Một quan điểm sai trái cần phải phê phán

 

Một quan điểm sai trái cần phải phê phán

GS,TS Đàm Đức Vượng

Trên trang mạng gần đây, đăng bài viết: “Văn hóa ơn Đảng, ơn Bác, văn hóa sợ hãi chính quyền” của một phần tử khác chính kiến. Bài viết bình luận: “Chế độ độc tài cộng sản tuyên truyền người dân Việt Nam phải ơn Đảng, ơn Bác Hồ! Chế độ làm như vậy theo kiểu phong kiến, coi người dân như nô lệ, phận kiếp người như nằm hết trong tay họ, không có họ thì không có đất nước Việt Nam”. “Chế độ độc tài toàn trị cộng sản xây dựng văn hóa ơn Đảng, ơn Bác phù hợp với văn hóa Khổng giáo (Nho giáo) tức là con người phải ơn vua hơn cả bậc sinh thành ra mình, tức là chống lại sự phản biện của dân chúng trước bất công xã hội, dù vua chúa có sai cũng phải im lặng”. “Chẳng qua chế độ độc tài lợi dụng người dân Việt Nam thiếu hiểu biết, xây dựng một nền văn hóa ơn huệ thông qua các hoạt động tuyên truyền rầm rộ, thông qua các bài hát công ơn của Đảng, Bác, tránh chống đối của người dân trước bất công xã hội, oan sai, tham nhũng tràn lan, tạo ra tâm lý không có Đảng thì làm gì có cơm no, áo ấm, nhà cửa, xe cộ, được sang nước ngoài sinh sống, học tập nên người”. “Nên nhớ người dân nuôi cả bộ máy chính quyền nhà nước cộng sản từ trung ương đến địa phương bằng hàng trăm thứ thuế, rồi chi lương nuôi cả hệ thống chính trị Đảng Cộng sản, nên sòng phẳng với nhau, không có ai cho không ai mà phải ơn huệ”. Rồi bài viết đề nghị một cách ngạo nghễ: “Muốn xây dựng văn hóa văn minh bắt buộc phải xóa bỏ văn hóa “ơn Đảng ơn Bác” và thói quen sợ hãi chính quyền khi mình làm đúng”…

Rõ ràng là không đúng khi ông ta viết những dòng trên đây. Sự thật thì vấn đề là Đảng không bao giờ bắt buộc người dân phải ca ngợi Đảng. Đó là sự tự nguyện của người dân. Người dân thấy Đảng anh minh sáng suốt đã mang lại độc lập, tự do cho Tổ quốc, cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, nên người dân mới ca ngợi Đảng, ca ngợi Bác Hồ. Đó là sự thật hiển nhiên, là sự tự nguyện của người dân đối với Đảng và Bác Hồ kính yêu.

Việc người dân ca ngợi Đảng, Bác hoàn toàn không phải theo kiểu phong kiến và nền văn hóa ơn huệ như người viết bài đã nêu trên, mà là quan hệ với tinh thần Đảng – Dân – Dân – Đảng, kết thành một khối thống nhất vững chắc để tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nếu nói là văn hóa thì đó là văn hóa ơn Đảng, ơn Bác.

Phải hiểu rằng, chế độ cộng sản hoàn toàn khác hẳn với chế độ phong kiến. Chế độ phong kiến là một kiểu hình thái kinh tế – xã hội, thay thế chế độ chiếm hữu nô lệ và có trước chủ nghĩa tư bản; là chế độ người bóc lột người. Cơ cấu kinh tế của chế độ phong kiến, mặc dù có những hình thức hết sức khác nhau và trong những thời gian khác nhau, nhưng có đặc điểm là tư liệu sản xuất chính, tức ruộng đất, thuộc quyền sở hữu độc quyền của giai cấp thống trị là chúa phong kiến, địa chủ và kinh tế được tiến hành bằng những sức lực và bằng và những phương tiện kỹ thuật của giai cấp bị bóc lột, giai cấp nông dân. Quan hệ kinh tế chủ yếu của chế độ phong kiến được thể hiện trong địa tô phong kiến, tức là trong sản phẩm thặng dư bị chế độ phong kiến lấy của những người trực tiếp sản xuất là nông dân. Sự đối kháng của xã hội phong kiến xây dựng trên sự bóc lột nông dân với nhiều hình thức. Đặc điểm của hệ tư tưởng phong kiến là dựa trên tôn giáo như đạo Cơ đốc, đạo Hồi, đạo Phật, đạo Khổng,… Thời kỳ cuối của chế độ phong kiến được đánh dấu bằng sự ra đời những công trường thủ công, mầm mống của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, báo hiệu những cuộc cách mạng tư sản đầu tiên sắp diễn ra.

Còn chế độ cộng sản không phải là chế độ độc tài, mà là biểu hiện giai đoạn cao nhất của hình thái kinh tế – xã hội cộng sản chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất; là hình thái kinh tế – xã hội mà sự phát triển toàn diện, không hạn chế của mỗi người trở thành mục đích trực tiếp của sự phát triển nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Khi hình thái cộng sản chủ nghĩa chuyển sang giai đoạn phát triển cao thì những quy tắc thống nhất được mọi người thừa nhận của chế độ cộng sản chủ nghĩa sẽ được thiết lập, và việc tuân theo những quy tắc đó sẽ trở thành nhu cầu bức thiết của mọi người; các dân tộc sẽ ngày càng xích lại gần nhau cho tới khi mọi sự khác biết giữa họ không còn nữa. Chủ nghĩa cộng sản là một chế độ xã hội không có giai cấp, trong đó chỉ có chế độ sở hữu toàn dân duy nhất về tư liệu sản xuất và mọi thành viên trong xã hội đều được bình đẳng về mọi mặt; trong đó, đi đôi với sự phát triển toàn diện của con người, các lực lượng sản xuất cũng sẽ phát triển trên cơ sở của một nền khoa học và kỹ thuật luôn phát triển; tất cả mọi nguồn của cải của xã hội đều dồi dào, nhân dân thật sự có cuộc sống độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc.

Có thể nói, chủ nghĩa cộng sản là một quần hợp cộng đồng, trong đó, đạt được và thực hiện được đầy đủ những quan hệ hài hòa giữa cá nhân và xã hội.

Chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu, giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản. Cơ sở của sự khác biệt giữa chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội là mức độ chín muồi về kinh tế – xã hội. Mức độ chín muồi về kinh tế – xã hội của chủ nghĩa cộng sản cao hơn chủ nghĩa xã hội. Đặc điểm của quan hệ sản xuất dưới chế độ xã hội chủ nghĩa không phải là sự thống trị và sự lệ thuộc nữa, mà là sự hợp tác trên tinh thần đồng chí và giúp đỡ nhau giữa những con người đã thoát khỏi chế độ bóc lột. Về mặt này không có sự khác nhau giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Nhưng dưới chủ nghĩa xã hội, chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất tồn tại dưới hai hình thức: sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể (hợp tác xã, nông trang); còn dưới chủ nghĩa cộng sản thì chỉ có một chế độ sở hữu duy nhất, đó là chế độ sở hữu toàn dân. Dưới chủ nghĩa xã hội vẫn còn tồn tại những sự khác biệt giữa giai cấp công nhân và nông dân; những sự khác biệt này sẽ mất đi cùng với việc xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội là mỗi người làm theo năng lực hưởng theo số lượng và chất lượng lao động và theo nguyên tắc của chủ nghĩa cộng sản là mỗi người làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu. Cùng với việc xây dựng chủ nghĩa xã hội phát triển, chủ nghĩa xã hội được hoàn thiện trên cơ sở của bản thân mình.

Việc chủ nghĩa xã hội chuyển dần thành chủ nghĩa cộng sản sẽ diễn ra trong một thời gian lịch sử rất dài, và trong tiến trình của nó sẽ diễn ra việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật trên cơ sở đẩy nhanh tiến bộ khoa học và kỹ thuật. Đây là khâu quyết định trong tất cả những nhiệm vụ kinh tế – xã hội, phát triển quan hệ xã hội và xây dựng con người mới, con người phát triển toàn diện, kết hợp hài hòa sự phong phú về vật chất và tinh thần, trong sạch về đạo đức và hoàn thiện về thể lực.

Hiện nay, trên thế giới chưa có nước nào đạt tới chủ nghĩa xã hội phát triển và chủ nghĩa cộng sản, nhưng tương lai của nó nhất định sẽ có những nước đạt tới chủ nghĩa xã hội phát triển và chủ nghĩa cộng sản. Việt Nam hiện đang ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, phải trải qua thời kỳ chủ nghĩa xã hội phát triển rồi mới tiến đến chủ nghĩa cộng sản được. Hy vọng một ngày nào đó, chủ nghĩa xã hội phát triển và chủ nghĩa cộng sản sẽ được thực hiện ở Việt Nam.

Về chế độ cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa cũng khác hẳn với Khổng giáo (Nho giáo), tuyệt đối không thể đánh đồng hai cái đó là một. Khổng Tử  (Đạo Khổng, Nho giáo) là một trong những trào lưu tư tưởng chính của Trung Quốc cổ đại, có nhiều đóng góp quan trọng cho đời về đạo học, đạo làm quan, đạo làm người. Người sáng lập ra Đạo Khổng là Khổng Tử (551-479 trước Công nguyên). Trong nhiều thế kỷ, Đạo Khổng là hệ tư tưởng thống trị của Trung Quốc phong kiến. Đạo Phật hướng mạnh về cứu giúp những người nghèo khổ. Còn Đạo Khổng lại hướng về các tầng lớp trên, không cứu giúp những người nghèo khổ. Đây là chỗ hạn chế nhất của Đạo Khổng so với Đạo Phật. Trong cách dùng người, Khổng Tử ít nói đến tài năng, mà chỉ nói về đạo đức.

Có lẽ người đánh giá khá đầy đủ về nhân vật Khổng Tử chính là Nguyễn Ái Quốc. Ngày 20-2-1927, tại Quảng Châu, Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc viết bài: “Khổng Tử” đăng trên báo Thanh Niên, số 80. Nguyễn Ái Quốc viết: “Khổng Tử sống ở thời Chiến quốc1. Đạo đức của ông, học vấn của ông và những kiến thức của ông làm cho những người cùng thời và hậu thế phải cảm phục. Ông nghiên cứu và học tập không mệt mỏi, ông không cảm thấy xấu hổ tí nào khi học bề dưới, còn việc không được mọi người biết đến, đối với ông chẳng quan trọng gì”. “Đạo đức của ông là hoàn hảo, nhưng nó không thể dung hợp được với các trào lưu tư tưởng hiện đại, giống như một cái nắp tròn làm thế nào có thể đậy kín được cái hộp vuông”. “Khổng giáo dựa trên ba sự phục tùng: quân – thần; phụ – tử; phu phụ và 5 đức chủ yếu: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín”. “Nói tóm lại, ông rõ ràng là người phát ngôn bênh vực những người bóc lột chống những người bị áp bức”2.   

Trên đây, tôi đã phân tích về sự khác nhau hoàn toàn giữa chế độ phong kiến với chế độ cộng sản và chế độ xã hội chủ nghĩa để bác lại những nội dung của người khác chính kiến viết; đồng thời, cũng đã phân tích rõ ảnh hưởng của Khổng giáo (Nho giáo) đối với con người Việt Nam như thế nào, có đúng như Tác giả bài viết “Văn hóa ơn Đảng, ơn Bác, văn hóa sợ hãi chính quyền” không? Người viết bài cho rằng, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam giống với chế độ phong kiến và chế độ Đạo Khổng ở Việt Nam là một sự so sánh khập khiễng, hoàn toàn không đúng, nhất định bị dư luận xã hội lên án.

——

1. Sự thực thì Khổng Tử sống ở thời Xuân thu, chứ không phải thời Chiến quốc. Mạnh Tử mới sống ở thời Chiến quốc. Có thể người dịch nhầm hoặc Tác giả viết nhầm.

2. Hồ Chí Minh Toàn tập, 15 tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 2, tr. 561, 562.

3 nhận xét:

  1. Bài viết vừa qua đã đưa ra một cái nhìn thiếu căn cứ về sự khác biệt giữa chế độ cộng sản và chế độ phong kiến, cũng như sự so sánh sai lầm giữa văn hóa ơn Đảng, ơn Bác với những đặc điểm của văn hóa Khổng giáo. Trước hết, chúng ta cần làm rõ rằng, việc người dân tự nguyện thể hiện lòng biết ơn đối với Đảng và Bác Hồ không phải là một sự áp đặt hay tuyên truyền, mà là một sự ghi nhận chân thành đối với những đóng góp to lớn của Đảng và Bác Hồ trong việc giành lại độc lập, tự do cho dân tộc, cũng như xây dựng một đất nước hòa bình, ấm no và phát triển như ngày hôm nay. Điều này không thể so sánh với một chế độ phong kiến độc đoán, nơi quyền lực của vua chúa không bị kiểm soát và người dân phải sống trong sự áp bức.

    Thực tế, chế độ cộng sản ở Việt Nam dựa trên một nền tảng hoàn toàn khác biệt so với chế độ phong kiến. Cộng sản chủ trương quyền lực thuộc về nhân dân, với mục tiêu xây dựng một xã hội công bằng, bình đẳng, không còn sự phân biệt giai cấp. Mối quan hệ giữa Đảng và dân là quan hệ đồng hành, hợp tác, chứ không phải sự thống trị một chiều. Trong khi đó, chế độ phong kiến và đạo Khổng giáo lại thúc đẩy sự phục tùng và chấp nhận sự áp bức, bất công trong xã hội.

    Bài viết cũng đề cập đến sự ảnh hưởng của Khổng giáo đối với văn hóa Việt Nam, nhưng lại không nhận ra rằng tư tưởng Khổng giáo, dù có những giá trị đạo đức nhất định, nhưng lại không thể đáp ứng được yêu cầu phát triển xã hội hiện đại, đặc biệt là trong bối cảnh đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng một xã hội không có sự phân biệt giai cấp, nơi quyền lợi của mỗi cá nhân đều được tôn trọng.

    Vì vậy, việc so sánh chế độ cộng sản với chế độ phong kiến hay đạo Khổng giáo là một sự đánh giá thiếu công bằng và chính xác. Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn chú trọng đến quyền lợi của nhân dân, và không có sự áp đặt hay bức ép trong việc bày tỏ lòng biết ơn đối với Đảng và Bác Hồ. Mọi hành động, mọi quyết định đều xuất phát từ mục tiêu cao cả là xây dựng một đất nước Việt Nam mạnh mẽ, tự do và hạnh phúc, xứng đáng với những hy sinh của bao thế hệ.

    Trả lờiXóa
  2. Bài viết đã nêu lên một số quan điểm có phần chủ quan và thiếu căn cứ lịch sử khi so sánh chế độ cộng sản với chế độ phong kiến và văn hóa Khổng giáo. Đầu tiên, chúng ta cần hiểu rằng, trong xã hội Việt Nam hiện đại, việc người dân thể hiện lòng biết ơn đối với Đảng và Bác Hồ không phải là sự áp đặt hay tuyên truyền mà là một sự tự nguyện, xuất phát từ lòng biết ơn sâu sắc đối với những đóng góp to lớn của Đảng và Bác trong công cuộc giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước. Sự tự nguyện này là kết quả của sự công nhận rõ ràng về những thành tựu mà Đảng và Bác đã đạt được, đặc biệt là trong việc bảo vệ độc lập, tự do và phát triển xã hội. Những người chỉ trích chế độ bằng cách so sánh nó với phong kiến hay Khổng giáo thực sự đã bỏ qua một thực tế quan trọng: Đảng Cộng sản Việt Nam luôn lấy dân làm gốc, đồng hành cùng nhân dân trong việc xây dựng một đất nước phồn vinh, công bằng, tự do.

