểm đến thân thiện với nhà đầu tư hơn nếu cải cách hiệu quả”.

Tác giả nhân xét, “Song hành với ‘cuộc cách mạng tinh giản biên chế’, TBT Tô Lâm gần đây đã tăng cường cho kiểm tra, bắt giữ các quan chức ở tất cả các cấp, bao gồm cả các thành viên cấp cao của Bộ Chính trị và các bộ trong chính phủ…” và “Tác động lớn nhất của chiến dịch chống tham nhũng là các quan chức chính phủ không muốn làm việc nữa, họ không muốn ủng hộ, tạo điều kiện cho xã hội dân sự”!? Nhưng chính tác giả cũng phải thừa nhận, rằng “chiến dịch đã đưa Việt Nam từ vị trí 113 lên vị trí 83 về ‘Chỉ số Cảm nhận Tham nhũng’”.

Hơn thế nữa, tác giả đã tự suy diễn, dự báo với chủ ý bôi nhọ, xuyên tạc, rằng “các nhóm lợi ích hoặc những cá nhân bị loại bỏ bởi việc sắp xếp lại bộ máy có thể là lực cản lớn đối với cải cách. Sự phản kháng này không chỉ xuất phát từ tâm lý e ngại mất quyền lợi, mà còn từ việc thiếu niềm tin vào khả năng thực hiện một tiến trình quá sâu rộng nhưng dục tốc… Việc hợp nhất hoặc xóa bỏ các cơ quan có thể dẫn đến tình trạng chồng chéo, mất kết nối trong giai đoạn đầu. Việc tinh gọn bộ máy, do đó, dễ đi kèm theo nguy cơ “tê liệt cục bộ”… dẫn đến mất điểm trong mắt công chúng và cộng đồng quốc tế.”!?

Trước tiên, phải khẳng định rằng, cuộc cách mạng về sắp xếp, tinh gọn bộ máy của hệ thống chính trị hiện nay là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, có ý nghĩa sống còn đối với sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới. Đây là đòi hỏi tất yếu nhằm nâng cao hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy, đáp ứng yêu cầu xây dựng một hệ thống chính trị hiện đại, minh bạch, vì sự phát triển nhanh, bền vững của Việt Nam trong kỷ nguyên mới. Mục tiêu của công cuộc sắp xếp, tinh gọn bộ máy là xây dựng một hệ thống chính trị gọn nhẹ, minh bạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tránh tình trạng chồng chéo chức năng, lãng phí nguồn lực. Quá trình này sẽ đối mặt với nhiều thách thức. Đảng, Nhà nước, Tổng Bí thư Tô Lâm, các cơ quan chức năng đã lường trước tình hình, cảnh báo và chỉ ra những khó khăn, thách thức của cuộc cách mạng này, về: (1) Thách thức về mặt tổ chức là một trong những vấn đề khó khăn nhất. Tình trạng chồng chéo, trùng lặp chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị hiện nay đang diễn ra khá phổ biến. Việc sắp xếp lại cơ cấu tổ chức, tinh gọn bộ máy, phân định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ là yêu cầu bắt buộc… đồng thời kiên quyết chấm dứt tình trạng trùng lặp, lãng phí. Tuy nhiên, việc này không hề đơn giản, đòi hỏi sự quyết tâm cao, vượt qua lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm… (2) Từ sức ép của bộ máy cồng kềnh, tâm lý bảo thủ một bộ phận cán bộ, cũng như khó khăn trong việc sắp xếp, bố trí nhân sự, bảo đảm quyền lợi chính đáng của cán bộ, công chức. Đây là vấn đề nhạy cảm, ảnh hưởng trực tiếp, tác động đến tâm lý, quyền lợi của cán bộ, công chức. Nếu không có cơ chế, chính sách hợp lý, giải quyết thỏa đáng, việc tinh gọn nhân sự có thể dẫn đến tình trạng bất mãn, mất niềm tin vào chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, thậm chí ảnh hưởng an ninh, trật tự xã hội. (3) Thách thức về mặt văn hóa và tư duy. Tâm lý e ngại thay đổi, tư duy “an phận”, sợ khó, tìm cách vụ lợi, né tránh trách nhiệm, thiếu tinh thần đổi mới, sáng tạo vẫn là một hiện tượng phổ biến, đặc biệt trong các cơ quan vốn có tính ổn định cao. Cần thay đổi tư duy cán bộ, công chức, đồng thời kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực, cản trở quá trình tinh gọn bộ máy. (4) Thách thức về chính sách. Các quy định cụ thể vẫn còn nhiều bất cập, chưa thực sự phù hợp với thực tiễn, chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc tinh gọn bộ máy. Bên cạnh đó, cần tập trung thay đổi tư duy, văn hóa làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức thực sự “trung thành, trách nhiệm, liêm chính, mẫu mực, tận tụy, phục vụ nhân dân”, khuyến khích tinh thần đổi mới, sáng tạo, khát vọng cống hiến và sẵn sàng thích ứng với yêu cầu của thời đại mới.

Việc xây dựng bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu quả và minh bạch… cần phải đáp ứng yêu cầu quản lý hiện đại trong bối cảnh chuyển đổi số và hội nhập quốc tế đã và đang nhận được sự quan tâm to lớn, đánh giá cao và kỳ vọng vào sự đột phá mạnh mẽ của nhân dân và dư luận quốc tế. Do đó, trên tất cả, cần sự thống nhất nhận thức, hành động, quyết tâm chính trị, sự vào cuộc mạnh mẽ của cả hệ thống chính trị sẽ là yếu tố then chốt để vượt qua những rào cản, hiện thực hóa mục tiêu này. Tác giả nên nhớ rằng, việc đánh giá sự thành công của cuộc cách mạng tinh giản bộ máy là một quá trình phức tạp, đòi hỏi sự kết hợp nhiều phương pháp và quan sát môt số chỉ dấu, chỉ tiêu. Cụ thể, như: (1) chỉ dấu về hiệu quả Hoạt động gồm: Năng suất lao động; Chi phí hoạt động; Chất lượng dịch vụ công; Thời gian giải quyết thủ tục hành chính. (2) Chỉ dấu về Tổ chức Bộ máy, gồm: Cơ cấu tổ chức; Số lượng cán bộ, công chức; Phân công công việc; Sử dụng công nghệ. (3) Chỉ dấu về Ý thức của Cán bộ, Công chức, gồm: Tinh thần trách nhiệm; Năng lực làm việc; Sáng tạo. (4) Chỉ dấu về Sự Hài lòng của Nhân dân, gồm: Khảo sát ý kiến; Phản ánh; Sự tin tưởng của nhân dân đối với bộ máy nhà nước. (5) Một số Chỉ dấu Cảnh báo, gồm: Giảm hiệu quả; Tăng chi phí; Thay đổi nhân sự; Phản ứng tiêu cực… Cho dù cố tình nói xấu, xuyên tạc, bôi nhọ chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đến đâu, nhưng chính Trần Đông A cũng phải thấy rõ và thừa nhận về sự quyết liệt, quyết tâm của Đảng, Nhà nước và Tổng bí thư Tô Lâm trong cuộc cách mạng sắp xếp, tinh gọn bộ máy hệ thống chính trị hiện nay. Rằng “Theo chính TBT Tô Lâm, nhiều đại hội của Đảng từ các nhiệm kỳ trước từng đặt ra vấn đề này, đặc biệt là từ Đại hội XII đến nay, điều đó cho thấy Đảng đã nhìn ra và thấy cần phải thực hiện, nhưng quá trình triển khai chưa đạt mục tiêu đề ra. “Đây thật sự là vấn đề khó, thậm chí rất khó vì khi tiến hành tinh gọn bộ máy sẽ liên quan đến tâm tư, tình cảm, nguyện vọng và đụng chạm tới lợi ích của một số cá nhân, tổ chức”, TBT nói và nhận định, dù đã được chuẩn bị kỹ, bài bản… nhưng chắc chắn việc triển khai tại nhiều đơn vị sẽ gặp khó khăn, thậm chí có cả những lực cản quyết liệt. “Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải tiến hành vì muốn có một cơ thể khỏe mạnh, đôi khi phải “uống thuốc đắng”, phải chịu đau để “phẫu thuật khối u” – TBT đề nghị các cấp, các ngành phải xác định quyết tâm chính trị cao nhất trong thực hiện chủ trương. “Đây là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng, là cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị; Đây không chỉ là vấn đề về quy mô hay số lượng, mà sâu xa hơn là phải tạo sự thay đổi về chất trong hoạt động của hệ thống chính trị”, TBT chốt hạ”. Hy vọng với bản lĩnh, phẩm chất của nhà khoa học, Trần Đông A sẽ có cái nhìn chính nghĩa, khách quan, khoa học, phản ánh trung thực hơn nữa về cuộc cách mạng sắp xếp, tinh gọn bộ máy hệ thống chính trị hiện nay, góp phần bác bỏ, đẩy lùi các luận điệu vu cáo, xuyên tạc của các thế lực thù địch./.

Nhận diện âm mưu, thủ đoạn đòi phi chính trị hóa lực lượng vũ trang trong tình hình hiện nay

Thứ Hai, 30/12/2024, 05:15

Trong mọi giai đoạn của cách mạng, lực lượng vũ trang có vai trò đặc biệt quan trọng, do đó họ luôn là mục tiêu của các thế lực thù địch hướng tới chống phá. Một trong những âm mưu của kẻ địch là tăng cường cổ xúy vấn đề phi chính trị hóa lực lượng Quân đội và Công an.

Đây chính là chiêu bài quen thuộc mà các thế lực thù địch, phản động thường áp đặt, tạo tiền đề cơ bản thực hiện ý đồ gây bạo loạn, lật đổ. Đối với Việt Nam, mục tiêu xuyên suốt của các thế lực thù địch là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, thay đổi chế độ chính trị tại Việt Nam. Chúng xác định, muốn Đảng suy yếu vai trò lãnh đạo thì cần phải tước bỏ sức mạnh của Đảng, tước bỏ công cụ chuyên chính của Đảng, đó chính là lực lượng Công an và Quân đội.

Do đó, trong giai đoạn hiện nay, chúng đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền chống phá, trong đó tìm cách lợi dụng xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, các vấn đề nhạy cảm về chính trị, kinh tế, xã hội, công cuộc phòng, chống tham nhũng của Đảng… để tuyên truyền xuyên tạc, thực hiện âm mưu phi chính trị hóa lực lượng vũ trang.

Thực chất hoạt động này là nhằm vô hiệu hóa sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với Công an và Quân đội, làm cho hai lực lượng trọng yếu này không còn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay khi đất nước ta tăng cường hội nhập quốc tế sâu rộng, Đảng ta đẩy mạnh công tác phòng, chống tham nhũng, xây dựng Công an, Quân đội ngày càng chính quy, tinh nhuệ, hiện đại thì các thế lực thù địch, số chống đối chính trị càng ráo riết tìm mọi cách thúc đẩy ý đồ đòi phi chính trị hóa lực lượng vũ trang với những phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt.

Cụ thể:

Các đối tượng thù địch, phản động thông qua các phương tiện truyền thông, mạng xã hội tuyên truyền phá hoại nền tảng tư tưởng, làm suy giảm lòng tin, phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của lực lượng vũ trang bằng cách triệt để khai thác những biểu hiện tiêu cực trong nội bộ, ngụy tạo chứng cứ, bồi bút xuyên tạc, “tát bùn sang ao” nhằm bôi nhọ truyền thống, bản chất cách mạng lực lượng vũ trang. Kích thích, cổ xúy những xu hướng tư tưởng sai trái, những hành vi phi đạo đức, lối sống lệch chuẩn, xa hoa, lãng phí trong chiến sĩ trẻ lực lượng vũ trang nhân dân. Đây là thủ đoạn phổ biến nhằm tập trung phá hoại bản chất, truyền thống, những giá trị đạo đức, lối sống tốt đẹp của Quân đội, Công an, làm cơ sở cho việc thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hướng tới làm biến chất lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam ngay từ bên trong.

Các thế lực thù địch lợi dụng xu thế toàn cầu hóa để tăng cường tuyên truyền, tác động tư tưởng, đạo đức, tư duy, lối sống lệch chuẩn vào đời sống tinh thần của lực lượng vũ trang nhân dân, đẩy mạnh “cuộc xâm lăng về văn hóa” vào nhận thức của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang. Thông qua các mối quan hệ hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị, quân sự, khoa học kỹ thuật, phòng, chống khủng bố, buôn người… để truyền bá, thâm nhập quan điểm dân chủ tư sản kết hợp mua chuộc bằng lợi ích vật chất, đẩy mạnh tuyên truyền lối sống thực dụng, làm cho một bộ phận cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang tự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng, biến chất về chính trị. Thủ đoạn này được các thế lực thù địch triệt để khai thác dưới nhiều hình thức, vỏ bọc khác nhau.

Thời gian gần đây, để đánh lạc hướng, các thế lực thù địch thông qua “tâm thư”, “thư ngỏ”, “kiến nghị” đòi “duy trì tính trung lập về chính trị” nhưng thực chất là đòi phi chính trị hóa lực lượng Quân đội và Công an. Chúng cho rằng hai lực lượng này cần phải thực hiện “tính trung lập về chính trị”, tức là “đứng ngoài chính trị”, “không can dự” vào các cuộc đấu tranh của các lực lượng chính trị”; “là con em của nhân dân, các lực lượng vũ trang được nhân dân nuôi dưỡng thì chỉ vì nhân dân là đủ”. Chúng ngụy biện rằng, Quân đội có nhiệm vụ hiến định là quốc phòng, tức là bảo vệ Tổ quốc trước ngoại xâm, cần chấm dứt ngay việc huy động Quân đội vào thực hiện nhiệm vụ phục vụ, bảo vệ Đảng; vu cáo việc Công an thực hiện một số nhiệm vụ như cưỡng chế giải phóng mặt bằng là “đàn áp dân”, “đối đầu với dân”…

Việc nêu ra quan điểm “tính trung lập về chính trị” của Quân đội và Công an đã cho thấy mục đích, bản chất phi khoa học, phi thực tiễn khi cố tình lèo lái việc “trung lập về chính trị” là đứng ngoài các lực lượng, đảng phái, các hoạt động chính trị, không tham gia đấu tranh chính trị... Qua đó hướng lái bản chất chính trị của các lực lượng vũ trang nhân dân sang lập trường, bản chất chính trị khác. Như vậy, thuật ngữ có sự thay đổi nhưng âm mưu, ý đồ không thay đổi, “trung lập hóa về chính trị” chỉ là một cách diễn đạt khác của phi chính trị hóa lực lượng vũ trang nhằm tước bỏ công cụ chuyên chính trọng yếu, tin cậy, tuyệt đối trung thành của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

Thực tế trên cho thấy âm mưu, hoạt động phi chính trị hóa lực lượng vũ trang là vô cùng nguy hiểm, có thể dẫn tới sự vô hiệu hóa công cụ chuyên chính của Đảng, tước bỏ sức mạnh quan trọng nhất để giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản cũng như chế độ XHCN tại Việt Nam. Những luận điệu tuyên truyền đòi phi chính trị hóa càng trở nên nguy hiểm hơn khi núp dưới nhiều danh nghĩa, vỏ bọc khác nhau trong thế giới toàn cầu hóa và được sự “hà hơi” “thổi sức” của khoa học công nghệ, các tiện ích của mạng internet, các nền tảng mạng xã hội như facebook, youtober, tiktok…

Việc nhận diện âm mưu, thủ đoạn đòi “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang Việt Nam và triển khai các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái này là vấn đề quan trọng. Cần nhận thức rõ, trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng không được rời bỏ nguyên tắc Đảng lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối, trực tiếp lực lượng vũ trang. Chú trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ lực lượng vũ trang trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập, qua đó nâng cao ý thức cảnh giác cho cán bộ, chiến sĩ về âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch về mưu đồ đòi phi chính trị hóa lực lượng vũ trang. Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ, đảng viên trong lực lượng vũ trang nhận thức đầy đủ, sâu sắc về bản chất chính trị của các lực lượng vũ trang nhân dân. Đây là vấn đề cốt lõi, trọng tâm hàng đầu trong quá trình xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện, tạo nền tảng vững chắc đấu tranh với âm mưu, thủ đoạn “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang.

Để ngăn chặn những tác động, chuyển hóa trong thời kỳ hội nhập quốc tế cần có biện pháp bảo vệ cán bộ, chiến sĩ, không để bị tác động, lôi kéo. Xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, kỷ luật của Quân đội, điều lệnh Công an nhân dân; có những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Coi trọng xây dựng tổ chức đảng về tư tưởng, chính trị, tổ chức, cán bộ và đạo đức. Đề cao tính tổ chức, tính kỷ luật và thực hiện nghiêm công tác kiểm tra, giám sát, nhận xét, đánh giá cán bộ; làm tốt công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, chiến dịch.

Lực lượng Công an, Quân đội tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; có phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, kiến thức, năng lực toàn diện, ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm. Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, truyền thống vẻ vang của lực lượng vũ trang nhân dân anh hùng. Vạch trần âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc bản chất chính trị của lực lượng vũ trang nhân dân. Đặc biệt, lực lượng Công an, Quân đội tiên phong, đi trước, mở đường trong việc tinh gọn bộ máy, hiện đại hóa, giúp cho lực lượng không chỉ hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, giữ vững chủ quyền lãnh thổ mà còn góp phần thực hiện các nhiệm vụ chính trị trong sự nghiệp chung của kỷ nguyên mới, kỷ nguyên “vươn mình của dân tộc” như tinh thần chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm.

Phạm Duy

     

    Phản bác sự xuyên tạc thành tựu công nghiệp quốc phòng Việt Nam

    Thứ hai, 30/12/2024 - 05:42

    Với chủ trương, đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước, sự lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, công tác xây dựng nền công nghiệp quốc phòng (CNQP) Việt Nam “chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại” đã đạt được những thành tựu quan trọng, từng bước định vị giá trị nền CNQP Việt Nam trên bản đồ thế giới. Thế nhưng các thế lực thù địch, thiếu thiện chí không bao giờ từ bỏ mục tiêu chống phá, cố tình phủ nhận, bôi đen, song đã bị minh chứng sinh động, thuyết phục của CNQP Việt Nam dập tắt.

    Luận điệu lạc lõng, âm thanh "lạc nhịp"

    Vừa qua, Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam 2024 đã thành công rực rỡ, được nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Chỉ ít ngày ngắn ngủi nhưng triển lãm đã đón hơn 260.000 lượt người tham quan. Thông qua triển lãm, nhân dân nói chung và các chuyên gia trong và ngoài nước đều đánh giá cao, bày tỏ sự cảm phục, niềm tự hào trước sự phát triển của CNQP Việt Nam và sức mạnh của Quân đội ta. Đặc biệt, qua triển lãm, các đơn vị của Tổng cục CNQP, Tập đoàn Công nghiệp-Viễn thông Quân đội (Viettel) đã ký kết 16 hợp đồng với tổng giá trị hơn 286 triệu USD và 17 thỏa thuận hợp tác chiến lược giữa CNQP Việt Nam và doanh nghiệp của các nước có nền công nghiệp phát triển như Mỹ, Ấn Độ, Pháp, Bỉ... Triển lãm được truyền thông trong nước và quốc tế đưa tin nổi bật trên tất cả loại hình, qua đó khẳng định giá trị, góp phần lan tỏa mạnh mẽ hình ảnh tốt đẹp về đất nước, con người Việt Nam, về Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng với bạn bè quốc tế.

    Thế nhưng, một số hãng truyền thông được "giật dây" của thế lực thù địch và cá nhân thiếu thiện chí, các tổ chức phản động ở nước ngoài với mưu đồ đen tối, tâm địa xấu xa cố tình xuyên tạc, phủ nhận thành tựu, hạ thấp uy tín của CNQP Việt Nam.

    Phản bác sự xuyên tạc thành tựu công nghiệp quốc phòng Việt Nam
    Biên đội máy bay chiến đấu Su-30MK2 bay nhả đạn nhiễu chào mừng Khai mạc Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam 2024.

    Giọng điệu lạc lõng, nực cười, khi họ cho rằng: Triển lãm quân sự "không giúp người dân tin tưởng vào Quân đội", CNQP Việt Nam “đầu tư chắp vá” nên không có khả năng tự chủ, vẫn trong “vòng luẩn quẩn của câu chuyện ốc vít” mà thôi. Những phần tử cơ hội chính trị còn quy chụp rằng, cuộc triển lãm lần này chỉ mang tính tuyên truyền để “ru ngủ” nhân dân; “khỏa lấp đi những yếu kém” của mình nhiều hơn là khẳng định năng lực tự chủ về công nghệ quân sự...  

    Đó là những giọng điệu "lạc lõng", âm thanh "lạc nhịp” trong bài ca hùng tráng của CNQP Việt Nam. Nó mang tính phiến diện, thiếu khách quan, thể hiện thái độ định kiến đối với những nỗ lực và thành tựu của nền CNQP Việt Nam nói chung, Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam 2024 nói riêng. Mục tiêu của những kẻ hô hào yếu đuối này nhằm hạ thấp uy tín, năng lực, trình độ, khả năng tự chủ và thành tựu đáng tự hào của CNQP Việt Nam; phá hoại quan hệ hợp tác của các doanh nghiệp quốc phòng nước ta với các đối tác nước ngoài trong lĩnh vực quan trọng, giàu tiềm năng này.

    Những thành tựu công nghiệp quốc phòng không thể phủ nhận 

    Thứ nhất, thành tựu nền CNQP Việt Nam là hệ quả tất yếu của đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta về phát triển CNQP trong thời kỳ mới.

    Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng luôn đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, tạo điều kiện phát triển nền CNQP nước nhà gắn với xây dựng Quân đội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác định rõ định hướng chiến lược: Phát triển nền CNQP theo hướng chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng và hiện đại, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia. Mục tiêu là làm chủ công nghệ tiên tiến để xây dựng Quân đội hiện đại, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

    Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm đổi mới, hội nhập và nâng cao hiệu quả quản lý CNQP, tích cực cải cách hành chính, bảo đảm tính khả thi trong triển khai thực hiện. Các cơ chế, chính sách đặc thù và chương trình hợp tác khoa học-công nghệ; hệ thống quản lý và cơ sở CNQP được kiện toàn đồng bộ; các doanh nghiệp quốc phòng được tái cơ cấu theo hướng tinh gọn, hiệu quả... Đây là hành lang, thể chế quan trọng, thể hiện sự quan tâm và tư duy, tầm nhìn chiến lược của Đảng, Nhà nước ta trong phát triển CNQP thời kỳ mới, tạo điều kiện để CNQP Việt Nam bứt phá và phát triển.

    Thứ hai, thành tựu của CNQP Việt Nam toàn diện, vững chắc và có bước đột phá.

    Từ công tác nghiên cứu sản xuất, sửa chữa, cải tiến, hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật; thực hiện chủ trương phát triển lưỡng dụng đến công tác phát triển nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao và hoạt động hợp tác quốc tế về CNQP đều đạt những thành tựu nổi bật. Hơn một thập kỷ qua, ngành CNQP Việt Nam đã đạt được những bước tiến vượt bậc khi làm chủ công nghệ, thiết kế và sản xuất nhiều loại vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại, đáp ứng yêu cầu tác chiến của Quân đội, tiêu biểu như: Các tổ hợp tên lửa tiên tiến, radar thế hệ 3; hệ thống tự động hóa chỉ huy phòng không-không quân, máy bay trinh sát không người lái; tàu ngầm quân sự cỡ nhỏ; xe thiết giáp; các loại súng đạn chống tăng, đạn pháo; khí tài quan sát ngày đêm; trang bị thông tin thế hệ mới... đã minh chứng cho sự phát triển mạnh mẽ của nền CNQP Việt Nam.

    Đội ngũ nhân lực trong ngành CNQP Việt Nam có bước tiến vượt bậc cả về số lượng lẫn chất lượng. Tính đến đầu năm 2022, số cán bộ có trình độ tiến sĩ trở lên tăng gần 2,4 lần so với năm 2011. Các nhóm nghiên cứu mạnh và tiềm năng được hình thành, tập trung vào những lĩnh vực then chốt như vũ khí bộ binh, đóng tàu, chế tạo tên lửa và phát triển trang thiết bị công nghệ cao, khẳng định sự phát triển toàn diện của ngành. Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “CNQP, an ninh được tập trung đầu tư phát triển, sản xuất được nhiều loại phương tiện, thiết bị, vũ khí, công cụ hỗ trợ phục vụ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và nhiều thiết bị máy móc, sản phẩm dân dụng chiếm được chỗ đứng vững chắc trên thị trường”(1), góp phần khẳng định tầm quan trọng và giá trị của ngành CNQP trong sự nghiệp xây dựng Quân đội, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

    Thứ ba, CNQP Việt Nam từng bước khẳng định năng lực tự chủ trong nghiên cứu, chế tạo, sản xuất và bước đầu định vị giá trị của mình trong hệ sinh thái công nghệ quốc phòng thế giới.

    Những năm gần đây, ngành CNQP Việt Nam có những bước đột phá trong nghiên cứu, thiết kế, chế tạo và sửa chữa vũ khí, trang bị kỹ thuật, đáp ứng một phần nhu cầu trong nước, giảm đáng kể sự phụ thuộc vào nhập khẩu, góp phần tiết kiệm ngân sách nhà nước. Theo lãnh đạo Tổng cục CNQP, trong 10 năm qua, 80% vũ khí và trang bị được đưa vào sử dụng xuất phát từ các đề tài nghiên cứu trong nước.

    Sự xuất hiện của các loại vũ khí, khí tài hiện đại, đa dạng do Việt Nam tự chủ nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, sản xuất tại Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam 2024, như: Radar cảnh giới tầm gần, radar 3D phòng không cấp chiến thuật, radar phòng không tầm trung; tổ hợp trinh sát, gây nhiễu chống phương tiện bay không người lái cấp chiến thuật; tổ hợp tên lửa đất đối hải Trường Sơn gồm bệ phóng, tên lửa hành trình Sông Hồng, radar phát hiện và chỉ thị mục tiêu được đặt trên khung gầm xe việt dã; xe chiến đấu bộ binh XCB-01; các UAV trinh sát, cảm tử, đa năng. Đặc biệt, máy bay huấn luyện TP-150 lần đầu ra mắt công chúng-chiếc máy bay đầu tiên được sản xuất tại Việt Nam bởi một công ty Việt Nam là minh chứng sống động cho năng lực tự chủ và sự phát triển vượt bậc của CNQP Việt Nam.

    Không chỉ tự chủ đáp ứng nhu cầu hiện đại hóa Quân đội, CNQP Việt Nam còn chứng minh khả năng vươn ra thị trường quốc tế. Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và cựu chiến binh Nam Phi Richard Hlophe khi tham dự Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam 2024, đã nhận định: “Tôi đánh giá rất cao nền CNQP của Việt Nam. Các loại vũ khí, khí tài mới của các bạn rất tiên tiến. Đó là lý do tại sao chúng tôi sẽ hợp tác với Việt Nam để cả hai bên có thể cùng nhau phát triển”. Qua triển lãm và trao đổi giữa các đoàn, Việt Nam đã ký kết hàng chục hợp đồng trị giá hàng trăm triệu USD; thiết lập hàng loạt thỏa thuận hợp tác chiến lược với các doanh nghiệp quốc phòng đến từ những quốc gia có nền công nghiệp phát triển, đồng thời mở ra hướng phát triển mới là minh chứng sinh động đối với nền CNQP Việt Nam và Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam.

    Thứ tư, ngành CNQP không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm quốc phòng, an ninh mà còn góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam.

    Với việc làm chủ công nghệ hiện đại và phát triển sản xuất trong nước, ngành CNQP góp phần quan trọng giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu, tiết kiệm nguồn lực và tối ưu hóa ngân sách nhà nước. Nhiều sản phẩm quốc phòng không chỉ phục vụ nhu cầu trong nước mà còn được xuất khẩu, tạo nguồn thu cho quốc gia, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

    Bên cạnh đó, ngành CNQP đã tạo việc làm cho hàng chục nghìn lao động. Các dự án và cơ sở sản xuất quốc phòng góp phần phát triển hạ tầng, cải thiện đời sống nhân dân ở các địa phương, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, đóng góp vào sự phát triển bền vững của đất nước. Trung bình mỗi năm, các doanh nghiệp Quân đội đã tạo ra khoảng 5% GDP và đóng góp cho ngân sách nhà nước từ 40.000-50.000 tỷ đồng, bằng khoảng 25% đóng góp của các doanh nghiệp nhà nước.

    Như vậy, thành tựu của CNQP Việt Nam đã đạt được thời gian qua là toàn diện, vững chắc, có bước đột phá mạnh mẽ, đã và đang khẳng định vị thế của mình trong hệ sinh thái công nghệ quốc phòng toàn cầu. Những luận điệu xuyên tạc thành tựu CNQP Việt Nam chỉ là những luận điệu lạc lõng, âm thanh “lạc nhịp”, phiến diện của thiểu số những kẻ mang định kiến và thiếu hiểu biết về Quân đội nhân dân Việt Nam và CNQP Việt Nam.

    Trung tá, TS LƯƠNG THANH DUY, Trường Sĩ quan Lục quân 1

    Để người trẻ không chệch hướng sáng tạo

    Thứ năm, 26/12/2024 - 05:38

    Thời gian gần đây, đời sống văn học-nghệ thuật (VHNT) xuất hiện khá nhiều tác giả trẻ được công chúng quan tâm, chú ý. Nhiều người bày tỏ lạc quan, kỳ vọng về sự bứt phá của thế hệ văn nghệ sĩ trẻ với những nhân tố xuất sắc. Để góp phần đưa VHNT nước nhà phát triển, hội nhập quốc tế đòi hỏi phải có sự nhận thức đúng đắn và chiến lược xây dựng, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ có đức, có tài, đấu tranh ngăn chặn nguy cơ chệch hướng...

    Ý thức sáng tạo và tâm lý học đòi

    Một nhà văn lão thành khá nổi tiếng ở phía Nam vừa chia sẻ với chúng tôi câu chuyện rất đáng suy ngẫm. Ông kể, có một tác giả trẻ nhờ ông viết lời giới thiệu cho cuốn sách sắp in. Vốn rất kỳ vọng và chờ đợi những nhân tố mới trong nghề, ngay khi nhận được bản thảo, ông đã dành thời gian đọc kỹ.

    Theo cảm nhận của ông, đây là một cây bút có triển vọng. Cách tiếp cận đề tài, những góc nhìn hiện thực và các thao tác ngôn từ cho thấy tác giả là cây bút có nội lực, tác phẩm thể hiện những góc nhìn tươi mới, có tính phát hiện cao về hiện thực cuộc sống.

