Thứ ba, 22/04/2025 - 05:45
Để phản bác và làm thất bại âm mưu, luận điệu nham hiểm của các thế lực phản động, cơ hội chính trị xuyên tạc bản chất cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp. Trước hết cần dựa vào các cứ liệu lịch sử để khẳng định chính đế quốc Mỹ đã tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam kéo dài trong suốt 30 năm (1945-1975) và trải qua nhiều giai đoạn...
Giai đoạn 1 (1945-1954)
Trong giai đoạn này, Mỹ ủng hộ toàn diện về kinh tế, chính trị và quân sự cho thực dân Pháp để chúng xâm lược nước ta một lần nữa.
Với tham vọng tiếp tục duy trì ách thống trị ở Việt Nam và được đế quốc Mỹ “chống lưng”, thực dân Pháp đưa quân trở lại xâm lược đất nước ta một lần nữa với toan tính tiêu diệt chính thể Việt Nam Dân chủ cộng hòa còn non trẻ. Đứng trước tình hình vô cùng nguy cấp đó, ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Hưởng ứng lời kêu gọi của Người, toàn quân và toàn dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã hoàn thành thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp với Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy Điện Biên" vào ngày 7-5-1954.
![]() |
Trên thực tế, chiến thắng của Việt Nam ở Điện Biên Phủ còn làm thất bại chủ trương của Mỹ xâm lược theo phương thức sử dụng quân đội Pháp để tiến hành “cuộc chiến tranh ủy nhiệm” trên đất nước ta. Theo các cứ liệu lịch sử được công bố ở Mỹ và phương Tây, phần lớn vũ khí và bom đạn được thực dân Pháp sử dụng trong Chiến dịch Điện Biên Phủ đều là của Mỹ, kể cả 3 tàu sân bay thuộc Hạm đội 7 của Mỹ ở Thái Bình Dương. Thậm chí, Mỹ còn có kế hoạch sử dụng bom nguyên tử một khi Pháp đứng trước nguy cơ thất bại ở Điện Biên Phủ. Bị thất bại nhục nhã ở Điện Biên Phủ, ngày 20-7-1954, thực dân Pháp phải ký kết Hiệp định Geneva về chấm dứt chiến tranh, khôi phục hòa bình, bãi bỏ quyền cai trị của người Pháp, công nhận nền độc lập không chỉ của Việt Nam mà cả của Lào và Campuchia. Theo Hiệp định Geneva, lãnh thổ Việt Nam bị tạm thời phân chia thành hai miền và được phân định bằng vĩ tuyến 17. Các bên tham gia ký kết tại hội nghị nhấn mạnh rằng trong bất cứ trường hợp nào, không thể coi vĩ tuyến 17 là biên giới chính trị hay biên giới lãnh thổ giữa các quốc gia, rằng sự chia cắt đó chỉ là tạm thời và hai miền sẽ được thống nhất trước tháng 7-1956 thông qua tổng tuyển cử tự do và dân chủ.
Giai đoạn 2 (1954-1960)
Mỹ coi Hiệp định Geneva là “mối đe dọa của chủ nghĩa cộng sản đối với thế giới tự do". Núp dưới chiêu bài “ngăn chặn hiểm họa cộng sản”, ngày 8-9-1954, Mỹ thành lập liên minh quân sự theo Hiệp ước SEATO (Southeast Asia Treaty Organization), bao gồm các nước Hoa Kỳ, Liên hiệp Anh, Australia, New Zealand, Pháp, Philippines, Thái Lan và Pakistan. Với Hiệp ước SEATO, Mỹ toan tính biến miền Nam Việt Nam thành pháo đài chống cộng ở Đông Nam Á. Để thực hiện toan tính chiến lược đó, năm 1954, Mỹ dựng lên chính quyền thực dân mới ở Sài Gòn do Ngô Đình Diệm đứng đầu để tiến hành “cuộc chiến tranh ủy nhiệm”, hoặc “chiến tranh qua tay người khác”-một thủ đoạn quen thuộc của chủ nghĩa thực dân mới. Ngụy quyền Sài Gòn trở thành lực lượng xung kích để Mỹ thực hiện sách lược “tố cộng, diệt cộng”, âm mưu tiêu diệt lực lượng kháng chiến của ta. Trong bối cảnh đó, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 15, khoá II của Đảng thông qua nghị quyết xác định một trong những nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ bằng phương thức kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang. Thực hiện nghị quyết này, LLVT giải phóng miền Nam được thành lập, làm cơ sở cho phong trào đấu tranh chính trị, làm thất bại "cuộc chiến tranh ủy nhiệm" của Mỹ thông qua ngụy quyền Ngô Đình Diệm
Giai đoạn 3 (1960-1965)
Mỹ chuyển sang thực hiện chiến lược "chiến tranh đặc biệt" (1961-1965). Theo chiến lược này, Mỹ đưa cố vấn quân sự và một bộ phận lực lượng chính quy vào trực tiếp tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam, đồng thời huấn luyện chiến đấu và trang bị vũ khí hiện đại nhất cho ngụy quân Sài Gòn để tiến hành các chiến dịch càn quét và tìm diệt lực lượng cách mạng nhằm “bình định” miền Nam Việt Nam trong vòng 18 tháng. Tính đến cuối năm 1962, quân Mỹ ở miền Nam đã lên tới 11.300 tên, được biên chế thành 13 đại đội máy bay trực thăng, 5 đại đội máy bay trinh sát, tấn công và vận tải, 4 phi đội máy bay phản lực chiến đấu với 257 máy bay các loại, 8 đại đội công binh, thông tin và 1 đơn vị tác chiến đặc biệt.
Được sự viện trợ của Mỹ, số quân ngụy tăng nhanh, từ 16 vạn quân chính quy năm 1960 lên hơn 36 vạn trong năm 1962. Ngoài ra, lực lượng bảo an của ngụy quyền Sài Gòn tăng từ 70.000 tên năm 1960 lên 174.500 tên năm 1962. Riêng lực lượng dân vệ của quân ngụy được biên chế thành 128 đại đội, hơn 1.000 trung đội, 2.000 tiểu đội là lực lượng chiếm đóng, kìm kẹp nhân dân ở các ấp, xã. Mỹ coi dồn dân để lập cái gọi là “ấp chiến lược” là nội dung cơ bản của chiến lược "chiến tranh đặc biệt", là biện pháp chủ yếu để tiến hành các cuộc hành quân càn quét, đánh phá, triệt hạ làng mạc, chiếm đóng và đưa nhân dân miền Nam Việt Nam vào ách kìm kẹp của chúng. Tính đến cuối năm 1962, Mỹ-ngụy đã dồn được 10 triệu dân ở nông thôn miền Nam vào 1.700 ấp chiến lược. Đặc biệt, trên phần lớn lãnh thổ miền Nam, quân đội Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh hóa học lâu dài nhất, ác liệt nhất để huỷ hoại môi trường sinh thái. Theo số liệu thống kê của Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam, ở nước ta có 4,8 triệu người bị nhiễm chất độc hóa học.
Để làm thất bại chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ, tháng 1-1961, Tổng Quân ủy (nay là Quân ủy Trung ương) ra Chỉ thị thành lập Quân giải phóng miền Nam Việt Nam-một bộ phận của Quân đội nhân dân Việt Nam trực tiếp chiến đấu trên chiến trường miền Nam. Nhận được sự chi viện đắc lực, kịp thời của hậu phương miền Bắc, Quân giải phóng miền Nam Việt Nam nhanh chóng trưởng thành, lớn mạnh, lập nên những chiến công xuất sắc, đánh bại chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ.
Giai đoạn 4 (1965-1975)
Bị thất bại trong chiến lược "chiến tranh đặc biệt", Mỹ quyết định phát động "chiến tranh cục bộ", mở rộng phạm vi chiến tranh trên cả hai chiến trường miền Nam và miền Bắc Việt Nam (1965-1973). Trên chiến trường miền Nam, Mỹ ồ ạt đổ quân vào với quân số hơn nửa triệu tên được trang bị vũ khí hiện đại nhất để tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta, tạo điều kiện cho quân ngụy chiếm đóng, bình định và kìm kẹp hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng miền Nam trong vòng 25-30 tháng (từ giữa năm 1965 đến 1967). Trên chiến trường miền Bắc, đế quốc Mỹ sử dụng lực lượng lớn không quân và hải quân lớn nhất của chúng kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai để tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại với toan tính sẽ "đưa Việt Nam trở lại thời kỳ đồ đá" hòng ngăn chặn sự chi viện của ta cho Quân giải phóng miền Nam Việt Nam.
Với tinh thần cảnh giác cao độ và chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu cao, quân và dân miền Bắc đã đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, bắn rơi 3.243 máy bay, bắt sống 363 phi công; bắn cháy, bắn chìm 143 tàu chiến; hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chi viện sức người, sức của cho miền Nam và giúp đỡ cách mạng Lào, Campuchia. Đầu năm 1968, nhận thấy so sánh lực lượng thay đổi có lợi cho ta, Bộ Chính trị Đảng ta thông qua quyết định mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân, giáng đòn quyết định để đánh sập ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Bị thất bại trong chiến lược "chiến tranh cục bộ", Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson buộc phải đưa ra tuyên bố chấm dứt việc đưa quân Mỹ vào miền Nam, chuyển giao vai trò chiến đấu chủ lực và trực tiếp cho quân đội ngụy Sài Gòn, đơn phương ngừng đánh phá miền Bắc Việt Nam từ vĩ tuyến 20 trở ra và chấp nhận đàm phán với Việt Nam Dân chủ cộng hòa tại Paris. Tuy nhiên, lên cầm quyền vào năm 1969, Tổng thống Mỹ Nixon chuyển sang thực hiện chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh".
Cuộc đàm phán ở Paris giữa 4 bên là Mỹ, Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Cộng hòa là cuộc đấu trí quyết liệt trên bàn đàm phán kéo dài từ năm 1968 đến 1973. Sau 5 năm đàm phán cam go, cuối cùng Mỹ chấp nhận những nội dung cơ bản của Hiệp định Paris. Tuy nhiên, do bản chất xâm lược, Mỹ muốn lật ngược tình thế bằng cách tiến hành chiến dịch tập kích mạnh mẽ nhất bằng máy bay ném bom chiến lược B-52 vào Thủ đô Hà Nội, TP Hải Phòng cũng như nhiều thành phố khác trên miền Bắc Việt Nam vào cuối năm 1972. Trong đó, Mỹ sử dụng 663 lần chiếc máy bay ném bom chiến lược B-52 và 3.920 lần chiếc máy bay chiến thuật, ném hơn 100 nghìn tấn bom, đạn xuống Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, thị xã ở miền Bắc.
Bị thất bại nặng nề và không đạt được mục đích của chiến dịch tập kích chiến lược này, Mỹ buộc phải ký Hiệp định Paris. Theo hiệp định này, Mỹ chấp nhận nhiều cam kết và những cam kết này là điều kiện thuận lợi để chúng ta đánh bại chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" và thực hiện thành công chủ trương chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, tiến tới giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975.
Như vậy, toàn bộ lịch sử cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ chứng tỏ Mỹ đã thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam kéo dài 30 năm và hoàn toàn bác bỏ mọi luận điệu xuyên tạc lịch sử cho rằng “Mỹ không hề xâm lược Việt Nam”, rằng “miền Bắc xâm lược miền Nam”. Việc Mỹ thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Việt Nam là do chúng ta sẵn sàng gác lại quá khứ để hai nước hợp tác cùng có lợi, vì hòa bình trong khu vực và trên thế giới trong bối cảnh cục diện chính trị thế giới đã thay đổi căn bản. Điều này hoàn toàn bác bỏ luận điệu cho rằng Mỹ tiến hành chiến tranh chỉ là nhằm “giúp Việt Nam tiếp cận nền văn minh của phương Tây”.
Đại tá LÊ THẾ MẪU
Lịch sử không cho phép ai xuyên tạc, phủ nhận hay đổi trắng thay đen. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam là một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc mang đầy đủ tính chính nghĩa, được thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, với sự ủng hộ rộng rãi của các lực lượng tiến bộ trên thế giới. Những luận điệu phi lý như “Mỹ không xâm lược Việt Nam” hay “miền Bắc xâm lược miền Nam” thực chất chỉ là những sản phẩm méo mó của chiến lược “diễn biến hòa bình” – thứ vũ khí mềm mà các thế lực phản động sử dụng để xóa bỏ ký ức lịch sử, làm phai nhạt niềm tin của nhân dân ta, nhất là thế hệ trẻ, vào con đường cách mạng đã lựa chọn.
Trả lờiXóaDựa trên những cứ liệu lịch sử rõ ràng, toàn bộ tiến trình từ năm 1945 đến năm 1975 cho thấy đế quốc Mỹ đã can thiệp sâu vào Việt Nam với mục tiêu không gì khác ngoài việc biến nước ta thành một tiền đồn chiến lược chống cộng sản ở Đông Nam Á. Từ việc chống lưng cho Pháp trong giai đoạn 1945–1954, dựng nên chính quyền tay sai ở miền Nam, triển khai “chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh cục bộ”, đến “Việt Nam hóa chiến tranh”, rồi tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc và ném bom rải thảm xuống Hà Nội, Hải Phòng… Tất cả đều chứng minh rõ ràng rằng đây là một cuộc chiến tranh xâm lược mang tính chất thực dân kiểu mới, được tiến hành bởi một siêu cường với sức mạnh quân sự vượt trội nhưng cuối cùng vẫn phải rút lui trong ê chề và thất bại trước ý chí kiên cường của dân tộc Việt Nam.
Cần nhấn mạnh rằng, mọi âm mưu xuyên tạc bản chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ đều là hành động xúc phạm trắng trợn đối với hàng triệu đồng bào, chiến sĩ đã hy sinh vì nền độc lập dân tộc. Những luận điệu đó không chỉ nhằm xóa mờ vai trò lãnh đạo của Đảng, vai trò quyết định của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc dẫn dắt dân tộc ta đi đến thắng lợi cuối cùng, mà còn cố tình phủ nhận tính chính nghĩa của cả một thời đại đấu tranh giải phóng dân tộc không thể lặp lại trong lịch sử nhân loại.
Việc Việt Nam thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với Hoa Kỳ hôm nay là kết quả của quá trình đấu tranh ngoại giao lâu dài, thể hiện bản lĩnh, tầm nhìn và sự chủ động của Việt Nam trong thời đại mới – chứ không bao giờ đồng nghĩa với việc phủ nhận quá khứ hay tội ác của chiến tranh. Hòa hợp không có nghĩa là quên lãng. Tha thứ không có nghĩa là chấp nhận bóp méo sự thật lịch sử. Bài học từ sự sụp đổ của Liên Xô cho thấy: khi lịch sử bị xuyên tạc, hoài nghi được nuôi dưỡng, thì một quốc gia có thể bị hủy hoại mà không cần một viên đạn nào.
Vì thế, hơn bao giờ hết, mỗi chúng ta – đặc biệt là thế hệ trẻ – cần hiểu đúng, nhớ đúng và có trách nhiệm bảo vệ sự thật lịch sử. Đó không chỉ là sự tri ân quá khứ, mà còn là nền tảng để giữ vững độc lập, chủ quyền và bản lĩnh dân tộc trong hiện tại và tương lai.
Sự thật lịch sử là bất biến, không thể bị bóp méo bởi bất kỳ thế lực nào. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam là một trang sử hào hùng của dân tộc, được viết nên bằng xương máu của hàng triệu chiến sĩ, đồng bào. Việc các thế lực phản động cố tình xuyên tạc, phủ nhận bản chất cuộc kháng chiến này là một hành động bôi nhọ lịch sử, xúc phạm đến sự hy sinh cao cả của toàn dân tộc Việt Nam trong suốt ba thập niên kháng chiến gian khổ, từ 1945 đến 1975.
Trả lờiXóaHàng loạt các cứ liệu lịch sử quốc tế và trong nước đã chứng minh rõ ràng rằng: Mỹ không chỉ là kẻ gián tiếp can dự mà là kẻ chủ mưu, trực tiếp tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Từ việc viện trợ, “chống lưng” cho thực dân Pháp quay lại xâm lược Việt Nam sau năm 1945, cho đến việc dựng nên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, tiến hành các chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh”, Mỹ đã từng bước leo thang can thiệp quân sự, biến miền Nam Việt Nam thành một tiền đồn chống cộng sản ở châu Á. Những hành động ấy không thể nào là “giúp Việt Nam văn minh hóa” như một số luận điệu phản động đang rêu rao. Đó là một cuộc chiến tranh xâm lược thực sự, được ngụy trang bằng mỹ từ, được che đậy bởi những lời biện minh đầy giả tạo.
Từng con số – hàng triệu tấn bom đạn, hàng chục triệu lít chất độc hóa học rải xuống miền Nam, hàng triệu người bị thương, bị chết – là những bằng chứng không thể chối cãi. Những “ấp chiến lược”, những trại tập trung trá hình, những cuộc hành quân càn quét đẫm máu mà quân Mỹ và tay sai tiến hành ở miền Nam là minh chứng hùng hồn cho tội ác chiến tranh và dã tâm thực dân mới. Và chính trong ngọn lửa chiến đấu ác liệt ấy, nhân dân ta đã kiên cường, anh dũng đứng lên, đoàn kết thành một khối vững chắc dưới ngọn cờ của Đảng để giành lại từng tấc đất, từng mái nhà, từng con người từ tay kẻ thù.
Việc Mỹ hiện nay là đối tác toàn diện của Việt Nam không phải là sự “xóa bỏ lịch sử” như các thế lực cơ hội đang cố tình diễn giải. Đó là kết quả của chính sách đối ngoại hòa bình, nhân văn và vì lợi ích quốc gia – dân tộc của Đảng, Nhà nước ta. Chúng ta gác lại quá khứ nhưng không quên quá khứ. Chúng ta hợp tác vì tương lai nhưng không cho phép ai xuyên tạc lịch sử, xúc phạm đến ký ức của một dân tộc đã từng đổ máu để gìn giữ độc lập, tự do.
Mỗi dòng lịch sử về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta đều thấm đẫm máu, nước mắt và lòng yêu nước sắt son. Từ giai đoạn Mỹ viện trợ cho Pháp tái chiếm Đông Dương, đến việc trực tiếp đưa nửa triệu quân viễn chinh cùng đủ loại vũ khí hủy diệt vào Việt Nam, âm mưu của Mỹ chưa bao giờ thay đổi: biến Việt Nam thành một thuộc địa kiểu mới. Bởi vậy, không thể chấp nhận bất kỳ luận điệu nào phủ nhận thực tế rằng: chính Mỹ là kẻ xâm lược, còn nhân dân Việt Nam là những người đứng lên để bảo vệ Tổ quốc.
Trả lờiXóaKhông thể chối cãi rằng Mỹ đã tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược toàn diện, kéo dài suốt 30 năm, với đầy đủ đặc điểm của một cuộc chiến thuộc địa kiểu mới. Không có một cuộc “giúp đỡ nhân đạo” nào lại khiến hơn 4,8 triệu người nhiễm chất độc da cam, hơn 3 triệu người chết và hàng triệu người khác bị thương, mất tích, và hàng chục nghìn ngôi làng bị san bằng. Không có một “hành động khai sáng” nào lại kéo theo những vụ thảm sát dã man như ở Mỹ Lai, Bến Tre, Ba Chúc… Những ai cổ súy cho luận điệu “Mỹ không xâm lược Việt Nam” cần phải trả lời trước lương tri và sự thật.
Đáng lo ngại hơn, các thế lực phản động ngày nay đang sử dụng thủ đoạn “gây nhiễu thông tin”, lợi dụng không gian mạng, mạo danh “trung lập lịch sử” để gieo rắc sự hoài nghi, xóa nhòa lằn ranh giữa kẻ xâm lược và người bị xâm lược, giữa chính nghĩa và phi nghĩa. Chúng nhắm đến giới trẻ – những người không sống trong thời chiến – để từng bước làm phai mờ nhận thức lịch sử, tạo ra tâm lý vô cảm, thờ ơ hoặc ngộ nhận về bản chất cuộc kháng chiến của dân tộc ta.
Chính vì vậy, mỗi người dân Việt Nam – đặc biệt là thế hệ trẻ – cần chủ động tiếp cận lịch sử bằng con mắt biện chứng, có trách nhiệm và bản lĩnh. Chúng ta không chỉ học sử để biết, mà còn để hiểu, để yêu, để tự hào và để đứng vững trước những làn sóng xuyên tạc tinh vi. Không ai có quyền thay đổi lịch sử dân tộc, và càng không ai được phép xúc phạm đến những trang sử đã được viết bằng máu và lòng quả cảm. Phản bác các luận điệu xuyên tạc không chỉ là bảo vệ sự thật – đó còn là cách chúng ta bảo vệ nền tảng tư tưởng, bản sắc và tương lai của dân tộc Việt Nam.