Xử lý nghiêm hành vi lợi dụng đơn thư nặc danh để tố cáo sai sự thật

Thứ năm, 14/11/2024 - 06:04

Tình trạng lợi dụng dân chủ, nhân quyền để viết, gửi đơn thư nặc danh, mạo danh, tố cáo sai sự thật đã và đang gây ra nhiều hệ lụy. Mục đích của việc làm này không phải nhằm góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước, tổ chức tốt đẹp hơn mà để bôi nhọ, hạ thấp uy tín lãnh đạo, gây mất đoàn kết nội bộ, gây rối tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Hệ lụy của đơn thư nặc danh, mạo danh, tố cáo sai sự thật rất nặng nề, làm xáo trộn tư tưởng, gây dư luận xấu trong xã hội, tiến tới bôi nhọ, phá hoại Đảng, chống đối chính quyền...

Thực chất của đơn thư nặc danh khi tố cáo

Điều 22 Luật Tố cáo quy định: Việc tố cáo sẽ được thực hiện bằng đơn hoặc được trình bày trực tiếp tại cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Tại khoản 1, Điều 23 Luật Tố cáo cũng nêu rõ nguyên tắc tố cáo bằng đơn thư như sau: Trường hợp tố cáo mà được thực hiện bằng đơn thì trong đơn tố cáo sẽ phải ghi rõ ngày, tháng, năm tố cáo; họ tên, địa chỉ của người tố cáo, cách thức để liên hệ với người tố cáo; hành vi vi phạm pháp luật của người bị tố cáo; người bị tố cáo và các thông tin khác có liên quan. Trường hợp có nhiều người cùng thực hiện tố cáo về cùng một nội dung thì trong đơn tố cáo còn phải ghi rõ họ tên, địa chỉ, cách thức liên hệ với từng người tố cáo; họ tên của người đại diện cho những người tố cáo.

Khái niệm đơn thư nặc danh là để dùng chung cho các loại đơn thư không xác định được người tố cáo. Mục đích thường là để tố cáo một hành vi vi phạm pháp luật hoặc một vấn đề nào đó mà người gửi muốn “đưa ra ánh sáng”, nhưng lại không muốn công khai danh tính của mình. Đơn thư nặc danh, mạo danh gồm: Đơn thư không có tên người tố cáo hoặc có tên nhưng đó là tên giả, không có thật, chỉ mang tên người khác và mạo danh; hoặc đơn thư có tên nhưng không có địa chỉ cụ thể hoặc địa chỉ không rõ ràng, chính xác.

Xử lý nghiêm hành vi lợi dụng đơn thư nặc danh để tố cáo sai sự thật
Ảnh minh họa: thanhnien.vn

Nguyên nhân chủ yếu của người viết đơn thư nặc danh: Người tố cáo lo sợ việc mình tố cáo có thể bị trả thù, trù dập nên mặc dù rất muốn thông tin cho cơ quan có thẩm quyền về hành vi mà họ cho là vi phạm pháp luật để cơ quan có thẩm quyền ngăn chặn và xử lý nhưng họ buộc phải giấu tên. Người gửi đơn thư nặc danh, tố cáo có thể muốn bảo vệ người khác mà không muốn người đó bị liên lụy. Nhưng đặc biệt nguy hiểm là trường hợp người tố cáo với dụng ý không tốt, muốn đưa tin thất thiệt hay thậm chí bịa ra những bằng chứng giả mạo để vu cáo, vu khống người khác, có thể do thù hận cá nhân mà triệt hạ người khác, cũng có thể vì mục đích tư lợi-những hành vi này được xác định là tố cáo sai sự thật.

Đối với đảng viên, được quy định rõ trong Điều 6 Quy định số 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm: “Tố cáo có nội dung mang tính bịa đặt; cùng người khác viết, ký tên trong đơn tố cáo; viết đơn tố cáo giấu tên, mạo tên”.

Những hậu quả khôn lường

Thực tế cho thấy, tình trạng lợi dụng đơn thư nặc danh, mạo danh, tố cáo sai sự thật khá phổ biến, nhằm vu khống, hãm hại người khác và có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Hậu quả của đơn thư nặc danh, mạo danh, tố cáo sai sự thật làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín, nhân phẩm của cá nhân; gây mất đoàn kết nội bộ, mất ổn định trong các tổ chức, cơ quan; gây khó khăn cho các cơ quan chức năng trong giải quyết công việc. Ngoài ra, tình trạng này còn gây phức tạp trong xã hội và ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Nghiêm trọng hơn, khi đơn thư nặc danh, mạo danh, tố cáo sai sự thật nhằm vào cán bộ chủ chốt, người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị làm hạ thấp uy tín, mất niềm tin.

Các hình thức khiếu nại, tố cáo không chỉ đơn thuần là gửi đơn thư nặc danh mà còn lợi dụng nhiều chiêu trò kết hợp như cắt ghép hình ảnh, dàn dựng video clip, ghi âm giọng nói giả... Nếu không kiên quyết, kịp thời, xử lý nghiêm minh tình trạng đơn thư nặc danh, mạo danh, tố cáo sai sự thật thì tình hình chính trị, tư tưởng, mất đoàn kết nội bộ sẽ ngày càng nghiêm trọng, kéo dài, gây nên những hậu quả khó lường. Rõ ràng, viết đơn thư nặc danh, mạo danh, tố cáo sai sự thật, hạ uy tín lãnh đạo, tổ chức là hành vi gây rối, nhằm phá hoại Đảng, Nhà nước và nhân dân, phá hoại tổ chức, cần kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm minh, thích đáng.

Kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng đơn thư nặc danh, tố cáo sai sự thật

Hệ thống pháp luật của Việt Nam có chế tài xử lý hành vi vu khống, đơn thư mạo danh, nặc danh, tố cáo sai sự thật đã đủ sức răn đe đối với các công dân có hành vi này. Tuy nhiên, một số cơ quan, địa phương, đơn vị trong thời gian qua còn lúng túng, chậm xử lý đơn thư nặc danh, ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của tổ chức và cá nhân. Vì vậy, để kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng đơn thư nặc danh, mạo danh, tố cáo sai sự thật hiện nay cần thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, nghiêm minh.

Các cơ quan, tổ chức cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức đầy đủ, sâu sắc cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về Luật Tố cáo; Luật Khiếu nại; Luật Phòng, chống tham nhũng; Luật Cán bộ, công chức và pháp luật có liên quan; đặc biệt là quy định về tố cáo trong Đảng, Quy định số 22-QĐ/TW ngày 28-7-2021 của Ban Chấp hành Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25-10-2021 của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm, góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Bằng nhiều kênh, hình thức thông tin khác nhau để tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về quyền khiếu nại, tố cáo, trình tự thực hiện quyền này trên cơ sở thượng tôn pháp luật. Từ đó thúc đẩy cán bộ, đảng viên và nhân dân tự giác tham gia phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh với các hoạt động lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, viết đơn thư nặc danh, mạo danh.

Song song với đó, cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên có biểu hiện hách dịch, cửa quyền, tham nhũng; chủ động phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo vi phạm pháp luật, kích động, lôi kéo người dân tham gia các hoạt động xâm phạm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội hoặc tài trợ, kích động hoạt động khiếu nại, tố cáo sai sự thật, vượt cấp.

Kịp thời giải quyết các mâu thuẫn, xung đột, khiếu kiện phức tạp về an ninh trật tự ngay tại cơ sở, không để lây lan, kéo dài, vượt cấp. Cấp ủy các cấp cần tăng cường quản lý cán bộ, đảng viên; phát huy mạnh mẽ vai trò của các tổ chức, các lực lượng trong tham gia ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng viết đơn thư nặc danh, mạo danh, khiếu nại, tố cáo sai sự thật của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Không ngừng chăm lo, xây dựng, củng cố khối đoàn kết toàn dân; phát huy vai trò của các đoàn thể, chính quyền trong gắn bó với quần chúng nhân dân, đi sâu, đi sát với nhân dân, kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; giải quyết hiệu quả những khó khăn, vướng mắc của người dân.

Đối với cá nhân, cán bộ, đảng viên, cần tiếp tục tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về tác hại của hành vi gửi đơn thư nặc danh, tố cáo sai sự thật, vu khống; không tùy tiện tin vào những thông tin từ đơn thư nặc danh, tố cáo sai sự thật. Tìm hiểu kỹ thông tin trước khi đưa ra nhận xét, đánh giá.

Nếu bị vu khống, cần tích cực thu thập bằng chứng để bảo vệ quyền lợi của bản thân; báo cáo sự việc ra cơ quan, tổ chức có thẩm quyền để xử lý, giải quyết. Tuyệt đối chấp hành và thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Cán bộ, đảng viên phải thực sự gương mẫu, đi đầu trong đấu tranh, phê phán những hành vi lợi dụng đơn thư nặc danh để tố cáo sai sự thật; bảo vệ danh dự, uy tín của cá nhân, tổ chức, cơ quan, đơn vị.

Trung tá PHẠM VĂN LONG, Học viện Chính trị 

Cảnh giác trước âm mưu hủy hoại nền tảng tư tưởng của Đảng từ gốc rễ

Thứ hai, 11/11/2024 - 08:40

An ninh về tư tưởng chính trị của Đảng là vấn đề cốt lõi của an ninh chính trị, an ninh quốc gia. Trước âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch nhằm phủ nhận giá trị của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng ta, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, việc tăng cường bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị của Đảng là vấn đề cấp thiết trong tình hình hiện nay.

Âm mưu chống phá về tư tưởng chính trị của Đảng

Bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị của Đảng là tổng thể các biện pháp của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị tiến hành, nhằm phát hiện, chủ động phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các hoạt động xâm phạm an ninh tư tưởng chính trị, bảo đảm sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN), dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng đối với cách mạng Việt Nam, trên nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chống mọi nguy cơ chệch hướng XHCN và những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị trước sự tác động của tình hình và sự chống phá của các thế lực thù địch trong tình hình mới.

Đảng ta luôn coi trọng bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị, đấu tranh với các thông tin tuyên truyền chống phá của các thế lực thù địch, các trào lưu tư tưởng phản động nhằm bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ; bảo vệ sự đồng thuận, nhất trí về chính trị trong nhân dân.

Trong bối cảnh hiện nay, các thế lực thù địch ra sức chống phá Việt Nam, nhất là chống phá về tư tưởng chính trị bằng nhiều hình thức, thủ đoạn. Các đối tượng chống phá cho rằng Chủ nghĩa Mác-Lênin “đã lỗi thời, chỉ phù hợp với thế kỷ 19”, “đó là sản phẩm ngoại nhập của phương Tây, không thích hợp với điều kiện kinh tế-xã hội ở Việt Nam”. Đặc biệt, các thế lực phản động đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam bằng luận điệu: “Từ bỏ độc quyền lãnh đạo là vấn đề căn bản vì đó là then chốt của chế độ dân chủ”; họ lấy quan điểm dân chủ, nhân quyền tư sản để đồng nhất dân chủ với đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; nhà nước pháp quyền với thiết chế tam quyền phân lập; nhân quyền với tuyệt đối hóa quyền của cá nhân, rồi vu cáo Đảng ta là “độc tài, độc đoán, mất dân chủ”, không thể lãnh đạo đất nước.

Nguy hại là lợi dụng quá trình mở cửa, hội nhập, các trào lưu tư tưởng tư sản đang thâm nhập vào nước ta thông qua nhiều con đường. Các “giá trị” văn hóa, lối sống tư sản cũng có điều kiện thâm nhập, thẩm thấu, phát triển, làm phai nhạt, mất dần bản sắc văn hóa dân tộc. Các khuynh hướng này cùng với sự tác động hằng ngày của các hình thức, các sản phẩm văn hóa nước ngoài khiến một bộ phận cán bộ, đảng viên, người dân mất phương hướng; các chuẩn mực giá trị có nguy cơ xuống cấp, dẫn đến sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, những biến động về chính trị, kinh tế ở các nước luôn tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh quốc gia của Việt Nam, trước hết là lĩnh vực tư tưởng chính trị. Cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội kéo theo sự khủng hoảng về lý luận, ảnh hưởng tiêu cực đến tư tưởng một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Biến động chính trị ở các nước trên thế giới vô tình cổ xúy và cung cấp kinh nghiệm cho những phần tử phản động, cơ hội chính trị tiến hành các hoạt động phá hoại nước ta trên các lĩnh vực, nhất là chống phá về tư tưởng chính trị. Ngoài ra, những mặt trái của cơ chế thị trường cũng tác động tiêu cực tới nhiều mặt của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tư tưởng chính trị. Các thế lực thù địch triệt để lợi dụng các phương tiện truyền thông và mạng xã hội để tuyên truyền, xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước hòng gây chia rẽ Đảng với nhân dân, hạ thấp uy tín của Đảng, thậm chí vu khống, bịa đặt, bôi nhọ bộ máy lãnh đạo của đất nước, kích động chống Đảng và Nhà nước, gây hoài nghi và tạo nên những dư luận xấu trong xã hội.

Cảnh giác trước âm mưu hủy hoại nền tảng tư tưởng của Đảng từ gốc rễ
Ảnh minh họa/cand.vn 

Phát huy sức mạnh tổng hợp để bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị của Đảng

Bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị của Đảng có vai trò đặc biệt quan trọng, nhằm giữ vững sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ XHCN ở Việt Nam; bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng đối với cách mạng Việt Nam; chống mọi nguy cơ chệch hướng XHCN và những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, trước sự tác động của tình hình và sự chống phá của các thế lực thù địch. Bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị góp phần tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới.

Bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị của Đảng là bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng là Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ Cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; góp phần nâng cao nhận thức, tư tưởng, lý luận, bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đồng thời khắc phục những tư tưởng, lý luận lạc hậu, chệch hướng trong xã hội; kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn những biểu hiện cục bộ, bè phái, “lợi ích nhóm”, gây mất đoàn kết trong Đảng. Xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên vi phạm quy định của Đảng về những điều đảng viên không được làm, nhất là phát ngôn, tuyên truyền, tán phát tài liệu trái Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Đấu tranh hiệu quả với âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

Để tạo nền tảng bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị từ gốc rễ, cần làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục truyền thống; khơi dậy lòng tự hào dân tộc, đề cao các giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống lành mạnh của con người Việt Nam. Tăng cường các hình thức tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về truyền thống dựng nước và giữ nước hào hùng của dân tộc. Đẩy mạnh học tập, thực hiện các nghị quyết của Đảng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ trách nhiệm phải kiên quyết đấu tranh với những quan điểm, tư tưởng, nhận thức sai trái, lệch lạc, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, suy thoái về tư tưởng chính trị. Tăng cường giáo dục Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành; bồi dưỡng nhận thức, lập trường, quan điểm và năng lực vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội đối với Cương lĩnh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Vấn đề mấu chốt là phát huy vai trò tự tu dưỡng, tự học tập, rèn luyện của cán bộ, đảng viên để nâng cao trình độ, năng lực, bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng. Đây là giải pháp căn cơ nhằm phát huy nhân tố chủ quan của đội ngũ cán bộ, đảng viên, biến quá trình bồi dưỡng thành quá trình tự bồi dưỡng; là con đường tự thân nhằm nâng cao sức đề kháng thông qua khả năng tự nhận biết, tự phân loại, sàng lọc và định hướng thông tin để bảo vệ mình, bảo vệ tổ chức trước những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tự học tập, tự rèn luyện để không ngừng nâng cao trình độ lý luận, bản lĩnh chính trị, luôn kiên định, vững vàng trước sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch với những âm mưu, thủ đoạn đa dạng, tinh vi, xảo quyệt; không để kẻ thù lợi dụng mua chuộc, lôi kéo, chống phá.

Trong thời đại thông tin bùng nổ, chú trọng giải pháp lãnh đạo, quản lý các hoạt động báo chí, xuất bản, nhất là trong việc định hướng chính trị-tư tưởng, phòng, chống nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Củng cố, kiện toàn tổ chức, cán bộ các cơ quan tư tưởng, văn hóa thật sự trong sạch, vững mạnh, làm nòng cốt trong tuyên truyền, định hướng, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng. Phát huy tốt hơn nữa vai trò của truyền thông, báo chí trong định hướng tư tưởng chính trị, định hướng các giá trị, lối sống phù hợp với bản sắc, truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam. Đồng thời phải tích cực, chủ động “nắm chắc, dự báo đúng, định hướng chính xác, xử lý đúng đắn, kịp thời các vấn đề trong Đảng, trong xã hội. Chú trọng nắm bắt, định hướng dư luận xã hội, bảo đảm thống nhất tư tưởng trong Đảng, đồng thuận cao trong xã hội” như văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định.

Các cơ quan chức năng cần phát huy vai trò nòng cốt trong tham mưu cho Đảng, Nhà nước đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, đề ra các chủ trương, chính sách về bảo đảm an ninh trên lĩnh vực tư tưởng chính trị. Phối hợp tổ chức tốt cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng-lý luận, chủ động phát hiện các vấn đề phức tạp nảy sinh trong đời sống xã hội ảnh hưởng đến an ninh tư tưởng chính trị để có biện pháp xử lý, khắc phục kịp thời những sơ hở, thiếu sót, ngăn chặn các nguy cơ tiềm ẩn xâm phạm an ninh trong lĩnh vực tư tưởng chính trị. Bảo vệ vững chắc an ninh chính trị nội bộ, bảo vệ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội; bảo vệ đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tổ chức cơ sở đảng; chủ động phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh với các hoạt động lợi dụng tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam và xu hướng toàn cầu hóa thâm nhập, phá hoại, tác động, chuyển hóa từ bên trong, tiến hành các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, an ninh về tư tưởng chính trị.

Trước những tác động mặt trái của kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và sự chống phá của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam, nhiệm vụ bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị càng trở nên quan trọng. Bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, các ngành, các cấp và của toàn xã hội, cần được tổ chức, phối kết hợp thống nhất nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong bảo vệ vững chắc an ninh về tư tưởng chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đại tá, TS TRẦN XUÂN ĐÁN, Phó chủ nhiệm Khoa Công tác Đảng, công tác chính trị, Học viện Quốc phòng 

Chiêu trò tuyệt thực không thể đánh lừa dư luận

Thứ Hai, 11/11/2024, 08:15

Thời gian qua, trên một số trang mạng xã hội, blog, fanpage và đài báo nước ngoài như BBC Tiếng Việt, RFA, VOA, RFI… đưa ra nhiều bài viết về cái gọi là “tuyệt thực” của các đối tượng Bùi Văn Thuận, Đặng Đình Bách, Trịnh Bá Tư – những phạm nhân đang thụ án tù giam tại Trại giam Số 6, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.

Đi liền với đó là những thông tin mang tính bịa đặt, vu khống về tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam với mưu đồ lôi kéo sự chú ý của dư luận trong nước và quốc tế nhằm đưa ra các đòi hỏi, yêu sách phi lý.

Tuyệt thực, chiêu trò đã cũ

“Tuyệt thực” là một trong những chiêu trò cũ mèm của các đối tượng chống phá nhắm vào một số phạm nhân đang chấp hành án tại trại giam nhằm xuyên tạc, bịa đặt tình hình dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Đồng thời, đây cũng là chiêu trò giúp cho các đối tượng trên đánh bóng tên tuổi, thổi phồng sự việc đi kèm với những đòi hỏi, yêu sách phi lý đến từ các tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài và số chống đối ở trong nước. 

Sẽ chẳng phải là những cái tên xa lạ bởi những trường hợp ấy đã được báo chí, dư luận nhắc đến nhiều lần, mỗi lần “tuyệt thực” gắn với thời điểm, mục đích cụ thể.

Dù đây là thủ đoạn cũ rích nhưng khi sử dụng, việc thông tin về các đối tượng “tuyệt thực” của các tổ chức phản động lưu vong và số đối tượng chống đối thời gian qua cho thấy, đây không phải là chiêu trò bột phát và diễn ra một cách ngẫu nhiên mà nó được tính toán hết sức cẩn thận, có sự suy tính, ý đồ rất rõ ràng.

Thật không khó để nhận ra một quy trình, đó là các lần “tuyệt thực” đều diễn ra theo một tiến trình chung.

Ban đầu, thông qua việc thăm gặp người nhà, các đối tượng đang chấp hành án sẽ rêu rao thông tin bản thân mình đang tiến hành tuyệt thực trong trại giam. Sau đó, người nhà của các đối tượng này trở thành cầu nối lan truyền thông tin đến những báo, đài, cũng như những cá nhân, tổ chức phản động, chống đối. Thậm chí, để tăng thêm phần tin cậy, các trang tin còn thêm thắt các thông tin bịa đặt rằng “nguồn tin giấu tên từ trại giam”, “nguồn tin tin cậy từ gia đình”, qua đó tô vẽ những đối tượng phạm tội như những “người hùng” đấu tranh vì dân chủ, sẵn sàng tuyệt thực để phản đối bản án, phản đối “bị tra tấn, đàn áp nhân quyền”!

Về việc các đối tượng tuyệt thực được nhắc đến thời gian qua gồm Bùi Văn Thuận, Đặng Đình Bách và Trịnh Bá Tư, đây đều là những đối tượng phạm tội, bị toà tuyên án tù và đang thi hành án tại Trại giam số 6, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Để chính trị hoá vụ việc, đi liền với thông tin về việc các đối tượng trên tuyệt thực là hoạt động gắn mác quen thuộc với những cái tên mỹ miều như “tù nhân lương tâm”, “đàn áp tiếng nói bất đồng”, “đấu tranh đòi tự do dân chủ”…

Mục đích chính của việc gắn mác trên nhằm biến các đối tượng phạm tội thành những “ngọn cờ” đấu tranh cho cái gọi là dân chủ, nhân quyền, từ đó hậu thuẫn, kích động các đối tượng chống phá trong nước, xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời tạo cớ cho các tổ chức nước ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Đây là một âm mưu, thủ đoạn nguy hiểm của các thế lực thù địch, phản động nhằm đánh lừa dư luận trong nước và quốc tế; cổ xúy, hậu thuẫn cho số đối tượng chống đối, phá hoại công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.

Dù chiêu trò “tuyệt thực” trước đây đã từng được các đối tượng như Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Văn Hải, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh và nhiều đối tượng khác áp dụng và đã bị vạch trần là những chiêu trò giả tạo cũng như bị chính số các đối tượng chống đối ở nước ngoài quay lưng nhưng sau một thời gian, dường như đã cạn “vốn liếng”, chiêu trò này lại tái diễn. Mục đích nhằm chính trị hoá các hành vi vi phạm pháp luật, phạm tội để từ đó tạo điều kiện cho việc nước ngoài can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam, bôi nhọ tình hình tự do, dân chủ, nhân quyền trong nước. Đồng thời, việc rêu rao tuyệt thực nhằm cổ xúy các đối tượng chống đối, cơ hội chính trị trong nước, kích động số này tiến hành các hoạt động chống phá từ bên trong.

Chiêu trò tuyệt thực không thể đánh lừa dư luận -0
Ảnh minh họa.

Sự thật phía sau chiêu trò tuyệt thực

Quyền con người là những quyền tự nhiên và xã hội mà không bị tước bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào. Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm, chăm lo và thực hiện về quyền con người theo quy định pháp luật. Ngay cả trong lĩnh vực thi hành án phạt tù, phạm nhân cũng luôn được Nhà nước bảo đảm thực hiện các quyền và lợi ích hợp pháp; được công nhận và thụ hưởng các chế độ của Nhà nước dành cho phạm nhân chấp hành án phạt tù, phù hợp với các quy định của pháp luật quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Điều này đã được quy định rõ trong Hiến pháp năm 2013, hệ thống các văn bản pháp lý như Bộ luật Hình sự 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015, Luật Thi hành án hình sự năm 2019…

Các quyền cơ bản của phạm nhân được bảo đảm như quyền được ăn, mặc, ở, chăm sóc y tế, nhận quà hay bưu phẩm, gặp thân nhân, tiếp xúc lãnh sự, người đại diện hợp pháp để thực hiện giao dịch dân sự…, giúp họ yên tâm cải tạo, tu dưỡng và đặc xá chính là sự động viên cao nhất nếu họ cải tạo tốt, thực sự hướng thiện, hoàn lương.

Hiện nay, ở Việt Nam hoàn toàn không có cái gọi là “tù nhân lương tâm” mà chỉ có những đối tượng phạm tội bị cơ quan chức năng truy tố, xử lý theo đúng quy định. “Tù nhân lương tâm” về bản chất là sự đánh tráo khái niệm nhằm cổ súy cho những kẻ đột lốt dân chủ, lợi dụng dân chủ để chống phá đất nước, phải chấp hành hình phạt tù. Đây là một âm mưu, thủ đoạn nguy hiểm của các thế lực thù địch, phản động nhằm đánh lừa dư luận trong nước và quốc tế; cổ súy, hậu thuẫn, hỗ trợ cho số đối tượng chống đối, phá hoại công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.

Liên quan vấn đề này, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam đã nhiều lần nêu rõ: Ở Việt Nam không có cái gọi là “tù nhân lương tâm”, không có việc những người vì tự do bày tỏ chính kiến mà bị bắt giữ. Như tại các quốc gia khác trên thế giới, ở Việt Nam, mọi hành vi vi phạm pháp luật đều bị xử lý theo đúng các quy định của pháp luật. Bảo đảm và thúc đẩy các quyền con người là chính sách nhất quán của Nhà nước Việt Nam, được thực hiện phù hợp với Hiến pháp và pháp luật Việt Nam cũng như các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên. Những nỗ lực và thành tựu của Việt Nam về bảo đảm và thúc đẩy quyền con người được cộng đồng quốc tế ghi nhận rộng rãi.

Chính vì vậy, khi bị kết án và chấp hành hình phạt tù, nếu không “tuyệt thực”, không có các hành động chống phá thì tên tuổi của những đối tượng mang trên mình chiếc áo “tù nhân lương tâm” cũng sẽ nhanh chóng bị lãng quên. Do không thể từ bỏ những lợi ích nên dù bị kết án phạt tù, các đối tượng vẫn tìm mọi cách để tiến hành các hành động chống đối nhằm thu hút sự chú ý từ các cá nhân, tổ chức cũng như các thế lực phản động ở bên ngoài.

Ngoài ra, có thể thấy rằng, do bộ mặt thật của các tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài và số đối tượng chống đối đã bị vạch trần nên rất nhiều người từng bị các đối tượng trên lừa gạt tham gia các hoạt động vi phạm pháp luật đã tỉnh ngộ. Sau khi được cơ quan chức năng tuyên truyền, họ đã hiểu việc làm sai trái của mình để hối cải cũng như góp phần vạch trần bộ mặt thật của các tổ chức trên.

Bên cạnh đó, trong thời gian chấp hành án phạt tù, họ cũng nghiêm chỉnh chấp hành các nội quy, quy định để sớm quay trở về với gia đình, hoà nhập với cộng đồng và trở thành người có ích cho xã hội. Vì vậy, với chiêu trò xuyên tạc của các tổ chức phản động lưu vong ở nước ngoài và số đối tượng chống đối ở trong nước về các đối tượng trên cũng nhằm mục đích chặn con đường hoàn lương sau khi chấp hành xong án phạt tù và thúc ép các đối tượng đó thực hiện các hoạt động chống đối đến cùng, cho dù họ có muốn hay không.

Thực tế, chiêu bài “tuyệt thực” từ lâu đã bị bóc trần bởi các đối tượng như Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Văn Hải (blogger Điếu cày)… Thậm chí ngoài chiêu bài tuyệt thực, các đối tượng còn đưa ra những thông tin giật gân như “Nguyễn Văn Hải bị chặt tay trong thời gian chấp hành án phạt tù”... Sự thật được phơi bày như việc đối tượng Cù Huy Hà Vũ dù kêu tuyệt thực song vẫn khoẻ mạnh, ăn uống bình thường và còn được tiếp nhận thực phẩm tiếp tế từ gia đình khá đầy đủ hay đối tượng Nguyễn Văn Hải từng kêu bị chặt đứt tay nhưng khi được sang Mỹ, mọi người tiếp xúc thì thấy tay chân vẫn vẹn nguyên.

Rõ ràng, trò hề “tuyệt thực” cho thấy sự tuyệt vọng của các đối tượng chống phá khi mà bộ mặt giả dối đã bị vạch trần và bị chính người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài quay lưng.

Thực tế là, dù điều kiện cơ sở vật chất còn khó khăn nhưng Đảng và Nhà nước ta luôn nỗ lực để bảo đảm quyền con người, bao gồm cả việc bảo đảm các quyền con người của phạm nhân trong thi hành án hình sự. Những quy định này được đề cập cụ thể trong các luật, nghị định, được áp dụng trực tiếp, linh hoạt vào đời sống theo hướng có lợi cho phạm nhân. Từ năm 2009 đến nay, Chủ tịch nước đã quyết định thực hiện 9 đợt đặc xá tha tù trước thời hạn cho trên 92.000 phạm nhân.

Để người được đặc xá trở về sớm hoà nhập với cộng đồng, các địa phương tiếp nhận người được đặc xá đã chủ động có nhiều chính sách hỗ trợ, đặc biệt là các hoạt động hỗ trợ sinh kế (vay vốn, tạo việc làm). Năm 2023, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 22/2023/QĐ-TTD ngày 17/8/2023 về tín dụng đối với người chấp hành xong án phạt tù nhằm tạo điều kiện giúp những người lầm lỗi có nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế, ổn định cuộc sống. Đây là cơ chế tín dụng đầu tiên dành riêng cho 2 nhóm đối tượng được vay vốn gồm người chấp hành xong án phạt tù và người được đặc xá, cơ sở sản xuất kinh doanh có sử dụng lao động là người chấp hành xong án phạt tù.

Tính đến thời điểm hiện tại đã có hơn 6.000 người chấp hành xong án phạt tù, người được đặc xá nhận được vốn vay từ Ngân hàng Chính sách xã hội với số tiền trên 500 tỉ đồng để đầu tư phát triển sản xuất, phát triển kinh tế gia đình, ổn định cuộc sống. Trong những năm qua, đa số người được đặc xá trở về nơi cư trú, ổn định cuộc sống. Nhiều người trong số họ đã trở thành doanh nhân khá giả, tích cực tham gia các hoạt động xã hội ở địa phương.

Vì vậy, những thông tin minh bạch, những hành động thiết thực đã trực tiếp bác bỏ các thông tin sai sự thật của một số cá nhân, tổ chức vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền, phân biệt, đối xử đối với đối tượng bị giam giữ. Đây cũng là lời cảnh tỉnh cho những ai đã, đang nghĩ đến chiêu trò “tuyệt thực” hay được gán nhãn hiệu “tù nhân lương tâm” cần dừng lại, thay vì tiếp tục lừa mị dư luận, hãy tỉnh ngộ, hối cải, tập trung cải tạo tốt để sớm hoàn lương, xây dựng lại cuộc sống.

Liêm Chính - Bình Nguyên 

Liên Xô tan rã và luận điệu do Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử” - Bài 2: Những điều căn cốt, thời sự

Thứ sáu, 08/11/2024 - 05:35

Như đã luận giải ở bài viết trước, trong các nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn tới sự sụp đổ của Liên Xô thì xét đến cùng là do nguyên nhân chủ quan quyết định. Sự sụp đổ đó là của mô hình cụ thể, chứ tuyệt nhiên không phải sự sụp đổ hay cáo chung của chủ nghĩa xã hội (CNXH) như thế lực thù địch, phản động thường xuyên tạc. Nhận diện đầy đủ và đúng bản chất vấn đề này là những điều có ý nghĩa căn cốt và thời sự với sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng của Việt Nam hiện nay.

Trong bài viết với tiêu đề “Vì sao Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã?” đăng trên Tạp chí Cộng sản năm 1992, GS, TS Nguyễn Phú Trọng (từ năm 2011 đến tháng 7-2024 là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam) đã chỉ ra nguyên nhân có ý nghĩa quyết định làm tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô là quá trình “vận động” của chính đảng này. Về sau, Đảng ta khái quát quá trình “vận động” này và gọi đó là quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được thể hiện trên nhiều bình diện.

Theo GS, TS Nguyễn Phú Trọng, có 5 biểu hiện của sự “vận động” đó. Một là, không xác lập đúng đắn vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô. Hai là, phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng. Ba là, coi nhẹ hoặc phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng Cộng sản. Bốn là, xa rời quần chúng, mất uy tín nghiêm trọng trước nhân dân, không được nhân dân ủng hộ. Năm là, từ bỏ chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, thổi lên ngọn lửa kỳ thị dân tộc, dân tộc hẹp hòi.

Từ thực tiễn và lý luận cơ bản được Đảng ta tổng kết trong nhiều văn kiện, chúng ta có thể rút ra những bài học lớn với Việt Nam từ quá trình “tự diễn biến” trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô dẫn tới hậu quả tan rã Liên bang Xô viết-cường quốc xã hội chủ nghĩa (XHCN) đầu tiên trên thế giới, như sau:

Thứ nhất, Liên Xô tan rã không phải do Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử”. Từ khẳng định này, Đảng ta kiên định và quyết tâm đưa Việt Nam tiếp tục phát triển đi lên CNXH trên nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. 

Với quyết tâm chính trị đó, Đại hội lần thứ VI (1986) của Đảng ta đã thông qua đường lối đổi mới đất nước. Tiếp đến, Đại hội lần thứ VII (1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, thể hiện lập trường kiên định của Đảng ta về mục tiêu và định hướng phát triển đi lên CNXH ở Việt Nam. Đường lối đổi mới của Đảng ta được thông qua tại Đại hội lần thứ VI trên cơ sở kế thừa sáng tạo Chính sách kinh tế mới của V.I.Lenin với nội dung cốt lõi là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thành công của gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới của Việt Nam kể từ Đại hội lần thứ VI của Đảng chứng tỏ giá trị trường tồn của Cách mạng Tháng Mười, mở ra kỷ nguyên quá độ từ chủ nghĩa tư bản (CNTB) phát triển đi lên CNXH.

Thứ hai, không đồng nhất kinh tế thị trường với CNTB. Ở Liên Xô, trong giai đoạn “cải tổ” đã đồng nhất việc áp dụng cơ chế kinh tế thị trường với việc xóa bỏ chế độ XHCN và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Còn Đảng ta vận dụng chính sách kinh tế mới của V.I.Lenin để phát triển kinh tế thị trường nhằm giải phóng nguồn lực và phát triển sức sản xuất trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đảng ta cho rằng, việc áp dụng cơ chế kinh tế thị trường phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học và phát triển, không đồng nhất kinh tế thị trường với CNTB. Trên cơ sở đó, Đảng ta đề ra chủ trương xây dựng ở Việt Nam nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Ba là, giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, coi đó là yếu tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Cương lĩnh của Đảng ta về xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH đã xác định rõ, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng ở nước ta. Vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với cách mạng Việt Nam đã được xác định tại Điều 4 Hiến pháp năm 2013.

Bốn là, kiên quyết và kiên trì đấu tranh nhằm ngăn chặn các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, kết hợp với việc cảnh giác và làm thất bại âm mưu“diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Rút kinh nghiệm từ tác động phá hoại hết sức nguy hiểm của âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch kết hợp với quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, Đảng ta đặc biệt chú ý đấu tranh ngăn chặn tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống đang diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên.

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V trình tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã sớm cảnh báo hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển, hành vi lộng quyền, tham nhũng của một số cán bộ và nhân viên nhà nước chưa bị trừng trị nghiêm khắc và kịp thời. Từ giữa nhiệm kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta tiếp tục cảnh báo tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là một trong những nguyên nhân cản trở sự phát triển, là hiểm họa đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ XHCN. Với quyết tâm chính trị cao và các giải pháp đồng bộ, Đảng ta đã bước đầu ngăn chặn được hiểm họa này.

Liên Xô tan rã và luận điệu do Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử” - Bài 2: Những điều căn cốt, thời sự
Lễ mít-tinh kỷ niệm 106 năm Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại tại Quảng trường Đỏ ở thủ đô Moskva (Ngày 7-11-2023). Ảnh: nhandan.vn

Tổng kết thành tựu và kinh nghiệm 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, ngày 30-10-2016, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TW về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Nghị quyết đã chỉ rõ nguyên nhân, biểu hiện và biện pháp phòng, chống hiểm họa này. 

Trong số các nguyên nhân, Nghị quyết số 04-NQ/TW chỉ rõ nguyên nhân khách quan do tác động từ khủng hoảng của CNXH trên thế giới sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu; từ mặt trái của kinh tế thị trường; tác động tiêu cực từ toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế; những khó khăn, thách thức của các nước đi theo con đường XHCN trong bối cảnh quốc tế hiện nay; các thế lực thù địch, phản động đẩy mạnh thực hiện âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình".

Trong số các nguyên nhân chủ quan, Nghị quyết số 04-NQ/TW chỉ rõ tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên; công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên về Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chưa được coi trọng đúng mức, kém hiệu quả; một số nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng có nội dung chưa sát thực tiễn; một số cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tiên phong, gương mẫu; cơ chế kiểm soát quyền lực chậm được hoàn thiện, còn nhiều sơ hở; chậm ban hành quy định xử lý tổ chức, cá nhân có biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"; đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ còn nể nang, cục bộ; việc thực hiện kỷ cương, kỷ luật của Đảng chưa nghiêm; chưa chủ động và thiếu giải pháp phù hợp để định hướng thông tin trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng; việc phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị-xã hội, các cơ quan truyền thông và nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong cán bộ, đảng viên còn hạn chế, hiệu quả chưa cao.

Nghị quyết số 04-NQ/TW đã chỉ ra 9 biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị; 9 biểu hiện về suy thoái đạo đức, lối sống và 9 biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Nghị quyết xác định phải thực hiện nghiêm các yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã được đề ra tại Đại hội XII với 10 giải pháp cơ bản, trong đó nhấn mạnh phải kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), với trọng tâm là đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi quá trình "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ Đảng.

Đến nay, công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" đã đạt nhiều kết quả rất quan trọng, góp phần đưa đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới với khát vọng xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng cùng những mục tiêu lớn lao vào thời điểm trọng đại kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng (2030) và 100 năm thành lập nước (2045), xây dựng thành công nước Việt Nam XHCN, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu.

Với thành tựu trong công cuộc đổi mới và từng bước đạt được các mục tiêu cao cả, Đảng ta đã tiếp tục khẳng định giá trị bất biến của Cách mạng Tháng Mười là mở đầu một thời đại mới trong lịch sử, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên toàn thế giới như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự báo.

Đại tá LÊ THẾ MẪU, nguyên Trưởng phòng Thông tin Khoa học Quân sự, Viện Chiến lược Quốc phòng 

Liên Xô tan rã và luận điệu do Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử” - Bài 1: "Mặt trời chói lọi" và quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của Đảng Cộng sản Liên Xô

Thứ năm, 07/11/2024 - 05:32

Trong những năm “cải tổ” ở Liên Xô (1985-1991) lan truyền luận điệu Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử”, do đó cần xóa bỏ Đảng Cộng sản Liên Xô và chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) để “sửa chữa sai lầm lịch sử” đó!?

Luận điệu này là một trong những biểu hiện tập trung của quá trình “tự diễn biến”, "tự chuyển hóa" dẫn tới tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô và nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới. Tuy nhiên, thực tế lịch sử chứng minh Liên Xô tan rã không phải do Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử”.

Nhân kỷ niệm 107 năm Ngày Cách mạng Tháng Mười Nga (7-11-1917 / 7-11-2024), chúng ta cùng nhìn lại vai trò, ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng vĩ đại và nguyên nhân nội tại, có ý nghĩa quyết định dẫn tới sự tan rã Liên Xô, những bài học vẫn nguyên tính thời sự đối với sự nghiệp cách mạng của Việt Nam hiện nay.

Hơn 30 năm kể từ khi Liên Xô - cường quốc XHCN đầu tiên trên thế giới sụp đổ, đã có hàng nghìn công trình nghiên cứu, chuyên khảo, hồi ký, chuyên luận và điều tra đi tìm lời giải về thảm họa địa-chính trị lớn nhất trong thế kỷ 20 này. Tựu trung trong nhiều nghiên cứu chỉ ra, một trong những nguyên nhân có ý nghĩa quyết định dẫn tới thảm họa này là quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng Cộng sản Liên Xô.

Cuộc cách mạng mở đầu một thời đại mới

Nói về ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”.

Không thể phủ nhận sự thật lịch sử là nhà nước Xô viết ra đời từ cuộc Cách mạng Tháng Mười đã đạt được những thành tựu kỳ vĩ trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô. Sinh thời, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng khẳng định: “Đảng Cộng sản Liên Xô có lịch sử vô cùng oanh liệt và vẻ vang.

Được V.I.Lênin sáng lập và rèn luyện, Đảng đã từng là một trong những đảng mác-xít, lê-nin-nít hùng mạnh nhất và kiên cường nhất. Đảng đã từng lãnh đạo nhân dân làm nên Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, đánh thắng chủ nghĩa phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai, xây dựng những cơ sở vật chất - kỹ thuật quan trọng của CNXH, mở ra một giai đoạn phát triển mới trong lịch sử nhân loại. Đó thật sự là những công việc kinh thiên động địa, những sự tích thần kỳ, được cả loài người tiến bộ cảm phục và kính trọng”. 

Liên Xô tan rã và luận điệu do Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử” - Bài 1: "Mặt trời chói lọi" và quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của Đảng Cộng sản Liên Xô
 Các thành viên Đảng Cộng sản Nga tại lễ kỷ niệm 100 năm Cách mạng Tháng 10 Nga ở thủ đô Moskva. Ảnh: TTXVN 

Cách mạng Tháng Mười như một cơn địa chấn của thế kỷ 20, không chỉ mở ra một kỷ nguyên mới đối với nước Nga mà còn cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng của giai cấp công nhân các nước, chỉ ra cho họ con đường đi tới thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống lại chế độ cũ, xây dựng chế độ mới tốt đẹp hơn. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười và tiếp đó là thắng lợi của nhân dân Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ hai, CNXH từ một nước đã phát triển thành một hệ thống XHCN thế giới đầy sức sống và hùng mạnh, có vai trò to lớn và từng có tính chất quyết định đến vận mệnh, sự phát triển của thế giới.

Hệ thống XHCN, đứng đầu là Liên Xô đã có những giai đoạn phát triển rực rỡ, đã đoàn kết các dân tộc, mọi tầng lớp nhân dân chung tay xây dựng một xã hội tốt đẹp, bình đẳng, công bằng, mang lại hạnh phúc cho đông đảo nhân dân lao động. Nhờ ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười và sự giúp đỡ, tác động của hệ thống XHCN thế giới, từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến những năm 70 của thế kỷ 20, hàng loạt dân tộc thuộc địa và lệ thuộc đã đứng lên giải phóng khỏi sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân.

Cho nên có thể nói, Cách mạng Tháng Mười Nga mang tầm ảnh hưởng quốc tế to lớn, tính thời đại sâu sắc, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. 

"Cải tổ 1.0, 2.0" và hành trình dẫn đến tan rã Liên Xô

Liên Xô sụp đổ là thảm họa địa-chính trị lớn nhất trong thế kỷ 20. Nhiều kẻ cơ hội, phản động được thể xuyên tạc những giá trị lịch sử của nhà nước xã hội đầu tiên trên thế giới được mở đầu bằng cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Từ việc coi Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử”, họ phủ nhận những giá trị nhân văn, tốt đẹp của CNXH, đánh đồng sự sụp đổ của mô hình CNXH hiện thực ở Liên Xô, Đông Âu với sự thất bại của Chủ nghĩa Mác-Lênin và rêu rao cuộc cách mạng đó là “đẻ non”, “đã chết” và CNXH đã đến “hồi kết thúc”... Tuy nhiên, từ thực tiễn, chúng ta hoàn toàn có cơ sở để bác bỏ những luận điệu trên. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu là sụp đổ của mô hình cụ thể chứ không phải sụp đổ hay cáo chung của Chủ nghĩa Mác-Lênin, của CNXH như các thế lực thù địch, phản động thường rêu rao, xuyên tạc. Ở khía cạnh cụ thể trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin luận giải một số nguyên nhân nội tại của quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có ý nghĩa quyết định đẩy Đảng Cộng sản Liên Xô tới chỗ tan rã và cường quốc XHCN sụp đổ.

Sai lầm về đường lối chính trị

Ngay sau Cách mạng Tháng Mười, V.I.Lênin từng cảnh báo: “Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền khó hơn”. Vì thế, V.I.Lênin luôn yêu cầu phải kiên quyết và kịp thời đấu tranh ngăn chặn mọi biểu hiện suy thoái về chính trị trong Đảng. Trong những năm dưới sự lãnh đạo của V.I.Lênin và J.Stalin, Đảng Cộng sản Liên Xô đã tiến hành hiệu quả cuộc đấu tranh này. Tuy nhiên, sau khi J.Stalin qua đời (1953), quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về đường lối chính trị trong Đảng Cộng sản Liên Xô bắt đầu bộc lộ biểu hiện rất nguy hiểm. 

Trong bản báo cáo mật bên lề Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô khóa XX (1956) đã có chủ trương “xét lại” Chủ nghĩa Mác-Lênin, phủ nhận những thành tựu vĩ đại của Liên Xô trong những năm sau Cách mạng Tháng Mười và trong cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại (1941-1945). Nếu không được các đảng viên trung kiên trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngăn chặn, chủ trương này có thể đưa Liên Xô tới chỗ tan rã. Chính vì thế, giới nghiên cứu lịch sử ở Nga cho rằng chủ trương “xét lại” Chủ nghĩa Mác-Lênin là “cải tổ 1.0”, tuy chưa dẫn tới tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô nhưng đã để lại “di chứng” nặng nề và đã phát tác trong giai đoạn “cải tổ 2.0” thập niên 1980 được khởi xướng bởi M.Gorbachyov trên cương vị Tổng Bí thư và A.Yakovlev trên cương vị Trưởng ban Tuyên truyền của Đảng Cộng sản Liên Xô. Về sau, chính M.Gorbachyov và A.Yakovlev công khai thừa nhận mục tiêu hướng tới của “cải tổ” là xóa bỏ Đảng Cộng sản và chế độ XHCN ở Liên Xô.

Sai lầm trong công tác cán bộ của Đảng

Đường lối cán bộ của Đảng Cộng sản Liên Xô do V.I.Lênin đề xướng dựa trên các nguyên tắc kết hợp việc tuyển chọn cán bộ có đức, có tài với công tác kiểm tra quá trình thực hiện công tác của cán bộ. V.I.Lênin chủ trương “tin tưởng là tốt, nhưng kiểm tra vẫn tốt hơn”. Kiểm tra nhằm kịp thời cảnh báo và ngăn chặn quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. 

Các thế hệ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô sau này đã không tuân theo di huấn của Lênin, vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc trong công tác cán bộ của Đảng. Một là, nặng về hình thức trong đào tạo cán bộ theo kiểu “thầy đọc, trò chép và học thuộc lòng”. Vì thế, kiến thức lý luận về Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ nằm trên sách vở mà không được vận dụng vào thực tiễn. Nhiều cán bộ tuy được cấp bằng hoặc chứng chỉ nhưng năng lực lãnh đạo kém, không có khả năng dự phòng và bảo vệ, thậm chí vô cảm trước quá trình diệt vong của Đảng. Hai là, khi tuyển chọn và bổ nhiệm cán bộ thường xuất phát từ tình cảm cá nhân, yêu-ghét chủ quan, cố ý nâng đỡ những kẻ thân tín, bè phái. Ba là, công tác đánh giá cán bộ trở thành công cụ để thực hiện ý đồ của cá nhân người lãnh đạo chứ không nhằm mục đích chọn cán bộ tốt.

Vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng

V.I.Lênin là người đề ra nguyên tắc tập trung dân chủ để xây dựng chính đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Theo nguyên tắc này, thiểu số phục tùng đa số, bộ phận phục tùng tập thể và các cơ quan lãnh đạo cấp dưới phục tùng cơ quan lãnh đạo cấp trên. V.I.Lênin cho rằng, nếu không có tập trung, Đảng sẽ trở thành một “câu lạc bộ” lộn xộn, còn nếu xa rời dân chủ, Đảng sẽ trở thành một tổ chức quan liêu, độc đoán, chuyên quyền. V.I.Lênin đã nhiều lần cảnh báo sự vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ là hiểm họa đe dọa sự sống còn của Đảng và chế độ XHCN.

Các thế hệ lãnh đạo sau này, nhất là M.Gorbachyov đã xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ, lạm dụng quyền lực để loại bỏ những cán bộ trung thành và kiên định với lý tưởng XHCN, bổ nhiệm những kẻ ủng hộ chủ trương “cải tổ” sai lầm của ông. Về sau, chính A.Yakovlev thừa nhận, M.Gorbachyov sử dụng “cơ chế toàn trị” để phá hoại Đảng Cộng sản Liên Xô.

Sự thoái hóa, biến chất về đạo đức, lối sống

Sự thoái hóa, biến chất về đạo đức, lối sống trong Đảng Cộng sản Liên Xô trở nên đặc biệt nghiêm trọng trong thời kỳ L.Brezhnev và M.Gorbachyov cầm quyền với những biểu hiện rất đa dạng như tham quyền cố vị; bệnh thành tích, thích được khen thưởng và hưởng lạc; giả dối; tham ô... Biểu hiện điển hình nhất về bệnh thành tích là L.Brezhnev. Tính tổng cộng, L.Brezhnev đã nhận 114 huân chương, trong đó có 8 Huân chương Lênin; 2 Huân chương Sao Đỏ, Huân chương Chiến thắng; 2 Huân chương Cách mạng Tháng Mười... Do không đáp ứng các tiêu chuẩn được nhận, những huân chương dành cho L.Brezhnev đã gây phản ứng rất tiêu cực trong xã hội, làm mất uy tín không chỉ trong mà cả ngoài Đảng.  

Trong Đảng hình thành tầng lớp đặc quyền, đặc lợi. Ở Liên Xô thời đó tồn tại hệ thống cửa hàng đặc biệt dành cho cá nhân và gia đình các thành viên của Ban Chấp hành Trung ương Đảng-nơi họ có thể mua bất cứ thứ hàng hóa xa xỉ nào được nhập khẩu từ phương Tây. Vì thế, nhân dân coi lãnh đạo cấp cao trong Đảng như là một “giai cấp mới” trong xã hội Xô viết, tạo hố ngăn cách ngày càng lớn giữa Đảng và nhân dân. Sự tha hóa, biến chất trong Đảng lên tới đỉnh điểm trong giai đoạn “cải tổ”, trong đó lợi dụng những khe hở của pháp luật trong quá trình tư nhân hóa, các tầng lớp đặc quyền, đặc lợi trong bộ máy lãnh đạo Đảng và quản lý nhà nước mặc sức tham nhũng, vơ vét của công, dẫn tới bước ngoặt căn bản là thúc đẩy quá trình tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô và nhà nước Xô viết.

(còn nữa)

Đại tá LÊ THẾ MẪU, nguyên Trưởng phòng Thông tin Khoa học Quân sự, Viện Chiến lược Quốc phòng