Nâng cao cảnh giác trước âm mưu của “chủ nghĩa đế quốc văn hóa” đối với cách mạng Việt Nam

Thứ hai, 14/07/2025 - 05:29

Nhận thấy khó có thể khuất phục niềm tin và ý chí của người dân Việt Nam trên mặt trận chính trị, kinh tế, quân sự, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch nham hiểm sử dụng mặt trận văn hóa, với các thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, luôn che đậy, thay đổi hình thức nhằm truyền bá văn hóa ngoại lai, âm thầm tác động, gây ảnh hưởng, thâm nhập nhằm từng bước thay đổi suy nghĩ, tình cảm, tư tưởng của một bộ phận người dân Việt Nam, nhất là giới trẻ. Đó là mưu đồ sâu xa của “chủ nghĩa đế quốc văn hóa” hiện nay.

Âm mưu thâm độc của “chủ nghĩa đế quốc văn hóa”

Trong sự biến đổi và phát triển ở cấp độ toàn cầu, chủ nghĩa tư bản đã sử dụng văn hóa như công cụ, phương tiện và vũ khí giúp quốc gia thống trị mở rộng quyền lực và ảnh hưởng đối với quốc gia “thuộc địa kiểu mới”. Văn hóa được xem là một trong 5 mặt trận then chốt (cùng với kinh tế, chính trị, quân sự và truyền thông) định hình bức tranh tổng thể của chủ nghĩa đế quốc toàn cầu. Trong bối cảnh hiện nay, chủ nghĩa đế quốc dai dẳng thực hiện âm mưu “xâm lăng văn hoá”, đồng hoá văn hóa bản địa, nhằm làm thất bại ý chí của quốc gia-dân tộc yếu thế, quốc gia-dân tộc không đi theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa.

Nâng cao cảnh giác trước âm mưu của “chủ nghĩa đế quốc văn hóa” đối với cách mạng Việt Nam
Minh họa: PHẠM HÀ 

"Chủ nghĩa đế quốc văn hóa" thường sử dụng sức mạnh của cải, quyền lực truyền thông và bạo lực để thực hiện bá quyền văn hóa, “xâm lăng văn hóa”, tạo điều kiện thuận lợi cho âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ các quốc gia khác, hướng tới “chiến thắng không có chiến tranh” và mưu đồ hoàn thành chiến lược “bá chủ toàn cầu” của chủ nghĩa tư bản.

Đặc trưng của "chủ nghĩa đế quốc văn hóa" là việc các nước đế quốc xuất khẩu văn hóa và các mô hình tư bản, bao gồm cả kinh tế, chính trị và giáo dục sang các nước đang phát triển, biến những nước này trở thành thị trường tiêu thụ sản phẩm văn hóa ngoại lai của tư bản. Các luồng văn hoá ngoại lai này không ngừng mở rộng, thâm nhập sâu vào đời sống xã hội, dần thay thế các giá trị và tư tưởng văn hóa bản địa, từ đó gây ảnh hưởng và định hình các giá trị, tư tưởng văn hóa tại các nước đang phát triển. Mục tiêu cuối cùng của "chủ nghĩa đế quốc văn hóa" là quyền thống trị tư tưởng và độc quyền văn hóa toàn cầu.

Mũi nhọn của “chủ nghĩa đế quốc văn hóa” đối với Việt Nam

Sau gần 40 năm đổi mới và hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập quốc tế và bối cảnh thời đại toàn cầu hóa, Việt Nam phải đối mặt với những nguy cơ, thách thức không nhỏ, nhất là chiến lược “diễn biến hòa bình” của các lực lượng thù địch, phản động không ngừng chống phá sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Nhận thấy khó có thể khuất phục niềm tin và ý chí của người dân Việt Nam trên mặt trận chính trị, kinh tế, quân sự, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch nham hiểm sử dụng mặt trận văn hóa, với các thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, luôn che đậy, thay đổi hình thức truyền bá văn hóa ngoại lai, âm thầm tác động, gây ảnh hưởng, thâm nhập và từng bước thay đổi suy nghĩ, tình cảm, tư tưởng của một bộ phận người dân Việt Nam, nhất là giới trẻ.

Đến nay, "chủ nghĩa đế quốc văn hóa" kết hợp chặt chẽ với "chủ nghĩa đế quốc truyền thông" từng bước tiếp cận, xâm nhập tinh vi vào xã hội Việt Nam, tạo ra sự ảnh hưởng rõ nét đối với văn hóa bản địa. Mặc dù, dân tộc Việt Nam có truyền thống văn hóa lâu đời, có sức đề kháng cao trước âm mưu “đồng hóa” văn hóa, nhân dân ta có tinh thần cảnh giác, tự vệ, tự cường, nhưng ở mức độ nhóm cộng đồng/nhóm xã hội, văn hóa ngoại lai của chủ nghĩa đế quốc đã tác động đáng kể vào đời sống xã hội, gây ra những thay đổi và hệ lụy không nhỏ đối với văn hóa truyền thống của người Việt.

Trong khi đó, nhiều phương tiện truyền thông đại chúng của phương Tây ra sức tuyên truyền, phóng đại về giá trị văn hóa phương Tây, thông qua những mỹ từ “tự do, dân chủ”, hay được đóng gói trong những miếng bánh “nhân quyền”, “tự do ngôn luận”, “tự do báo chí” mang tính áp đặt, thiên vị và không phù hợp với đặc điểm truyền thống, lịch sử, văn hóa và thể chế chính trị ở Việt Nam. Họ muốn biến Việt Nam thành thị trường tiêu thụ sản phẩm văn hóa, phổ biến rộng rãi hệ tư tưởng tư bản chủ nghĩa, tiêm nhiễm lối sống tiêu dùng, cá nhân, thực dụng; đồng thời gieo rắc văn hóa độc hại, làm cho văn hóa Việt Nam trở nên lai căng, mất bản sắc và dần trở thành “thuộc địa văn hóa”.

Tăng cường sức mạnh nội sinh để phòng, chống “xâm lăng văn hóa”

Tại Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Văn hóa là hồn cốt của dân tộc. Văn hóa còn thì dân tộc còn”. Bảo vệ giá trị văn hóa cũng là cách bảo vệ nền tảng tư tưởng, tinh thần cho xã hội, giúp giữ gìn chủ quyền lãnh thổ quốc gia trên mặt trận văn hóa.

Để đấu tranh phòng, chống “chủ nghĩa đế quốc văn hóa”, làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch, trước hết, chúng ta cần thấm nhuần chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về bảo vệ, xây dựng và phát triển văn hóa, trọng tâm là Nghị quyết Trung ương 5, khóa VIII về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Chỉ thị số 34-CT/TW của Ban Bí thư ngày 17-4-2009 về tăng cường cuộc đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa; Chỉ thị số 46-CT/TW ngày 27-7-2010 của Ban Bí thư về chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại gây hủy hoại đạo đức xã hội; Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9-6-2014 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị văn hóa toàn quốc năm 2021.

Trong xu thế hội nhập quốc tế, chúng ta cần đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam, biến sản phẩm văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc thành sản phẩm đặc sắc phục vụ du lịch, thương mại và dịch vụ, mang lại nguồn lực cho công cuộc phát triển đất nước, làm cho văn hóa thực sự trở thành nguồn lực, động lực nội sinh của sự phát triển bền vững đất nước.

Hiện nay, công nghiệp văn hóa được xem là lĩnh vực công nghiệp đặc trưng của thế kỷ 21, là lĩnh vực kinh tế mũi nhọn tại nhiều quốc gia trên thế giới. Phát triển công nghiệp văn hóa đã trở thành xu thế quan trọng trong chính sách văn hóa của nhiều quốc gia, nhằm bảo vệ các giá trị văn hóa trong nước, chống lại sự “xâm lăng văn hóa” ngoại lai, đồng thời là vũ khí gia tăng “sức mạnh mềm” của quốc gia. Phát triển công nghiệp văn hóa và phát huy, lan tỏa hệ giá trị văn hóa Việt Nam là yêu cầu cấp thiết hiện nay, là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị, là trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền, cơ quan chức năng, đặc biệt là ngành văn hóa.

Cùng với đó, chúng ta cần chủ động, tích cực nhận diện, đấu tranh chống lại âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch trên mặt trận tư tưởng, văn hóa. Một mặt, cần sử dụng báo chí cách mạng là lực lượng tiên phong, mũi nhọn trong phản bác, đấu tranh phòng, chống “xâm lăng văn hóa”; chủ động tiến công vào các luồng thông tin xấu độc đối với văn hoá truyền thống và văn hóa cách mạng Việt Nam; mặt khác, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, tăng cường giám sát, phản biện xã hội, tranh thủ sự đồng tình của dư luận nhằm phê phán thói sùng ngoại, lai căng, dị hợm của một bộ phận người dân, nhất là giới trẻ.

Giải pháp căn cơ là thường xuyên giáo dục, bồi đắp, khơi dậy tinh thần yêu nước, đoàn kết cộng đồng, ý chí tự cường, tự hào dân tộc cho mỗi người dân và cộng đồng các dân tộc Việt Nam; tăng cường thực hiện hiệu quả nhiệm vụ gìn giữ và phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể, các di tích lịch sử văn hóa; bảo tồn, phát huy và lan toả các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc ra thế giới; tích cực bồi dưỡng, giáo dục về niềm tin, niềm tự hào, tự tôn về bản sắc văn hóa dân tộc, chăm lo xây dựng môi trường văn hóa, nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho người dân và thế hệ trẻ.

Tiến sĩ NGUYỄN MINH TUẤN (Trường Đại học Văn hóa Nghệ thuật Quân đội) 

Nhận diện các chiến dịch tuyên truyền chống phá trước Đại hội XIV của Đảng

Thứ Hai, 14/07/2025, 07:36

Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XIV của Đảng là sự kiện chính trị có ý nghĩa trọng đại của đất nước. Trước Đại hội XIV của Đảng, việc sắp xếp, tinh gọn tổ chức, bộ máy trong hệ thống chính trị được triển khai đồng bộ, khẩn trương nhằm tạo động lực để đất nước bước vào kỷ nguyên mới.

Thế nhưng, các thế lực thù địch, các tổ chức phản động lưu vong, số đối tượng chống đối coi đây là “thời điểm vàng” để đẩy mạnh thực hiện các chiến dịch tuyên truyền với những thủ đoạn nguy hiểm trên các phương tiện thông tin, nhất là không gian mạng.

Gia tăng các chiến dịch tuyên truyền chống phá trên không gian mạng

Các đối tượng bôi nhọ, xuyên tạc việc sắp xếp, tinh gọn bộ máy; nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng; công tác nhân sự trước Đại hội XIV… Hoạt động của các thế lực thù địch không còn đơn lẻ mà được tiến hành ồ ạt theo kiểu chiến dịch, phủ sóng trên các trang web, nền tảng mạng xã hội ở nước ngoài.

Để gia tăng hiệu quả, quy mô, mức độ tác động của “chiến dịch tuyên truyền” trên không gian mạng, các thế lực thù địch cùng lúc triển khai nhiều lực lượng, phương tiện, tuyên truyền trên các nền tảng Tik Tok, Facebook, Youtobe…, đồng loạt đưa một chủ đề trong một khoảng thời gian nhất định.

Điển hình như chiến dịch tuyên truyền đòi xóa bỏ Điều 4, Hiến pháp 2013 khi Đảng, Nhà nước ta tiến hành lấy ý kiến nhân dân về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp; chiến dịch kêu gọi tẩy chay Đại hội XIV Đảng Cộng sản Việt Nam; chiến dịch bàn luận nhân sự Đại hội XIV…

Điều dễ nhận thấy là những tổ chức, cá nhân kêu gọi “chiến dịch tuyên truyền” trên đều đến từ các tổ chức phản động lưu vong như tổ chức Việt Tân, “Đảng Dân chủ nhân dân”, “Đảng Vì dân”, “Tập hợp dân chủ đa nguyên”, “Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời”…

Hỗ trợ chiến dịch của các tổ chức này là những mạng truyền thông nước ngoài thiếu thiện chí với Việt Nam như RFI tiếng Việt, RFA tiếng Việt; các tổ chức quốc tế, NGO nước ngoài thường xuyên có những hoạt động xuyên tạc, vu cáo Việt Nam về nhân quyền như tổ chức Theo dõi nhân quyền - HRW, Ân xá quốc tế - AI, Phóng viên không biên giới - RSF….

Bên cạnh đó, các “chiến dịch tuyên truyền” chống phá Đại hội XIV của Đảng còn được tiến hành mạnh mẽ, quyết liệt với sự phối kết hợp của lực lượng chống đối cả trong và ngoài nước, nhất là số dân biểu cực hữu trong chính giới một số nước phương Tây cùng số đối tượng chống đối, bất mãn trong nước.

Đầu tiên, có thể nhận thấy hoạt động chống phá thông qua các “chiến dịch tuyên truyền” trên không gian mạng được hướng đến công tác nhân sự và thông tin liên quan đến lãnh đạo Đảng, Nhà nước trước thềm Đại hội XIV.

Lợi dụng tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống tham nhũng, tiêu cực của một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là những vụ việc liên quan cán bộ cấp cao ở Trung ương và địa phương, chúng lấy đó là một cái cớ quan trọng để thổi phồng, quy chụp tham nhũng, tiêu cực là tình trạng “phổ biến”, là “bản chất” của Đảng.

Vì thế, chúng mỉa mai rằng, ai là nhân sự đại hội, ai vào tứ trụ, ai vào Trung ương thì “cũng như nhau mà thôi”. Cùng với đó, chúng còn tìm mọi cách đơm đặt, chế tạo các video clip bằng cách ghép hình ảnh, âm thanh làm nhiễu loạn, lẫn lộn thật - giả; tán phát đơn thư nặc danh hòng công kích, bôi nhọ danh dự, uy tín của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, những cán bộ, đảng viên trong diện quy hoạch nhân sự cho đại hội...

Nội dung của các “chiến dịch tuyên truyền” thường hướng theo một chủ đề thống nhất như: Tuyên truyền chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng; tuyên truyền chống phá vai trò lãnh đạo của Đảng, đòi xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp 2013; xuyên tạc cương lĩnh, dự thảo các văn kiện Đại hội; bôi nhọ nguyên tắc tổ chức, vấn đề nhân sự Đại hội XIV… Chẳng hạn, trong quá trình chuẩn bị cho Đại hội XIV của Đảng, việc Trung ương Đảng công bố dự thảo văn kiện để lấy ý kiến từ cơ sở là một bước quan trọng, thể hiện tính dân chủ, cầu thị.

Tuy nhiên, lợi dụng thời điểm này, các thế lực thù địch đã tăng cường phát tán những luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật bằng việc tung ra nhiều luận điệu sai lệch như “văn kiện chỉ ca ngợi thành tích, không nhìn nhận hạn chế”; “các mục tiêu phát triển không thực tế, viển vông, thiếu cơ sở khoa học”; “Đảng không minh bạch trong công khai nội dung văn kiện”; “chính sách chỉ phục vụ lợi ích nhóm, không đại diện ý chí nhân dân”; “dự thảo các văn kiện của Đại hội XIV chỉ mang tính hình thức, thiếu tính thực tiễn, không phản ánh đúng nguyện vọng của người dân”… Từ đó, chúng kêu gọi người dân tẩy chay văn kiện, đòi “sửa từ gốc” như thay đổi thể chế, từ bỏ con đường đi lên CNXH của đất nước…

Đối với công tác nhân sự của Đại hội, các trang mạng của tổ chức phản động lưu vong, đài báo nước ngoài đã đồng loạt tán phát hàng chục bài viết có nội dung xuyên tạc về công tác nhân sự Đại hội XIV, bịa đặt “nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đang hình thành phe cánh để tranh giành, đấu đá quyền lực; vu cáo “lợi ích nhóm”, “thanh trừng phe phái” trong công tác nhân sự; cho rằng vấn đề nhân sự Đại hội Đảng bị một số thế lực bên ngoài can thiệp, từ đó rêu rao “không thể khách quan”, “không công bằng”, “chỉ để nhằm hợp thức hóa việc sắp xếp ghế, đấu đá, tranh giành quyền lực”, “chỉ là màn kịch đấu đá trong nội bộ các tổ chức đảng, tạo phe cánh, tạo thế lực”…

Các thế lực thù địch, tổ chức phản động lưu vong cũng thông qua các “chiến dịch tuyên truyền” để dựng lên những “ngọn cờ” dưới vỏ bọc những người có “tâm huyết” với vận mệnh của đất nước, mượn danh “tiếng nói”, “nguyện vọng” của đa số dân chúng để “góp ý”, “kiến nghị” với Đảng, Nhà nước. Đây là một trong những âm mưu xảo trá, làm cho môi trường thông tin xã hội nhiễu loạn, khiến người dân không phân biệt được đúng - sai, trắng - đen, thực - ảo, thật - giả lẫn lộn; gây tâm lý hoang mang, hoài nghi, mất tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước trước thềm Đại hội XIV.

Như vậy, luận điệu chống phá thông qua các “chiến dịch tuyên truyền” trước thềm Đại hội Đảng XIV như trên dù không có gì mới nhưng lại được các thế lực thù địch, phản động khéo léo ngụy tạo với nhiều thủ đoạn nham hiểm, vừa trực diện trắng trợn, vừa che giấu úp mở, gieo sự nghi hoặc với người đọc, người nghe, người xem. Càng đến gần đại hội Đảng, sự chống phá của chúng càng dồn dập hơn, liều lượng tăng cao.

Tăng cường thông tin chính thống, hạn chế khoảng trống thông tin

Hơn 95 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã vượt qua biết bao khó khăn, gian khổ, hy sinh, mất mát để giành những thắng lợi vẻ vang, vĩ đại. Đặc biệt, sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, trở thành quốc gia đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội khu vực Đông Nam Á và thế giới.

Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá, bị bao vây, cô lập, đến nay Đảng ta đã có quan hệ với trên 150 đảng ở 115 quốc gia trên thế giới. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia trên thế giới. Tính đến ngày 16/5/2025, Việt Nam có quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện với 13 quốc gia là Trung Quốc, Liên bang Nga, Ấn Độ, Hàn Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Australia, Pháp, Malaysia, New Zealand, Indonesia, Singapore và Thái Lan.

Ngoài ra, Việt Nam đã đăng cai tổ chức nhiều sự kiện có tầm vóc lớn, được thế giới quan tâm như Hội nghị cấp cao APEC 2006, 2017 (trong tương lai là 2027) hay Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều 2019. Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, quốc phòng, an ninh vững chắc, hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại; đảm nhiệm trọng trách, phát huy tích cực vai trò tại nhiều tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng.

Lịch sử là một dòng chảy liên tục. Ngày nay, khi cách mạng chuyển sang một giai đoạn mới, sứ mệnh của Đảng cũng rất nặng nề, đòi hỏi Đảng không ngừng đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực cầm quyền.

Thế giới đang trong giai đoạn thay đổi có tính thời đại, định hình trật tự, cục diện mới. Xu thế hợp tác, phát triển là chủ đạo trong quan hệ quốc tế song cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, các trung tâm quyền lực tiếp tục diễn biến phức tạp, ngày càng gay gắt hơn trên các không gian truyền thống và phi truyền thống. Xung đột, chiến tranh diễn ra ở nhiều khu vực, không loại trừ nguy cơ lan rộng. Sự phát triển, chạy đua, cạnh tranh về khoa học kỹ thuật và công nghệ gây ra những biến đổi sâu sắc, đã và đang làm thay đổi phương thức hoạt động, tổ chức, cách thức tiến hành chiến tranh, can dự, can thiệp của các nước.

Xu hướng vận động của tình hình thế giới tạo ra cơ hội để Việt Nam đạt mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo tiền đề vững chắc đạt mục tiêu 100 năm thành lập nước nhưng cũng phải đối mặt với những thách thức trong giữ vững độc lập, tự chủ, từ đó tác động trực tiếp, thách thức đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

Với ý nghĩa đó, Đại hội Đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025-2030 tiến tới đại hội toàn quốc lần thứ XIV của Đảng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Để chuẩn bị cho sự kiện quan trọng này, Tổng Bí thư Tô Lâm đã có bài viết với tiêu đề “Tổ chức tốt Đại hội Đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025-2030”.

Tổng Bí thư nhấn mạnh “Đây không chỉ là đợt sinh hoạt chính trị to lớn, sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân mà còn là tiền đề để tổ chức thành công Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Cao hơn, chuỗi sự kiện này là một trong những yếu tố then chốt tạo nền tảng chính trị vững chắc đưa đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển, giàu mạnh, phồn vinh, thịnh vượng, sánh vai với các cường quốc năm châu như tâm nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn vàn kính yêu và ước vọng của toàn dân tộc”.

Các “chiến dịch tuyên truyền” chống phá Đại hội Đảng XIV của các thế lực thù địch, các tổ chức phản động lưu vong thời gian qua không chỉ tạo ra sự nhiễu loạn thông tin, gây ra những hoài nghi, hoang mang, mất niềm tin trong một bộ phận quần chúng, cán bộ, đảng viên mà còn tác động, ảnh hưởng xấu tới tình hình an ninh, trật tự.

Từ nay đến khi diễn ra Đại hội XIV của Đảng, các thế lực thù địch, đối tượng phản động, cơ hội chính trị, bất mãn sẽ càng đẩy mạnh thực hiện các “chiến dịch tuyên truyền” trên không gian mạng. Tình hình đó đòi hỏi chúng ta cần phải nâng cao tinh thần cảnh giác, gia tăng sức “đề kháng” và khả năng “miễn dịch” cho các tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.

Các cơ quan chức năng cần chủ động cung cấp thông tin kịp thời, chính xác, khách quan, đúng định hướng để phòng, chống thông tin xấu, độc trên internet, mạng xã hội. Cơ quan chức năng cần chủ động cung cấp thông tin liên quan đại hội, nhất là công tác nhân sự bởi thông tin càng cởi mở thì sự lan toả càng mạnh mẽ, kết nối thông suốt, càng có điều kiện để phòng, chống tin giả, tin xấu độc, ngăn ngừa khoảng trống thông tin.

Cùng với đó là việc xử lý hành vi lợi dụng “dân chủ”, “nhân quyền”, “tự do ngôn luận” để phát tán tài liệu vu cáo, bôi nhọ cán bộ, đảng viên, xuyên tạc, chống phá đại hội đảng các cấp và Đại hội XIV của Đảng.

Liêm Chính - Bình Nguyên

    Ngày: Tháng Bảy 10, 2025 

    Chính quyền địa phương 2 cấp và sự nỗ lực đồng bộ của cả hệ thống chính trị là không thể phủ nhận

    Hoàng Anh Quân

    Bộ máy chính quyền địa phương 2 cấp trên cả nước đi vào hoạt động (từ ngày 1/7/2025 đến nay vừa tròn 10 ngày), với những kết quả khả quan được ghi nhận (đảm bảo sự thuận lợi, hanh thông, nhanh gọn, sự vận hành thông suốt của các cơ quan chức năng, thể hiện rõ sự gần dân, sát dân, phục vụ người dân được tốt hơn…) đã chứng minh rằng: Việc tổ chức, vận hành chính quyền địa phương hai cấp (tỉnh và xã ) thay cho 3 cấp đã kéo dài bao năm nay (tỉnh, huyện và xã) ở Việt Nam là kết quả của một chủ trương đúng, hợp lòng Dân, đảm bảo tính khoa học, chặt chẽ, đáp ứng yêu cầu của đất nước trong kỷ nguyên vươn mình, chứ đó không phải là “việc làm” chủ quan, nôn nóng, vội vàng, chụp giật, không theo quy định, nhiều rủi ro, rối loạn, cải cách nửa vời, gây hoang mang trong xã hội, vì lợi ích cá nhân, do nhóm lợi ích thao túng… để tạo dấu ấn cá nhân, để cá nhân hoá quyền lực như các phần tử bất mãn, cơ hội, phản động, thù địch xuyên tạc. Thực tế cho thấy là:

    1. Tổ chức và vận hành bộ máy chính quyền địa phương 2 cấp là hợp hiến, hợp pháp, hợp ý Đảng, hợp lòng Dân.

    Chủ trương này được triển khai thực hiện theo đúng tinh thần Kết luận số 126-KL/TW về “Một số nội dung, nhiệm vụ tiếp tục sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị năm 2025”, Kết luận 127-KL/TW về “Triển khai nghiên cứu, đề xuất tiếp tục sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị“,  Nghị quyết số 60-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII “5. Cơ bản thống nhất với các nội dung đề xuất của Bộ Chính trị và Đề án về phương án sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh, không tổ chức cấp huyện, sáp nhập cấp xã và xây dựng mô hình tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp…” và theo Điều 110 của Hiến pháp (sửa đổi): “Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức thành hai cấp, gồm tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và các đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương do luật định. Đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập” cũng như Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi) được Quốc hội thông qua ngày 16/6/2025; đồng thời được cả hệ thống chính trị và nhân dân tin tưởng, ủng hộ.

    Việc tổ chức và vận hành bộ máy chính quyền địa phương 2 cấp trên thực tế không chỉ bảo đảm sự phân định rõ, không trùng lắp, chồng chéo về nhiệm vụ, thẩm quyền của từng cấp chính quyền, mà còn phù hợp với mô hình quản trị địa phương hiện đại (tinh,  gọn, hiệu lực, hiệu quả, gần dân, sát dân, phục vụ nhân dân tốt hơn), góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu năng hoạt động của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Vì thế, vận hành bộ máy chính quyền địa phương 2 cấp ở Việt Nam không chỉ có ý nghĩa như một bước ngoặt trọng đại, mang tính lịch sử, mà còn khẳng định thông điệp về chủ trương quyết liệt, không chùn bước – quyết tâm triển khai nhanh, gọn – biện pháp cải cách mạnh mẽ, thực chất của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng đầu là Tổng Bí thư Tô Lâm.

    2. Tổ chức, vận hành bộ máy chính quyền địa phương 2 cấp là quyết định cải cách nhanh, gọn, dứt khoát và sự nỗ lực đồng bộ của cả hệ thống chính trị.

    Sự tổ chức, vận hành của mô hình chính quyền địa phương 2 cấp phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước, của thời đại cho thấy ý Đảng đã hợp lòng Dân khi đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được xây dựng và thực hiện trên tinh thần nhất quán: Lấy dân làm gốc, dân là chủ, dân làm chủ, người dân là trung tâm của công cuộc đổi mới. Đó cũng chính là đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, trước hết, vì nhân dân phục vụ, lấy sự hài lòng của người dân làm thước đo cho việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng và tư duy quản trị quốc gia hiện đại để không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.

    Thực tế, mọi cải cách chính trị, hành chính mà Đảng, Nhà nước Việt Nam đã và đang quyết tâm thực hiện là để đưa đất nước phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng trong kỷ nguyên mới; là để mỗi cơ quan công quyền đều tinh, gọn, gần dân, sát dân, phục vụ nhân dân kịp thời, chất lượng và hiệu quả hơn. Cho nên, việc tổ chức và vận hành bộ máy chính quyền địa phương 2 cấp không đơn giản chỉ là sự sắp xếp tinh gọn tổ chức, về con người, mà còn là thực hiện chủ trương phân cấp, phân quyền giữa Trung ương và địa phương, để địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm trên tinh thần nâng cao năng lực quản lý của chính quyền địa phương, giúp giảm biên chế, giảm chi tiêu, tiết kiệm ngân sách để dành cho những nhiệm vụ quan trọng khác khi đất nước vươn mình.

    Sự phân cấp, phân quyền này vừa tạo ra một hệ thống hành chính thống nhất, đồng bộ, thông suốt, hiệu quả hơn, vừa tạo cơ hội – điều kiện để mỗi cán bộ, công chức nỗ lực tự trau dồi chuyên môn, kỹ năng, nghiệp vụ, rèn luyện đạo đức công vụ, nâng cao năng lực, chất lượng thực thi công vụ. Từ sự thật đó, có thể khẳng định việc đổi mới mạnh mẽ, quyết liệt, nhanh, gọn để sắp xếp tổ chức bộ máy, nguồn nhân lực của hệ thống chính trị; để vận hành chính quyền địa phương 2 cấp đảm bảo tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả là đúng đắn, là sự nỗ lực đồng bộ của cả hệ thống chính trị, vì “chậm trễ là có lỗi với nhân dân”, là “cản trở sự phát triển của đất nước” như Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh.

    Một đất nước đang chuyển mình, một mô hình chính quyền địa phương mới được tổ chức và hoạt động theo hướng tinh, gọn có nhiều ưu điểm, song cũng có không ít những thách thức, những ý kiến lo ngại (tâm lý e dè cái mới; tình trạng quá tải cho cán bộ cấp cơ sở khi một người phụ trách nhiều lĩnh vực; sự thay đổi về địa lý khi phải di chuyển một quãng đường xa hơn…) chắc chắn sẽ đơm hoa, kết trái khi có sự đồng tâm, nhất trí, đoàn kết “muôn người như một” của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.

    Vì thế, có thể thấy là, trong khi các thế lực thù địch, các phần tử bất mãn, cơ hội, phản động xuyên tạc, bôi đen sự thật, bóp méo bản chất việc tổ chức, vận hành mô hình chính quyền địa phương 2 cấp nhằm gây hoang mang, hoài nghi trong nhân dân và kích động gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thì dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị, sự ủng hộ hết lòng của các tầng lớp nhân dân, mô hình này đã được hiện thực hóa từ ngày 1/7/2025. Việc tinh giản, sắp xếp hợp lý bộ máy ở Trung ương và địa phương này không chỉ góp phần xây dựng nền hành chính hiện đại, minh bạch, hiệu quả để tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn mới, mà còn là bước đi cần thiết, tạo cơ chế giám sát minh bạch để công cuộc phòng, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực đạt hiệu quả cao hơn. Và cũng vì thế, chắc chắn việc thực hiện, vận hành bộ máy chính quyền địa phương 2 cấp sẽ thành công, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý hiệu lực của Nhà nước trong kỷ nguyên vươn mình của đất nước!

    Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ trên không gian mạng trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay

    Thứ năm, 10/07/2025 - 06:00

    Bảo vệ chính trị nội bộ trên không gian mạng là trách nhiệm của mọi tổ chức, cá nhân, trong đó có Quân đội và mọi quân nhân. Trong bối cảnh không gian mạng trở thành môi trường tương tác không thể thiếu của xã hội, các thế lực thù địch, phản động và các phần tử bất mãn tăng cường hoạt động chống phá bằng nhiều phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, khó nhận biết. Do đó, tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ trên không gian mạng là đòi hỏi tất yếu đối với các cơ quan, ban, ngành trong hệ thống chính trị, trong đó có Quân đội.

    Bảo vệ chính trị nội bộ là bảo vệ sự trong sạch, vững mạnh của Đảng, Nhà nước, chế độ, bảo vệ sinh mệnh chính trị, danh dự, uy tín của cán bộ, đảng viên, nhất là lãnh đạo Đảng, Nhà nước và cán bộ chủ chốt các cấp; phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh, làm thất bại các âm mưu, phương thức, thủ đoạn trong hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, các phần tử bất mãn, cơ hội chính trị, chống đối, góp phần xây dựng các cấp ủy, tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ.  

    Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ trên không gian mạng trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
     Ảnh minh họa: qdnd.vn

    Việt Nam là quốc gia có tốc độ phát triển nhanh về internet và số lượng người dùng mạng xã hội. Theo thống kê của cơ quan chức năng, tính đến tháng 5-2025, Việt Nam có 79,8 triệu người dùng internet, tương đương hơn 78% dân số. Việt Nam cũng là “nước đứng thứ 6 trên toàn thế giới về số lượng người dùng di động đang bị mã độc tấn công; 70% người dùng máy tính dễ bị mã độc tấn công, thông qua các phần mềm, USB hay thẻ nhớ”, là quốc gia đứng hàng đầu thế giới về nguy cơ bị nhiễm mã độc, phần mềm độc hại (qua kết nối internet, sử dụng điện thoại di động thông minh, tham gia các trang mạng xã hội, sử dụng USB, thẻ nhớ...). Đặc biệt, không gian mạng là môi trường lý tưởng để các thế lực thù địch, phản động: (1) Tán phát mã độc, phần mềm gián điệp trên internet, các ứng dụng mạng xã hội để thu thập, đánh cắp dữ liệu, thông tin bí mật của tổ chức và bí mật đời tư của cá nhân nhằm mục đích chiếm quyền kiểm soát và điều khiển hệ thống thông tin, khống chế, đòi hỏi đáp ứng yêu sách về đường lối, vật chất và tinh thần; (2) thực hiện các hoạt động xâm nhập, tuyển lựa gián điệp, tập hợp lực lượng, huấn luyện, điều khiển, dẫn dắt, chỉ đạo các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ và lực lượng vũ trang nhằm tạo bất ổn về chính trị; (3) thực hiện các phương thức, thủ đoạn cụ thể hóa chiến lược “diễn biến hòa bình”, âm mưu “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, hướng nước ta phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa; (4) thực hiện các hoạt động giả danh, mạo danh của tổ chức và cá nhân để hướng lái nhận thức của nhân dân, lừa đảo, chiếm đoạt tài sản; (5) thực hiện các hoạt động câu dẫn, thúc đẩy công dân tham gia các hoạt động trái pháp luật, phát triển tệ nạn xã hội, từng bước thay đổi và phá hoại lối sống tốt đẹp, truyền thống của con người Việt Nam.

    Do đó, đòi hỏi công tác bảo vệ chính trị nội bộ phải mở rộng trên không gian mạng, nhất là trong bối cảnh không gian mạng luôn tồn tại các mặt trái, có tác động tiêu cực đến mọi quốc gia-dân tộc nói chung, đời sống chính trị-xã hội, nhất là tư tưởng của con người nói riêng. Nhận thức sâu sắc vấn đề này, những năm qua, Đảng, Nhà nước, các tổ chức cơ sở đảng nói chung, các ban, bộ, ngành Trung ương, các cơ quan, đơn vị ở địa phương nói riêng đã có nhiều chủ trương, giải pháp khắc phục các nguy cơ từ không gian mạng, giữ vững và khẳng định được vai trò của công tác bảo vệ chính trị nội bộ, thực sự góp phần quan trọng bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng, đường lối, chủ trương của Đảng, góp phần xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Tuy nhiên, không gian mạng thực sự là môi trường khó kiểm soát toàn diện; hệ thống pháp luật hiện hành của Việt Nam còn lỗ hổng trong xử lý thông tin xuyên quốc gia, đặc biệt từ các nền tảng chưa đặt đại diện pháp lý tại Việt Nam; lực lượng chuyên trách còn thiếu và yếu, nhất là ở cấp cơ sở; thiếu công cụ kỹ thuật để phát hiện sớm, phản ứng nhanh với các luồng thông tin nguy hiểm. Không những vậy, nhận thức, ý thức của công dân Việt Nam về tính hai mặt của không gian mạng nói chung, mạng xã hội nói riêng còn nhiều hạn chế, chưa chủ động trong bảo mật thông tin, dữ liệu cá nhân, còn vô ý làm lộ bí mật nhà nước, thông tin nội bộ của tổ chức và thông tin bí mật đời tư trên không gian mạng; cá biệt, có cá nhân còn bị tác động bởi các thông tin không chính thống, thông tin xuyên tạc, kích động, chống phá trên không gian mạng của các thế lực thù địch, phản động, dẫn đến có các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, có những lời nói, việc làm gây phương hại đến lợi ích quốc gia-dân tộc, danh dự, uy tín của tổ chức và cá nhân.

    Trong Quân đội nhân dân Việt Nam, bảo vệ chính trị nội bộ là công tác đặc thù, giữ vị trí nền tảng trong hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị nói chung, là “xương sống” của công tác bảo vệ an ninh quốc gia trong Quân đội nói riêng, góp phần quan trọng trong việc xây dựng các tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, cơ quan, đơn vị các cấp vững mạnh toàn diện “mẫu mực, tiêu biểu”. Trước tình hình quân nhân tham gia tương tác trên môi trường không gian mạng là tất yếu, những năm qua, cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh quốc gia trong Quân đội đã tham mưu, đề xuất Quân ủy Trung ương, thủ trưởng Bộ Quốc phòng, thủ trưởng Tổng cục Chính trị lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng công tác bảo vệ an ninh Quân đội nói chung, công tác bảo vệ chính trị nội bộ Quân đội nói riêng; cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị đã đặc biệt quan tâm, quán triệt và thực hiện tốt các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của trên về công tác bảo vệ chính trị nội bộ nói chung, bảo vệ chính trị nội bộ trên không gian mạng nói riêng, đạt được nhiều kết quả quan trọng.

    Tuy nhiên, công tác bảo vệ chính trị nội bộ trên không gian mạng ở một cơ quan, đơn vị trong từng thời điểm nhất định vẫn còn sơ hở, thiếu sót cần khắc phục; vẫn còn có quân nhân chấp hành không nghiêm các quy định khi truy cập internet, sử dụng mạng xã hội, vô ý làm lộ, mất bí mật nhà nước, thông tin nội bộ; có quân nhân có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham gia, theo dõi, tương tác các trang mạng có nội dung xấu độc, bị khống chế, đe dọa, mất tiền; cá biệt còn có quân nhân hùa theo, hậu thuẫn, cổ xúy hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động, phần tử bất mãn và có quân nhân vi phạm pháp luật Nhà nước, kỷ luật Quân đội, đạo đức, văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, Quân đội trên không gian mạng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh dự, uy tín và hình ảnh Bộ đội Cụ Hồ... Do đó, trong giai đoạn hiện nay, tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ trên không gian mạng là đòi hỏi tất yếu đối với Quân đội nhân dân Việt Nam. Để đạt kết quả tốt, có tính bền vững, cần thực hiện các giải pháp như sau:

    Một là, thường xuyên làm tốt công tác quán triệt, tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của quân nhân về vị trí, vai trò của công tác bảo vệ chính trị nội bộ Quân đội nói chung, bảo vệ chính trị nội bộ trên không gian mạng nói riêng.

    Cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị trong Quân đội, nhất là đơn vị cơ sở, đơn vị trọng yếu, cơ mật cần thường xuyên làm tốt công tác quán triệt, tuyên truyền, giáo dục, giúp cho mọi quân nhân nâng cao nhận thức về tính hai mặt của không gian mạng nói chung, mạng xã hội nói riêng, bồi dưỡng nhận thức chính trị, các kỹ năng, kỹ xảo cần thiết khi tương tác trên không gian mạng, biết chủ động phòng ngừa, tự bảo vệ, đủ sức đề kháng và khả năng miễn nhiễm trước các thông tin tiêu cực trên không gian mạng.

    Nội dung tuyên truyền phải toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm. Đặc biệt, cần trang bị tri thức về không gian mạng, các thành tố cấu thành không gian mạng, nhất là các tác động tiêu cực từ không gian mạng đối với công tác bảo vệ chính trị nội bộ Quân đội, để mọi quân nhân biết cách phòng ngừa. Hình thức quán triệt, tuyên truyền, giáo dục cần phong phú, đa dạng, linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với tình hình thực tiễn của mỗi cơ quan, đơn vị, bảo đảm tính tập trung và cá biệt, tính phổ biến và chuyên sâu, bảo đảm sát với đối tượng cụ thể, đạt được mục đích, yêu cầu; có thể kết hợp các hoạt động hội họp của đơn vị để tuyên truyền, thậm chí đưa nội dung tuyên truyền vào chương trình tập huấn, bồi dưỡng hằng năm.

    Hai là, thường xuyên, chủ động làm tốt công tác nắm tình hình, kịp thời phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn, làm thất bại các hoạt động lợi dụng không gian mạng để cài cắm, móc nối, phá hoại nội bộ, chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ và lực lượng vũ trang.

    Quán triệt, thực hiện phương châm “chủ động phòng ngừa, giữ vững bên trong là chính”, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp cần thường xuyên thực hiện tốt các quy định, nguyên tắc trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ trong chấp hành các quy định về bảo vệ bí mật nhà nước, phát ngôn, cung cấp thông tin cho báo chí, các quy định về quản lý, sử dụng internet, mạng xã hội; thường xuyên, định kỳ làm tốt công tác thẩm tra, xét duyệt tiêu chuẩn chính trị, công tác tuyển chọn, điều động, bố trí quân nhân công tác tại các vị trí trọng yếu, cơ mật; theo dõi, giám sát các quân nhân thường xuyên có hoạt động tương tác trên không gian mạng, quân nhân tiếp xúc, làm việc với người nước ngoài, quân nhân học tập, công tác tại nước ngoài...

    Chú trọng phát hiện các dấu hiệu bất minh, các dấu hiệu lộ bí mật nhà nước, lọt bí mật vào tay địch; dấu hiệu nghi vấn các cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài câu kết, móc nối, mua chuộc, lôi kéo, tác động phá hoại tư tưởng đối với cán bộ, chiến sĩ trong cơ quan, đơn vị; kịp thời phát hiện các biểu hiện tuyên truyền ngược, lan truyền trong nội bộ các luận điệu tuyên truyền phá hoại tư tưởng, các biểu hiện mất đoàn kết, chia rẽ, phân hóa trong nội bộ mang màu sắc chính trị; các biểu hiện tiêu cực khác, như tham nhũng, hối lộ, quan liêu, tuyển dụng, bố trí cán bộ không đúng nguyên tắc... Bên cạnh đó, cần nắm chắc tâm tư, nguyện vọng, diễn biến tư tưởng của quân nhân trong cơ quan, đơn vị về các vấn đề chính trị-xã hội và các vấn đề xoay quanh cuộc sống của quân nhân, như: Các tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, phân hóa giàu-nghèo, luân chuyển, bổ nhiệm, tinh gọn bộ máy hành chính và Quân đội... không để quân nhân có “diễn biến tư tưởng tiêu cực, tìm cách giải tỏa trên không gian mạng”, vô ý làm lộ, mất bí mật nhà nước, bí mật quân sự, vi phạm các quy định của Đảng, Nhà nước và Quân đội trong truy cập kết nối internet, sử dụng mạng xã hội...

    Ba là, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật; đầu tư xây dựng lực lượng an ninh mạng và kiểm tra an ninh, an toàn công nghệ thông tin trong Quân đội tiến thẳng lên hiện đại.

    Cơ quan chuyên trách về bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh mạng trong Quân đội cần thường xuyên làm tốt công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật để tạo hành lang pháp lý vững chắc, bảo đảm thế trận an ninh chủ động trong công tác bảo vệ an ninh chính trị nội bộ trên không gian mạng. Theo đó, hằng năm, cần tiến hành các hội nghị sơ kết, tổng kết công tác pháp chế, kịp thời phát hiện các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản quy phạm nội bộ không đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn, cần phải chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện. Trên cơ sở đó, kịp thời tham mưu, đề xuất Thường vụ Quân ủy Trung ương, thủ trưởng Bộ Quốc phòng, thủ trưởng Tổng cục Chính trị ban hành các chủ trương, quyết sách quan trọng, nâng cao chất lượng công tác bảo vệ an ninh Quân đội nói chung, công tác bảo vệ chính trị nội bộ Quân đội nói riêng. Chú trọng sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật quy định về các hành vi của quân nhân khi truy cập internet, tham gia mạng xã hội, tương tác trên không gian mạng, bảo đảm tính pháp quy, tính chính trị và phù hợp với bối cảnh mới.

    Những năm tới, cơ quan chức năng các cấp cần tham mưu, đề xuất Thường vụ Quân ủy Trung ương, thủ trưởng Bộ Quốc phòng, thủ trưởng Tổng cục Chính trị ban hành các chính sách trọng dụng nhân tài công nghệ thông tin cho Quân đội, ưu tiên trong công tác tuyển dụng, đào tạo cán bộ am hiểu công nghệ, truyền thông số, an ninh mạng và từng bước nâng cao cơ sở vật chất, nhất là các trang thiết bị công nghệ thông tin cho các cơ quan, đơn vị trong Quân đội,

    Bên cạnh đó, cơ quan chuyên trách bảo vệ an ninh trong Quân đội cần chủ động nắm tình hình, ngăn chặn, gỡ bỏ các thông tin tiêu cực, ảnh hưởng đến nội bộ Quân đội; thành lập các tổ công tác chuyên trách về bảo vệ chính trị nội bộ trên không gian mạng, kịp thời phát hiện các hoạt động chống phá Quân đội. Tăng cường thực hiện biện pháp pháp luật, xử lý nghiêm những tổ chức, cá nhân có hành vi vu khống, xuyên tạc, chống phá Quân đội, xúc phạm danh dự, hạ thấp uy tín lãnh đạo, chỉ huy các cơ quan, đơn vị Quân đội trên cả thực địa và không gian mạng. Đồng thời, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong Quân đội cần thường xuyên lãnh đạo thực hiện tốt công tác nắm bắt dư luận và định hướng quân nhân nhận thức đúng đắn về những vấn đề phức tạp, nhạy cảm được dư luận xã hội quan tâm, nhất là các vấn đề có liên quan đến lợi ích quốc gia-dân tộc, liên quan đến nội bộ Quân đội; đưa thông tin tích cực, thông tin chính thống giữ vai trò chủ đạo và chủ động phòng, chống “tuyên truyền ngược” trong phát ngôn của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ.

    Đại tá ĐỖ QUYẾT KHOA, Phó cục trưởng Cục Bảo vệ an ninh Quân đội 

    Phản bác quan điểm cho rằng: “một đảng duy nhất lãnh đạo thì không có dân chủ”

    Văn Khoa

    Cứ mỗi khi Đảng ta chuẩn bị tiến hành Đại hội Đại biểu toàn quốc thì các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội chính trị lại liên tiếp tung lên mạng xã hội và đăng tải ở một số tờ báo bằng tiếng Việt ở nước ngoài những luận điệu sai trái nhằm chống phá Đảng và Nhà nước ta, hòng làm mất lòng tin của quần chúng vào Đảng và Nhà nước ta. Gần đây, các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội chính trị tung lên mạng xã hội tuyên truyền luận điệu: ở quốc gia mà chỉ có một đảng duy nhất lãnh đạo như Việt Nam thì không có dân chủ, sẽ đưa đất nước, dân tộc đi vào ngõ cụt!

    Phải chăng chế độ một đảng cầm quyền là mất dân chủ. Nếu chỉ nhìn vào hiện tượng thì đã có lúc, có nơi một số đảng cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu có tình trạng mất dân chủ trong nội bộ đảng và trong quá trình lãnh đạo đất nước, dẫn tới sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở các nước này vào những năm 90 của thế kỷ XX. Với cách nhìn khách quan, biện chứng và tinh thần học hỏi, Đảng ta đã nhận ra điều này và coi đó là một bài học trong quá trình lãnh đạo đất nước, như V.I. Lênin đã khẳng định: Quan liêu và xa dân là một nguy cơ của bất cứ đảng cầm quyền nào; nhưng sẽ là sai lầm, nếu chỉ nhìn vào hiện tượng đơn lẻ mà suy ra bản chất của chế độ.

    Dân chủ xuất hiện cùng với sự xuất hiện của nhà nước, do đó không bao giờ có một thứ dân chủ “thuần túy”, dân chủ bao giờ cũng mang bản chất giai cấp sâu sắc. Nền dân chủ vô sản gắn chặt với cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội, cho nên, nó chỉ thể được thực hiện bằng con đường thiết lập quyền lãnh đạo của giai cấp vô sản đối với toàn thể xã hội thông qua đội tiền phong của nó là Đảng Cộng sản. Chỉ có giai cấp vô sản và đội tiền phong của mình với cơ sở xã hội rộng lớn là quảng đại nhân dân lao động và mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng lao động, giải phóng xã hội và giải phóng con người mới có khả năng thiết lập được một nền chuyên chính vừa đảm bảo dân chủ cũng như các lợi ích căn bản khác của đông đảo quần chúng lao động, vừa triệt tiêu mọi khả năng phục hồi chế độ bóc lột và nô dịch.

    Đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập là nét đặc trưng của thể chế chính trị tư sản trên thế giới hiện nay. Nói chung, ở các nước tư bản, về hình thức thì các đảng chính trị đều “tự do”, “bình đẳng” trong cuộc đấu tranh nghị trường và đều có khả năng trở thành đảng cầm quyền, nhưng trong thực tế thì chỉ có các đảng lớn, có thế lực, được sự hậu thuẫn của các tập đoàn tư bản độc quyền mới có khả năng chiến thắng. Mặt khác, chế độ đa đảng ở phương Tây, xét trong thực chất, cũng là dựa trên cơ sở nhất nguyên chính trị, vì tất cả các đảng cánh hữu đều nhằm phục vụ chế độ tư bản.

    Tính giai cấp của nền dân chủ phương Tây được thể hiện thông qua vị trí của tiền bạc ngày càng trở thành yếu tố quyết định trong đời sống chính trị. Cái gọi là “nền dân chủ Mỹ” chỉ là nền dân chủ của nhà giàu. Tờ Thời báo Tài chính (Anh) ngày 25-11-2000 viết: “cuộc bầu cử năm 2000 đã cho thấy rõ nền dân chủ Mỹ có thể bán cho những người trả giá cao nhất”. Có thể gọi đó là nền dân chủ đấu giá. Tờ Thế giới (Tây Ban Nha) cùng ngày 25-11-2000 đã ví thói mê tiền như là “căn bệnh ung thư của nền dân chủ Mỹ”. Một chính quyền được tạo lập bởi đồng tiền thì tất yếu phải hướng đến phục vụ những kẻ nhiều tiền, chứ không thể là “một chính quyền của tất cả mọi người” mà các lý luận gia tư sản của họ rêu rao.

    Như vậy, dân chủ hay không dân chủ không phụ thuộc vào số lượng các đảng chính trị, vào việc có áp dụng hay không áp dụng chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Trong từng thời điểm cụ thể, Nhà nước nói riêng và xã hội nói chung đều phải do một đảng lãnh đạo. Có hay không có dân chủ, dân chủ được thực hiện ở trình độ cao hay thấp, tất cả phụ thuộc vào bản chất của đảng cầm quyền, chứ không phụ thuộc vào số lượng nhiều hay ít các đảng phái chính trị.

    Ở nước ta, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa là quy luật hình thành, phát triển, là tôn chỉ, mục đích hoạt động của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, là người đại diện chân chính duy nhất cho lợi ích và nguyện vọng của nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh bảo vệ quyền sống, quyền tự do, dân chủ và hạnh phúc của nhân dân. Đó là các quyền: sử dụng tư liệu sản xuất, quyền có công ăn việc làm, quyền học tập và hưởng thụ văn hóa, quyền tham gia quản lý nhà nước, giám sát cán bộ, đảng viên, công chức và cơ quan nhà nước, quyền đóng góp ý kiến vào các chủ trương, chính sách, pháp luật, bày tỏ ý kiến về các hiện tượng tích cực và tiêu cực trong đời sống xã hội… Vì vậy, luận điệu cho rằng, “một quốc gia chỉ có một đảng duy nhất lãnh đạo như Việt Nam thì không có dân chủ” là không có căn cứ, thậm chí là phản khoa học, vì thực tế ở Việt Nam hiện nay đang chứng minh điều ngược lại.

    Các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội chính trị tuyên truyền luận điệu trên đây nhằm mục đích hạ thấp uy tín của Đảng và Nhà nước ta, tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội. Đặc biệt, trong thời điểm diễn ra Đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội đảng toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và trong tình hình tinh gọn bộ máy, sắp xếp lại đơn vị hành chính “sắp xếp lại giang sơn” hiện nay, các thế lực thù địch và các phần tử cơ hội chính trị càng điên cuồng chống phá. Trong đó, chúng sử dụng các trang mạng xã hội để tập trung đả phá hệ thống lý luận và nền tảng tư tưởng của Đảng, phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tuyên truyền, phá hoại việc thực hiện đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Chúng tăng cường tuyên truyền những thông tin sai lệch nhằm kích động nhân dân đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ điều 4 Hiến pháp nhằm tạo cơ hội cho các nước tư bản phương Tây dễ dàng thực hiện mưu đồ chính trị của chúng. Chúng đưa ra các tuyên bố về tôn giáo, nhân quyền ở Việt Nam trái với thực tế để cho rằng, chế độ một đảng lãnh đạo ở Việt Nam hiện nay đang bóp nghẹt “dân chủ”, làm cho nhân dân bị áp bức, bóc lột, gây ra tình trạng quan liêu, tham nhũng, làm cho đất nước đi vào “ngõ cụt”. Đáng chú ý sự cấu kết, móc nối giữa các phần tử chống đối ở trong nước và ngoài nước ngày càng rõ nét, nhiều đối tượng trong nước đã nhận tiền tài trợ của cá nhân, tổ chức quốc tế để tiến hành các hoạt động phá hoại tư tưởng, biểu tình, bạo động.

    Tình hình thế giới, khu vực và trong nước trong những năm tới có thể sẽ có những diễn biến phức tạp, đặc biệt là những biến động về kinh tế và an ninh chính trị ở các nước, do đó, các thế lực thù địch vẫn tiếp tục tiến hành những hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước và cách mạng nước ta nhằm phủ định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, gây mâu thuẫn, chia rẽ trong nội bộ để thực hiện mưu đồ chính trị của chúng bằng các phương thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt.

    Bằng các phương thức, thủ đoạn khác nhau các thế lực thù địch đang tìm mọi cách tuyên truyền tư tưởng sai trái, thù địch để chống phá cách mạng nước ta, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam để ngày càng phụ thuộc vào các nước tư bản phương Tây. Luận điệu một đảng duy nhất lãnh đạo thì không có dân chủ, sẽ đưa đất nước, dân tộc đi vào ngõ cụt rõ ràng là đi ngược lại với thực tế và chính nghĩa cần kiên quyết đấu tranh, bác bỏ./.


    Phản bác quan điểm sai trái, xuyên tạc dự thảo các văn kiện của Đảng về các thành phần kinh tế

    Thứ hai, 07/07/2025 - 05:55

    Thời gian gần đây, các thế lực thù địch, phản động tập trung chống phá, xuyên tạc về dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng. Trong đó, chúng hướng mũi nhọn tấn công vào vấn đề các thành phần kinh tế. Vì vậy, cán bộ, đảng viên cần phải nhận diện đúng và xác định được nội dung biện pháp đấu tranh, phản bác quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc nói trên.

    Qua nghiên cứu và tổng hợp, có thể thấy những quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng về các thành phần kinh tế thể hiện trên một số nội dung sau:

    Một là, phủ nhận những nguyên lý của kinh tế chính trị Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế.

    Thế lực thù địch vẫn tập trung xuyên tạc về vấn đề bóc lột, giá trị thặng dư, lý luận bần cùng hóa giai cấp vô sản, phủ nhận chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước; phê phán chủ trương kết hợp giữa yếu tố kinh tế thị trường với yếu tố chủ nghĩa xã hội. Vẫn với những luận điệu cũ rích đã nhiều lần bị vạch trần sự sai trái, nhưng chúng cố gắng đưa thêm một số thông tin, cóp nhặt số liệu mới để những người không am tường lầm tưởng là vấn đề mới mẻ. Cụ thể, những kẻ chống phá, xuyên tạc cho rằng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là "không đúng quy luật", "nếu cố gắn với định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ làm cho hoạt động của nó bị méo mó đi". Họ trích dẫn theo kiểu xuyên tạc, cắt ghép, chỉnh sửa những nguyên lý của kinh tế chính trị Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm cho người đọc, người nghe, người xem hiểu sai.

    Phản bác quan điểm sai trái, xuyên tạc dự thảo các văn kiện của Đảng về các thành phần kinh tế
    Ảnh minh họa: TTXVN 

     

    Hai là, xuyên tạc, phủ nhận chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách kinh tế của Nhà nước ta về các thành phần kinh tế.  

    Ở nội dung này, họ cho rằng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta là không có cơ sở khoa học; phê phán Đảng ta không nhất quán giữa lời nói và việc làm. Từ đó, họ đòi thay đổi, chuyển hóa nền kinh tế ở Việt Nam, xuyên tạc, phủ nhận vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước; lợi dụng chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần để thúc đẩy tư nhân hóa nền kinh tế nước ta. Họ cho rằng, thừa nhận kinh tế thị trường và cho phép nó tồn tại cũng có nghĩa là chúng ta cho phép sự tư hữu, nghĩa là cho phép chủ nghĩa tư bản hằng ngày, hằng giờ nảy sinh trong lòng đất nước xã hội chủ nghĩa. Gần đây, trên một số website nước ngoài bằng tiếng Việt có nhiều bài viết suy diễn, xuyên tạc một cách trắng trợn bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm về kinh tế tư nhân. Từ đây, họ cho rằng quan điểm ủng hộ phát triển kinh tế tư nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam thời gian gần đây đang làm giảm nhẹ yếu tố chủ nghĩa xã hội, tăng yếu tố chủ nghĩa dân tộc. Và từ đó, họ kết luận phiến diện rằng Việt Nam chỉ còn là một nước xã hội chủ nghĩa trên danh nghĩa.

    Ba là, xuyên tạc về chiến lược thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam.  

    Họ cho rằng, trong cấu thành của GDP Việt Nam có tới gần 30% phụ thuộc vào doanh nghiệp nước ngoài, vốn mang hầu hết lợi nhuận trở lại nước ngoài, tuy nhiên, doanh nghiệp nước ngoài (hay nói rộng ra là dòng chảy tư bản toàn cầu) đang gặp vấn đề, phản ánh bế tắc lớn của Việt Nam trong việc tiếp tục tăng trưởng. Tuy nhiên, Đảng ta luôn khẳng định hội nhập kinh tế là xu thế của thời đại, để tận dụng các nguồn lực cho phát triển kinh tế, nhưng đồng thời, Việt Nam luôn đề cao tính tự chủ, tự lực, tự cường. Ngày 8-4-2025, tại lễ công bố Bộ chỉ số về thực hiện các hiệp định thương mại tự do (FTA Index) của các địa phương, Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định: Việt Nam xác định hội nhập kinh tế quốc tế để bắt kịp, tiến cùng và vượt lên, trong đó phải duy trì độc lập, tự chủ, không ỷ lại, không phụ thuộc quá nhiều vào bất cứ đối tác nào. Và thực tế những năm qua, nước ta đã ký 17 hiệp định thương mại tự do với hơn 60 đối tác cho thấy rõ điều đó.

    Để đấu tranh, phản bác có hiệu quả quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng về các thành phần kinh tế, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp, trong đó tập trung thực hiện tốt một số nội dung, biện pháp cơ bản sau:

    Một là, tiếp tục tuyên truyền sâu rộng quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về các thành phần kinh tế trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng.

    Các ngành, các cấp từ Trung ương tới địa phương, nhất là các cơ quan chức năng chuyên môn, chuyên trách cần tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thường xuyên thông tin, cung cấp nguồn thông tin chính thống đến toàn thể nhân dân trên các kênh truyền thanh, truyền hình, internet.

    Tập trung tuyên truyền về bản chất, đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam; khẳng định Việt Nam lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đúng, phù hợp với thực tiễn, trên cơ sở quán triệt lý luận Mác-Lênin, nắm bắt đúng quy luật khách quan và vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là kinh tế thị trường tự do theo kiểu tư bản chủ nghĩa, nhưng cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự tiếp thu có chọn lọc thành tựu của văn minh nhân loại, phát huy vai trò tích cực của kinh tế thị trường trong thúc đẩy phát triển sức sản xuất, xã hội hóa lao động, cải tiến kỹ thuật, phát triển khoa học-công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều của cải. Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là giải phóng lực lượng sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân. Đây là quá trình tổ chức, sắp xếp lại khu vực kinh tế nhà nước, hệ thống doanh nghiệp nhà nước; khu vực kinh tế tập thể mà chủ yếu là hệ thống hợp tác xã; phát triển kinh tế tư nhân, tạo điều kiện và cơ hội tốt nhất cho kinh tế tư nhân tiếp cận các nguồn lực để phát triển. Chuyển đổi vai trò của Nhà nước và thị trường đối với phát triển nền kinh tế ngày càng phù hợp hơn với điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.

    Hai là, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và toàn thể nhân dân về âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động đối với cách mạng Việt Nam nói chung và về vấn đề các thành phần kinh tế trong dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng nói riêng.

    Cảnh giác với những thủ đoạn tổ chức livestream dưới dạng hội thảo, tọa đàm với thành phần tham gia được gắn mác chuyên gia, luật sư, giáo sư, tiến sĩ... nhằm mục đích bôi đen, xuyên tạc nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đặc biệt cần cảnh giác việc những kẻ xấu sử dụng công nghệ, nhất là trí tuệ nhân tạo (AI) để sao chép, cắt ghép làm cho thật-giả, trắng-đen lẫn lộn; lồng ghép những thông tin giả, bịa đặt, vu khống được núp bóng dưới dạng góp ý, kiến nghị tâm huyết và được đăng tải, chia sẻ trên các nền tảng mạng xã hội như: Facebook, YouTube, TikTok...

    Ba là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong đấu tranh, phản bác quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng về các thành phần kinh tế.

    Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp phải tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới, trong đó tập trung lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát, quyết liệt với những giải pháp, biện pháp nhằm đấu tranh, phản bác có hiệu quả những hoạt động chống phá, xuyên tạc dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, nhất là về các thành phần kinh tế. Phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng và toàn dân, không tạo khoảng trống cho các thế lực thù địch, phản động lợi dụng xuyên tạc, kích động, chống phá gây bất ổn trong xã hội.

    Bốn là, thường xuyên nghiên cứu, đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp đấu tranh, chú trọng sử dụng giải pháp công nghệ.

    Để đấu tranh, phản bác có hiệu quả quan điểm sai trái, thù địch cần kết hợp chặt chẽ, đồng bộ các biện pháp, giải pháp, chú trọng giải pháp công nghệ. Kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống, lấy xây là chính; vừa làm vừa nghiên cứu rút kinh nghiệm, nhân rộng những mô hình hay, cách làm sáng tạo. Kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục-đào tạo, nghiên cứu khoa học và đấu tranh; kết hợp giữa các hình thức hội thảo, tọa đàm khoa học, văn hóa, văn nghệ và các phong trào thi đua, cuộc vận động lớn của Trung ương, địa phương, các cơ quan, bộ, ngành, đơn vị trong cả nước.

    Năm là, tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.

    Chúng ta càng thành công trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước và bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phồn vinh, thịnh vượng, phát triển thì các thế lực thù địch, phản động lại càng điên cuồng chống phá cách mạng Việt Nam, xuyên tạc chủ trương, đường lối phát triển kinh tế đất nước và các thành phần kinh tế ở nước ta. Tuy nhiên, chính những thành tựu đạt được trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước thời gian qua đã đem lại niềm tin cho cộng đồng doanh nghiệp, các đối tác, nhân dân; là minh chứng thuyết phục để phản bác quan điểm sai trái, thù địch, xuyên tạc dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng về các thành phần kinh tế nói riêng và quan điểm, chủ trương, đường lối phát triển kinh tế nói chung.

    Thiếu tướng, PGS, TS HOÀNG VĂN PHAI, Phó giám đốc Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng