Không thể xuyên tạc vai trò quyết định của Liên Xô trong cuộc chiến đánh bại chủ nghĩa phát xít

Thứ hai, 05/05/2025 - 05:31

Trong bối cảnh Liên bang Nga cùng với một số quốc gia đang chuẩn bị kỷ niệm 80 năm Ngày Chiến thắng trong Chiến tranh vệ quốc vĩ đại, một số thế lực cơ hội chính trị lại đẩy mạnh chiến dịch tuyên truyền xuyên tạc vai trò có ý nghĩa quyết định của Liên Xô trong cuộc chiến vô cùng khốc liệt và anh dũng để đánh bại chủ nghĩa phát xít, thậm chí, họ đưa ra cáo buộc vô căn cứ rằng “Liên Xô hợp tác với Đức quốc xã để gây ra Chiến tranh thế giới thứ hai”. Các luận điệu xuyên tạc đó đi ngược lại với sự thật lịch sử...

Đáng chú ý, có một số trang truyền thông, mạng xã hội đưa ra những nhận định không phản ánh đúng lịch sử, cho rằng từ năm 1922, nước Nga Xô viết đóng vai trò giúp Đức quốc xã phát triển tiềm lực quân sự.

Họ lập luận rằng, sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, nước Đức bị cấm phát triển vũ khí hạng nặng. Vì thế, Berlin đã khéo léo lách luật này thông qua sự hợp tác bất hợp pháp với nước Nga Xô viết trên cơ sở Hiệp ước Rapallo được ký vào ngày 16-4-1922 để nhanh chóng củng cố tiềm lực quân sự nhằm chuẩn bị phát động Chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu.

Không thể xuyên tạc vai trò quyết định của Liên Xô trong cuộc chiến đánh bại chủ nghĩa phát xít

Tượng đài tưởng niệm các chiến sĩ Hồng quân Liên Xô đã hy sinh trong trại tập trung phát xít tại TP Vyazma, tỉnh Smolensk, Liên bang Nga. Ảnh minh họa: TTXVN

Thông tin trên những trang truyền thông và mạng xã hội này đã xuyên tạc nội dung của Hiệp ước Rapallo giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga và Cộng hòa Weimar-tên gọi của nước Đức vào thời điểm đó. Hiệp ước này bao gồm 6 điều khoản với nội dung chỉ nhằm giải quyết hậu quả của Chiến tranh thế giới thứ nhất như xử lý vấn đề tù binh của hai nước sau chiến tranh, việc nước Đức phải bồi thường chiến tranh theo Hiệp ước hòa bình Versailles, thiết lập quan hệ ngoại giao trong bối cảnh nước Nga Xô viết bị Mỹ và phương Tây cô lập sau cuộc Cách mạng Tháng Mười (ngày 7-11-1917), thiết lập quan hệ thương mại, tạo điều kiện sống bình thường cho công dân hai nước trên lãnh thổ của mỗi bên.

Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất  (1914-1918), Nga và Đức đứng trên hai chiến tuyến khác nhau. Trong cuộc chiến này, nước Đức bại trận và phải ký kết Hiệp ước hòa bình Versailles vào năm 1919. Theo đó, nước Đức phải bồi thường chiến tranh cho các quốc gia thắng cuộc như Mỹ, Anh, Pháp... Vì thế, chính quyền Đức coi Hiệp ước hòa bình Versailles là “nỗi quốc nhục” và phải “rửa hận”. Để “rửa hận”, Đức quốc xã sau khi lên cầm quyền từ năm 1933 đã ráo riết chuẩn bị mọi điều kiện để phát động cuộc đại chiến mới ở châu Âu.

Sau Cách mạng Tháng Mười, giới lãnh đạo nước Nga Xô viết cũng nhận thấy rất rõ Hiệp ước hòa bình Versailles chỉ là “khoảng lặng” giữa hai cuộc đại chiến. Do đó, sau khi được thành lập vào năm 1922, Liên Xô quyết định thực hiện chương trình công nghiệp hóa để chuẩn bị đối phó với cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai tất yếu sẽ bùng nổ ở châu Âu. Chương trình công nghiệp hóa của Liên Xô hoàn tất vào năm 1937, tạo điều kiện để Liên Xô tiến hành thành công cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại, đánh bại chủ nghĩa phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai (1941-1945). Vì vậy, tuyệt nhiên không thể có chuyện nước Nga Xô viết tạo điều kiện cho nước Đức nhanh chóng xây dựng lại tiềm lực quân sự để chuẩn bị phát động Chiến tranh thế giới thứ hai.

Ngay trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, lãnh đạo một số nước châu Âu còn căn cứ vào Hiệp ước không tấn công lẫn nhau giữa Liên Xô và Đức Quốc xã ký ngày 23-8-1939 để lập luận rằng chính hiệp ước này đã châm ngòi cho Chiến tranh thế giới thứ hai!? Thậm chí, dựa vào hiệp ước này, có tổ chức còn coi Liên Xô và Đức quốc xã đều “có tội như nhau” là gây ra Chiến tranh thế giới thứ hai!?...

Lập luận này đã xuyên tạc bản chất và nội dung của Hiệp ước không tấn công lẫn nhau giữa Liên Xô và Đức quốc xã. Hiệp ước này xác định Liên Xô và Đức cam kết kiềm chế không tấn công lẫn nhau, giữ thái độ trung lập trong trường hợp một trong hai bên trở thành mục tiêu của những hành động quân sự của bất kỳ bên thứ ba nào, đồng thời cam kết không tham gia các lực lượng có thể trực tiếp hoặc gián tiếp chống lại phía bên kia. Giới lãnh đạo Liên Xô biết rõ rằng, ký hiệp ước không tấn công lẫn nhau với Đức quốc xã không thể ngăn chặn được Chiến tranh thế giới thứ hai mà chỉ để làm chậm lại thời điểm Đức quốc xã tập trung lực lượng của toàn châu Âu để tấn công Liên Xô nhằm chuẩn bị đối phó.

Nhận định của giới lãnh đạo Liên Xô căn cứ vào một sự thật lịch sử khác. Đó là rất lâu trước khi Liên Xô ký với Đức hiệp ước không tấn công lẫn nhau, nhiều nước châu Âu cũng từng ký hiệp ước tương tự với Đức quốc xã...

Đúng như dự báo của giới lãnh đạo Liên Xô, sau khi phát động Chiến tranh thế giới thứ hai vào ngày 1-9-1939, Đức quốc xã đã ký hiệp ước liên minh với nhiều nước châu Âu để chuẩn bị chiến dịch tấn công Liên Xô. Sau khi đã tập hợp được lực lượng của gần toàn bộ châu Âu, ngày 18-12-1940, Hitler phê chuẩn Kế hoạch Barbarossa để bất ngờ tấn công Liên Xô vào ngày 22-6-1941.

Chiến dịch tuyên truyền xuyên tạc vai trò của Liên Xô trong cuộc chiến chống chủ nghĩa phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai còn đi ngược lại sự thật lịch sử là Đức đã tập hợp lực lượng từ nhiều nước đầu hàng để tham gia cuộc chiến tranh xâm lược Liên Xô. Vì vậy, Liên Xô đóng vai trò chủ yếu trong Chiến tranh thế giới thứ hai là đánh bại lực lượng liên quân của Đức quốc xã.

Trong cuộc đại chiến này, Liên Xô đã đánh bại 507 sư đoàn Đức quốc xã và 100 sư đoàn đồng minh của chúng; tiêu diệt của Đức quốc xã hơn 70.000 máy bay (chiếm khoảng 70% tổng số máy bay bị phá hủy), khoảng 50.000 xe tăng và vũ khí tấn công (75%), 167.000 khẩu pháo (74%), hơn 2.500 tàu chiến và tàu bảo đảm.

Sau khi đánh bại phát xít Đức ở châu Âu, Liên Xô tiến hành chiến dịch đánh bại đạo quân Quan Đông mạnh nhất của Nhật Bản, đóng vai trò quyết định, buộc chúng phải đầu hàng vô điều kiện. Liên Xô đã phải nỗ lực phi thường để giành được chiến thắng vĩ đại này nhưng cũng phải chịu thiệt hại vô cùng to lớn. Nhiều thành phố và làng mạc bị tàn phá, hơn 27 triệu công dân Xô viết đã thiệt mạng... 

Sau 80 năm, dù bị nhiều luận điệu xuyên tạc, với âm mưu hòng làm thay đổi bản chất cuộc chiến nhưng chiến thắng vĩ đại của nhân dân Xô viết vẫn được loài người tiến bộ ghi nhận, tôn vinh. Theo ghi nhận, nguyên thủ hoặc đại diện của hơn 20 quốc gia đã nhận lời mời tham dự lễ kỷ niệm và cuộc duyệt binh trên Quảng trường Đỏ ở Moscow vào Ngày Chiến thắng 9-5 năm nay. Ngoài ra, một số quốc gia còn cử lực lượng tham dự cuộc duyệt binh mừng chiến thắng này. Ở châu Âu, bất chấp nhiều áp lực, ở một số quốc gia, vùng lãnh thổ và một số cá nhân vẫn tổ chức lễ kỷ niệm Ngày Chiến thắng 9-5...

Chiến thắng của Liên Xô trong Chiến tranh vệ quốc vĩ đại không chỉ góp phần quyết định đánh bại chủ nghĩa phát xít và quân phiệt mà còn tạo điều kiện cho nhiều nước giành được quyền độc lập, trong đó có Việt Nam. Hơn lúc nào hết, loài người tiến bộ cần tiếp tục ngăn chặn các hoạt động tuyên truyền xuyên tạc vai trò có ý nghĩa quyết định của Liên Xô trong cuộc chiến đánh bại chủ nghĩa phát xít. Đây là hành động thiết thực bảo vệ các giá trị chân chính của lịch sử, của lương tri, đồng thời nhằm ngăn chặn sự phục hồi chủ nghĩa phát xít.

Đại tá LÊ THẾ MẪU 

Bài học cho những kẻ ảo tưởng

Thứ tư, 30/04/2025 - 05:00

Sau 50 năm Bắc-Nam sum họp một nhà, Tổ quốc thống nhất và nền hòa bình cùng sự ổn định chính trị đã đưa Việt Nam đến vị thế mới rất vững chắc trong thế giới hiện đại đầy biến động.

Kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, bên cạnh bản hùng ca chiến thắng ngân vang, bài học về tinh thần độc lập, tự chủ lại hiện về, nóng hổi và đầy ắp tính thời sự trong thế giới phẳng hôm nay. 

Lâu nay, nền độc lập, tự chủ và tự do vững chắc mà Việt Nam xây bằng máu xương bao thế hệ vốn là niềm mong ước, khát vọng của nhiều dân tộc trên thế giới đang luẩn quẩn ở vũng lầy xung đột và chiến tranh lại bị một số kẻ phê phán, “tạt a xít”. Chúng không chấp nhận sự thật: Việt Nam ổn định, phát triển cường thịnh.

Bài học cho những kẻ ảo tưởng
Minh họa: Hải Lâm 

Bất chấp con đường hợp đạo lý, hợp lòng người, hợp xu thế thời đại và tương lai tươi sáng đang rộng mở của dân tộc, chúng định hướng, lôi kéo những kẻ bất mãn, phản động đòi phá bỏ những thành tựu ấy để xây dựng một thể chế chính trị mới với cái gọi là “tự do” và “dân chủ” tuyệt đối mà chúng hằng tôn thờ. Hình như bài học lịch sử chưa đủ mạnh để chúng tỉnh ngộ, bớt ảo tưởng.

***

Đầu năm 1975, sau khi Phước Long thất thủ, cho dù “mũi dao bén ngọt” của Quân giải phóng đã chọc vào cạnh sườn nhưng Nguyễn Văn Thiệu vẫn luôn lạc quan với lời hứa chắc như đinh đóng cột từ năm 1973 của Tổng thống Nixon: “Nếu Bắc Việt vi phạm, Mỹ sẽ đáp trả”. Viễn cảnh mà Thiệu mơ tưởng là quan thầy Mỹ sẽ đưa quân và chi viện hỏa lực đường không, đường biển hoặc chí ít là viện trợ ngân sách hơn 2,1 tỷ USD để Thiệu có thể giữ vững cái gọi là nền cộng hòa vốn cho Thiệu và gia đình cùng đội ngũ tướng lĩnh những “hoa thơm trái ngọt” béo bở.

Theo những tài liệu đã được Nhà trắng giải mã những năm gần đây, sau khi Buôn Ma Thuột thất thủ, Thiệu đã đưa ra một quyết định mà không tham vấn bất cứ nhân vật hoặc cơ quan nào của quan thầy Mỹ: Bỏ Cao nguyên Trung phần về giữ các tỉnh ven biển miền Trung từ Huế trở vào Nam. Bởi Thiệu luôn tin và nuôi ảo tưởng, dù viện trợ quân sự bị cắt giảm nghiêm trọng xuống còn hơn 700 triệu USD thì Thiệu vẫn đủ lực để giữ những phần đất "ngon" nhất. Thiệu tin, với đội quân trung thành, hùng mạnh trong tay vẫn có thể giữ được những vùng quan trọng để “chờ cơ hội”.

Nhưng trời không chiều lòng Thiệu, đội hình rút lui trên Đường 7B của ngụy đã bị Quân giải phóng truy kích. Từ đây, thời cơ có lợi cho quân ta xuất hiện rõ như ban ngày, còn lực lượng mang những cái tên mỹ miều như biệt động quân, thủy quân lục chiến, biệt động dù... vốn rất thiện chiến của Thiệu và từng được quan thầy Mỹ huấn luyện công phu, được trang bị đến tận răng đã trở thành những chú hề, thành thỏ đế trước sức mạnh vũ bão của Quân giải phóng. Hiệu ứng đô-mi-nô đã đẩy quân ngụy vào cảnh “cá nằm trên thớt”, khiến niềm tự hào với "thế giới tự do" lâu nay Mỹ từng huênh hoang bị sụp đổ nhanh chóng không hồi cứu vãn. Những bộ quân phục, những khẩu súng rồi xe tăng, trực thăng vũ trang... vốn là biểu trưng cho sự giàu có và sức mạnh của tự do bị bỏ lại phi trường, bến cảng và trên xa lộ đã chứng minh điều đó.

Nửa đầu tháng 4-1975, khi Quân giải phóng vượt qua phòng tuyến Phan Rang, áp sát phòng tuyến tử thủ thép Xuân Lộc, cho dù những “mũi dao thép” đã lởn vởn ngay sát nách đô thành Sài Gòn thì Thiệu vẫn ngoan cố kêu gào binh sĩ tử thủ và đọc diễn văn phủ dụ dân chúng tin vào chính phủ và đội quân mà Thiệu cố công xây dựng.

Cạnh đó, với niềm tin mãnh liệt vào đồng minh nước lớn thân cận và thói sĩ diện hão, Thiệu ra sức điện đàn với quan chức Nhà trắng để tìm sự hỗ trợ. Nhưng dù khản cổ kêu gào thì Thiệu vẫn chỉ nhận được ở quan thầy những cái lắc đầu và kế hoạch di tản trong bí mật. Thiệu ngoan cố bám dinh Độc Lập, bám chặt chiếc ghế tổng thống cho dù bị tướng nguyền, dân oán và đồng minh rời bỏ. Từ các vùng chiến sự, sĩ quan của Thiệu gọi về với những lời chua chát: “Tổng thống ra lệnh nhưng không ra mặt. Lính chết, bỏ chạy, còn ông thì... chờ viện trợ”.

Sau khi Quân giải phóng làm chủ nhiều đô thị, vùng giải phóng mở rộng, diện tích của ngụy ngày càng thu hẹp, sau năm lần bảy lượt bị quan thầy Mỹ khuyên nhủ, dụ ép, đe dọa và đánh tiếng cảnh báo sẽ có cuộc đảo chính như năm 1963 nếu không nhường ghế, cuối cùng, Thiệu chấp nhận buông bỏ quyền lực bằng một bài diễn văn hôm 21-4-1975 với lời chua chát, uất hận rằng: “Hoa Kỳ đã phản bội chúng ta...”. Và trong đêm tối ở phi trường Tân Sơn Nhất, Thiệu ra đi không kèn, không trống với nỗi lo mất mạng thường trực. Thiệu được Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) cho di tản bằng lý do sang Đài Loan viếng Tưởng Giới Thạch.

Cùng thời điểm đó, từ các thông tin tình báo và những bộ óc phân tích chiến lược toàn diện sắc bén, khi chắc chắn “Hoa Kỳ không có khả năng trở lại”, với tinh thần chủ động, Đảng ta đã nắm bắt thời cơ, hạ quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Trên chiến trường, quân ta càng đánh càng mạnh và đã giành những thắng lợi liên tiếp. Chiến dịch Hồ Chí Minh mở ra quá nhanh chóng khiến quan thầy Mỹ phải cay đắng chấp nhận thực hiện chiến dịch “gió lốc”, di tản khỏi miền Nam Việt Nam.

Trưa 30-4-1975, khi màu áo “sắc xanh núi rừng” tràn ngập dinh Độc Lập, khi cờ đỏ sao vàng và cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tung bay, đặc biệt sau lời đầu hàng vô điều kiện của Tổng thống Dương Văn Minh trên Đài phát thanh Sài Gòn, “thế giới tự do” giả hiệu sụp đổ hoàn toàn. Lúc này, vai trò “con tốt” của ngụy quyền Sài Gòn trên bàn cờ địa chính trị do quan thầy Mỹ dựng lên chính thức ra đi.

Bài học từ sự sụp đổ của ngụy quyền Sài Gòn không chỉ là sự thất bại của một bộ máy sống nhờ, tồn tại bằng ngoại lực mà còn là minh chứng sống động cho chân lý: Chỉ có độc lập dân tộc, tự chủ về chính trị và tinh thần đoàn kết toàn dân mới tạo nên sức mạnh trường tồn. Trong bối cảnh thế giới hiện đại đang bị giằng xé bởi mâu thuẫn địa chính trị, cạnh tranh chiến lược và những cuộc xung đột, Việt Nam-một quốc gia nhỏ vẫn giữ vững hòa bình, ổn định và phát triển là nhờ bài học lịch sử ấy.

Thế nên, việc những kẻ ảo tưởng vào một "thiên đường tự do" viển vông do ngoại bang vẽ ra, tiếp tục cổ xúy, lôi kéo phá vỡ trật tự hiện tại cần nhìn lại số phận của những kẻ đi trước và hãy nhớ rằng: Những “tướng không quân, lính không trận” lưu vong và trái tim rách nát cùng vết thương quá khứ thì sao có thể mang gánh được ước vọng xa xôi. Hãy tỉnh táo mà nhận thức đầy đủ rằng, tự do và dân chủ không bao giờ đến từ những khẩu hiệu trống rỗng, càng không thể được ban phát từ ngoại bang. Nó phải là kết quả của một quá trình đấu tranh tự lực, từ nhân dân, vì nhân dân.

Ngày nay, khi thế giới tiếp tục chứng kiến những cuộc xung đột, chiến tranh ở nhiều khu vực, sự phụ thuộc chính trị, kinh tế khiến nhiều quốc gia nhỏ bị cuốn vào vòng xoáy bất ổn, thì bài học về tự chủ của Việt Nam càng trở nên quý giá.

Giữa lúc thế giới vẫn còn những mô hình “dân chủ xuất khẩu” đầy rối ren, sự vững vàng của Việt Nam chính là minh chứng cho một con đường độc lập-vì dân, từ dân và do dân-không thể bị thay thế bởi bất kỳ ảo tưởng nào đến từ bên ngoài.

Từ chiến thắng của Chiến dịch Hồ Chí Minh đã chứng minh, lịch sử không dành chỗ cho những ảo tưởng chính trị lạc lõng. Nó chỉ ghi nhớ và tôn vinh những dân tộc dám tự mình viết nên vận mệnh của chính mình mà thôi. Hãy đừng quên bài học ấy!

MẠNH THẮNG 

Cuốn phăng luận điệu xuyên tạc, sáng bừng hào khí đại lễ - Bài 2: Bằng chứng sống động từ hiện thực đời sống (tiếp theo và hết)

Thứ ba, 29/04/2025 - 05:23

Để đất nước được thống nhất, non sông liền một dải vào ngày 30-4-1975, cả dân tộc ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã thực hiện cuộc kháng chiến trường kỳ đầy gian khổ, hy sinh. Mục tiêu cách mạng “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào...” như lời chúc Tết Kỷ Dậu 1969 của Bác Hồ là khát vọng cháy bỏng của toàn dân tộc. Âm mưu xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành quả cách mạng, dù được ngụy trang dưới bất cứ hình thức nào, cũng cần phải lật tẩy, lên án...

Cảnh giác với thủ đoạn “dương Đông kích Tây”

Có một kiểu lập luận ngụy biện, ngụy hàn lâm dưới chiêu bài dân túy được các tổ chức phản động rêu rao trên không gian mạng, chúng ta phải hết sức cảnh giác và tỉnh táo nhận diện để đấu tranh. Đó là kiểu tư duy lập lờ, kiểu lập ngôn “cắt khúc”, “hớt ngọn”. Sự thật lịch sử là ngụy quyền Sài Gòn trước thời điểm 30-4-1975 là một chính quyền tay sai do Mỹ dựng lên để thực hiện âm mưu xâm lược, thôn tính Việt Nam. Việc ký kết Hiệp định Paris vào ngày 27-1-1973 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam buộc Mỹ phải rút quân khỏi miền Nam Việt Nam là thành quả kháng chiến của cả dân tộc trên tất cả các mặt trận chính trị, quân sự, ngoại giao... Sau khi “đánh cho Mỹ cút”, việc “đánh cho ngụy nhào” là bước phát triển tiếp theo của cuộc kháng chiến để đi đến mục tiêu “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”.

Đó là sự thật lịch sử, không ai, không thế lực nào, không có bất cứ lý do gì có thể thay đổi, xuyên tạc, phủ nhận. Thế nhưng, để thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với dân tộc, đất nước, các thế lực thù địch đã sử dụng chiêu bài dân túy, ngụy biện, ngụy hàn lâm... để tẩy sử, lật sử. Chúng đánh tráo khái niệm, coi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh, là một cuộc “nội chiến” giữa hai miền Nam-Bắc. Thành quả cách mạng lật đổ ngụy quân, ngụy quyền tay sai bán nước bị chúng cố tình đánh tráo bản chất, thay bằng “nồi da xáo thịt”, “huynh đệ tương tàn”... Thậm chí, chúng đòi viết lại lịch sử, công nhận ngụy quyền Sài Gòn là một “chính thể” để hợp thức hóa âm mưu biến cuộc kháng chiến vĩ đại của toàn dân tộc thành cuộc “nội chiến”.

Khi những thứ ngụy hàn lâm này bị lật tẩy, bởi nó là những luận điệu đã lỗi thời, lạc lõng, các thế lực thù địch liền thay đổi phương thức tiếp cận bằng chiêu bài dân túy, lấy cớ thúc đẩy hòa hợp dân tộc, gác lại quá khứ, hướng tới tương lai bằng kiểu lập ngôn “cắt khúc”, “hớt ngọn”, “lập lờ đánh lận con đen”... Theo đó, chúng cho rằng, chỉ cần nói “thống nhất đất nước” là đủ, bỏ cụm từ “giải phóng miền Nam” cho ngắn gọn, súc tích. Thoạt nghe, không ít người tưởng là có lý. Tuy nhiên, bằng tư duy biện chứng, chúng ta thấy rõ, nếu không có “giải phóng miền Nam” thì làm gì có “thống nhất đất nước”? Cách nói “cắt khúc”, “hớt ngọn” này chính là một kiểu thao túng tâm lý, đánh lừa nhận thức. Nếu nhận thức chính trị, lập trường tư tưởng thiếu vững vàng sẽ dễ sa vào cái bẫy ngôn từ trong chiến dịch truyền thông chống phá của các thế lực thù địch, dẫn đến nhận thức lệch lạc, sai lầm về Đại thắng mùa Xuân 1975 và ý nghĩa của Đại lễ 30-4.

Cuốn phăng luận điệu xuyên tạc, sáng bừng hào khí đại lễ - Bài 2: Bằng chứng sống động từ hiện thực đời sống (tiếp theo và hết)
  Minh họa: MẠNH TIẾN

Trên không gian mạng những ngày gần đây xuất hiện nhiều bài viết, dòng trạng thái của các tổ chức, cá nhân thù địch, phản động như: “Việt Tân”, Lê Trung Khoa... tuyên truyền xuyên tạc về ngoại giao Việt Nam trong khuôn khổ Đại lễ kỷ niệm 50 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Chúng lộng ngôn, lớn tiếng quy chụp, chỉ trích, bỉ bai... mối quan hệ giữa Việt Nam với các quốc gia láng giềng, lèo lái dư luận, kích động hận thù dân tộc, phá hoại đường lối đối ngoại của Đảng...

Nhìn nhận vấn đề một cách khách quan, toàn diện, chúng ta dễ dàng lật tẩy chiêu trò truyền thông “bẩn” này. Lại là những kiểu “cắt khúc”, “hớt ngọn” thông tin, thấy hiện tượng mà không thấy bản chất, “thầy bói mù xem voi”... Đường lối đối ngoại của Đảng ta nhất quán mục tiêu độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, vì lợi ích quốc gia, dân tộc... Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Những thông tin lèo lái dư luận, đòi Việt Nam phải dựa vào nước này để chống nước khác là kiểu lập luận ngụy biện, hoàn toàn không có giá trị “phản biện”, “hiến kế”, mà thực chất là mưu đồ phá hoại. Việc tuyên truyền, kích động hận thù kiểu “dương Đông kích Tây” trong bối cảnh hiện nay chính là âm mưu xuyên tạc, phá hoại, hòng làm mất đi ý nghĩa thiêng liêng của ngày đại lễ toàn dân tộc.

Hiện thực đời sống là bằng chứng thuyết phục nhất

Các thế lực thù địch đã và đang áp dụng đủ chiêu trò, mở chiến dịch truyền thông quy mô rầm rộ để kích động, xuyên tạc, chống phá ngày hội non sông của đất nước ta. Nhưng, hiện thực đời sống xã hội ở Việt Nam đang diễn ra hằng ngày, hằng giờ chính là bằng chứng sống động, thuyết phục nhất, cuốn phăng luận điệu xuyên tạc, khẳng định giá trị trường tồn của thành quả cách mạng. Chỉ cần thông qua những góc nhìn cận cảnh đời sống xã hội ở TP Hồ Chí Minh những ngày này, ai ai cũng thấy rõ điều đó. Hàng vạn người từ khắp nơi đổ về thành phố đón chào những đoàn quân làm nhiệm vụ diễu binh, diễu hành. Trong các buổi hợp luyện, tổng hợp luyện, sơ duyệt, tổng duyệt diễu binh, diễu hành, dòng người chen kín các trục đường, các địa điểm công cộng. Tất cả đều rạng rỡ thần thái, cờ hoa, biểu ngữ rực rỡ đón chào các khối diễu binh, diễu hành, tự hào chiêm ngưỡng những cánh bay mang khát vọng hòa bình, hưng thịnh trên bầu trời rực rỡ nắng vàng. Từ những góc nhỏ trong các quán cà phê, không gian giải trí đến những khu vực sinh hoạt văn hóa cộng đồng, đâu đâu cũng ngập tràn sắc âm mừng Đại lễ 30-4. Ngập trên các nền tảng mạng xã hội là hào khí, hình ảnh thể hiện tinh thần yêu nước, niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Đặc biệt, mặc dù lượng người đổ về khu vực trung tâm thành phố đông nghịt, nhưng tất cả đều diễn ra trong trật tự, hòa chung bầu không khí tự hào Việt Nam...

Nguồn năng lượng tích cực mang hào khí, khát vọng dân tộc như dòng nước mát lành giữa mùa khô nắng nóng, như những đợt sóng trào từ đại dương, lan tỏa, bừng lên, kết nối triệu cánh tay, triệu trái tim về một mối. Đó là bản sắc, là khí chất, là bản lĩnh, là ý chí, là khát vọng Việt Nam, thấm sâu vào nếp nghĩ, vào huyết quản, vào trái tim mỗi người dân đất Việt, trở thành nhu cầu tự thân. Tất cả tạo nên bầu không khí mừng đại lễ của dân tộc, trang trọng, ấm áp, nghĩa tình, hưng vận...

Chính hưng khí ấy, hào khí ấy, nhịp sống xã hội tươi đẹp và hào sảng ấy đã tạo thành dòng thác, xóa tan, cuốn phăng đi những thứ rác rưởi độc hại, dù nó đang cố tình đu bám, ký sinh trên các nền tảng mạng xã hội.

“Chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”. Hào khí Đại thắng 30-4, nửa thế kỷ bừng lên, rực sáng, củng cố niềm tin, tạo thế và lực để đất nước vươn mình mạnh mẽ vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của khát vọng hưng thịnh, phồn vinh. Đó là ý nguyện, là khát vọng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta và kiều bào yêu nước. Và, khi lòng dân đã thuận, ý Đảng đã quyết, thì không một thế lực nào có thể xuyên tạc, phá hoại được thành quả cách mạng, thành trì tư tưởng của chúng ta.

Được sống, được hòa mình trong bầu không khí ấy, nguồn hưng khí, hưng vận ấy, là hạnh phúc của mọi cán bộ, đảng viên, những "công bộc" của dân. Hưng khí giang sơn, hưng vận dân tộc được kết tinh từ linh khí của xương máu ông cha. Tổ chức Đại lễ 30-4 một cách trang trọng, thiêng liêng không chỉ là cách khẳng định vị thế, uy tín, niềm tự hào, tự tôn dân tộc mà còn là dịp để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tri ân sự hy sinh, công lao cống hiến của thế hệ cha anh và ông bà, tiên tổ. Hồn thiêng của các anh hùng liệt sĩ, các thế hệ hiền nhân sẽ hiển linh hội tụ trong sắc nắng, màu mây; trong màu cờ, sắc áo đại lễ. Biết như thế, hiểu như thế, ngẫm như thế để mỗi chúng ta biết cách mà nâng niu, trân quý giá trị của hòa bình, độc lập, tự do; tiếp thêm niềm tin và nhiệt huyết chiến đấu, góp phần đập tan, cuốn phăng những âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trên không gian mạng.

PHAN NGUYỄN HÀ THANH 

Cuốn phăng luận điệu xuyên tạc, sáng bừng hào khí Đại lễ - Bài 1: Quét “rác” bằng tư duy biện chứng

Thứ hai, 28/04/2025 - 05:45

Đại lễ kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975 / 30-4-2025) thu hút sự quan tâm đặc biệt của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; kiều bào yêu nước và bạn bè yêu chuộng hòa bình khắp thế giới. Tầm ảnh hưởng tích cực và sức lan tỏa mạnh mẽ của các hoạt động kỷ niệm khiến các thế lực thù địch và những đối tượng phản động cay cú, tăng cường thực hiện các chiến dịch truyền thông xuyên tạc, chống phá...

Những thứ rác rưởi của trò lố chính trị

Theo dõi những thông tin xuyên tạc trên các nền tảng mạng xã hội do các thế lực thù địch tung ra, lan truyền, nhắm vào xuyên tạc, phá hoại Đại lễ “Ngày hội non sông” 30-4, bằng tư duy logic, chúng ta thấy rõ, đó là một kiểu “nhai lại”, được ngụy trang, mị dân sau lớp vỏ công nghệ hiện đại. Thứ “nhai lại” ấy chính là nội dung, thông tin phản động. Sau 50 năm kể từ ngày non sông liền một dải, tư tưởng hận thù dân tộc vẫn được các đối tượng thù địch gặm nhấm, bấu víu nhằm đánh tráo khái niệm, đổi trắng thay đen về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Những cái gọi là “ngày quốc hận”, “tháng tư đen”, “khát vọng phục quốc”... chúng “nhai đi, nhai lại” một cách cay cú và ngày càng gia tăng tính chất, mức độ, phạm vi “phủ sóng”. Cứ mỗi dịp đất nước ta tổ chức các hoạt động kỷ niệm “Ngày hội non sông thống nhất đất nước” là truyền thông mang tư tưởng thù địch lại lập tức mang cái thứ tư tưởng, tư duy lỗi thời, lạc lõng này ra để rêu rao.

Trong dịp Đại lễ kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, điệp khúc ỉ ôi này lại râm ran, rền rĩ trên các nền tảng mạng xã hội. Chúng cấu kết thành lập những thứ gọi là “ban”, “hội đồng” tại Hoa Kỳ và một số nước phương Tây, do số đối tượng “tàn dư” của  chế độ ngụy quân, ngụy quyền Sài Gòn trước năm 1975 thực hiện, như: “Ban tổ chức đại lễ tưởng niệm 50 năm quốc hận 30-4”, “Hội đồng lãnh đạo điều hành sự kiện kỷ niệm 50 năm...” và các “Cộng đồng người Việt tị nạn”, “Hội đồng phục quốc”... Chúng tập hợp, mang theo cờ “ba sọc”, mặc trang phục ngụy quân, tổ chức những trò lố gọi là “biểu tình”, “tuần hành”, “diễu hành”, “hội luận tình hình Việt Nam sau 50 năm...” rồi quay video tung lên các nền tảng mạng xã hội để “khuếch trương thanh thế”, “phông bạt”, “làm màu”...

Gọi những thứ này là rác rưởi, trò lố bởi cái gọi là “lực lượng”, “đội quân” tham gia “tuần hành”, “diễu hành” ấy chỉ lèo tèo vài nhóm người, đa số đều là những đối tượng già cả, ốm yếu, thậm chí có nhiều đối tượng chân bước không vững, vừa đi vừa lết, thều thào hô khẩu hiệu. Phía dưới những video phản động, phản cảm này, rất nhiều người đã để lại những dòng bình luận phê phán, giễu cợt, kiểu như: “Để dành sức mà húp cháo”, “Răng rụng hết rồi, hô hào gì nữa”, “Bước không vững còn bày đặt “phục quốc”...

Cuốn phăng luận điệu xuyên tạc, sáng bừng hào khí Đại lễ -  Bài 1: Quét “rác” bằng tư duy biện chứng
Minh họa: Mạnh Tiến 

Một trong những tổ chức phản động lưu vong có tần suất thông tin xuyên tạc dày đặc trên các nền tảng mạng xã hội, chống phá Đại lễ 30-4-2025 của dân tộc, đó chính là tổ chức khủng bố “Việt Tân”. Tổ chức này do Lý Thái Hùng cầm đầu. Với chiêu bài chuyển hướng hoạt động từ khủng bố vũ trang sang “đấu tranh bất bạo động”, “Việt Tân” đã và đang đẩy mạnh tận dụng tiện ích không gian mạng, sử dụng AI để tuyên truyền, gieo rắc thông tin, tư tưởng phản động, dân túy. Từ Tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025 đến nay, "Việt Tân" thực hiện dồn dập các chiến dịch tuyên truyền quy mô lớn, đa hướng, đa kênh, tận dụng các website, trang Facebook..., sử dụng AI nhằm gia tăng lượng tiếp cận, tương tác của người dân trong nước, lan truyền những thông tin mị dân, chống phá đất nước. Chúng biên soạn, tán phát những tài liệu như: “Thư chúc Tết”, “Văn kiện Việt Nam nửa thế kỷ tụt hậu và lối thoát cho tương lai”... có nội dung phủ nhận thành quả cách mạng ngày 30-4-1975, vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền, tự do dân chủ; quy chụp Việt Nam “tụt hậu” về kinh tế; từ đó kích động người dân tụ tập, biểu tình, gây bạo loạn, lật đổ chính quyền nhân dân; mở đường cho lực lượng phản động “phục quốc”...

Nhìn tổng thể để thấy rõ bản chất

Cần phải nói ngay và luôn, các hoạt động truyền thông mang tính chất lừa bịp, xuyên tạc, kích động, chống phá thành quả cách mạng ở Việt Nam do các thế lực thù địch thực hiện, không phải là đề tài mới mẻ gì. Ngay sau Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước 50 năm trước, trong lúc chúng ta nỗ lực tái thiết cuộc sống, thực hiện các chính sách hòa hợp dân tộc, chung tay xây dựng đất nước thì những thành phần chống đối cũng rắp tâm thực hiện âm mưu chống phá. Chúng thể hiện ý đồ lật đổ chính quyền nhân dân, đạp đổ thành quả cách mạng, gây rối loạn an ninh chính trị trong nước. Một bộ phận người Việt Nam lưu vong ở nước ngoài đã cấu kết, hình thành những tổ chức phản động, được sự "hà hơi", "tiếp sức" của các lực lượng quốc tế mang tư tưởng thù địch với cách mạng Việt Nam, tiến hành các hoạt động có tính chất khủng bố, bạo loạn. Bên cạnh các hoạt động vũ trang “chuyển lửa về quê nhà”, chúng tăng cường mạng lưới truyền thông, sử dụng các kênh phát sóng bằng tiếng Việt, chĩa “mũi dùi” về đất nước để tuyên truyền xuyên tạc, kích động chống phá. Mục tiêu của chúng là làm lung lay trận địa tư tưởng, gây mất lòng tin của nhân dân, gây rối ren trật tự xã hội... để thừa cơ tiến hành bạo loạn, lật đổ chính quyền.

Đặc biệt, sau khi mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ đầu thập niên 90 của thế kỷ 20, hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng, thoái trào, các chiến dịch truyền thông xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch càng gia tăng cấp độ, phạm vi, tính chất. Tuy nhiên, hiện thực lịch sử và đời sống xã hội; cơ đồ, vị thế của đất nước đã chứng minh, không một thế lực nào, không một âm mưu nào có thể phá vỡ bức tường thành vững chắc của thế trận lòng dân ở Việt Nam. Chúng ta đã giữ vững thành quả cách mạng, đẩy lùi và từng bước làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch; thực hiện thành công công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả, đưa đất nước phát triển bền vững.

Nhắc lại những vấn đề mang tính khái quát này để chúng ta có cái nhìn toàn diện về cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng hiện nay. Sở dĩ phải nhấn mạnh điều này bởi không ít người khi tiếp cận với những thông tin xuyên tạc, xấu độc trên không gian mạng đã “quên” mất phương pháp tư duy, suy luận vấn đề theo logic biện chứng. Thay vào đó là kiểu thấy hiện tượng mà không biết bản chất, thấy cây mà không thấy rừng; là kiểu “thầy bói mù xem voi”; tư duy “hớt váng”, “cắt khúc”, “cắt ngọn”... Tâm lý “hóng hớt”, “hội chứng đám đông”, lập trường tư tưởng chính trị thiếu vững vàng của một bộ phận nhỏ công chúng chính là kẽ hở trong trận địa tư tưởng khiến các thế lực thù địch lợi dụng khoét rộng, đào sâu nhằm “ký sinh”, “tầm gửi” quan điểm sai trái, phản động, chống phá đất nước.

Bằng thủ đoạn dân túy, được ngụy trang, che đậy dưới lớp vỏ ngôn ngữ bóng bẩy, sử dụng AI làm công cụ, những thông tin xuyên tạc, xấu độc của các thế lực thù địch đã dụ dỗ được một số người nhẹ dạ, cả tin, những thành phần cực đoan, cơ hội, non kém bản lĩnh và ý thức chính trị. Đáng tiếc là trong số đó có một số trường hợp cá biệt thuộc tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ. Trang cá nhân của họ trên các nền tảng mạng xã hội có lượng theo dõi, tương tác khá lớn. Trong quá khứ, những người này đã có đóng góp nhất định cho sự nghiệp văn hóa nghệ thuật. Tuy nhiên, vì non kém bản lĩnh và ý thức chính trị, họ đã suy thoái tư tưởng chính trị, được các thế lực thù địch tung hô như những “người hùng”, lên mạng xã hội phát ngôn đi ngược lại chủ trương, đường lối của Đảng và lợi ích dân tộc, phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng.

Ông Nguyễn Cao Kỳ (1930-2011), cựu Thủ tướng, cựu Phó tổng thống ngụy quyền Sài Gòn, khi còn sống, đã bức xúc lên tiếng: “Nước Việt Nam có mất cho Tây cho Tàu đâu mà phục quốc?... Và tôi từng hỏi, nếu họ thật sự yêu nước thì họ phải biết ngồi im và biết suy nghĩ chứ đừng đi theo một lũ côn đồ, hám danh hám lợi, lừa gạt mọi người. Cứ nhân danh chính nghĩa quốc gia, nhân danh tự do dân chủ, nhân danh chống cộng, dân chủ mà đi lừa gạt người ta”.

Thiết nghĩ, không cần bình luận gì thêm về những phát ngôn thẳng thắn, nhận thức rõ "đúng-sai" này, bởi nó đã góp phần lột trần sự thật và bản chất của những thành phần bất mãn, cơ hội, phản bội Tổ quốc. Nhắc lại điều này để một lần nữa giúp bạn đọc có những góc nhìn đa chiều, khách quan, có nhãn quan chính trị và phương pháp luận biện chứng khi tiếp cận, phân tích, đánh giá, bày tỏ thái độ trước những thông tin xấu độc đang xuất hiện tràn lan trên không gian mạng hiện nay...

(còn nữa)

PHAN NGUYỄN HÀ THANH 

Không thể đánh lận bản chất, xuyên tạc ý nghĩa Chiến thắng 30/4/1975

Thứ Hai, 28/04/2025, 07:18

Chiến thắng 30/4/1975 không chỉ là sự kiện lịch sử trọng đại mà còn là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX. Đây là kết quả tất yếu của một hành trình dài đấu tranh kiên cường, bất khuất của cả dân tộc chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ và các thế lực tay sai, vì độc lập dân tộc và thống nhất đất nước.

Thế nhưng cho đến nay, sau 50 năm giải phóng, vẫn tồn tại những luận điệu xuyên tạc, cố tình gọi cuộc chiến vệ quốc của nhân dân ta là “cuộc nội chiến”, đưa ra những quy kết sai trái về Ngày Giải phóng 30/4 nhằm bôi nhọ lịch sử, phủ nhận tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến.

Tái diễn luận điệu sai trái, xuyên tạc

Các thế lực thù địch, phản động luôn ra rả vu cáo cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta là “cuộc nội chiến”. Luận điệu này có từ lâu, đến nay vẫn tái diễn.

Để làm rõ bản chất của vấn đề, trước hết cần phải hiểu đúng khái niệm “nội chiến”. Các khái niệm theo từ điển thì, nội chiến là cuộc chiến tranh giữa các phe phái, các lực lượng chính trị trong cùng một quốc gia, không có sự can thiệp từ bên ngoài. Trong khi đó, cuộc chiến tranh ở Việt Nam từ 1954 đến 1975 hoàn toàn không phù hợp với định nghĩa này. Sự thật lịch sử là sau Hiệp định Genève 1954, Mỹ đã công khai phá hoại hiệp định, dựng lên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới, thành “tiền đồn chống cộng” trong chiến lược toàn cầu của chủ nghĩa đế quốc.

Thực ra không phải đến khi Ngô Đình Diệm phế truất Bảo Đại lên làm Tổng thống thì Mỹ mới can dự vào tình hình Việt Nam. Trước đó, Mỹ là nước viện trợ nhiều nhất cho thực dân Pháp ở Đông Dương. Vào cuối năm 1950, Mỹ viện trợ cho Pháp ở Đông Dương 133 triệu USD và chuyển giao khối lượng lớn vũ khí, tàu chiến, máy bay chiến đấu, xe quân sự. Năm 1954, viện trợ của Mỹ cho Pháp ở Đông Dương lên tới 1 tỷ USD (chiếm 78% chi phí chiến tranh của Pháp ở Đông Dương).

Chính sử gia nổi tiếng người Mỹ Cecil B.Currey trong cuốn sách “Chiến thắng bằng mọi giá (Thiên tài quân sự Việt Nam: Đại tướng Võ Nguyên Giáp)” đã cho biết vào năm 1956, Allen Dulles, người đứng đầu của Cục Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) đã đệ trình lên Tổng thống Mỹ Eisenhower báo cáo tiên đoán nếu bầu cử ở Việt Nam diễn ra theo quy định của Hiệp định Genève thì “thắng lợi của Hồ Chí Minh sẽ như nước triều dâng không thể cản nổi”. Ngô Đình Diệm chỉ có một lối thoát là tuyên bố không thi hành Hiệp định Genève. Được Mỹ khuyến khích, Ngô Đình Diệm kiên quyết từ chối tuyển cử. Mỹ muốn có một chính phủ chống cộng tồn tại ở miền Nam Việt Nam, bất kể chính phủ đó có tôn trọng nền dân chủ hay không.

Con số thống kê chính thức của Mỹ cho thấy, trong 21 năm (từ năm 1954 - 1975), viện trợ của Mỹ cho miền Nam Việt Nam hơn 26 tỷ USD. Ngoài số tiền viện trợ trên cho chính quyền Sài Gòn, Mỹ đã trực tiếp đưa quân đội, vũ khí, các bộ máy quân sự, dân sự vào miền Nam. Nếu tính tất cả các loại chi phí, trong hơn 20 năm đó, Mỹ đã bỏ vào Việt Nam khoảng hơn 160 tỷ USD.

Tổng thống Mỹ Eisenhower trong nhiệm kỳ 1953-1961 trong diễn văn đọc ngày 4/8/1953 tại Seatle đã nói rõ: “Nếu chúng ta mất Đông Dương thì khối lượng thiếc và vonfram mà chúng ta đánh giá rất cao sẽ không còn thuộc về tay chúng ta nữa”. Tờ New York Times số ra ngày 21/10/1962 một lần nữa khẳng định về điều này: “Sự buôn bán và các sản phẩm của Đông Nam Á không phải là cần thiết đối với nền kinh tế Mỹ nhưng lại là rất quan trọng đối với chúng ta và các đồng minh của chúng ta”.

Một sự thật khác chứng minh sự phụ thuộc của chính quyền Sài Gòn vào sự viện trợ của bên ngoài. Quyết tâm rút khỏi cuộc chiến đau thương và sa lầy tại Việt Nam, khi quân đội Mỹ đã rút khỏi Việt Nam theo quy định của Hiệp định Paris, Quốc hội Hoa Kỳ thấy rằng tại sao phải cần thiết chi hàng tỷ USD cho đồng minh Nam Việt Nam trong khi chính nước Mỹ lại đang cần những đồng USD đó hơn bao giờ hết. Do đó, mặc dù các phái đoàn của Việt Nam Cộng hòa đã tích cực sang Hoa Kỳ để vận động Quốc hội Mỹ không cắt giảm viện trợ cho Nam Việt Nam nhưng Quốc hội Hoa Kỳ vẫn quyết định cắt giảm viện trợ cho Nam Việt Nam trong tài khóa 1974-1975 từ mức 1,4 tỷ USD xuống còn hơn 700 triệu USD. Tướng Mỹ Jhon Murey cho rằng “Nếu viện trợ còn 750 triệu USD, Sài Gòn chỉ còn khả năng bảo vệ một phần đất đai. Nếu xuống thấp nữa có nghĩa là xóa bỏ Việt Nam Cộng hòa”.

Điều đáng nói là chính những người bên kia chiến tuyến, trong đó ông Nguyễn Cao Kỳ, cựu Thủ tướng, Cựu Phó Tổng thống chính quyền Sài Gòn đã nói thật về thân phận nô lệ của chính quyền Sài Gòn: “Việt cộng gọi chúng tôi là những con rối, những con bù nhìn của người Mỹ. Nhưng rồi chính nhân dân Mỹ cũng gọi chúng tôi là những con bù nhìn của người Mỹ, chứ không phải là lãnh tụ chân chính của nhân dân Việt Nam”. Trả lời trong cuộc phỏng vấn Báo Thanh Niên, số Xuân Ất Dậu (năm 2005), ông Nguyễn Cao Kỳ cũng cho biết: “Mỹ lúc nào cũng đứng ra làm kép chính, chúng tôi không có quyền lực và vai trò gì quan trọng, vì vậy nhiều người cho đây là cuộc chiến tranh của người Mỹ và chúng tôi chỉ là những kẻ đánh thuê”.

Không thể bẻ cong lịch sử

Về bản chất của chính quyền Sài Gòn cần phải được nhìn nhận một cách khách quan. Đây không phải là một chính quyền dân tộc chân chính mà thực chất chỉ là bộ máy cai trị do Mỹ dựng lên, tồn tại hoàn toàn nhờ vào súng đạn và USD của Mỹ. Từ Ngô Đình Diệm đến Nguyễn Văn Thiệu, tất cả các đời tổng thống Sài Gòn đều do Washington chỉ định và bảo trợ. Trong khi đó, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là đại diện chân chính cho nhân dân miền Nam đã nhận được sự ủng hộ rộng rãi của các tầng lớp nhân dân, thể hiện qua các phong trào như Đồng khởi Bến Tre (1960), cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968) cho đến Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (1975). Sự ủng hộ của nhân dân Việt Nam cũng như sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế giới chính là minh chứng hùng hồn nhất cho tính chính nghĩa của cuộc đấu tranh vệ quốc chống các thế lực xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Một khía cạnh quan trọng khác là tính chất dân tộc và sự thống nhất ý chí của toàn thể nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến. Từ Bắc chí Nam, hàng chục triệu người như một đã đoàn kết dưới ngọn cờ của Đảng Cộng sản Việt Nam, coi việc đánh đuổi ngoại xâm, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là mục tiêu tối thượng.

Chỉ hơn 1 tháng sau thất bại ở Việt Nam, trên tờ “Sao và vạch” (Stars and Stripes), ngày 14/5/1975, Maxwell D. Taylor, Đại tướng quân đội, từng là Đại sứ Mỹ tại Nam Việt Nam đã thừa nhận rằng: “Tất cả chúng ta đều có phần của mình trong thất bại của Mỹ ở Việt Nam và chẳng có gì là tốt đẹp cả. Chúng ta không hề có một anh hùng nào trong cuộc chiến tranh này…”. Còn ông Henry Kissinger, người được đánh giá là một trong những “bộ óc” thông thái nhất trong lịch sử nước Mỹ, từng là Ngoại trưởng, cố vấn an ninh quốc gia của Tổng thống Mỹ từng thốt lên rằng “không thể giải thích nổi cái gì đó đã nhen lên trong dân tộc đó những ngọn lửa anh hùng và nghị lực như vậy”!

Cùng với đó là ý nghĩa quốc tế to lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Việt Nam khi ấy trở thành biểu tượng của phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới, là nguồn cổ vũ to lớn cho các dân tộc bị áp bức. Sự giúp đỡ về vật chất và tinh thần từ Liên Xô, Trung Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa anh em, cùng phong trào phản chiến rộng khắp ở chính nước Mỹ và phương Tây, là minh chứng hùng hồn cho tính chính nghĩa của cuộc chiến đấu vì độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, phong trào phản chiến tại Mỹ với những cuộc biểu tình quy mô lớn của sinh viên, trí thức, cựu chiến binh đã góp phần quan trọng buộc chính quyền Mỹ phải rút quân.

Việc cố tình gọi Chiến thắng 30/4 là kết quả của “nội chiến” thực chất là một thủ đoạn chính trị tinh vi nhằm phủ nhận thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam, xóa nhòa công lao lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây cũng là thủ đoạn để các thế lực thù địch gieo rắc sự hoài nghi, làm suy yếu sức mạnh đại đoàn kết dân tộc. Kỷ niệm ngày 30 tháng 4 hằng năm là dịp để mỗi người dân Việt Nam càng thêm tự hào về truyền thống đấu tranh kiên cường của cha ông, đồng thời kiên quyết bảo vệ chân lý lịch sử, bác bỏ mọi âm mưu xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Nhắc lại những điều trên không phải là để xới lại quá khứ đau thương mà để chúng ta thấy rõ tính chất của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đồng bào ta phải hi sinh biết bao máu xương mới giành được. Đó là sự thật khách quan, không thể vì bất cứ lý do gì đánh lận bản chất, xuyên tạc lịch sử. Chúng ta cũng hiểu rằng, trong giai đoạn cách mạng mới, thông điệp hôm nay là gác lại quá khứ, hướng tới tương lai, vì hoà bình, ổn định và phát triển. Kỷ niệm ngày 30/4 cũng là dịp để tôn vinh những giá trị bất diệt của lòng vị tha, của hòa bình, hòa giải và hàn gắn, của tinh thần gác lại quá khứ để hướng tới tương lai…

Chu Thắng – Trịnh Thúy 

    Du học sinh Việt Nam: Vững niềm tin, vượt thử thách - Bài 3: Phát huy vai trò du học sinh - Giải pháp và định hướng truyền thông tích cực (tiếp theo và hết)

    Thứ hai, 28/04/2025 - 10:00

    Hiện nay, trên không gian mạng tồn tại cả một “hệ sinh thái truyền thông phản động”, hoạt động bài bản, có tổ chức. Cần có giải pháp nào giúp du học sinh trở thành thành những “chiến sĩ” tiên phong, sẵn sàng đối mặt với âm mưu “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến", "tự chuyển hóa”?

    Bắt tay ngay từ hôm nay

    Trong dòng chảy của toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0, công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đang đứng trước những thách thức chưa từng có tiền lệ. Các thế lực thù địch không ngừng tinh vi hóa phương thức tuyên truyền chống phá, từ những bài viết xuyên tạc trên mạng xã hội đến các chiến dịch bôi nhọ trực diện trên truyền thông quốc tế. Cũng như sinh viên trong nước, du học sinh rất dễ bị ảnh hưởng bởi các thông tin xấu, độc do các thế lực chống phá phát tán, lưu hành, như: Chống phá tư tưởng của Đảng, xuyên tạc Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bóp méo lịch sử dân tộc, vu cáo lãnh đạo Đảng, Nhà nước; chia rẽ đoàn kết, thúc đẩy “tự diễn biến, tự chuyển hóa”; tuyên truyền bá lối sống ích kỷ, phá hoại văn hóa dân tộc… Để vô hiệu hóa âm mưu chống phá mà du học sinh là mục tiêu, giúp du học sinh trở thành chủ thể tiềm năng trong cuộc đấu tranh bảo vệ tư tưởng của Đảng, đòi hỏi những giải pháp đồng bộ và cụ thể và phải được bắt tay triển khai thực hiện ngay từ hôm nay.

    Du học sinh Việt Nam: Vững niềm tin, vượt thử thách - Bài 3: Phát huy vai trò du học sinh - Giải pháp và định hướng truyền thông tích cực (tiếp theo và hết)
    Sau khi phát biểu chính sách tại Đại học Victoria trong chương trình thăm chính thức New Zealand (tháng 3-2024), Thủ tướng Phạm Minh Chính chụp ảnh lưu niệm với du học sinh tại đây.

    Trước hết, theo chúng tôi, công tác giáo dục chính trị cần được đổi mới triệt để ngay từ trong nước, bắt đầu từ gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội. Những bài học về Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh không nên chỉ là những trang lý thuyết khô khan, mà phải được gắn với thực tiễn sống động, dễ hiểu và gần gũi với thế hệ trẻ. Hãy kể cho họ câu chuyện về cách Đảng lãnh đạo nhân dân vượt qua đại dịch Covid-19, biến Việt Nam thành điểm sáng toàn cầu về đoàn kết và nhân ái - một minh chứng rõ nét cho thấy con đường xã hội chủ nghĩa không phải là lý thuyết suông mà là sức mạnh thực tế. Hãy phân tích những thành tựu kinh tế - xã hội, như việc Việt Nam ước đạt tăng trưởng GDP 7,09% trong năm 2024 (2) hay Việt Nam lọt vào nhóm 32 nước có quy mô kinh tế lớn nhất thế giới, để họ hiểu rằng đất nước đang vươn lên mạnh mẽ…

    Tiếp theo, trong thời đại số, truyền thông trên các nền tảng mạng xã hội không chỉ là nơi lan tỏa giá trị tích cực, mà còn có nguy cơ tạo nên những “lối tắt nhận thức”, do vậy, kỹ năng phản biện và chọn lọc thông tin là “vũ khí” sống còn. Chính vì thế, cần đưa môn học “Kỹ năng bảo vệ tư tưởng trong thời đại số” vào chương trình giáo dục phổ thông, với nội dung cụ thể như cách nhận diện tin giả trên mạng xã hội, phương pháp đối thoại khi bị chất vấn về những vấn đề như dân chủ hay nhân quyền. Chẳng hạn, nếu một bạn du học sinh được hỏi: “Tại sao Việt Nam không có đa đảng?”, thì bạn ấy cần biết cách trả lời: “Đa đảng không phải là tiêu chuẩn duy nhất của dân chủ. Ở Việt Nam, Đảng Cộng sản là lực lượng đại diện cho ý chí của toàn dân, và dân chủ được thể hiện qua sự tham gia của nhân dân vào mọi quyết sách lớn”.

    Bên cạnh đó, chúng ta cần học tập kinh nghiệm của các nước trong việc xây dựng cộng đồng gắn kết, hỗ trợ du học sinh bảo vệ giá trị truyền thống dân tộc, quảng bá, lan tỏa hình ảnh quốc gia. Hiện nay, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc đều có các mạng lưới du học sinh được tổ chức với mục tiêu này. Du học sinh trước khi lên đường ra nước ngoài học tập, cần được trang bị tâm thế “đại sứ Việt Nam”. Một chương trình tập huấn ngắn ngày, chẳng hạn như “Hành trang du học” do Bộ Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phối hợp tổ chức có thể truyền cảm hứng, giúp các du học sinh hiểu rằng mỗi lời nói, hành động của mình không chỉ đại diện cho cá nhân mà còn là hình ảnh của đất nước. Mặt khác, trên mạng xã hội, Đoàn Thanh niên cần xây dựng cộng đồng trực tuyến dành riêng cho lưu học sinh, như nhóm “VietYouth Global” (Tuổi trẻ Việt Nam toàn cầu), do các du học sinh là lãnh đạo các Hội du học sinh tại các nước điều phối. Hoạt động theo mô hình “chiến sĩ số”, nhóm này sẽ đăng tải các video ngắn, ví dụ như: “5 phút sự thật về Việt Nam”. Khi một bài viết xuyên tạc xuất hiện, các “chiến sĩ số” sẽ phản ứng tức thì để cung cấp thông tin chính thống. Với “lá chắn” tư tưởng ấy, du học sinh sẽ tự tin bước vào thế giới mà không sợ bị cuốn theo những cám dỗ lệch lạc hay luận điệu xuyên tạc.

    Một vấn đề mang tính then chốt là Hội Sinh viên Việt Nam ở nước ngoài cần được củng cố, trở thành cầu nối chặt chẽ giữa du học sinh và Tổ quốc. Chẳng hạn, Hội Sinh viên Việt Nam tại Nhật Bản có thể tổ chức “Diễn đàn Thanh niên Việt” định kỳ mỗi quý, mời các chuyên gia từ Việt Nam chia sẻ về vai trò của tuổi trẻ trong bảo vệ chủ quyền quốc gia, hay thảo luận, tọa đàm về chủ đề “Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam”, với mục tiêu đưa nước ta trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045, trở thành nước phát triển… Những sự kiện này không chỉ giúp du học sinh cập nhật tình hình trong nước mà còn tạo điểm tựa tinh thần, giảm nguy cơ bị các thế lực thù địch lôi kéo.

    Đặc biệt, Bộ Ngoại giao cần lập một cổng thông tin điện tử dành riêng cho du học sinh, cung cấp bản tin hằng tuần về thành tựu đất nước, đường dây nóng hỗ trợ khi du học sinh gặp khó khăn về tư tưởng hay pháp lý. Đây là giải pháp thiết thực, hữu hiệu, bởi khi được đồng hành, sẻ chia, du học sinh sẽ luôn cảm thấy Tổ quốc ở bên mình dù ở bất kỳ đâu.

    Hãy tin tưởng và hành động

    Truyền thông là mặt trận then chốt để định hình hình ảnh du học sinh và lan tỏa sức mạnh tư tưởng của Đảng. Thực tế, thông tin xấu độc trên mạng có thể gây lệch lạc hành vi và suy nghĩ, nhất là trong môi trường học đường quốc tế - nơi sự giám sát của nhà trường khá lỏng lẻo. Đây là lý do các cơ quan truyền thông trong nước cần đồng hành với du học sinh không chỉ bằng các bản tin tuyên truyền đơn điệu, mà bằng phóng sự, podcast, video ngắn, có nội dung tốt, giọng điệu trẻ trung, gần với tâm lý người trẻ. Trong nước, báo chí cần tăng cường tôn vinh những tấm gương du học sinh yêu nước, thay vì chỉ tập trung vào hiện tượng “chảy máu chất xám” hay vài trường hợp tiêu cực đơn lẻ. Một phóng sự kể câu chuyện về Siêu Nguyễn, chàng trai trẻ - cựu học sinh trường Trung học phổ thông chuyên Amsterdam Hà Nội, cựu du học sinh tại Mỹ, vừa được tạp chí Forbes bầu chọn trong danh sách “Top 30 Under 30 North America” năm 2025, vinh danh 30 tài năng dưới 30 tuổi ở khu vực Bắc Mỹ truyền cảm hứng, có ảnh hưởng tích cực trên nhiều lĩnh vực; hay một phỏng vấn ngắn trên truyền hình, mà nhân vật được phỏng vấn là Tiến sĩ Nguyễn Thành Đạt, cựu du học sinh tại Đại học La Trobe (Australia), dù có nhiều cơ hội ở lại nước ngoài nhưng vẫn chọn quay về quê hương (Đà Nẵng) cống hiến, sẽ có sức mạnh tác động rất lớn đến tâm tư, tình cảm của các du học sinh.

    Tất nhiên, không phải du học sinh nào cũng về nước ngay sau khi tốt nghiệp, và cần có quan điểm nhất quán rằng, đóng góp cho Tổ quốc không nên bị giới hạn bởi địa lý. Theo chúng tôi, với những du học sinh lựa chọn ở lại nước ngoài làm việc, cần xây dựng cơ chế để họ được đóng góp cho Tổ quốc từ xa. Một mô hình khả thi là “Mạng lưới trí thức trẻ Việt Nam toàn cầu”, do Bộ Khoa học và Công nghệ quản lý, cho phép du học sinh tham gia tư vấn chính sách, hợp tác nghiên cứu, hay làm cầu nối với các đối tác quốc tế. Chúng tôi cũng đề xuất tổ chức giải thưởng “Du học sinh tiêu biểu” do Chính phủ trao tặng hằng năm, vinh danh những cá nhân có đóng góp xuất sắc. Việc tôn vinh kịp thời sẽ khích lệ tinh thần yêu nước, biến du học sinh thành những “đại sứ tư tưởng” bền vững của Việt Nam…

    Du học sinh Việt Nam không chỉ là “nguồn vốn” quý về tri thức mà còn là lực lượng xung kích trên mặt trận tư tưởng của Đảng trong thời đại mới. Với hành trang tư tưởng vững vàng từ giáo dục, điểm tựa chắc chắn từ tổ chức Đảng và Đoàn, tiếng nói mạnh mẽ từ truyền thông, cùng sự gắn kết lâu dài sau tốt nghiệp, du học sinh sẽ trở thành “phòng tuyến” bất khả xâm phạm, giữ trọn niềm tin vào con đường mà Đảng và nhân dân ta đã chọn. Để biến tiềm năng ấy thành hiện thực, Đảng, Nhà nước, Chính phủ hãy tin tưởng và hành động, để mỗi du học sinh không chỉ là một người học giỏi, mà còn là một “chiến sĩ” kiên cường, làm rạng danh trí tuệ Việt Nam trên trường quốc tế, giữ vững trận địa tư tưởng trong mọi thử thách của thời đại. Làm được như vậy, du học sinh Việt Nam cùng ngọn lửa lý tưởng trong mình sẽ luôn cháy sáng, bất kể họ ở bất kỳ phương trời nào.

    THÁI BÌNH

    ------------------

    Chú giải dữ liệu

    (1) Nguồn: Báo Công an nhân dân điện tử ngày 06/01/2025 (https://cand.com.vn/Chong-dien-bien-hoa-binh/lat-tay-nhung-chieu-tro-xuyen-tac-chong-pha-tren-khong-gian-mang-i756682/?utm_source=chatgpt.com)

    (2): Nguồn: Báo Quân đội nhân dân điện tử ngày 06/01/2025 (https://www.qdnd.vn/kinh-te/tin-tuc/gdp-cua-viet-nam-uoc-tang-7-09-trong-nam-2024-810242)