    Chế độ phong kiến, ngược lại, là một hệ thống nơi quyền lực tuyệt đối của vua chúa được đặt trên sự bóc lột và áp bức người dân, trong khi chế độ cộng sản đặt nền tảng trên nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân, với mục tiêu xây dựng một xã hội không có sự phân biệt giai cấp, nơi mọi người đều có quyền lợi bình đẳng. Sự khác biệt cơ bản này không thể đánh đồng với những đặc điểm của phong kiến, nơi người dân không có quyền tự quyết và luôn phải sống trong sự tôn sùng và phục tùng mù quáng. Việc so sánh giữa chế độ cộng sản và phong kiến là sự đánh giá không công bằng, bởi chế độ cộng sản, qua đó, khẳng định quyền tự do và quyền lợi của nhân dân.

    Hơn nữa, văn hóa ơn Đảng, ơn Bác, mà chúng ta đang thực hiện, thực chất là văn hóa lòng biết ơn sâu sắc đối với những hy sinh và đóng góp của Đảng trong việc xây dựng một đất nước Việt Nam độc lập, tự do, và giàu mạnh. Đây không phải là một sự sùng bái mù quáng, mà là một biểu hiện của sự công nhận thực tế đối với những thành quả mà Đảng đã đạt được cho dân tộc. Câu chuyện này khác biệt hoàn toàn với những đặc điểm của văn hóa phong kiến và Khổng giáo, nơi sự phục tùng không phải xuất phát từ lòng biết ơn, mà từ sự áp bức và sự đàn áp quyền tự do của người dân.

    Trả lờiXóa
  3. Bài viết đưa ra quan điểm cho rằng chế độ cộng sản ở Việt Nam giống với chế độ phong kiến và có sự liên hệ với tư tưởng Khổng giáo là một nhận định thiếu căn cứ và không phản ánh đúng bản chất của xã hội Việt Nam hiện nay. Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn bảo vệ quyền lợi của nhân dân, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, và phát triển bền vững, hoàn toàn khác biệt với chế độ phong kiến, nơi mà quyền lực tập trung vào tay một số ít, và người dân phải sống trong sự phục tùng tuyệt đối. Như vậy, việc so sánh chế độ cộng sản với chế độ phong kiến không thể thuyết phục, vì chế độ cộng sản là một giai đoạn phát triển mới của xã hội, hướng đến việc xóa bỏ sự phân biệt giai cấp và xây dựng một xã hội công bằng hơn.

    Văn hóa ơn Đảng, ơn Bác là biểu hiện của lòng biết ơn đối với những đóng góp vô giá của Đảng và Bác Hồ trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Không thể coi đây là sự áp đặt hay một hình thức "ơn huệ" như trong các chế độ phong kiến, nơi mà người dân sống trong sự khổ cực, bóc lột. Trái lại, trong chế độ cộng sản, sự tự nguyện và lòng biết ơn là một phần của mối quan hệ giữa Đảng và dân, một mối quan hệ hợp tác, đồng hành, để xây dựng một đất nước Việt Nam giàu mạnh, phồn vinh.

    Thực tế, chế độ cộng sản cũng không có sự liên quan hay ảnh hưởng trực tiếp từ tư tưởng Khổng giáo, một tư tưởng vốn coi trọng các giá trị đạo đức trong mối quan hệ xã hội, nhưng không thể đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội hiện đại. Đảng Cộng sản Việt Nam, qua những cải cách và chương trình phát triển, đã thể hiện rõ ràng tầm nhìn và trách nhiệm trong việc đưa đất nước tiến lên, từ việc bảo vệ độc lập dân tộc đến xây dựng một xã hội văn minh và phát triển bền vững. Chủ nghĩa cộng sản, với mục tiêu xóa bỏ giai cấp và xây dựng một xã hội công bằng, chính là một hệ thống xã hội phù hợp với xu thế phát triển của nhân loại, không thể so sánh với các chế độ phong kiến hay tư tưởng Khổng giáo.

    Trả lờiXóa