    Nhưng khi đọc xong, ông thấy “gợn gợn” về một số chi tiết, nhân vật. Đáng chú ý là nhân vật người cha (dù chỉ là nhân vật phụ, đã qua đời, xuất hiện trong tác phẩm thông qua ký ức và lời thoại của những người con, người thân trong gia đình) được tác giả xây dựng là một sĩ quan ngụy quân, tử nạn trước ngày 30-4-1975.

    “Nếu thay đổi thân phận nhân vật bằng một dạng khác như nông dân, ngư dân, người làm thuê... có đời sống vất vả, khổ cực thì nội dung tác phẩm cũng không bị ảnh hưởng gì. Tại sao lại phải “ấn” vào nhân vật cái “mác” lính ngụy để nói về cái khổ và nỗi đau thân phận trong khi nguồn cơn, bản chất của cái khổ, cái đau ấy không liên quan gì đến việc người cha có từng là lính ngụy hay không? Đưa một chi tiết văn học vào tác phẩm mà nó chẳng giúp ích gì, ngược lại còn có thể gián tiếp gây hại thì đó không phải là mục đích và thao tác sáng tạo của nhà văn. Những chi tiết đó cần phải sửa, bởi nếu để như vậy dễ tạo ra những suy diễn tiêu cực, tạo cớ cho các thế lực xấu lợi dụng bóp méo, xuyên tạc đời sống xã hội, nhất là trong lúc cả dân tộc đang hướng về đại lễ kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tôi nói với cháu, nếu sửa thì tôi sẽ viết lời giới thiệu, còn không thì tôi đành phải từ chối...”, nhà văn cao niên bày tỏ.

    Theo lời nhà văn thì sau khi được ông góp ý, tác giả trẻ đã lễ phép cảm ơn và nói sẽ tiếp thu để chỉnh sửa bản thảo.

    Để người trẻ không chệch hướng sáng tạo
     Ảnh minh họa: doanthanhnien.vn

    Những chuyện tương tự như câu chuyện nhà văn lão thành kể diễn ra không hiếm trong môi trường văn học-nghệ thuật. Trong giới chuyên môn, người ta thường gọi đó là kiểu sáng tác ám chỉ, bóng gió... lấy tình tiết văn chương, nghệ thuật để ám chỉ về chính trị hoặc chỉ trích, bôi xấu, hạ bệ cá nhân, tổ chức. Việc này đến từ hai nguyên nhân chủ yếu. Một là từ ý định, ý thức chủ quan của tác giả.

    Đây là biểu hiện rất nguy hại, thể hiện sự suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của văn nghệ sĩ. Những người có lối tư duy, khuynh hướng sáng tác kiểu này cần được nhận diện từ sớm, từ xa để có biện pháp chấn chỉnh, đấu tranh. Khâu biên tập, kiểm duyệt, xuất bản cần phải làm chặt, không để lọt vào đời sống VHNT những tác phẩm có nội dung tư tưởng xấu độc, phương hại đến nền tảng tư tưởng của Đảng và lợi ích quốc gia, dân tộc.

    Hai là từ sự vô ý thức, có tâm lý học đòi, muốn làm cho mới, cho lạ, cho khác người để được chú ý. Biểu hiện này dễ xảy ra ở một bộ phận người trẻ, khi bản lĩnh tư tưởng và trải nghiệm thực tiễn còn non, thiếu hụt vốn sống và cái phông văn hóa, trình độ lý luận chính trị còn hạn chế, kèm theo đó là tâm lý sính ngoại, bài nội, cổ xúy văn hóa lai căng...

    Cùng với kiểu lấy VHNT ám chỉ chính trị, thực tiễn đời sống VHNT thời gian gần đây còn có những biểu hiện hư cấu thái quá làm sai lệch sự thật, làm méo mó các nhân vật lịch sử. Biểu hiện này có mấy dạng chủ yếu. Một là khai thác, hư cấu đời tư của các nhân vật nổi tiếng trong dân gian theo hướng “hài, nhảm”, khiến nhân vật bị méo mó, thậm chí trở nên dị dạng, dị biệt.

    Hai là hư cấu, làm “biến dạng” các nhân vật lịch sử có công với nước, dẫn đến sai lệch về những sự kiện lịch sử. Ba là thổi phồng thành tích, công lao của một số nhân vật từng là tội đồ của dân tộc, biến họ thành “vĩ nhân”. Đây là những biểu hiện của “tẩy sử”, “lật sử”, làm cho công chúng, nhất là giới trẻ hiểu sai lệch về lịch sử đấu tranh dựng nước, giữ nước, kháng chiến giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc...

    Dù xuất phát từ nguyên nhân nào và biểu hiện ở hình thức nào thì khi người trẻ sáng tạo theo hướng này sẽ dễ trở thành đối tượng bị các phần tử cực đoan, bất mãn và các thế lực thù địch lợi dụng, tác động, lôi kéo. Nguy cơ chệch hướng trong đời sống VHNT là hiện hữu, nguy hại khó lường...

    Giúp người trẻ không bị chệch hướng

    Những biểu hiện chệch hướng trong tư duy, tư tưởng sáng tạo VHNT không phải hiện nay mới diễn ra mà đã được Đảng ta chỉ ra và cảnh báo từ lâu. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã đặt ra yêu cầu: Đồng thời “xây” phải đi đôi với “chống” những tư tưởng, hành vi, sản phẩm văn hóa lệch lạc, sai trái, lạc hậu, phản động... Nâng cao tính chiến đấu, chống mọi mưu toan lợi dụng văn hóa để thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “đổi màu”...

    Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ đã chỉ rõ một trong những biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống là: Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước... Xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước...

    Tại Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021, Đảng ta đã thẳng thắn nhìn nhận những hạn chế, tồn tại trong lĩnh vực văn hóa, VHNT: Chưa coi trọng đúng mức và có biện pháp tích cực để giữ gìn, bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp, đặc sắc của dân tộc; nhiều khi bắt chước nước ngoài một cách lố lăng, phản cảm, không có chọn lọc (nói nặng ra là vô văn hóa, phản văn hóa)...

    Như vậy, để nhận diện, phòng ngừa, ngăn chặn những biểu hiện chệch hướng, “đổi màu” trong lao động sáng tạo của văn nghệ sĩ, nhất là người trẻ, không hề là việc dễ dàng. Cảm thụ, thẩm định tác phẩm VHNT là công việc thiên về cảm tính.

    Để đi đến sự thống nhất về nhận thức, mục tiêu, khuynh hướng sáng tạo theo quan điểm của Đảng trong tư duy, tư tưởng sáng tạo của người trẻ hiện nay là vấn đề khó khăn, phức tạp. Ở tầm vĩ mô, chiến lược, Đảng ta đã có định hướng rõ ràng. Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021 xác định: Đặc biệt chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ trí thức văn nghệ sĩ làm công tác văn hóa, VHNT. Đội ngũ này có vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp văn hóa nói riêng và trong sự nghiệp cách mạng nói chung...

    Giải pháp căn cơ, lâu dài, bền vững cho vấn đề này chính là công tác giáo dục-đào tạo, bồi dưỡng thế giới quan, nhân sinh quan. Đặc biệt là bồi dưỡng lý luận chính trị, đạo đức cách mạng cho nguồn nhân lực VHNT. Đây là sự nghiệp phải tiến hành thường xuyên, liên tục, tuyệt đối không được sao nhãng, coi nhẹ.

    Thời gian gần đây, chúng ta tập trung đẩy mạnh các hoạt động sáng tác, quảng bá tác phẩm VHNT hướng đến những ngày lễ lớn của đất nước trong năm 2025. Việc xuất hiện thái độ ám chỉ, bóng gió, lấy VHNT để xuyên tạc lịch sử, đả kích chính trị, làm phương hại đến nền tảng tư tưởng của Đảng... không thể xem thường. Cùng với việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác biên tập, xuất bản, kiểm duyệt... của các cơ quan chức năng; các tổ chức hội, đoàn cần đa dạng hóa các hình thức sinh hoạt, tọa đàm, giao lưu nghiệp vụ...

    Người trẻ rất cần những sân chơi bổ ích để được tiếp nhận, trao truyền lửa nghề, ý thức chính trị trong lao động nghề nghiệp. Sứ mệnh của VHNT là bảo tồn tâm hồn, bản sắc dân tộc và trách nhiệm, bổn phận của văn nghệ sĩ là phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, luôn biết đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết và trước hết. Đó cũng là môi trường, điều kiện sinh nở, nuôi dưỡng tác giả lớn và tác phẩm xuất sắc...

    PHAN NGUYỄN

    VOA hàm hồ về tình hình chính trị Việt Nam năm 2024

     

    VOA hàm hồ về tình hình chính trị Việt Nam năm 2024

     Tháng Mười Hai 29, 2024

    Năm 2024 đang bước nhanh ở điểm cuối, với tình hình thế giới và trong nước đầy biến động, nhân đó các trang mạng xã hội cũng vội vàng rao bán món hàng “dân chủ” giữa không gian đen.

    Ngày 19/12/2024, VOA bày trò hội luận thứ năm hàng tuần “Năm 2024: Sự kiện nào nổi bật nhất trong năm với VN?”; có các bình luận thường thấy mặt, như: Quốc Phương (DCT của VOA), Võ Thị Hảo (ngụ cư ở Đức), Từ Thức (ngụ cư ở Nhật Bản), Đoàn Xuân Kiên (ngụ cư tại Anh), Nguyễn Huy Vũ (đang du ngoạn ở Ecuado), Đặng Đình Mạnh (tá túc tại Mỹ). Trên cái phông chung, bọn họ đăng ảnh cố TBT Nguyễn Phú Trọng, TBT Tô Lâm và một vài nhân vật gắn liền với một số sự kiện mà bọn họ cho là gây “tiếng vang” trên chính trường và dư luận xã hội. Hàm ý đen mà các vị này xoáy vào có mấy ý đáng phản bác, đó là: (1)Sự kiện ông Nguyễn mất và ông Tô lên ngôi, đẩy VN vào cảnh “thanh trừng, đoạt quyền hỗn loạn”; (2)Ông Nguyễn thì bảo thủ gây trì trệ cải biến dân chủ, còn ông Tô thì cấp tiến thay đổi chính trị theo hướng CA trị; (3)Cuộc đại cách mạng mà ông Tô đang làm sẽ khó thành công, vì thiếu cơ sở thực tế.

    Những trò hề hội luận chính trị như trên chẳng qua là chiêu thức “bưới lá tìm sâu”, xuyên tạc chế độ. Nhân việc này, có mấy lời phản biện:

    1.Việc ông Tô lên thay ông Nguyễn xét về luật đời là lẽ đương nhiên, vì thế hệ trước đặt tiền đề, nền tảng cho thế hệ sau nối đời, nối nghiệp. Người xưa có câu “Tre già măng mọc” là như thế. Trong xã hội, ông Nguyễn là bậc đàn anh của ông Tô, thậm chí còn là bậc cha chú (xét về tuổi), là người có bề dày kinh nghiệm sống, tích lũy nhiều giá trị văn hóa, trong đó có giá trị văn hóa cao đẹp nhất là một đời cống hiến cho đất nước, vì nhân dân. Trong Đảng, ông Nguyễn là người đứng đầu, có thời gian tại vị chỉ sau ông Ba Duẩn, tiêu biểu nhất trong thời kỳ đổi mới. Dưới thời ông Nguyễn, ông Tô từng bước được trọng dụng, trưởng thành, có nhiều công lao trong “chống giặc nội xâm”, giữ được thanh danh của Đảng. Tuy không nói ra trong hội nghị của Đảng, song quan sát cách dùng người của ông Nguyễn đối với ông Tô kể từ Đại hội XII, cũng đủ thấy tầm nhìn của ông Nguyễn về ứng viên người kế nhiệm khá rõ, ông Tô thuộc tốp ứng viên sáng giá, dư luận xã hội cũng đồn đoán như thế. Về điểm này thì Huy Vũ nói có lý hơn các vị khác. Còn sự xuyên tạc rằng, ông Tô có nhiều nhược điểm (chẳng hạn như liên quan vụ Đồng Tâm hoặc bò dát vàng) thì thực sự là bốc bùn bôi chân quân tử. Kể từ sau khi lên nắm quyền, ông Tô chẳng những không để nguội lò chống tham nhũng, mà còn đẩy mạnh, mở rộng sang chống lãng phí, đấy không phải là “thanh trừng nội bộ”, bởi trong công cuộc làm trong sạch Đảng và hệ thống chính trị thì đương nhiên không thể không va chạm. Khi ông Nguyễn ốm yếu, dân lo nhất là liệu rồi có ai đủ tầm thay ông Nguyễn để giữ cho lò cháy rực. Việc ông Tô đã và đang làm há chẳng phải là hợp lòng dân hay sao?

    2.Đúng là ông Nguyễn chính trực, thanh liêm, giàu lý luận, trung thành với chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhìn lại các di cảo của ông Nguyễn đều thấy đáng khâm phục, ông không chỉ hệ thống hóa vốn lý luận đã có mà còn bổ sung, phát triển, làm phong phú nhiều quan điểm phát triển toàn diện về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Đọc các tác phẩm của ông Nguyễn, người có bản lĩnh chính trị cảm thấy được bồi đắp thêm tính kiên định chính trị. Giá trị cốt lõi trong các tác phẩm lý luận của ông Nguyễn là làm mới thanh danh của Đảng, bồi đắp cơ đồ dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của dân tộc dựa vào khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết quốc tế, mọi sự phát triển đều hướng đích làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, dân là chủ thể phát triển, đảng là chủ thể lãnh đạo, nhà nước là chủ thể kiến tạo, phụng sự nhân dân. Cuốn sách cuối cùng mà ông Nguyễn cầm trên tay là cuốn “Ngàn năm văn hiến quốc gia Việt Nam”; đó không phải là sự ngẫu nhiên, mà chắc là một chủ ý, giống như Cụ Hồ trước lúc mất muốn được nghe một làn điệu dân ca. Ông Nguyễn là người con của Thủ đô ngàn năm văn hiến, cho nên, ông muốn được mang theo những giá trị văn hiến dân tộc, thực sự ông xứng đáng được vinh danh là một ngôi sao sáng trên bầu trời văn hiến Việt Nam thời hiện đại. Còn việc ông Tô “cấp tiến”, “CA trị” không thể coi đó là sự trái ngược với ông Nguyễn, mà đó là một bổ sung cho sự kiến tạo nền quản trị quốc gia có cả truyền thống, đạo lý và đề cao tính thượng tôn pháp luật.

    3.Cuộc đại cách mạng về tinh gọn, hiệu quả bộ máy, tổ chức do ông Tô đang chỉ đạo quyết liệt, thực chất không phải duy ý chí, mà là đòi hỏi khách quan. Sau 40 năm đổi mới, việc cải cách hành chính, thay đổi phong cách điều hành, quản trị quốc gia cho tương thích với xu thế quản trị số không phải là phát minh của Việt Nam, mà là chiếc áo quản trị quốc gia đã quá lỗi thời, nên cần được canh tân. Chế độ một đảng cầm quyền lâu nay vẫn bị các thế lực thù địch xuyên tạc, đả phá, nhưng thử hỏi nếu xóa bỏ vai trò cầm quyền của ĐCSVN (tức xóa bỏ Điều 4 trong Hiến pháp) thì điều gì sẽ xảy ra? Cảnh tượng sụp đổ mô hình chế độ XHCN ở Liên xô và Đông Âu chắc chỉ làm hài lòng các thế lực chống cộng. Nếu tiếp tục kéo dài sự song trùng cơ quan đảng với cơ quan nhà nước thì chẳng những làm cho bộ máy tổ chức cồng kềnh, chồng lấn, mà còn tạo sức ỳ và kiềm chế giữa cơ quan đảng với cơ quan nhà nước, cho nên tinh, gọn, hiệu lực, hiệu quả là cần thiết. Cuộc cách mạng nào cũng có cái giá phải trả, cuộc đại cách mạng này chắc chắn không ngoại lệ, nhưng đã thấy đúng, trúng, thì cần quyết tâm cao, có một bộ phận sẽ không còn ở trong bộ máy, tổ chức, hệ thống, nhưng nếu còn tâm trí với dân, với nước thì chắc lẽ họ vẫn còn có ích cho sự nghiệp chung. Nếu ông Tô không dám đối mặt và không đủ bản lĩnh lãnh đạo cuộc đại cách mạng lần này, thì biết đợi đến khi nào? Giả sử đợi sau Đại hội XIV thì sẽ làm xáo trộn bộ máy tổ chức trong đảng, nhà nước, còn tâm trí đâu mà lãnh đạo, chỉ đạo đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Cho nên làm ngay từ bây giờ cũng là để dọn đường, mở lối đưa cách mạng VN lên tầm cao mới. Trong bối cảnh hiện nay, cần nhất là sự hy sinh lợi ích cục bộ của cán bộ, đảng viên có chức, có quyền, còn người dân sẽ có lợi vì họ sẽ được khích lệ tinh thần tự chủ, tự lực, tự cường, làm tăng nội lực quốc gia, tăng tốc con tàu VN tiến cùng thời đại. Vì thế, thay vì “oán trách” ông Tô thì nên ủng hộ, cảm phục ông Tô.

    Nhân đây xin dẫn lại chỉ dẫn của Cụ Hồ: “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”. Lời này được nêu ngay từ trong quá trình vận động sáng lập Đảng, đến nay vẫn còn nguyên giá trị với người cộng sản chân chính, chỉ nghịch nhĩ với những kẻ chống cộng.

    Luận điệu xuyên tạc, hạ uy tín khi Việt Nam tiếp tục ứng cử Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2026 – 2028

    Thứ Năm, 26/12/2024, 08:02

    Ngày 12/12, phái đoàn Việt Nam tại Liên hợp quốc (LHQ) đã tổ chức lễ công bố Việt Nam tái ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2026-2028.

    Sự kiện được tổ chức vào dịp kỷ niệm Ngày Nhân quyền quốc tế đã thu hút sự quan tâm, tham dự của đông đảo đại sứ, đại diện các phái đoàn thường trực và quan sát viên tại LHQ. Việc tiếp tục ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2026 – 2028 khẳng định vị thế và uy tín của Việt Nam đối với quốc tế, cũng như sự ghi nhận đối với thành tựu và đóng góp của Việt Nam trong đảm bảo quyền con người.

    Những luận điệu xuyên tạc, vu cáo

    Tuy nhiên, ngay sau tuyên bố của đại diện Việt Nam, các phương tiện truyền thông, mạng xã hội của các tổ chức thù địch, phản động lưu vong đã tung ra nhiều bài viết công kích, xuyên tạc, vu cáo tình hình nhân quyền Việt Nam. Đồng thời, họ kêu gọi sự can thiệp của các tổ chức quốc tế nhằm gây sức ép, cản trở Việt Nam ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2026-2028.

    Luận điệu xuyên tạc, hạ uy tín khi Việt Nam tiếp tục ứng cử Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2026 – 2028 -0
    Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Đỗ Hùng Việt phát biểu tại Lễ công bố. Ảnh: BNG

    Nếu như đọc qua bài viết trên trang RFA Tiếng Việt với tiêu đề  “Nhiều tổ chức nhân quyền phản đối Việt Nam tái ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ”, nhiều người sẽ lầm tưởng về việc có nhiều tổ chức quốc tế lên tiếng đối với vấn đề này. Tuy nhiên, trong nội dung bài viết chỉ nêu ý kiến của duy nhất một thành viên thuộc tổ chức Liên minh xã hội dân sự toàn cầu (Civicus) với vài thông tin sơ sài cũng như thêm thắt một số thông tin xuyên tạc có chủ đích nhằm hạ thấp uy tín của Việt Nam. Tổ chức Civicus cũng là cái tên quen thuộc thường xuyên có hoạt động xuyên tạc, vu cáo Việt Nam về tình hình nhân quyền. Như vậy, không hề có chuyện “nhiều tổ chức nhân quyền phản đối” mà chỉ là một số tổ chức, nhóm cá nhân có hoạt động chống phá Việt Nam đã lợi dụng việc này để “té nước theo mưa”.

    Ngoài ra, VOA Tiếng Việt dẫn nguồn tin từ tổ chức Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF) về việc tổ chức này “bày tỏ quan ngại trước sự gia tăng đàn áp của chính quyền Việt Nam đối với các nhóm tôn giáo độc lập”. Tuy nhiên, nội dung bài viết đều là những thông tin, căn cứ mơ hồ, nội dung phản ánh sai trái như cho rằng Việt Nam có phân biệt đối xử của xã hội đối với người dân tộc thiểu số, vu cáo chính quyền hành hung người dân tộc thiểu số theo tôn giáo ở Tây Nguyên và Tây Bắc, bày tỏ quan ngại về việc người dân tộc thiểu số theo đạo Tin lành ở Tây Nguyên bị hạn chế hoạt động, áp dụng luật pháp không nhất quán dẫn tới nhiều khó khăn trong việc đăng ký với chính quyền cấp tỉnh của các giáo xứ vùng sâu, vùng xa. Điều đáng nói là những thông tin trên lại xuất phát từ một số phần tử chống đối trong nước tích cực tham gia hội luận trực tuyến do bên ngoài tổ chức, số này xuyên tạc rằng “chính quyền Việt Nam cướp đất của người Khmer, đàn áp người dân tộc”… Những thông tin bịa đặt như vậy nhưng lại được đưa vào báo cáo nhân quyền, tạo cớ chống Đảng, Nhà nước Việt Nam.

    Tổ chức khủng bố Việt Tân thì rêu rao về các cuộc biểu tình của người Việt tại một số quốc gia như Na Uy, Đức, Úc, Canada… để vu cáo Việt Nam “đàn áp nhân quyền”. Các đối tượng lồng ghép những biểu ngữ sai sự thật về tình hình nhân quyền tại Việt Nam, vu cáo “dưới chế độ độc tài, người dân Việt Nam không có dân chủ, tự do” và cho rằng chính quyền Việt Nam đang thực hiện những hành vi đàn áp đối với những người bất đồng chính kiến; miệt thị, xuyên tạc Việt Nam “bịt miệng” quyền tự do báo chí và quyền tự do ngôn luận. Tuy nhiên, nhìn những hình ảnh được chính tổ chức này lan truyền trên mạng xã hội, không khó để thấy những cuộc biểu tình trên thực chất chỉ là sự tập trung của một nhóm nhỏ với những gương mặt chống đối quen thuộc, hoàn toàn không có chuyện “biểu tình rầm rộ” như thông tin họ đưa ra.

    Có thể thấy, dựa vào các thông tin sai lệch về tình hình tự do tôn giáo, dân tộc và tình hình nhân quyền do một số phần tử phản động ở trong nước, một số tổ chức phi chính phủ không thiện chí với Việt Nam, tổ chức phản động lưu vong chống phá Việt Nam như Liên minh xã hội dân sự toàn cầu (Civicus); Ủy ban Tự do Tôn giáo Quốc tế Hoa Kỳ (USCIRF), Mạng lưới nhân quyền Việt Nam (VHRN)…, trong đó có nhiều thông tin phiến diện, xuyên tạc tình hình nhân quyền ở Việt Nam. Dựa vào đó, các thế lực thù địch kêu gọi sự can thiệp của các quốc gia phương Tây nhằm đòi Chính phủ Việt Nam phải trả tự do cho tất cả những phạm nhân mà họ tự gọi là “tù nhân lương tâm”…

    Đây không phải chiêu trò gì mới khi các tổ chức trên đưa những thông tin xuyên tạc, vu cáo về tình hình nhân quyền cũng như kêu gọi sự can thiệp của quốc tế nhằm chống phá Việt Nam ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền LHQ. Khi Việt Nam tuyên bố ứng cử nhiệm kỳ 2023 - 2025, các thành phần chống phá Việt Nam cũng đã dùng mọi thủ đoạn tuyên truyền xuyên tạc, hạ uy tín, cản trở Việt Nam. Dưới chiêu bài bảo vệ dân chủ, nhân quyền, các tổ chức này ra sức vận động nhằm gây sức ép lên Chính phủ Hoa Kỳ đưa Việt Nam vào danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo (CPC), sau đó Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã đưa Việt Nam vào danh sách theo dõi đặc biệt về tự do tôn giáo (SWL). Với chiêu trò này, họ tìm cách hạ uy tín, vị thế của Việt Nam đối với quốc tế cũng như khuếch trương thanh thế và kích động số chống đối ở trong nước tiến hành các hoạt động tụ tập, gây rối, bạo loạn lật đổ.

    Chiêu trò vu cáo không thể phủ mờ thành tựu, vị thế của Việt Nam

    Nhân quyền là vấn đề mang tính phổ quát của toàn cầu. Tuy nhiên, với mỗi quốc gia, dân tộc, tuỳ theo đặc điểm văn hoá, lịch sử đều có những tiêu chuẩn, quy định riêng. Việc áp đặt tiêu chí của nước này vào nước khác là không phù hợp và đó cũng là hành vi can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác, không đúng với quy định của LHQ. Trên thực tế, Việt Nam đã thể hiện bằng những hành động cụ thể thực thi quyền con người theo những Công ước mà Việt Nam đã ký kết. Cụ thể như: Bộ luật Hình sự năm 2015 tiếp tục bỏ án tử hình ở 8 tội danh; không áp dụng hình phạt tử hình với người dưới 18 tuổi, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội. Tính đến nay, Việt Nam đã phê chuẩn, gia nhập 7/9 công ước cơ bản của LHQ về quyền con người; phê chuẩn, gia nhập 25 công ước của Tổ chức Lao động quốc tế. So với nhiều nước, Việt Nam không thua kém về số lượng các công ước đã ký kết.

    Từ khi Hội đồng Nhân quyền LHQ được thành lập (năm 2006), Việt Nam hai lần trúng cử vào Hội đồng này: Năm 2013, lần đầu tiên trúng cử nhiệm kỳ 2014-2016; năm 2022 trúng cử nhiệm kỳ 2023 - 2025 và đang tái ứng cử nhiệm kỳ 2026-2028 để tiếp nối những đóng góp và cam kết. Đồng thời, Việt Nam là thành viên tích cực của các thể chế nhân quyền LHQ và thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các cam kết quốc tế về quyền con người. Với tư cách là quốc gia thành viên, Việt Nam đã nội luật hóa các quy định của pháp luật quốc tế vào hệ thống pháp luật quốc gia; rà soát kết quả thực hiện và báo cáo định kỳ nghiêm túc với Hội đồng Nhân quyền LHQ.

    Trong nhiệm kỳ 2023-2025, Việt Nam cùng 13 quốc gia khác đảm nhiệm vị trí thành viên của Hội đồng Nhân quyền. Trong vai trò thành viên Hội đồng Nhân quyền, Việt Nam đã thể hiện cam kết mạnh mẽ thông qua các hoạt động thực chất. Tại các diễn đàn quốc tế, Việt Nam tích cực tham gia đối thoại, thúc đẩy hợp tác giữa các quốc gia trong việc bảo đảm quyền con người. Chẳng hạn, Việt Nam đã nhiều lần phát biểu và góp ý về các vấn đề toàn cầu như bảo vệ quyền trẻ em, thúc đẩy bình đẳng giới và ứng phó với biến đổi khí hậu – những lĩnh vực có tác động trực tiếp đến quyền sống và phát triển của con người. Không chỉ dừng lại ở các diễn đàn quốc tế, trong nước, Việt Nam cũng triển khai nhiều chương trình, chính sách nhằm hiện thực hóa các cam kết về quyền con người. Đồng thời, Việt Nam đã được quốc tế ghi nhận khi có cách tiếp cận xây dựng trong thúc đẩy đối thoại trong khuôn khổ Hội đồng Nhân quyền giữa các nước liên quan, các tổ chức khu vực và các cơ chế của LHQ về quyền con người nhằm giải quyết những quan tâm cụ thể về các vấn đề liên quan đến nhân quyền, nhân đạo; gắn với việc phối hợp với các nước đang phát triển đấu tranh để bảo đảm Hội đồng Nhân quyền hoạt động đúng nguyên tắc, thủ tục, không chính trị hóa, không can thiệp vào công việc nội bộ các nước.

    Tại khu vực, uy tín của Việt Nam được thể hiện qua vai trò Chủ tịch Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) 2020, đồng thời là Chủ tịch Ủy ban liên chính phủ ASEAN về nhân quyền (AICHR).

    Năm 2024, một trong những thành tựu nổi bật là các chính sách an sinh xã hội được thực hiện một cách hiệu quả, đặc biệt hướng đến các nhóm yếu thế. Các chương trình hỗ trợ sinh kế cho đồng bào dân tộc thiểu số tại vùng sâu, vùng xa đã góp phần giảm nghèo bền vững, trong khi các sáng kiến thúc đẩy giáo dục hòa nhập dành cho trẻ em khuyết tật được triển khai rộng rãi. Ngoài ra, việc cải cách Luật Lao động nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động trong các ngành công nghiệp đã giúp Việt Nam cải thiện điều kiện làm việc và nâng cao mức sống cho hàng triệu người lao động. Theo Báo cáo Phát triển con người của UNDP, Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam năm 2024 tăng 8 bậc so với kỳ trước, từ 115 lên vị trí 107/193 quốc gia. Theo xếp hạng của LHQ, chỉ số hạnh phúc năm 2024 của Việt Nam tăng 11 bậc, xếp thứ 54/143; chỉ số phát triển bền vững (SDGs) của Việt Nam năm 2024 tăng 1 bậc so với năm 2023, xếp thứ 54/166. Việt Nam hiện là thành viên và tích cực tham gia các hoạt động của Hội đồng Nhân quyền LHQ, nhiệm kỳ 2023-2025. Bởi vậy, không có gì ngạc nhiên khi Việt Nam được đánh giá là một trong những quốc gia tiến nhanh nhất trên thế giới về tăng Chỉ số phát triển con người (HDI). Chỉ trong vòng 1 thập kỷ, chỉ số phát triển con người của Việt Nam đã tăng 46%, thuộc nhóm quốc gia có tỷ lệ tăng cao nhất thế giới. Theo các tổ chức và chuyên gia quốc tế, đây là minh chứng cho thấy Việt Nam luôn đặt con người là mục tiêu, động lực cho sự phát triển.

    Việc tái ứng cử làm thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ nhiệm kỳ 2026-2028 là cơ hội lớn để Việt Nam tiếp tục đóng góp tích cực vào những nỗ lực chung của LHQ cũng như của cộng đồng quốc tế trong bảo vệ và thúc đẩy những giá trị phổ quát về quyền con người, cùng phấn đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác phát triển và tiến bộ xã hội. Các chiêu trò vu cáo không thể phủ mờ thành tựu, vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

    Tuệ Thiên - Bình Nguyên