Trong thế kỷ XX, sự ra đời của Liên hợp quốc năm 1945, đã mở
ra một thời kỳ mới trong lịch sử quan hệ quốc tế. Mặc dù vẫn còn có sự khác
biệt và mâu thuẫn về hệ tư tưởng, chính trị, kinh tế, song từ đó các quốc gia,
dân tộc đã có thể giải quyết các bất đồng và hợp tác với nhau dựa trên
nguyên tắc: Bình đẳng, tôn trọng chủ quyền quốc gia và giải quyết các tranh
chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình. Cũng trong sự kiện lịch sử này,
quyền con người (QCN) được xem là một mục tiêu, một trụ cột của Hiến chương và
hoạt động của Liên hợp quốc hơn 60 năm qua.
Gắn liền với mục tiêu bảo vệ hòa bình, Tuyên ngôn thế giới
về quyền con người (TNTGVQCN) còn khẳng định những tư tưởng chính trị quan
trọng cả về mặt triết lý và thực tiễn như “khát vọng thoát khỏi nỗi sợ hãi vì
đói nghèo”; “QCN phải được bảo vệ bằng nhà nước pháp quyền”; “Các quốc gia
thành viên tự cam kết... thúc đẩy sự tôn trọng và bảo vệ QCN”[2]...
Thực hiện nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc, sau hai
năm soạn thảo, Bản TNTGVQCN [3] đã hoàn thành và được Đại hội đồng Liên hợp
quốc thông qua. Để ghi nhớ ý nghĩa, tầm quan trọng của bản TNTGVQCN, Liên hợp
quốc đã quyết định lấy ngày 10 tháng 12 - ngày Liên hợp quốc thông qua bản
Tuyên ngôn này làm Ngày Nhân quyền thế giới.
Đối với Cách mạng Việt Nam, QCN được xem là bản chất của chế
độ xã hội, là mục tiêu của cách mạng. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết
trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 và đã trở thành cương lĩnh, đường lối, chính
sách của Đảng, Hiến pháp, pháp luật Nhà nước xuyên suốt các giai
đoạn cách mạng, từ khi dân tộc ta giành được độc lập đến nay.
Trên thế giới ngày nay vẫn đang tồn tại những thế lực cường
quyền sử dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền làm công cụ để can thiệp vào công việc
nội bộ của các quốc gia, dân tộc, nhất là đối với các nước đi theo con đường
XHCN. Đối với Việt Nam, các thế lực thù địch trong và ngoài nước đã và đang
thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn, lật đổ... song điều đó không
làm mất đi ý nghĩa và tầm quan trọng của bản TNTGVQCN.
Bản Tuyên ngôn nhân quyền ra đời không phải là một sự ngẫu
nhiên, cũng không phải là phát kiến của cá nhân, mà là một nỗ lực chung của các
dân tộc, trong đó có Liên Xô trước đây, các nước XHCN Đông Âu, sau cuộc chiến
tranh chống phát xít, hướng tới mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội.
Bản TNTGVQCN hình thành từ những tiền đề tư tưởng trước đó
song quan trọng hơn nó đã phản ánh nhận thức chính trị của cộng đồng quốc tế
sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Các sự kiện trực tiếp dẫn đến sự ra đời của
Tuyên ngôn, đó là những hậu quả của Chiến tranh Thế giới thứ hai (1939 -
1945) và sự ra đời của Liên hợp quốc.
Chiến tranh Thế giới thứ hai đã lôi cuốn hàng chục quốc gia,
với hơn một tỷ người ở khắp các châu lục: Âu, Á, Phi, Úc, Mỹ vào thảm kịch này.
Chiến tranh đã cướp đi gần 50 triệu sinh mạng. Ở nước ta, do chính sách tàn bạo
phá lúa trồng đay phục vụ chiến tranh của phát xít Nhật và sự bóc lột dã man
của thực dân Pháp, nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử đã diễn ra, làm chết
hơn 2 triệu người ở Bắc Bộ, gần bằng 1/10 dân số Việt Nam lúc đó.
Cuộc chiến tranh này một mặt đã làm bộc lộ bản chất của chủ
nghĩa đế quốc ở hình thức cực đoan của nó là chủ nghĩa phát xít, mặt khác đã
phơi bày những học thuyết phi nhân tính, đặc biệt là học thuyết phân biệt chủng
tộc. Dựa trên học thuyết "Đác-uyn - xã hội", chủ nghĩa phát xít
cho rằng, cũng giống như trong tự nhiên, xã hội cũng tuân theo quy luật cạnh
tranh sinh tồn - kẻ mạnh có "quyền" tiêu diệt kẻ yếu, đó là một tất
yếu trong sự phát triển của lịch sử. Học thuyết đó còn cho rằng, loài người
chia làm hai loại: "Chủng tộc thượng đẳng" và "chủng tộc hạ
đẳng". Chủng tộc thượng đẳng, siêu đẳng - ở đây chỉ dân tộc Giéc-manh
(Đức), có "sứ mệnh” lãnh đạo, thống trị các chủng tộc khác. Lý luận dựa
trên sự phân biệt chủng tộc đó đã được chủ nghĩa phát xít sử dụng để biện hộ
cho những hành động dã man, diệt chủng chống nhân loại của chúng.
Chiến tranh Thế giới thứ hai cũng đã làm thức tỉnh nhân loại
rằng, nhiệm vụ bảo vệ hòa bình, tôn trọng độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia
và bảo vệ QCN, trước hết là quyền sống là một nhu cầu cấp bách của cả nhân
loại. Dựa trên Tuyên ngôn này, Ủy ban Nhân quyền - cơ quan chuyên trách về nhân
quyền và bộ luật quốc tế về QCN (bao gồm Tuyên ngôn và hai công ước: Công ước
quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và Công ước về các quyền kinh tế-xã hội
và văn hóa, năm 1966) đã ra đời. Sau Tuyên ngôn và hai công ước nói trên, nhiều
công ước chuyên biệt về quyền của phụ nữ, của trẻ em, về ngăn ngừa và trừng trị
tội diệt chủng,... cho đến nay khoảng trên dưới 30 công ước và Nghị định thư về
QCN đã được Liên hợp quốc đã thông qua. Cơ chế bảo vệ QCN của Liên hợp quốc ở
hầu hết các châu lục đã hình thành. Như vậy có thể nói, dựa trên Tuyên ngôn,
QCN từ chỗ là sự nhận thức chính trị, đạo đức đã trở thành cơ chế quốc tế bảo
vệ QCN. Đây chính là ý nghĩa và tầm quan trọng lớn lao của bản TNTGVQCN.
Mặc dù còn những hạn chế bởi điều kiện lịch sử ra đời và
những khác biệt bởi các quan điểm chính trị giữa các thành viên trong Ban soạn
thảo, cũng như của các quốc gia thành viên Liên hợp quốc lúc đó, song có thể
nói những tư tưởng lớn của TNTGVQCN về Đạo đức, Chính trị và Pháp lý vẫn còn
nguyên giá trị.
Về giá trị đạo đức, sự thừa nhận và tôn trọng phẩm giá vốn
có (nhân phẩm) của tất cả mọi người là giá trị lớn nhất của Tuyên ngôn. Trong
Lời nói đầu, bản Tuyên ngôn ghi: "Việc thừa nhận phẩm giá vốn có và các
quyền bình đẳng, bất di bất dịch của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là
nền tảng của tự do, công bằng và hòa bình trên thế giới”[4].
Khẳng định nhân phẩm hay phẩm giá vốn có của con người là
một bước phát triển lớn lao của tư tưởng nhân loại. Bởi vì trước đó, thậm chí
cho đến nay vẫn còn không ít người cho rằng con người là một sự “sáng tạo” của
một đấng siêu nhiên nào đó. Nhân phẩm là giá trị nội tại, là giá trị tự thân
của mỗi thành viên trong cộng đồng nhân loại. Giá trị đó không phụ thuộc vào
hoàn cảnh của cá nhân, vào điều kiện của xã hội. Đó là giá trị được kết tinh
trong lịch sử hình thành xã hội và sự phát triển của chính con người.
Về giá trị chính trị, không phủ nhận rằng từ thời điểm Liên
hợp quốc thông qua bản TNTGVQCN cho đến nay, cộng đồng quốc tế vẫn đang
tồn tại những mâu thuẫn, khác biệt về chính trị, kinh tế, xã hội và văn
hóa. Trong bối cảnh đó, Tuyên ngôn là công cụ chính trị quan trọng góp
phần giải quyết những sự khác biệt và mâu thuẫn giữa các quốc gia, duy trì sự
tồn tại của thế giới như một cộng đồng thống nhất. Cơ sở đầu tiên và quan trọng
nhất để giải quyết những bất đồng về chính trị, đó là sự khẳng định mục tiêu
bảo vệ nền hòa bình thế giới trên cơ sở tôn trọng nhân quyền. Tuyên ngôn đã lên
án các hành vi "man rợ, xúc phạm đến lương tâm nhân loại". Điều đó
cũng có nghĩa lên án chiến tranh xâm lược.
(Còn nữa)
TS Cao Đức Thái
-------------------------------
[1] - Giảng viên cao cấp, nguyên Viện trưởng, Chủ tịch
HĐKH Viện Nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị-Hành chính Quốc gia Hồ
Chí Minh.
[2] - Trung tâm Nghiên cứu QCN, “Các văn kiện quốc tế
cơ bản về QCN”, HN. 2002. Tr 28
[3] - Trung tâm Nghiên cứu QCN, “Các văn kiện quốc tế
cơ bản về QCN”, HN. 2002. Tr 28
[4] - Trung tâm nghiên cứu QCN, “Các văn kiện quốc tế
cơ bản về QCN”, HN. 2002. Tr 28
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét