Luận điệu này là một trong những biểu hiện tập trung của quá trình “tự diễn biến”, "tự chuyển hóa" dẫn tới tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô và nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới. Tuy nhiên, thực tế lịch sử chứng minh Liên Xô tan rã không phải do Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử”.
Nhân kỷ niệm 107 năm Ngày Cách mạng Tháng Mười Nga (7-11-1917 / 7-11-2024), chúng ta cùng nhìn lại vai trò, ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng vĩ đại và nguyên nhân nội tại, có ý nghĩa quyết định dẫn tới sự tan rã Liên Xô, những bài học vẫn nguyên tính thời sự đối với sự nghiệp cách mạng của Việt Nam hiện nay.
Hơn 30 năm kể từ khi Liên Xô - cường quốc XHCN đầu tiên trên thế giới sụp đổ, đã có hàng nghìn công trình nghiên cứu, chuyên khảo, hồi ký, chuyên luận và điều tra đi tìm lời giải về thảm họa địa-chính trị lớn nhất trong thế kỷ 20 này. Tựu trung trong nhiều nghiên cứu chỉ ra, một trong những nguyên nhân có ý nghĩa quyết định dẫn tới thảm họa này là quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng Cộng sản Liên Xô.
Cuộc cách mạng mở đầu một thời đại mới
Nói về ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”.
Không thể phủ nhận sự thật lịch sử là nhà nước Xô viết ra đời từ cuộc Cách mạng Tháng Mười đã đạt được những thành tựu kỳ vĩ trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô. Sinh thời, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng khẳng định: “Đảng Cộng sản Liên Xô có lịch sử vô cùng oanh liệt và vẻ vang.
Được V.I.Lênin sáng lập và rèn luyện, Đảng đã từng là một trong những đảng mác-xít, lê-nin-nít hùng mạnh nhất và kiên cường nhất. Đảng đã từng lãnh đạo nhân dân làm nên Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, đánh thắng chủ nghĩa phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai, xây dựng những cơ sở vật chất - kỹ thuật quan trọng của CNXH, mở ra một giai đoạn phát triển mới trong lịch sử nhân loại. Đó thật sự là những công việc kinh thiên động địa, những sự tích thần kỳ, được cả loài người tiến bộ cảm phục và kính trọng”.
![]() |
Cách mạng Tháng Mười như một cơn địa chấn của thế kỷ 20, không chỉ mở ra một kỷ nguyên mới đối với nước Nga mà còn cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng của giai cấp công nhân các nước, chỉ ra cho họ con đường đi tới thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống lại chế độ cũ, xây dựng chế độ mới tốt đẹp hơn. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười và tiếp đó là thắng lợi của nhân dân Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ hai, CNXH từ một nước đã phát triển thành một hệ thống XHCN thế giới đầy sức sống và hùng mạnh, có vai trò to lớn và từng có tính chất quyết định đến vận mệnh, sự phát triển của thế giới.
Hệ thống XHCN, đứng đầu là Liên Xô đã có những giai đoạn phát triển rực rỡ, đã đoàn kết các dân tộc, mọi tầng lớp nhân dân chung tay xây dựng một xã hội tốt đẹp, bình đẳng, công bằng, mang lại hạnh phúc cho đông đảo nhân dân lao động. Nhờ ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười và sự giúp đỡ, tác động của hệ thống XHCN thế giới, từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến những năm 70 của thế kỷ 20, hàng loạt dân tộc thuộc địa và lệ thuộc đã đứng lên giải phóng khỏi sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân.
Cho nên có thể nói, Cách mạng Tháng Mười Nga mang tầm ảnh hưởng quốc tế to lớn, tính thời đại sâu sắc, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử phát triển của xã hội loài người.
"Cải tổ 1.0, 2.0" và hành trình dẫn đến tan rã Liên Xô
Liên Xô sụp đổ là thảm họa địa-chính trị lớn nhất trong thế kỷ 20. Nhiều kẻ cơ hội, phản động được thể xuyên tạc những giá trị lịch sử của nhà nước xã hội đầu tiên trên thế giới được mở đầu bằng cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Từ việc coi Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử”, họ phủ nhận những giá trị nhân văn, tốt đẹp của CNXH, đánh đồng sự sụp đổ của mô hình CNXH hiện thực ở Liên Xô, Đông Âu với sự thất bại của Chủ nghĩa Mác-Lênin và rêu rao cuộc cách mạng đó là “đẻ non”, “đã chết” và CNXH đã đến “hồi kết thúc”... Tuy nhiên, từ thực tiễn, chúng ta hoàn toàn có cơ sở để bác bỏ những luận điệu trên. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu là sụp đổ của mô hình cụ thể chứ không phải sụp đổ hay cáo chung của Chủ nghĩa Mác-Lênin, của CNXH như các thế lực thù địch, phản động thường rêu rao, xuyên tạc. Ở khía cạnh cụ thể trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin luận giải một số nguyên nhân nội tại của quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có ý nghĩa quyết định đẩy Đảng Cộng sản Liên Xô tới chỗ tan rã và cường quốc XHCN sụp đổ.
Sai lầm về đường lối chính trị
Ngay sau Cách mạng Tháng Mười, V.I.Lênin từng cảnh báo: “Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền khó hơn”. Vì thế, V.I.Lênin luôn yêu cầu phải kiên quyết và kịp thời đấu tranh ngăn chặn mọi biểu hiện suy thoái về chính trị trong Đảng. Trong những năm dưới sự lãnh đạo của V.I.Lênin và J.Stalin, Đảng Cộng sản Liên Xô đã tiến hành hiệu quả cuộc đấu tranh này. Tuy nhiên, sau khi J.Stalin qua đời (1953), quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về đường lối chính trị trong Đảng Cộng sản Liên Xô bắt đầu bộc lộ biểu hiện rất nguy hiểm.
Trong bản báo cáo mật bên lề Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô khóa XX (1956) đã có chủ trương “xét lại” Chủ nghĩa Mác-Lênin, phủ nhận những thành tựu vĩ đại của Liên Xô trong những năm sau Cách mạng Tháng Mười và trong cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại (1941-1945). Nếu không được các đảng viên trung kiên trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngăn chặn, chủ trương này có thể đưa Liên Xô tới chỗ tan rã. Chính vì thế, giới nghiên cứu lịch sử ở Nga cho rằng chủ trương “xét lại” Chủ nghĩa Mác-Lênin là “cải tổ 1.0”, tuy chưa dẫn tới tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô nhưng đã để lại “di chứng” nặng nề và đã phát tác trong giai đoạn “cải tổ 2.0” thập niên 1980 được khởi xướng bởi M.Gorbachyov trên cương vị Tổng Bí thư và A.Yakovlev trên cương vị Trưởng ban Tuyên truyền của Đảng Cộng sản Liên Xô. Về sau, chính M.Gorbachyov và A.Yakovlev công khai thừa nhận mục tiêu hướng tới của “cải tổ” là xóa bỏ Đảng Cộng sản và chế độ XHCN ở Liên Xô.
Sai lầm trong công tác cán bộ của Đảng
Đường lối cán bộ của Đảng Cộng sản Liên Xô do V.I.Lênin đề xướng dựa trên các nguyên tắc kết hợp việc tuyển chọn cán bộ có đức, có tài với công tác kiểm tra quá trình thực hiện công tác của cán bộ. V.I.Lênin chủ trương “tin tưởng là tốt, nhưng kiểm tra vẫn tốt hơn”. Kiểm tra nhằm kịp thời cảnh báo và ngăn chặn quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
Các thế hệ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô sau này đã không tuân theo di huấn của Lênin, vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc trong công tác cán bộ của Đảng. Một là, nặng về hình thức trong đào tạo cán bộ theo kiểu “thầy đọc, trò chép và học thuộc lòng”. Vì thế, kiến thức lý luận về Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ nằm trên sách vở mà không được vận dụng vào thực tiễn. Nhiều cán bộ tuy được cấp bằng hoặc chứng chỉ nhưng năng lực lãnh đạo kém, không có khả năng dự phòng và bảo vệ, thậm chí vô cảm trước quá trình diệt vong của Đảng. Hai là, khi tuyển chọn và bổ nhiệm cán bộ thường xuất phát từ tình cảm cá nhân, yêu-ghét chủ quan, cố ý nâng đỡ những kẻ thân tín, bè phái. Ba là, công tác đánh giá cán bộ trở thành công cụ để thực hiện ý đồ của cá nhân người lãnh đạo chứ không nhằm mục đích chọn cán bộ tốt.
Vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng
V.I.Lênin là người đề ra nguyên tắc tập trung dân chủ để xây dựng chính đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Theo nguyên tắc này, thiểu số phục tùng đa số, bộ phận phục tùng tập thể và các cơ quan lãnh đạo cấp dưới phục tùng cơ quan lãnh đạo cấp trên. V.I.Lênin cho rằng, nếu không có tập trung, Đảng sẽ trở thành một “câu lạc bộ” lộn xộn, còn nếu xa rời dân chủ, Đảng sẽ trở thành một tổ chức quan liêu, độc đoán, chuyên quyền. V.I.Lênin đã nhiều lần cảnh báo sự vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ là hiểm họa đe dọa sự sống còn của Đảng và chế độ XHCN.
Các thế hệ lãnh đạo sau này, nhất là M.Gorbachyov đã xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ, lạm dụng quyền lực để loại bỏ những cán bộ trung thành và kiên định với lý tưởng XHCN, bổ nhiệm những kẻ ủng hộ chủ trương “cải tổ” sai lầm của ông. Về sau, chính A.Yakovlev thừa nhận, M.Gorbachyov sử dụng “cơ chế toàn trị” để phá hoại Đảng Cộng sản Liên Xô.
Sự thoái hóa, biến chất về đạo đức, lối sống
Sự thoái hóa, biến chất về đạo đức, lối sống trong Đảng Cộng sản Liên Xô trở nên đặc biệt nghiêm trọng trong thời kỳ L.Brezhnev và M.Gorbachyov cầm quyền với những biểu hiện rất đa dạng như tham quyền cố vị; bệnh thành tích, thích được khen thưởng và hưởng lạc; giả dối; tham ô... Biểu hiện điển hình nhất về bệnh thành tích là L.Brezhnev. Tính tổng cộng, L.Brezhnev đã nhận 114 huân chương, trong đó có 8 Huân chương Lênin; 2 Huân chương Sao Đỏ, Huân chương Chiến thắng; 2 Huân chương Cách mạng Tháng Mười... Do không đáp ứng các tiêu chuẩn được nhận, những huân chương dành cho L.Brezhnev đã gây phản ứng rất tiêu cực trong xã hội, làm mất uy tín không chỉ trong mà cả ngoài Đảng.
Trong Đảng hình thành tầng lớp đặc quyền, đặc lợi. Ở Liên Xô thời đó tồn tại hệ thống cửa hàng đặc biệt dành cho cá nhân và gia đình các thành viên của Ban Chấp hành Trung ương Đảng-nơi họ có thể mua bất cứ thứ hàng hóa xa xỉ nào được nhập khẩu từ phương Tây. Vì thế, nhân dân coi lãnh đạo cấp cao trong Đảng như là một “giai cấp mới” trong xã hội Xô viết, tạo hố ngăn cách ngày càng lớn giữa Đảng và nhân dân. Sự tha hóa, biến chất trong Đảng lên tới đỉnh điểm trong giai đoạn “cải tổ”, trong đó lợi dụng những khe hở của pháp luật trong quá trình tư nhân hóa, các tầng lớp đặc quyền, đặc lợi trong bộ máy lãnh đạo Đảng và quản lý nhà nước mặc sức tham nhũng, vơ vét của công, dẫn tới bước ngoặt căn bản là thúc đẩy quá trình tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô và nhà nước Xô viết.
(còn nữa)
Đại tá LÊ THẾ MẪU, nguyên Trưởng phòng Thông tin Khoa học Quân sự, Viện Chiến lược Quốc phòng
Bài viết đã cung cấp một cái nhìn sâu sắc về sự sụp đổ của Liên Xô, chỉ ra rằng không phải Cách mạng Tháng Mười là "sai lầm của lịch sử", mà sự tan rã của Liên Xô bắt nguồn từ một loạt các yếu tố nội tại, đặc biệt là quá trình “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” trong Đảng Cộng sản Liên Xô. Những yếu tố này, kết hợp với các sai lầm trong đường lối chính trị, công tác cán bộ, và sự vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, đã dẫn đến sự suy yếu và cuối cùng là sự sụp đổ của một cường quốc XHCN.
Trả lờiXóaCách mạng Tháng Mười, mặc dù đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử thế giới, nhưng những vấn đề nội bộ trong Đảng Cộng sản Liên Xô bắt đầu từ những năm 1950 và đặc biệt là dưới thời M.Gorbachyov, đã dần làm suy yếu sức mạnh của Đảng. Việc “xét lại” Chủ nghĩa Mác-Lênin và những chính sách “cải tổ” không kiểm soát đã tạo ra một cuộc khủng hoảng về lý luận và thực tiễn, khiến cho những người lãnh đạo không còn kiên định với lý tưởng cách mạng ban đầu. Điều này đã tạo cơ hội cho những kẻ cơ hội lợi dụng tình hình để xuyên tạc giá trị của Cách mạng Tháng Mười và CNXH.
Bên cạnh đó, bài viết cũng chỉ rõ sự thoái hóa trong Đảng, đặc biệt là trong giai đoạn cuối cùng của Liên Xô, khi hệ thống đặc quyền đặc lợi hình thành, khiến cho mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân ngày càng xa cách. Chính những biểu hiện tham nhũng, bệnh thành tích, và sự lạm dụng quyền lực đã làm cho Đảng mất uy tín nghiêm trọng trong mắt xã hội. Đây là một bài học lớn về sự cần thiết phải duy trì sự trong sạch và kiên định của Đảng, cũng như tầm quan trọng của công tác cán bộ và các nguyên tắc xây dựng đảng trong bất kỳ chế độ chính trị nào.
Bài viết này không chỉ là một phân tích lịch sử về sự tan rã của Liên Xô mà còn là một lời cảnh tỉnh đối với các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay, đặc biệt là Việt Nam. Những sai lầm trong việc giữ gìn bản sắc chính trị, sự thoái hóa về đạo đức, và sự thiếu kiên quyết trong công tác lãnh đạo có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng, làm suy yếu chế độ và đất nước. Thực tiễn lịch sử của Liên Xô chính là một minh chứng rõ ràng cho việc bảo vệ và củng cố nền tảng lý luận, đạo đức cách mạng trong mọi giai đoạn phát triển của xã hội.
Bài viết đã rất khéo léo phân tích những yếu tố dẫn đến sự tan rã của Liên Xô, và qua đó làm rõ nguyên nhân sâu xa không phải từ bản chất của Cách mạng Tháng Mười mà là từ những sai lầm trong quá trình lãnh đạo và quản lý của Đảng Cộng sản Liên Xô. Cách mạng Tháng Mười được coi là một sự kiện vĩ đại, mở ra một thời kỳ mới cho nhân loại, và đã khẳng định rõ ràng vai trò của chủ nghĩa xã hội trong việc mang lại tự do, công bằng cho nhân dân lao động. Tuy nhiên, qua những phân tích trong bài viết, chúng ta thấy rằng những sai lầm trong đường lối chính trị, công tác cán bộ và sự thay đổi về nguyên tắc tổ chức đã tạo ra một lớp vỏ yếu ớt, dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống XHCN mà không phải do bản thân Cách mạng Tháng Mười sai lầm.
Trả lờiXóaQuá trình "tự diễn biến" và "tự chuyển hóa" trong Đảng Cộng sản Liên Xô, đặc biệt dưới thời kỳ "cải tổ", là một ví dụ điển hình của sự phân rã từ bên trong. Thực tế cho thấy rằng các chủ trương "xét lại" Chủ nghĩa Mác-Lênin và thay đổi đường lối chính trị đã tạo ra những mâu thuẫn nội bộ trong Đảng, khiến cho nhiều thành viên không còn kiên định với lý tưởng cách mạng. Hơn nữa, sự thoái hóa trong công tác cán bộ, với việc bổ nhiệm cán bộ thiếu năng lực và phẩm chất, cũng làm suy yếu hệ thống chính trị và góp phần không nhỏ vào sự suy vong của Liên Xô.
Đặc biệt, bài viết đã chỉ ra những sai lầm trong việc áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ, một trong những nguyên lý quan trọng nhất trong xây dựng Đảng. Việc bỏ qua nguyên tắc này không chỉ làm tăng sự độc đoán mà còn gây chia rẽ nội bộ, tạo cơ hội cho những người lãnh đạo có xu hướng lạm dụng quyền lực để thực hiện các chính sách không đúng đắn, đi ngược lại lợi ích của nhân dân. Những sự thay đổi trong công tác cán bộ, cùng với sự hình thành của tầng lớp đặc quyền trong Đảng, đã tạo ra sự xa cách giữa Đảng và quần chúng nhân dân, làm mất đi sức mạnh của Đảng, từ đó tạo ra những cơ hội cho các thế lực thù địch xuyên tạc và phá hoại chế độ.
Những phân tích trong bài viết không chỉ phản ánh một thời kỳ lịch sử của Liên Xô mà còn có giá trị đối với các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay, đặc biệt là Việt Nam. Câu chuyện của Liên Xô là một lời nhắc nhở rằng sự vững mạnh của một Đảng chính trị không chỉ dựa vào lý luận mà còn phải gắn liền với thực tiễn. Việc duy trì sự trong sạch của Đảng, kiên định với lý tưởng cách mạng, và luôn cảnh giác trước các nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là hết sức quan trọng để bảo vệ sự nghiệp cách mạng và xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Bài viết đã thể hiện một cái nhìn sắc bén về nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô, đồng thời làm rõ một cách chi tiết về các yếu tố nội tại trong quá trình "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" của Đảng Cộng sản Liên Xô. Cách mạng Tháng Mười, với tất cả tầm vóc và ý nghĩa lịch sử to lớn, đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử thế giới. Cuộc cách mạng này không chỉ mở ra một kỷ nguyên mới cho đất nước Nga mà còn tạo ra ảnh hưởng sâu rộng đến các phong trào cách mạng ở các quốc gia khác, khẳng định sự cần thiết của một xã hội công bằng, bình đẳng. Tuy nhiên, như bài viết đã chỉ rõ, sự sụp đổ của Liên Xô không phải là sự thất bại của lý tưởng chủ nghĩa xã hội mà là kết quả của những sai lầm nghiêm trọng trong quản lý và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô.
Trả lờiXóaMột trong những yếu tố quan trọng được bài viết nhấn mạnh là quá trình "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong Đảng, đặc biệt là sau khi Stalin qua đời. Các yếu tố chính trị, công tác cán bộ và tổ chức Đảng đã trở nên lỏng lẻo, khiến cho các nguyên lý nền tảng của chủ nghĩa Marx-Lenin bị phai nhạt, và dẫn đến sự mất phương hướng trong công cuộc xây dựng và phát triển xã hội chủ nghĩa. Việc "xét lại" các nguyên tắc của Chủ nghĩa Mác-Lênin ngay từ sau Đại hội XX của Đảng Cộng sản Liên Xô đã làm dấy lên những cuộc tranh luận nội bộ, làm suy yếu niềm tin vào lý tưởng cộng sản và tạo ra những mâu thuẫn không thể hòa giải trong Đảng. Điều này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự đoàn kết và sức mạnh lãnh đạo của Đảng, mở đường cho các thế lực phản động và các yếu tố chống đối bên ngoài xâm nhập và phá hoại chế độ.
Bài viết cũng đã chỉ ra rằng một trong những sai lầm lớn là việc thiếu kiên quyết trong công tác cán bộ và đào tạo, quản lý đội ngũ lãnh đạo. Việc tuyển chọn cán bộ chủ yếu dựa trên các mối quan hệ cá nhân, sự bảo trợ của các nhóm lợi ích thay vì dựa vào năng lực thực sự đã dẫn đến tình trạng "thăng quan tiến chức" của những người thiếu năng lực và phẩm chất. Hệ quả là, nhiều cán bộ thiếu trách nhiệm và không đủ khả năng lãnh đạo đất nước trong thời kỳ khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh Liên Xô phải đối mặt với những thách thức từ bên trong và bên ngoài. Sự thoái hóa về đạo đức trong Đảng cũng là một yếu tố quan trọng làm suy yếu lòng tin của quần chúng đối với lãnh đạo, đồng thời tạo ra sự chia rẽ trong xã hội.
Ngoài ra, bài viết cũng nêu bật một vấn đề quan trọng là sự xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ, một trong những nguyên tắc cốt lõi trong xây dựng và duy trì sức mạnh của Đảng Cộng sản. Việc lạm dụng quyền lực và tập trung quá nhiều quyền hành vào tay một nhóm nhỏ lãnh đạo đã tạo ra sự độc đoán, thiếu dân chủ, làm tổn hại đến sự đoàn kết nội bộ. Chính sự thay đổi này đã tạo cơ hội cho các nhóm phản động lợi dụng và tìm cách phá hoại từ bên trong. Đây cũng là bài học quan trọng đối với các Đảng Cộng sản hiện nay, nhất là trong việc duy trì sự trong sạch, kiên định với lý tưởng cách mạng và không để sự tự diễn biến, tự chuyển hóa diễn ra.
Cuối cùng, bài viết không chỉ là lời cảnh tỉnh đối với những người làm công tác lãnh đạo, mà còn là bài học cho những ai đang cống hiến cho sự nghiệp xây dựng một xã hội công bằng và dân chủ. Việc giữ vững lý tưởng, kiên định với đường lối đã chọn, đồng thời cảnh giác trước các nguy cơ tha hóa, biến chất là điều vô cùng cần thiết. Những sai lầm trong quản lý và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô là một bài học đau thương nhưng rất quý giá, để các quốc gia, trong đó có Việt Nam, có thể rút ra những kinh nghiệm để bảo vệ và phát triển chế độ xã hội chủ nghĩa trong thời đại mới.