Thứ sáu, 25/04/2025 - 07:13
“Xét đến cùng, chức năng cao nhất của văn học là nhân đạo hóa con người. Không ai muốn chiến tranh. Ai cũng muốn hòa bình, yêu thương, phát triển. Dân tộc nào cũng phải lấy truyền thống lịch sử làm điểm tựa để phát triển, làm nền tảng để cất cánh bay. Cắt đứt với quá khứ không chỉ là “vô minh” mà còn là “vô nhân”. Đó là nhấn mạnh của PGS, TS, nhà văn Nguyễn Thanh Tú.
Văn học yêu nước chống xâm lăng mang giá trị văn hóa cao cả nhất
Phóng viên (PV): Là một nhà nghiên cứu lâu năm về văn học chiến tranh cách mạng, theo ông, giá trị nổi bật của dòng văn học này là gì?
PGS, TS, nhà văn Nguyễn Thanh Tú: Văn học thời chống đế quốc Mỹ, trước đó là văn học thời chống thực dân Pháp đã miêu tả sinh động mâu thuẫn cơ bản của thời đại là xung đột chính nghĩa và phi nghĩa: “Chúng muốn đốt ta thành tro bụi/ Ta hóa vàng nhân phẩm, lương tâm/ Chúng muốn ta bán mình ô nhục/ Ta làm sen thơm ngát giữa đầm” (Tố Hữu, “Việt Nam, máu và hoa”).
![]() |
Đồng hành với lịch sử, góp phần làm nên lịch sử, dòng văn học chiến tranh cách mạng đã góp phần làm sáng tỏ thêm nguyên lý về cuộc chiến tranh nhân dân toàn dân, toàn diện; chứng minh một công lý của niềm tin, của tình yêu tự do, tự cường, tự quyết sẽ luôn chiến thắng.
Cũng là sự khẳng định chân lý lịch sử-một dân tộc giàu lòng tự trọng, yêu chuộng hòa bình thì luôn có một nền văn học yêu nước chống xâm lăng. Giá trị văn hóa cao nhất của dòng văn học này là đã khẳng định các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc ta thể hiện sâu sắc ở phương diện bảo vệ con người, bảo vệ lẽ phải, công lý và chính nghĩa.
PV: Ông suy nghĩ như thế nào trước một số ý kiến cho rằng văn học viết về chiến tranh cách mạng chủ yếu là công cụ tuyên truyền một chiều, mang tính chất “cổ động”, “minh họa” nên chỉ có tác dụng nhất thời?
PGS, TS, nhà văn Nguyễn Thanh Tú: Ở ngày hôm nay nhìn về văn học giai đoạn 1945-1975, ta thấy có hiện tượng này: Vì được đẩy vượt lên quá mức giới hạn thông thường nên các phạm trù tiểu thuyết cũng bị phá vỡ, vượt khỏi khung khái niệm. Nhân vật trở thành siêu nhân vật, không gian trở thành siêu không gian, rồi siêu kết cấu, siêu ngôn ngữ, siêu giọng điệu...
Không còn là kết cấu của tiểu thuyết thông thường mà đi theo kết cấu, bố cục của các trận đánh, các chiến dịch; không còn là ngôn ngữ con người bình thường mà trở thành ngôn ngữ của lương tri, của trách nhiệm, của lý tưởng, chính nghĩa; không còn là giọng điệu cá nhân đơn lẻ mà là giọng điệu của thời đại... Theo chúng tôi, đây cũng là lẽ tự nhiên.
Chiến tranh là hiện tượng bất thường. Cuộc chiến tranh vệ quốc của chúng ta phải chống lại và đánh thắng các siêu cường đế quốc (Pháp và Mỹ). Nền văn học cách mạng đã cố gắng miêu tả, phản ánh cuộc chiến vĩ đại ấy. Phải khẳng định giá trị và ghi công vào trang vàng lịch sử nước nhà nền văn học nhân đạo này, mà trong đó tiểu thuyết đóng vai trò chủ lực.
Dĩ nhiên sản sinh ra trong thời kỳ đặc biệt mà nó mang những đặc điểm riêng, vì phục vụ nhiệm vụ chính trị lớn nhất là giải phóng dân tộc nên cần phải cổ vũ, hiệu triệu nên có một số tác phẩm văn học có lúc còn chạy theo và coi trọng sự kiện, đó là lý do khiến vấn đề con người chưa được đi sâu khai thác ở nhiều khía cạnh. Đây là một đặc trưng của văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975, chứ không nên coi đây là một hạn chế (nếu có thì hạn chế này thuộc về lịch sử). Do đó, càng không nên phủ nhận nó.
Cắt đứt với quá khứ không chỉ là “vô minh” mà còn là “vô nhân”
PV: Đáng nói là có người còn mượn văn chương nhằm kêu gọi “khép lại quá khứ, hòa giải dân tộc” mà thực chất là nhằm xóa nhòa ranh giới công-tội, tính chính nghĩa-phi nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước? Nhận định của ông về thái cực này?
PGS, TS, nhà văn Nguyễn Thanh Tú: Xét đến cùng, chức năng cao nhất của văn học là nhân đạo hóa con người. Không ai muốn chiến tranh. Ai cũng muốn hòa bình, yêu thương, phát triển. Dân tộc nào cũng phải lấy truyền thống lịch sử làm điểm tựa để phát triển, làm nền tảng để cất cánh bay. Cắt đứt với quá khứ không chỉ là “vô minh” mà còn là “vô nhân”. Chữa lành vết thương chiến tranh, làm cầu nối yêu thương là phá bỏ định kiến... là sứ mệnh của văn học hôm nay.
Văn học còn có chức năng làm sống lại lịch sử. Đóng vai trò là nền tảng tinh thần của xã hội, ở bất cứ thời nào, quốc gia nào, văn hóa (trong đó văn học là thành tố cơ bản) cũng là nguồn lực của sự phát triển. Các cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc đã trở thành di sản tinh thần vô giá, là sức mạnh nội sinh, lấy đó làm điểm tựa để con cháu Lạc Hồng hôm nay đưa đất nước vươn mình vững bước vào kỷ nguyên mới.
Con người yêu nước có văn hóa trước hết là con người không được quên đi quá khứ của dân tộc mình. Một quá khứ cực kỳ cao cả, đẹp đẽ, hào hùng như thời “cả nước lên đường” phải luôn được làm sống lại trong mỗi con tim người Việt hôm nay. Văn học hôm qua đã góp phần làm tốt nhiệm vụ đó. Cả dân tộc phải đổ máu để giành lại độc lập, tự do. Có bà mẹ hy sinh cả chín, mười người con cho sự nghiệp cứu nước. Kẻ thù đổ xuống dải đất thân yêu này hàng triệu tấn bom đạn, giết hại hàng vạn dân thường, đốt phá hàng trăm làng mạc...
Đây không phải là “một cuộc chiến tranh ý thức hệ” như có nhận định thiếu thiện chí, mà là cuộc chiến tranh tự vệ chính nghĩa của một dân tộc khát khao hòa bình, trân trọng con người, yêu tự do, không chịu nhục hèn nên đứng lên chống lại bè lũ xâm lăng. Đối với nhân dân Việt Nam thì đó là cuộc chiến cực kỳ có văn hóa, vì đó là cuộc chiến tranh bảo vệ con người, bảo vệ công lý, lẽ phải, chính nghĩa!
![]() |
PV: Vì sao chiến tranh dù đã lùi xa nửa thế kỷ, hòa bình đã đến với mọi người, mọi nhà trên đất Việt, nhưng có người vẫn muốn dùng trí tưởng tượng, tính chất hư cấu của văn chương hòng hạ thấp, thậm chí phủ nhận sự hy sinh xương máu của hàng triệu cán bộ, chiến sĩ và đồng bào ta vì sự nghiệp chính nghĩa của dân tộc, thưa ông?
PGS, TS, nhà văn Nguyễn Thanh Tú: Lợi dụng đặc trưng mơ hồ, đa nghĩa (ambiguity) vốn là một nét bản chất của nghệ thuật; lấy chất liệu từ hiện thực cuộc sống, nhờ tài năng hư cấu, óc tưởng tượng, liên tưởng, nhà văn kiến tạo nên tác phẩm. Từ hiện thực khách quan, hình tượng nghệ thuật đi vào tác phẩm sẽ bị khúc xạ bởi lăng kính chủ quan của nhà văn, do vậy luôn mang một độ “mờ” nhất định.
Hình tượng được miêu tả càng xa hiện tại, độ “mờ” càng lớn. Thế nên hầu hết các “tác phẩm” đi theo lối “hạ bệ thần tượng” thường là truyện/tiểu thuyết lịch sử. Các “tác giả” đó đã làm cái việc ngược đời là trồng cây độc trên nền móng bằng vàng của lịch sử nên cây không thể sống được, nó tự héo úa, sớm muộn cũng bị độc giả dọn vứt đi.
Có người căn cứ vào một đặc điểm của văn học kháng chiến là phân cực địch-ta, tốt-xấu, dũng cảm-hèn hạ... rồi xếp văn học này vào loại hình tư duy cổ tích, tức đẩy nó về với thời xa xưa, lạc hậu. Chỉ lấy một đặc trưng, cố tình bỏ qua các đặc điểm khác để ép vấn đề vào một loại hình khác, dân gian mỉa mai cách làm này là “gọt chân cho vừa giày”. Sự quy chụp khiên cưỡng này không chỉ thể hiện sự thiếu tính khoa học mà còn là thái độ thiếu tôn trọng lịch sử, thiếu trân trọng giá trị văn hóa, văn học của dân tộc.
PV: Đáng quan ngại hơn là sự xuất hiện một số tác phẩm văn học nhằm “giải thiêng” lịch sử mà thực chất muốn xét lại, lật lại lịch sử. Theo ông, hiện tượng này thuộc về nhận thức hay quan niệm sáng tác và trách nhiệm công dân của nhà văn?
PGS, TS, nhà văn Nguyễn Thanh Tú: “Giải thiêng” là một khuynh hướng sáng tạo văn học, nghệ thuật của chủ nghĩa hiện đại và hậu hiện đại, với mục đích hóa giải những điều huyền bí, linh thiêng của nhân vật, sự kiện lịch sử; đưa nhân vật, sự kiện trở về với bản chất thật, với đời sống bình thường. Một số ít nhà văn có dụng ý không hay là “hạ bệ” (cũng là “giải thiêng”) nhiều tấm gương anh hùng như Tô Vĩnh Diện, Phan Đình Giót... nhất là “giải thiêng” người nữ anh hùng Võ Thị Sáu, một tấm gương sáng ngời về lòng gan dạ, kiên trung, bất khuất khiến ngay cả kẻ thù là thực dân Pháp và tay sai cũng phải kiêng nể; thế mà có người vẫn cố tình nói ngược để gây nhiễu dư luận!
Theo tôi, nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng trên thuộc về ý thức, trách nhiệm công dân chứ không phải kỹ thuật sáng tác hay nhận thức. Sẽ là chân lý và công lý nếu như người ta chỉ “giải thiêng” những nhân vật lịch sử nào bị nhìn nhận sai lệch, bản chất vốn là xấu nhưng lại được đánh giá là tốt, rồi vạch ra công-tội rõ ràng. Còn cố ý làm thiên lệch, méo mó lịch sử tức là làm méo mó con người.
Trung thực với lịch sử là trung thực với con người, nhất là với các danh nhân, anh hùng, dũng sĩ thì thật đáng kính, đáng trọng vì họ đã trở thành một biểu tượng văn hóa của cả cộng đồng. Làm tổn thương những biểu tượng đó cũng là làm tổn thương cả cộng đồng. Khi ai đó mượn tác phẩm văn học để “giải thiêng” lệch lạc không chỉ là xúc phạm sự hy sinh xương máu của hàng triệu người Việt Nam vì nghĩa lớn mà còn tự tách mình ra khỏi dòng chảy văn minh, tiến bộ của dân tộc, xã hội.
Tôi cũng muốn nhắc lại rằng, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn mong muốn đất nước có môi trường hòa bình lâu dài để phát triển. Vì lợi ích đại cục của quốc gia, chúng ta coi trọng vun đắp đoàn kết gắn bó giữa các cộng đồng, giai cấp, thành phần trong xã hội, sẵn sàng gác lại quá khứ để hướng tới tương lai.
Là thành phần ưu tú của giới trí thức, nhạy cảm với thời cuộc và là người ưu thời mẫn thế trong xã hội, khi sáng tạo tác phẩm thì nhà văn không nên mập mờ, lắt léo nhằm đánh tráo khái niệm, xóa nhòa bản chất cuộc chiến tranh chính nghĩa của dân tộc ta, thậm chí lồng ghép ý đồ chính trị nhằm phủ định sạch trơn đối với lớp người đã hy sinh vì độc lập, tự do, thống nhất của Tổ quốc. Thái độ viết lách như vậy là vô ơn bạc nghĩa ngay cả với đồng bào mình, làm thế là tệ bạc lắm!
PV: Trân trọng cảm ơn ông!
“Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật; phát huy vai trò nòng cốt của đội ngũ văn nghệ sĩ tham gia xây dựng và bảo vệ nền văn hóa, văn học, nghệ thuật dân tộc, vì sự phát triển toàn diện của văn hóa, con người Việt Nam”. (Kết luận số 84-KL/TW ngày 21-6-2024 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa X “Về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”) |
(còn nữa)
Nhóm phóng viên VĂN HÓA (thực hiện)
Văn học không chỉ là tấm gương phản chiếu hiện thực, mà còn là linh hồn của một dân tộc. Như PGS, TS Nguyễn Thanh Tú đã chỉ rõ: “Cắt đứt với quá khứ không chỉ là vô minh, mà còn là vô nhân”. Thật vậy, dòng văn học chiến tranh cách mạng – đặc biệt là giai đoạn chống Pháp, chống Mỹ – chính là biểu hiện rực rỡ nhất của văn học vì con người, vì công lý, vì chính nghĩa. Đó là nền văn học được sinh ra từ máu xương của hàng triệu người dân Việt Nam, từ ý chí sắt đá và tình yêu nước bất diệt của cả một dân tộc, và từ khát vọng được sống trong tự do, hòa bình và độc lập.
Trả lờiXóaNgày nay, khi chiến tranh đã lùi xa, thật đáng tiếc khi có những cây bút – vì lệch chuẩn tư tưởng, vì xu hướng “giải thiêng” lệch lạc hay vì những toan tính cá nhân – lại cố tình viết lại lịch sử bằng lăng kính méo mó, nhằm xóa nhòa ranh giới giữa chính nghĩa và phi nghĩa, giữa công và tội, giữa người hy sinh vì dân tộc và kẻ đi ngược lại lợi ích quốc gia. Đó không phải là “phản biện” hay “phá cách nghệ thuật”, mà là biểu hiện rõ ràng của sự vô trách nhiệm với lịch sử và vô ơn với dân tộc.
Không thể và không bao giờ được phép mượn danh văn học để bóp méo lịch sử, xúc phạm hàng triệu con người đã ngã xuống cho Tổ quốc này. Văn học thời chiến không chỉ phản ánh chiến tranh, mà còn truyền cảm hứng, nâng đỡ tinh thần, khơi dậy khát vọng độc lập – điều mà không một loại hình tuyên truyền chính trị đơn thuần nào có thể làm được. Những nhân vật như chị Út Tịch, chị Võ Thị Sáu, anh Giải phóng quân… không phải là sản phẩm tô vẽ, mà là biểu tượng văn hóa – là khí phách Việt Nam kết tinh trong từng trang sách, từng vần thơ.
Chúng ta cần tiếp tục bảo vệ dòng văn học chính nghĩa đó như bảo vệ di sản quý báu của dân tộc. Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, càng cần có một nền văn học gắn chặt với cội nguồn lịch sử, giúp thế hệ trẻ hiểu rõ giá trị của hòa bình, của độc lập – để không bao giờ đánh mất mình giữa những cám dỗ lập lờ, giữa những mưu toan đánh tráo lịch sử. Đọc lại và viết tiếp văn học cách mạng không phải để thần thánh hóa quá khứ, mà là để giữ lấy đạo lý và nhân cách dân tộc, là trách nhiệm thiêng liêng của cả giới cầm bút hôm nay.
Thật xót xa khi giữa thời đại hòa bình, phát triển, vẫn có những tiếng nói cố tình lật ngược bản chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước – một cuộc chiến hào hùng và bi tráng mà văn học đã khắc họa bằng tất cả tâm huyết, trí tuệ, và trách nhiệm lịch sử. Như PGS, TS Nguyễn Thanh Tú khẳng định, nền văn học yêu nước chống xâm lăng không chỉ là một phương tiện tuyên truyền mà là một di sản văn hóa sâu sắc, nhân văn và đầy trí tuệ, góp phần làm sáng rõ căn tính dân tộc và khát vọng vươn lên vì độc lập – tự do – hạnh phúc.
Trả lờiXóaThật sai lầm và nguy hiểm nếu ai đó cho rằng dòng văn học này chỉ là công cụ "cổ động nhất thời". Những tác phẩm ấy được thai nghén bằng máu, mồ hôi và nước mắt của những người đã sống, đã chiến đấu, đã hy sinh trong khói lửa chiến tranh. Từ “Hòn đất” đến “Dấu chân người lính”, từ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” đến “Ra trận” – đó không chỉ là văn chương, mà còn là những trang sử sống động của cả một dân tộc anh hùng. Tự cho mình quyền “giải thiêng” mà không thấu hiểu căn nguyên, bản chất, giá trị văn hóa sâu xa của dòng văn học này, chẳng khác nào hành động phỉ báng lên sự hy sinh của hàng triệu con người.
Chúng ta hoàn toàn có thể viết khác đi, làm mới tư duy nghệ thuật, nhưng không thể và không bao giờ được viết ngược lại sự thật lịch sử. Văn học chân chính không phải là nơi để tô hồng hay bôi đen, mà là nơi phản ánh sự thật trong chiều sâu, từ đó nâng đỡ tâm hồn con người, nuôi dưỡng tinh thần dân tộc và khơi dậy khát vọng vươn lên trong gian khổ. Viết để hòa giải, để chữa lành – đó là trách nhiệm; còn viết để xóa nhòa chính nghĩa, phủ định lịch sử – đó là tội lỗi.
PGS, TS Nguyễn Thanh Tú đã nói rất chính xác: “Chức năng cao nhất của văn học là nhân đạo hóa con người”. Trong cuộc kháng chiến trường kỳ vì độc lập dân tộc, văn học đã không chỉ góp phần khắc họa tinh thần yêu nước mà còn gieo mầm niềm tin, khơi dậy lương tri, nhân cách và phẩm giá Việt Nam. Văn học chiến tranh cách mạng là minh chứng hùng hồn cho một thời đại không thể lãng quên – nơi con người sống, chiến đấu và hy sinh với một lý tưởng cao cả: giành lại quyền làm chủ vận mệnh dân tộc.
Trả lờiXóaThật đáng tiếc khi có người ngày nay lại lợi dụng tính chất hư cấu của văn chương để dựng lên những hình ảnh méo mó, xuyên tạc bản chất của các anh hùng, chiến sĩ – những biểu tượng thiêng liêng trong tâm thức cộng đồng. Việc “giải thiêng” thiếu trách nhiệm, mang màu sắc xét lại không chỉ là sự thiếu tôn trọng đối với lịch sử, mà còn là sự xúc phạm trực diện đối với tinh thần dân tộc. Nó không phải là một “kỹ thuật nghệ thuật hậu hiện đại”, mà là một biểu hiện rõ ràng của tư tưởng lệch lạc và đạo đức suy đồi.
Chúng ta cần khẳng định rằng: Không ai phủ nhận quyền sáng tạo của nhà văn, nhưng sáng tạo không thể là sự ngụy biện cho việc bóp méo lịch sử, bôi nhọ những con người đã làm nên lịch sử. Mỗi dòng chữ viết ra đều phải mang trách nhiệm với tổ tiên, với thế hệ hiện tại và tương lai. Chúng ta có thể nhìn lại chiến tranh với nhiều góc độ đa chiều, nhưng tuyệt đối không được để “đa nghĩa” biến thành “đa đoan”, “đa chiều” biến thành “đa đoạt” – chiếm đoạt luôn cả sự thật thiêng liêng của dân tộc bằng lối viết lập lờ, nhiễu loạn và xúc phạm.