Thứ hai, 17/06/2024 - 06:06
Hệ thống báo chí, truyền thông của Việt Nam đang ngày càng phát triển mạnh mẽ và là thành quả từ những nỗ lực của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền tự do báo chí.
Thực tiễn sinh động liên quan tới vấn đề này chính là cơ sở để bác bỏ những đánh giá thiếu khách quan, thiển cận và thiếu thiện chí về tình hình tự do báo chí ở Việt Nam.
Môi trường sôi động cho giới báo chí
Ở Việt Nam, báo chí được coi là kênh kết nối để phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước tới nhân dân, từ đó phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm trật tự và an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc... Việc Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm, bảo vệ và thúc đẩy các quyền tự do của con người, trong đó có quyền tự do biểu đạt, tự do ngôn luận, tự do báo chí và tự do tiếp cận thông tin được thể hiện bằng những quy định rõ ràng trong Hiến pháp năm 2013 cũng như các văn bản pháp luật liên quan. Luật Tiếp cận thông tin năm 2016 nhấn mạnh mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin, thì Luật Báo chí năm 2016 quy định rõ trách nhiệm của Nhà nước trong việc tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò.
Những thành quả trong bảo đảm quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận, quyền tiếp cận thông tin tại Việt Nam đã được Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Đỗ Hùng Việt nêu rõ trong cuộc họp báo ở Hà Nội ngày 15-4-2024 và trong bài phát biểu khai mạc Phiên đối thoại về Báo cáo quốc gia của Việt Nam theo Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ 4 của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, diễn ra tại Geneva (Thụy Sĩ) ngày 7-5-2024. Theo đó, sau 26 năm kết nối internet, Việt Nam đã có hệ thống công nghệ viễn thông hiện đại với độ phổ cập cao. Tính đến tháng 9-2023, Việt Nam có 78 triệu người sử dụng internet, tăng 21% so với số thuê bao năm 2019. Số thuê bao băng rộng di động là 86,6 triệu thuê bao, tăng 38% so với năm 2019. Theo thống kê của Hội Nhà báo Việt Nam, tính đến hết năm 2023, Việt Nam có 6 cơ quan truyền thông đa phương tiện chủ lực, 127 cơ quan báo, 671 cơ quan tạp chí và 72 cơ quan đài phát thanh, truyền hình. Nhân sự hoạt động trong lĩnh vực báo chí cũng đã lên tới khoảng 41.000 người.
Chẳng thế mà chuyên gia phân tích chính trị quốc tế Grigory Trofimchuk gần đây đã có bài viết với nhan đề “Việt Nam: Thể chế xã hội chủ nghĩa tôn trọng quyền con người” đăng trên một tờ báo của Nga, trong đó đánh giá cao sự đa dạng về loại hình và nội dung của các phương tiện truyền thông tại Việt Nam với nhiều cơ quan phát thanh, truyền hình và cho rằng đây là minh chứng cho quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, thông tin của Việt Nam.
Ngoài ra, sự hiện diện của nhiều hãng thông tấn, truyền thông quốc tế lớn của thế giới khiến hoạt động báo chí tại Việt Nam ngày càng trở nên sôi động và quan trọng hơn là giúp công chúng dễ dàng tiếp cận thông tin nhiều chiều liên quan tới mọi lĩnh vực của đời sống, xã hội. Với người dân, các trang mạng xã hội như Facebook, YouTube, Zalo, Instagram... hiện trở thành phương tiện hữu ích để họ chia sẻ, tiếp nhận thông tin, bày tỏ quan điểm cá nhân về mọi vấn đề. Nhờ mạng 4G đã bao phủ xấp xỉ 99,8% dân số nên người dân Việt Nam giờ đây có thể kết nối với các cơ quan, tổ chức hành chính từ Trung ương tới địa phương thông qua mạng xã hội để giải quyết các thủ tục hành chính, bày tỏ tâm tư, nguyện vọng; thậm chí là thông báo các vấn đề, sự việc mà họ cho là tiêu cực trong cuộc sống.
Cũng cần nói thêm rằng, các cơ quan báo chí, truyền thông ở Việt Nam ngày càng thể hiện rõ vai trò, chức năng phản biện xã hội của mình. Bằng chứng là thể loại phóng sự điều tra trong khuôn khổ Giải Báo chí quốc gia hằng năm và Giải Báo chí toàn quốc về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ngày càng nhận được sự quan tâm, tham gia của các nhà báo, phóng viên, cộng tác viên của các cơ quan báo chí trên cả nước.
Những con số mơ hồ và đánh giá mang tính áp đặt
Bất chấp những nỗ lực và thành tựu của Việt Nam trong bảo vệ, thúc đẩy quyền tự do báo chí đã được các nước ghi nhận, đánh giá cao, một số cá nhân, tổ chức vẫn cố tình đưa ra những đánh giá mang tính áp đặt, định kiến và thiếu khách quan về vấn đề này.
Nhìn vào những thành quả trong bảo đảm quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, quyền tiếp cận thông tin tại Việt Nam, dư luận cả trong và ngoài nước có lẽ vô cùng bất ngờ và thất vọng về cái gọi là báo cáo “Chỉ số tự do báo chí thế giới năm 2024” mà tổ chức Phóng viên không biên giới (RSF) tung ra hồi đầu tháng 5 vừa qua. Trong đó, RSF xếp Việt Nam thứ 174 trong số 180 quốc gia về tự do báo chí và cho rằng, nguyên nhân khiến Việt Nam nằm trong “nhóm các quốc gia có nền báo chí tồi tệ nhất thế giới” là do “cầm tù nhà báo có hệ thống”.
Tự do báo chí được coi như một trong những nền tảng để các cá nhân, tổ chức nói lên ý kiến, chia sẻ quan điểm và ý tưởng, cũng như tham gia các cuộc thảo luận, tranh luận và thực hiện chức năng phản biện nhằm giúp xã hội phát triển. Nhưng báo chí và hoạt động báo chí phải được đặt trong khuôn khổ pháp luật của mỗi quốc gia để không trở thành “báo chí vô chính phủ”. Trên thực tế, ở Việt Nam không có nhà báo chân chính nào bị giam giữ chỉ vì thực hiện đúng vai trò của mình trong việc "nói thay tiếng nói của nhân dân", đóng góp vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa đất nước tiến lên phía trước. Cái mà RSF gọi là “cầm tù nhà báo có hệ thống” thực chất là việc xử phạt những người được gán mác “nhà báo tự do”, “nhà đấu tranh dân chủ” do vi phạm pháp luật Việt Nam hoặc một số nhà báo có hành vi vi phạm pháp luật, đánh mất đạo đức của người làm báo, lợi dụng quyền tự do báo chí để xâm phạm lợi ích của đất nước và người dân. Xử lý những người vi phạm pháp luật, lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm tổn hại đến lợi ích quốc gia-dân tộc hẳn không phải chỉ riêng Việt Nam, mà bất kỳ quốc gia nào trên thế giới cũng đều phải làm việc đó.
Những cá nhân, tổ chức thường xuyên phê phán tự do báo chí ở Việt Nam và tung hô tự do báo chí của phương Tây có lẽ nên tham khảo những ví dụ được nêu trong báo cáo mà Trung tâm Nghiên cứu Pew công bố hồi tháng 4 năm nay. Chẳng hạn, trong báo cáo này, Trung tâm Nghiên cứu Pew cho biết, đại đa số người Mỹ coi quyền tự do báo chí là rất quan trọng đối với sự thịnh vượng của xã hội, nhưng cũng có nhiều người bày tỏ lo ngại về những hạn chế tiềm ẩn đối với quyền tự do báo chí ở Mỹ. Cụ thể, cứ 5 người Mỹ thì có 1 người nói rằng giới truyền thông không được tự do hoặc hoàn toàn không được tự do đưa tin ở Mỹ. Ngoài ra, 41% người Mỹ “cực kỳ hoặc rất lo ngại” về những hạn chế tiềm tàng đối với quyền tự do báo chí ở nước này và 29% bày tỏ thái độ “có phần lo ngại”. Vậy thì ở Mỹ, có hay không có tự do báo chí và ai mới có thể là người đưa ra câu trả lời chính xác?
Thế mới thấy, việc đánh giá tình hình tự do báo chí ở Việt Nam và ở bất kỳ quốc gia nào khác đều cần phải dựa trên thực tế có kiểm chứng và cái nhìn đa chiều, chứ không thể chỉ dựa trên thông tin do một số tổ chức, cá nhân phản động, thù địch, cơ hội chính trị cung cấp để rồi đưa ra những con số mơ hồ, đầy tính áp đặt giống như cách RSF đang làm.
ANH VŨ
Bài viết đã khẳng định rõ ràng rằng hệ thống báo chí và truyền thông của Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ, là thành quả từ nỗ lực không ngừng của Đảng và Nhà nước trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền tự do báo chí. Điều này không chỉ được thể hiện qua số lượng và sự đa dạng của các cơ quan truyền thông, mà còn qua các quy định pháp luật rõ ràng nhằm bảo vệ quyền tự do biểu đạt và tiếp cận thông tin của công dân.
Trả lờiXóaSự phát triển này chính là minh chứng sống động để bác bỏ những đánh giá thiếu khách quan và thiển cận về tình hình tự do báo chí ở Việt Nam. Những con số mơ hồ và nhận định áp đặt của một số tổ chức quốc tế, như báo cáo của Phóng viên không biên giới (RSF), không phản ánh đúng thực tế mà chỉ làm gia tăng sự hiểu lầm và thiên lệch.
Thực tế, môi trường báo chí tại Việt Nam rất sôi động và đa dạng, từ các cơ quan báo chí trong nước đến sự hiện diện của nhiều hãng thông tấn quốc tế. Điều này không chỉ giúp người dân dễ dàng tiếp cận thông tin đa chiều mà còn tạo điều kiện cho báo chí thực hiện chức năng phản biện xã hội, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ lợi ích quốc gia.
Việc xử lý những cá nhân lợi dụng quyền tự do báo chí để vi phạm pháp luật là cần thiết và phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Đây không phải là vấn đề riêng của Việt Nam mà là một thực tiễn phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới, bao gồm cả những nước được coi là có nền tự do báo chí tiên tiến.
Do đó, đánh giá tình hình tự do báo chí ở Việt Nam cần được dựa trên thực tế khách quan và cái nhìn đa chiều, thay vì những con số và nhận định thiếu cơ sở. Chỉ có như vậy mới đảm bảo sự công bằng và chính xác trong việc nhìn nhận và đánh giá vấn đề này.
Bài viết đã làm sáng tỏ những thành tựu đáng ghi nhận của Việt Nam trong việc phát triển hệ thống báo chí và truyền thông. Các số liệu thống kê về sự tăng trưởng của số lượng người sử dụng internet và các cơ quan báo chí là bằng chứng thuyết phục cho thấy sự nỗ lực không ngừng của Đảng và Nhà nước trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin của người dân.
Trả lờiXóaViệc một số tổ chức quốc tế, như Phóng viên không biên giới (RSF), đưa ra những đánh giá tiêu cực về tình hình tự do báo chí ở Việt Nam mà không dựa trên cơ sở thực tế và khách quan, cho thấy sự thiếu hiểu biết và thiếu thiện chí. Trong khi đó, thực tiễn ở Việt Nam cho thấy môi trường báo chí không chỉ sôi động mà còn đa dạng, với sự hiện diện của nhiều hãng thông tấn quốc tế, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận thông tin một cách toàn diện và đa chiều.
Ngoài ra, báo chí Việt Nam còn thể hiện rõ vai trò phản biện xã hội thông qua các phóng sự điều tra và các giải báo chí quốc gia về phòng, chống tham nhũng và tiêu cực. Điều này không chỉ khẳng định vai trò của báo chí trong việc giám sát xã hội mà còn góp phần vào sự phát triển lành mạnh và bền vững của đất nước.
Sự lo ngại về tự do báo chí không chỉ là vấn đề của riêng Việt Nam mà còn là mối quan tâm chung ở nhiều quốc gia, bao gồm cả những nước phát triển. Điều này cho thấy việc đánh giá tình hình tự do báo chí cần dựa trên thực tế có kiểm chứng và cái nhìn đa chiều, thay vì những nhận định chủ quan và thiếu cơ sở.
Tóm lại, những thành tựu mà Việt Nam đạt được trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền tự do báo chí là không thể phủ nhận. Chúng ta cần có cái nhìn công bằng và khách quan hơn để đánh giá đúng thực trạng này, thay vì dựa vào những báo cáo thiếu cơ sở và mang tính áp đặt.
Bài viết đã nêu bật được sự phát triển vượt bậc của hệ thống báo chí và truyền thông ở Việt Nam, khẳng định nỗ lực của Đảng và Nhà nước trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền tự do báo chí. Những con số cụ thể về số lượng cơ quan báo chí, số người sử dụng internet và mức độ phủ sóng của mạng 4G minh chứng cho một môi trường báo chí sôi động và đa dạng, đáp ứng nhu cầu thông tin của người dân.
Trả lờiXóaĐiều đáng chú ý là Việt Nam không chỉ chú trọng phát triển hạ tầng kỹ thuật mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho báo chí thực hiện vai trò phản biện xã hội. Những giải báo chí quốc gia về phòng, chống tham nhũng và tiêu cực là minh chứng rõ ràng cho việc báo chí Việt Nam đang tích cực góp phần vào sự minh bạch và phát triển bền vững của xã hội.
Những đánh giá tiêu cực từ các tổ chức quốc tế như RSF, cho rằng Việt Nam "cầm tù nhà báo có hệ thống", cần được xem xét kỹ lưỡng và đa chiều hơn. Thực tế cho thấy, các biện pháp xử lý vi phạm trong lĩnh vực báo chí ở Việt Nam nhằm đảm bảo hoạt động báo chí tuân thủ pháp luật và đạo đức nghề nghiệp, không xâm phạm lợi ích quốc gia và quyền lợi của nhân dân.
Việc so sánh tự do báo chí ở Việt Nam và các quốc gia khác cần dựa trên những tiêu chí công bằng và khách quan. Như báo cáo của Trung tâm Nghiên cứu Pew đã chỉ ra, ngay cả ở Mỹ, quyền tự do báo chí cũng đang đối mặt với những thách thức và lo ngại về hạn chế tiềm ẩn. Điều này chứng tỏ rằng, tự do báo chí là một vấn đề phức tạp và cần được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau.